Thứ Sáu , 29 Tháng Ba 2024
Home / Trang Chủ / DẤU ẤN CUỘC ĐỜI

DẤU ẤN CUỘC ĐỜI

non

Tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình Phật tử tại chùa Non Nước. Năm 1975 cuộc chiến tàn khốc diễn ra tại trại gia binh Sơn Trà Đà Nẵng, cả gia đình tôi phải chạy loạn trong đêm để tránh những làn bom đạn đổ xuống như mưa. Tôi không quên được 10 giờ khuya đêm ấy tại biển An Khê người người xô xát nhau để giành chỗ đứng yên thân trên chiếc hạm đội to lớn của Mỹ. Những làn đạn inh ỏi bắn cheo chéo bên tai, nhiều người ngã từ trên boong tàu rơi xuống biển, vì những làn đạn ấy, có những ông bà cụ những trẻ em bị quăng xuống biển làm mồi cho cá… Trên con tàu chết chóc ấy cả gia đình tôi 8 người sống trong cảnh chết nhiều hơn sống, hơn một tháng trời long đong trên biển cả. Nào ngờ đâu chính con tàu chết chóc kinh hoàng ấy đã đưa cả gia đình tôi 8 người sang qua một chiếc ghe nhỏ vào đến bờ bình an lúc 3 giờ chiều ngày 25/4/1975.

Cập bến tại Vũng Tàu gia đình tôi được một chiếc xe nhà binh chở đến tại ngôi trường học hoang vắng tại Long Thành trú tại đó qua đêm, đúng 6 giờ sáng hôm sau khi trời còn u tối trong cơn mưa buồn tẻ, thình lình những quả bom từ đâu dội xuống tại ngôi trường. Nhiều người la thét kêu cứu, lúc bấy giờ tôi chỉ biết cõng túm gạo trên lưng cùng cả nhà chạy ra ngoài chưa được 100 mét thì ngôi trường đổ sập xuống thành đống gạch vụn. Cả nhà tôi bắt đầu đi bộ mấy chục km đường lộ ra tới ngã 3 Vũng Tàu. Những chiếc trực thăng của quân lực VNCH chở dân lánh nạn ra đảo Phú Quốc, cả nhà chúng tôi đều bước lên chiếc trực thăng ấy, còn lại một mình phụ thân tôi với cái chân giả chậm chạp. Thấy ba tôi bị bỏ lại, anh em chúng tôi gào thét và quyết định nhảy xuống hết…
Vậy là một lần nữa gia đình chúng tôi phải chạy vào mảnh đất Bình Tuy, Thuận Hải nay là Bình Thuận, quyết định cư trú tại đó trong cảnh rừng lá muỗi mòng ảm đạm. Những tháng đầu cả nhà chúng tôi vật vã trong cơn sốt rét, em trai tôi là Trịnh Văn Trung mới 5 tháng tuổi bị chết lâm sàng vì cơn bệnh sốt thương hàn ngay trong lúc không gạo, không tiền, không thuốc, không bệnh viện mà cả nhà ai cũng bị sốt rét giữa rừng thiêng nước độc. Trong lúc lâm nguy tuyệt vọng cả nhà tôi được Chúa đưa Mục sư Trần Tuôi đến làm chứng về Chúa Giê-Su Ông nói với phụ thân tôi: Đấng đã thương xót cả gia đình anh rời từ Đà Nẵng sống trên bom dưới đạn đói rét mà cả nhà 8 người bình an không mất một người đến giờ thì Chúa không để gia đình và con anh chết đâu…ả nhà chúng tôi lúc bấy giờ là 8 người còn nguyên vẹn quì gối xuống và cầu nguyện theo sự dẫn dắt của Mục sư Trần Tuôi. Cảm tạ Chúa sau khi cầu nguyện Chúa lại đưa đến một vị y sĩ quân y Lương Thanh Cử là một con cái Chúa đã đến cầu nguyện và chữa trị theo kinh nghiệm của ông vậy là cả nhà được Chúa chữa lành qua những năm tháng làm lụng khai hoang phá nương để trồng trọt, Chúa Nhật thì đi thờ phượng Chúa bình an và vui vẻ…
Năm 1979 nhà thờ Phúc âm bị đóng cửa con cái Chúa không có chỗ nhóm lại, mãi tới năm 1986 chúng tôi lập nhóm tư gia với những anh em thanh thiếu niên tại nhà bác Nguyễn Minh Châu được sự dẫn dắt của Chúa Thánh Linh qua Mục sư Nguyễn Minh Bồi, chúng tôi được học hỏi lời Chúa từ anh và tham gia mọi chương trình cầu nguyện chữa lành, cầu nguyện đuổi quỉ… trong những cơn bắt bớ khốn khó của thời bấy giờ. Tạ ơn Chúa, nhờ đó mà tôi cùng nhiều anh em chúng tôi được lớn lên và sốt sắng đi ra chứng đạo và thành lập điểm nhóm.
