Tôi là Hoàng Thị Mai, sinh năm 1933 tại Hà Nội, sinh ra và lớn lên trong một gia đình với ba thế hệ tin kính Chúa. Bà ngoại và cha mẹ tôi là thành viên của Hội Thánh Tin Lành Hà Nội. Đặc biệt, Chúa đã sử dụng bà ngoại và bố trong vai trò là thành viên của Ban Chấp sự, Trị sự của Hội Thánh. Lớn lên trong gia đình như vậy, nhưng cuộc đời tin kính Chúa của tôi không được trọn vẹn từ đầu đến cuối.
Tuổi thơ trong nhà Chúa
Tuổi ấu thơ cho đến thanh niên, trong gia đình tin kính, tôi cùng gia đình được đến nhóm họp thờ phượng Chúa thật là phước hạnh. Nhiều kỷ niệm in đậm dấu ấn suốt cuộc đời tôi cho đến hôm nay. Mỗi sáng Chúa nhật, cả gia đình đều háo hức, chuẩn bị quần áo chỉnh tề để đi nhóm tại nhà thờ. Tuổi niên thiếu, tôi được vào học lớp Trường Chúa nhật, được tập hát, nghe thầy cô kể những câu chuyện về Chúa Giê-xu, tặng chúng tôi những tấm ảnh có hình Chúa bồng ẵm con chiên, ôm ấp con trẻ… Sau mỗi buổi học, chúng tôi được nhận những phần quà gồm bánh kẹo, cùng ăn vui vẻ, trò chuyện tíu tít…, Và cứ thế, sinh hoạt trong Chúa với các bạn cùng tuổi cho đến khi trưởng thành.
Bước vào độ tuổi thanh niên, tôi được sinh hoạt trong ban ngành với nhiều nội dung phong phú hơn trong việc học Lời Chúa. Những tiết mục trong chương trình nhóm như câu chuyện đức tin, kể chuyện Kinh Thánh, tập hát, tập kịch… thật thích thú với những điều hiểu biết hơn, được góp phần chung với nhiều người. Đặc biệt, khi nhà thờ chuẩn bị kỷ niệm các ngày lễ Phục sinh, Giáng sinh, Ban Thanh Niên vui vẻ, gắn bó với nhau trong các chương trình tập hát của nhà thờ.
Trong sinh hoạt của gia đình tín đồ, mỗi ngày, cả nhà tôi đều nhóm cầu nguyện mỗi buổi tối. Nề nếp ấy được duy trì mỗi ngày khi cả nhà quây quần, hát Thánh ca, đọc một câu Kinh Thánh rồi cầu nguyện. Lúc đầu, bố mẹ tôi thay phiên nhau cầu nguyện mỗi ngày, chúng tôi nghe và học tập. Thời gian sau, bố mẹ tôi yêu cầu chị em chúng tôi lần lượt thay nhau cầu nguyện. Tôi lớn lên trong gia đình được tập luyện và nuôi dưỡng đức tin trong Chúa suốt thời thanh xuân của mình từ trong gia đình cho đến nhà của Chúa.
Tôi được bố mẹ cho đi học đều đặn, từ lớp 1 đến tốt nghiệp Đại học Sư phạm. Thời đó, con gái học đến Diplome (tương đương với cấp 2 bây giờ) được xem là “có giá” lắm. Nhiều bạn bè đồng trang lứa với tôi vào tuổi 18 đến đôi mươi đều có chồng gồm những người bác sĩ, kỹ sư người Hà Nội. Riêng tôi, đến tuổi 24, 25 vẫn còn độc thân và dạy học ở một trường cấp 3 tại Hà Nội. Trong nhà thờ Tin Lành Hà Nội lúc bấy giờ, chưa có ai tôi thấy phù hợp để quen và kết duyên. Trong khi đó, nhiều thanh niên ngoại đạo thì nhiều người là bác sĩ, kỹ sư… muốn làm quen, kết bạn với tôi. Nhưng bố mẹ tôi luôn nhắc nhở trong việc kết hôn trong gia đình tín hữu Tin Lành: Con ơi, đừng lo lắng, cứ kiên trì cầu nguyện, Chúa sẽ có chương trình cho con. Con nên xây dựng gia đình với những người cùng đức tin với con, không nên kết hôn với người ngoại đạo.