Chúa làm nhiều phép lạ trên anh em, nhiều người được biến đổi từ chỗ say xỉn nghiện ngập, ham chơi lêu lổng, quậy phá xóm làng… được Chúa Thánh Linh thăm viếng, là chứng nhân sống rất kết quả khi đi chứng đạo, đem nhiều người tin nhận Chúa và tham gia cầu nguyện nhiều ca đuổi quỉ cầu nguyện chữa lành…
binh
Riêng tôi là một người nhỏ bé rụt rè, nhát gan, nhưng Chúa đã gọi tôi ngay lúc khi tôi sốt sắng tham gia thờ phượng Chúa với anh em. Ban ngày thì buổi đi học buổi đi làm, tối lại tham gia cầu nguyện học Kinh Thánh, thờ phượng Chúa với anh em. Một hôm vào rừng, trong lúc đánh bẫy để bắt thú rừng, cũng như mọi ngày tôi đều đem theo nước uống, nhưng hôm nay mới giăng được cần bẫy thứ 5 tôi lại khát nước khô cổ họng, tôi đi tìm ra khe suối để múc nước uống thì gặp một anh thanh niên cao lớn đầu trọc lóc da đen thui đang ở trần với chiếc quần da bò rách nát ngồi chặt lá kè.
Tôi nói: Chào anh! Anh ngó lên và nhìn tôi với cặp mắt bậm trợn không trả lời. Tôi tiến đến gần anh định xin nước uống, nhưng Chúa đã thúc giục lòng tôi nói về Chúa Giê Su cho anh, đây là cơ hội tốt.
Tôi nói: Anh tên gì ở đâu? Anh trả lời: Tao hả? Tao ở Tân Hà là thằng Thái giết người mới ra tù đây! Mày biết không? Lúc bấy giờ nhịp tim tôi đập loạn xạ, tôi thầm cầu nguyện với Chúa. Chúa ôi xin cho con có sự can đảm nói về Chúa cho người nầy, xin Chúa bắt phục anh ta. Và tôi làm chứng về Chúa Giê-Su, Đấng vì tội lỗi chúng ta mà chịu chết trên cây thập tự, anh hãy tin nhận Chúa Giê-su thì được sự sống đời đời và mọi tội lỗi của anh sẽ được Chúa tha thứ. Tôi làm chứng đơn sơ trong sự rụt rè e ngại và kêu gọi anh có bằng lòng tin nhận Chúa Giê-su làm cứu Chúa của đời sống mình không? Anh trả lời có, lúc bấy giờ tôi thấy sự lạ lùng trong tôi, sự vui mừng không xiết kể khiến người tôi nổi da gà. Một kẻ bậm trợn to lớn mà lại nghe mình sao??? Không, Chúa Thánh Linh đang hiện diện nơi đây thôi, không phải tôi mà chính Thánh Linh của Ngài đã hành động trên người nầy. Tôi mời anh quì gối xuống cầu nguyện tin nhận Chúa, anh cầu nguyện theo tôi và tôi cầu nguyện giao phó đời sống anh cho Chúa.
Vừa dứt lời cầu nguyện bỗng nhiên từ phía sau có tiếng vọng lại: “Xin mày cầu nguyện cho tao nữa, tao cũng muốn tin ông Giê-Su”. Tôi cảm tạ Chúa, một linh hồn tin nhận Chúa quí hơn cả thế gian nầy, mà Chúa lại cho hai linh hồn tin nhận Chúa. Tôi nói anh tên gì? “Tao là thằng Quốc sống ở Tân Hà, tao nghe mày nói về ông Chúa Giê- Su cho thằng Thái tao cũng muốn tin ông ấy”. Tôi hướng dẫn anh Quốc cầu nguyện tin Chúa. Vậy là hai linh hồn tin nhận Chúa, tôi mừng quá tạm biệt hai anh và quên xin nước uống luôn. Đó là lần đầu tiên trong cuộc đời tôi nói về Chúa Giê-Su, không phải mình khôn ngoan nói hay mà chính Chúa Thánh Linh hành động trong tôi. Ngày hôm sau tôi làm chứng lại sự việc hai linh hồn tin Chúa tại trong rừng cho anh em trong nhóm nghe. Sáng hôm sau chị Nguyễn thị Thôi tìm đến nhà anh Thái tại Tân Hà thăm và làm chứng cho em gái của anh Thái tin nhận Chúa và Chúa Nhật tuần đó anh đã tìm đến tại điểm nhóm anh em chúng tôi hơn 25 km để thờ phượng Chúa, cảm tạ Chúa. Tôi biết đó là Chúa kêu gọi tôi, là dấu ấn trong cuộc đời và chức vụ tôi. Từ đó tôi quyết định dâng cuộc đời mình hầu việc Chúa, chấp nhận từ bỏ mọi ước mơ của thời trai trẻ để đi ra chinh phục tội nhân về cho Chúa. Chúa đã đặt để trong lòng tôi cưu mang anh em người sắc tộc, họ cũng là một con người như bao người khác mà tại sao họ bị đối xử phân biệt, bị lợi dụng… Họ bị thiệt thòi lắm nhưng trước mắt Chúa họ cũng là những linh hồn cần phải được cứu. Dẫu biết rằng họ ở vùng cao và sâu, núi non hiểm trở, gian nguy mọi điều nhưng tạ ơn Chúa, không vì những điều đó mà chúng ta nản lòng. Chúa sẽ thêm sức và đồng hành với chúng ta. Thánh Linh Ngài ban cho chúng ta có quyền năng để đắc thắng trong mọi sự.
Năm 1997 đánh đấu những biến chuyển Chúa làm. Chỉ trong ba tháng thôi mà những việc sau đây xảy ra tôi không quên được. Tôi có kinh nghiệm Chúa cho tôi gặp ông Trần Văn Châu người miền Bắc Hà Nam Ninh ở cây số 72, Huyện Ma-Drak, Tỉnh Dak-Lak. Ông đương là chủ tịch công đoàn ngành dâu tằm, 11 năm tuổi đảng, kiêm chủ trì Chùa Quan âm, ông bỏ tiền ra xây pho tượng bà Quan âm nặng hơn 1 tấn, và một pho tượng Phật Di lặc bằng đồng. Chùa được xây cao lớn lắm. Trong lúc ông và những người thợ đang chạm trổ hoa văn trên viền cột chùa, tôi đã làm chứng về Chúa cho ông hơn 3 giờ đồng hồ. Hôm đó anh Trần Quang Tuấn và anh Nguyễn Đình Phùng cầu nguyện tin Chúa ngay tại chỗ, rồi qua chiều ngày hôm sau ông Châu mời tôi về nhà và ông đã cầu nguyện tin Chúa. Vợ ông biết được, lấy chổi chà đánh xối xả vào đầu ông và đuổi ông ra khỏi nhà.
– “Theo Chúa của ông Dũng đi!”
Ông chạy tìm tôi và nói:
– “Ông Dũng ơi! mụ vợ tôi đuổi tôi ra khỏi nhà đi theo Chúa với ông rồi!”
Tôi đến cũng bị bà đập cho mấy cây chổi cùn. Nhưng đức tin ông Châu vững lắm. Ông nói:
-“Ông Dũng ơi! tôi quyết tâm theo Chúa chứ không bỏ Chúa đâu!”
Và chúng tôi cầu nguyện cho bà. Xin Chúa cứu bà Châu. Rồi Chúa đã làm phép lạ. Bà bị bệnh sốt cao, khi đến bệnh viện Nha Trang, bác sĩ cho biết bà bị bệnh phù lá lách, phù thận, dương tính và đang mang thai trong bụng 3 tháng, không còn cách chữa trị được. Bác sĩ kêu người nhà vào cho bà ăn uống rồi chuẩn bị lo hậu sự cho bà. Ông Châu và các người con buồn rầu vì không còn hy vọng chạy chữa. Tôi dùng lời Chúa an ủi và chia sẻ đức tin, tin chắc đây là ý Chúa để tự ông dẹp bỏ bàn thờ và đốt 3 pho tượng. Ông đã làm theo ý Chúa. Ngồi bên gường bệnh, chúng tôi làm chứng cho bà nghe. Tuy không cử động được nhưng qua cử chỉ ánh mắt là chúng tôi hiểu bà muốn tin Chúa. Tôi mời mọi người trong gia đình quì gối ăn năn và cầu nguyện cho bà tin nhận Chúa và xin Chúa chữa lành cho bà.
Đêm 22 tôi lại đón xe về khu Phúc âm Bình Thuận để chuẩn bị Giáng Sinh năm 1997. Mười ngày sau tôi lên lại nhà ông Châu. Khi bước tới ngõ nhà, tôi thấy bà Châu đang cầm cây chổi quét sân chạy ra. Tôi nói trong đầu: ” Chúa ơi xin đỡ con!” Tôi tưởng đâu mình bị đòn như mọi khi, nào ngờ bà đang quét sân thấy tôi lên, bà mừng quá và khoe với tôi về bệnh tình của bà đã được Chúa chữa lành.
Bà đi tái khám. Bác sĩ nói:
–  Bà chữa trị đâu mà hay vậy?
Không còn một chứng bệnh nào cả, bà Châu khoe:
– Chúa tôi chữa bệnh cho tôi!
Đi tới đâu bà cũng làm chứng tới đó, còn ông Châu luôn miệng nói “Tạ ơn Chúa!”
Ông thì làm chứng: “Từ ngày tôi tin Chúa đến giờ, trước mắt tôi có được ít nhất vài chục ngàn đồng tiền nhờ bỏ hút thuốc, uống rượu, nhang đèn, hương khói… “
Đạo Chúa mỗi ngày vang rộng ra, trong vòng gần 3 tháng năm 1997 đó Chúa cho 125 người tin Chúa, người Thái, người Tày, người Nùng, Người Kinh. Buổi thờ phượng Chúa Nhật đầu tiên chúng tôi gặp khó khăn, buộc tôi ra khỏi địa phương trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Lúc bấy giờ là 9 giờ đêm, giữa núi rừng hẻo lánh không còn ô tô, tôi phải đi sâu vào một buôn làng người dân tộc Thái trắng và xin trú qua đêm.
Nào ngờ mọi điều xảy ra không phải là vô cớ, ở khu vực đó tôi đã làm chứng cho gia đình anh Tấm người Thái có 9 người trong nhà tin Chúa. Nay anh Tấm là truyền đạo đang coi sóc một điểm nhóm người dân tộc tại Dak-Lăk, và con gái đã có chồng là nhân sự truyền giáo người dân tộc STiêng ở Bình Phước. Ông Trần Văn Châu là Mục sư người dân tộc Kinh có Hội Thánh cây số 72 Ma-Drak, Dak-Lăk.
Sáng hôm sau tôi lại tiếp tục lên đường đi Gia Lai giáp ranh giới Campuchia ở Đức Cơ vào buôn làng Sung Tung và Sung Le ở đó 30 ngày truyền giáo và gây dựng. Thấy anh em khổ quá,  không có cơm ăn, chỉ ngày 2 bữa sáng và tối với mấy củ khoai mì, lâu lâu mới có hột cơm vào bụng ăn với muối hột, tôi với anh em vào rừng chỉ họ cách đánh bẫy heo, chồn, và phát rẫy với họ. Vừa làm vừa học giáo lý và giảng đạo… Bữa nọ Chúa cho heo rừng mắc bẫy khoảng 30 kg, tôi để anh em bán hết lấy tiền mua gạo ăn, còn đầu và lòng heo, anh em chúng tôi nấu cháo ăn. Thật là một bữa ăn Chúa đãi ngon tuyệt nhất trong đời, bù lại những ngày ăn khoai mì với muối hột.
Vậy mà Chúa cho tôi vẫn khỏe mạnh, chịu đựng được với cơn sốt rét rừng, gian nan khổ cực mà vui lắm. Chúa lại cho nhiều anh em người dân tộc Dak- Lây, Ê-đê, Ba-nah… tin Chúa rất mạnh mẽ. Thế rồi sự khó khăn xảy đến với anh em. Ai tin Chúa đều bị mời lên phạt 15 ngày, dãy cỏ ở lô cao su. Tối về chúng tôi lén lút đi cầu nguyện, học giáo lý và lễ bái từng nhóm nhỏ. Chúa dấy lên nhiều anh em các sắc tộc dâng mình hầu việc Ngài, và họ rất trung thành, sát cánh với tôi từ đó. Chúa đã nhen lửa nóng cháy trong lòng anh em, họ đi khắp nơi bà con mình ở và truyền giáo, lan rộng ra nhiều tỉnh, chúng tôi đi đến đâu thì có Hội Thánh Chúa tại đó.
Ấn tượng nhất trong đời hầu việc Chúa của tôi tại Xã 3 cụm Bắc huyện Khánh Sơn, Khánh Hòa, Chúa cho tôi gặp anh Cao Lâm Tỵ và Cao Văn Nhiến trên đường đi bán củi về. Tôi làm chứng về Chúa cho hai anh và cả hai đã bằng lòng tin nhận Chúa, rồi họ dẫn tôi đi khắp buôn làng làm chứng, có rất nhiều người tin Chúa. Chúng tôi huấn luyện dạy giáo lý cách đơn sơ cho anh em, và chia sẻ lời Chúa cho họ. Người dân tộc họ rất sợ ở địa ngục nên ai tin Chúa đều cũng ao ước học giáo lý làm báp-têm. Chúng tôi lập danh sách báp-têm hơn 310 người trong đợt đầu tiên, tuổi từ 16 trở lên. Vào đúng thời điểm mùa đông giá rét điều kiện núi non hiểm trở, an ninh thì căng thẳng, chúng tôi cậy ơn Chúa đi lên đỉnh núi Ô Kha cao nhất để làm báp têm dưới chân thác. Anh em đi từ 12 giờ đêm vượt rừng băng suối đến 8 giờ sáng mới đến chân thác, vừa đến nơi chúng tôi thấy có hai người Công An cầm súng ngồi sẵn ở chân thác, mọi người chạy tán loạn. Sau nầy tôi biết họ chỉ đi săn và chúng tôi chỉ gặp họ tình cờ. Nhưng cảm ơn Chúa, Ngài cho chúng tôi rất bình an, quyết định cứ tiến hành làm lễ báp-têm và đi ngược lên dòng thác. Nhiều người phụ nữ đang mang thai cõng con trên lưng, đàn ông thì mang gùi trèo lên dòng thác rong rêu đá trơn trợt với độ cao 15 mét, tay nắm rễ cây đa thỏng xuống theo dòng nước chảy.
Tôi rất hồi hộp và cầu nguyện: “Chúa ôi xin tay Ngài che chở anh chị em, nhỡ mà sa chân thì họ sẽ rơi từ trên cao xuống”. Cảm tạ Chúa đã che chở cho đoàn người mọi sự bình an, dưới dòng nước lạnh buốt chúng tôi phải làm báp-têm tập thể cho 10 người một lần, rồi lần lượt cho đến hết. Thân người tôi như băng đóng tê cứng hết cả người, anh em phải đốt lửa sưởi ấm hơn 2 tiếng đồng hồ tôi mới lê bước được về buôn làng.
Cách mấy ngày sau tin đồn vang ra, Thầy Cao Tỵ và Cao Nhiến được lệnh quản chế không cho ra khỏi làng truyền đạo. Tôi đón xe ôm từ Ba Ngòi, Cam Ranh vào ban đêm lên làng của anh em, chúng tôi đang thông công và trò chuyện thì nghe một giọng vang ra từ trong bóng tối:
 – Ngồi im!
Tôi quay mặt nhìn thấy một người đàn ông mặt trùm tấm vải đen, tôi nói:
– Mời anh ngồi, cảm ơn Chúa đã đưa anh đến đây!
Người đàn ông tháo băng đen, thì ra đó là anh Cao Dân, phó công an xã 3 Cụm bắc. Chúng tôi bắt đầu trò chuyện và làm chứng cho anh nghe. Lúc đầu anh kịch liệt chống đối mời tôi về đồn, sau rồi anh cũng chịu quì gối tin nhận Chúa Giê-su. Tôi tặng anh cuốn sách giáo lý và anh cứ mỗi ngày siêng năng học hỏi thông công với anh em. Một tuần sau cơ quan an ninh biết anh tin Chúa, anh bị đuổi việc và tập tành hầu việc Chúa, nay anh trở thành nhà truyền giáo rất giỏi. Anh băng rừng vượt suối lặng lội hơn 70 cây số đường rừng lót dạ với cơm nấm muối hột, uống nước rừng vượt qua Suối Dầu, Khánh Vĩnh, làm chứng cho cộng đồng bà con mình, chưa đầy 3 tháng cả buôn làng hơn 400 người tin Chúa. Nhưng sự chăm sóc không nổi, chúng tôi đành phải giao cho Mục sư Võ Văn Tự Cường từ Nha Trang lên chăm sóc và gây dựng ở đó. Những anh chi em tin Chúa ở đây vẫn còn đứng vững đến ngày nay.
Cũng trong năm 1997, thầy Cao Tỵ và Cao Nhiến bị quản chế, không được đi đâu. Trong lúc họ ở nhà cầu nguyện thì Đức Chúa Trời đã làm phép lạ, Ngài đem người bệnh từ các nơi khác tới xin được cầu nguyện Chúa chữa lành tại nhà thầy Cao Tỵ. Tin đồn vang ra là mấy ông Truyền đạo này có phép chữa bệnh hay lắm. Ngày nào cũng có nhiều người bệnh đến xin cầu nguyện. có ngày trên 10 người đến cầu nguyện tin Chúa và được Chúa chữa lành.
Ông Mấu Bánh là cậu ruột của vợ Thầy Cao Nhiến đã từng đánh cháu mình sưng húp cả mặt mày vì tội theo Tin Lành bỏ đảng, bỏ ông bà. Người cháu rất khổ sở than khóc vì người cậu quá cứng lòng mà còn bắt bớ nữa. Chúa đã cho phép bệnh tật xảy ra cho ông Mấu Bánh. Ông bị bệnh rất nặng phải nhập viện Nha Trang. Các bác sĩ lắc đầu, không còn cách nào chữa hết, vì ông bị bán thân bất toại, liệt nửa thân người từ đầu đến chân, mà tiền thì không có nên bác sĩ trả về cho gia đình. Trong lúc đoạn cuối của cuộc đời, ông đã bằng lòng tin Chúa và được Chúa chữa lành bệnh luôn. Ông sốt sắng làm chứng cho cộng đồng bà con mình và rất kết quả cho công việc Chúa. Hiện nay Mấu Bánh là thầy truyền đạo đang coi sóc điểm nhóm tại Làng Nước. Hội Thánh Khánh Sơn phát triển đông cũng là nhờ Chúa chữa lành bệnh tật trên ông.
Một người nữa là anh Cao Thực. Anh kể lại:”Tôi đang lên cơn sốt mê man, thằng Mấu Húng nhà tôi nó bắt chước mấy thầy cầu nguyện, nó nói như vầy, “Ớ ông Giê-su ơi xin ông chữa bệnh cho cha tôi!’’ vậy là tôi được chữa lành, nên tôi đến đây hỏi mấy thầy, ông Giê-Su là ai mà hay vậy?”
Cả huyện Khánh Sơn, các buôn làng đều tin Chúa, có ông thầy phù thủy là ông Cao Trung, thường hay cúng và làm phù phép cho dân làng, ai có bệnh nhẹ thì cúng con heo, con gà, còn bệnh nặng thì cúng con trâu, nhưng trâu gà tài sản đi hết mà bệnh vẫn mang, thậm chí nhiều người chết oan uổng nữa. Dân làng tin Chúa hết ông không còn làm lợi kiếm sống nữa, nên ông phối hợp với côn đồ trong thôn và bọn trai làng khác đến đốt cháy 6 căn nhà của anh em mới tin Chúa ở buôn Láng Nước. Hơn một năm sau ông thầy phù thủy Cao Trung tin nhận Chúa, vậy là cả làng điều tin Chúa, và từ đó anh em chúng tôi hầu việc Chúa với nhau “cất cánh bay cao như chim ưng, chạy mà không mệt nhọc, đi mà không mòn mỏi ”…
Tạ ơn Chúa, tôi phải nói như Phao-lô rằng: “Tôi làm được mọi sự là nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi.” Tạ ơn Chúa cho Hội Thánh chúng tôi luôn nhờ quyền năng của Chúa mà hầu việc Chúa, mở mang nước Chúa.
Quí vị ơi! Đồng lúa đã chín vàng, con gặt thì ít, còn vô số đồng bào Việt Nam chưa được cứu, nếu chúng ta không đi nói về Chúa cho họ thì họ sẽ cứ đi dần đến con đường sự chết.
DUNG DUNG

   

Trả lời

Hướng Đi Ministries Hướng Đi Ministries
9/10 1521 bình chọn