Tôi vâng lời bố mẹ. Và thật kỳ diệu! Chúa đã đáp lời cho việc kết hôn của tôi. Một thanh niên người Cần Thơ – ở miền Nam đã kết duyên cùng tôi, một cô gái người Hà Nội, ở miền Bắc. Hai người ở hai miền của đất nước gặp nhau trong đời sống hôn nhân. Cả ba và anh là những người tham gia bộ đội thời kỳ chống Pháp ở Nam Bộ. Năm 1954, ba và anh tập kết ra miền Bắc theo thỏa thuận giữa các bên. Chúng tôi gặp nhau. Tôi tin rằng, Chúa đã dự bị sắp xếp cho tôi và cho anh như thế. Năm 1959, chúng tôi tổ chức Lễ hôn phối tại Hội Thánh Tin Lành Hà Nội dưới sự chủ hôn của Mục sư Dương Tự Ấp. Thật cảm ơn Chúa rất nhiều. Tôi cảm tạ Chúa về điều phước hạnh, bởi anh là con cái của Chúa – điều mà bố mẹ thường khuyên nhắc tôi trong việc xây dựng gia đình. Gia đình anh có những người sốt sắng lo cho công việc của nhà Chúa. Ở vùng miền Tây sông nước, ông nội anh thường chèo thuyền trên các sông rạch để làm chứng về Chúa cho những gia đình sinh sống ven bờ. Ba anh là người trung tín, từng tham gia Ban Chấp sự của Hội Thánh Tin Lành Cần Thơ.
*Những thử thách với gia đình
Từ năm 1960, chiến tranh trên đất nước trở nên khốc liệt. Vùng thủ đô Hà Nội phải sơ tán khi những đợt tấn công từ quân lực Việt Nam cộng hòa. Người dân quen cảnh sống phố phường giờ phải sơ tán đến các vùng thôn quê, tùy theo ngành nghề và cơ quan mà sơ tán các nơi khác nhau. Chồng tôi đi một nơi và tôi phải đi một nơi với hai con trai vừa 5, 6 tuổi. Cuộc sống trong thời kỳ này khó khăn nhiều lẽ. Gia đình tôi không đi nhóm lại được bởi không có nhà thờ gần chỗ ở. Rồi chiến tranh cũng qua, sau năm 1975, hai miền Nam-Bắc của đất nước thống nhất. Vợ chồng tôi được điều động vào công tác tại Thành phố Hồ Chí Minh. Chồng tôi làm giám đốc một công ty của nhà nước, tôi tham gia giảng dạy ở trường Đại học Sư phạm. Một giai đoạn dài, gia đình tôi đã xa cách nhà Chúa. Từ năm 1960 cho đến khi nghỉ hưu, gia đình tôi không còn nhóm thờ phượng Chúa và tham gia trong công việc nhà Ngài. Cuộc sống cứ thế trải qua làm cho đức tin nguội lạnh và đến chỗ không còn đức tin nữa. Mỗi người trong nhà đã không còn để Chúa trong đời sống của mình. Tôi gọi đó là “thời kỳ đen tối của gia đình” bởi chúng tôi phải sống dưới sự cai trị của ma quỷ với nhiều khổ đau.
Một sự việc xảy ra khiến tôi luôn nhớ. Đó là ở cơ quan, chồng tôi bị một nhóm người cấu kết vu oan, chống đối. Họ đã lợi dụng những mối quan hệ với những người có chức vụ ở cơ quan có thẩm quyền, với cơ quan truyền thanh lúc bấy giờ đã làm cho chồng tôi lâm vào trạng thái khủng hoảng. Trong gần 2 năm đó, cứ cách vài ngày, những người có trách nhiệm gọi chồng tôi đến tra hỏi với thái độ áp đảo, hống hách, hăm dọa. Trong tình cảnh như thế, chồng tôi suy sụp tinh thần, bị trầm cảm, suốt ngày chỉ im lặng, sức khỏe kém sút. Cả gia đình sống trong nỗi lo sợ, buồn tủi! Và, theo lời của bạn bè, trong hoàn cảnh đó, tôi không còn đức tin đã lâu nên đã tìm đến các chùa để đi lễ, xem bói toán… và tìm cách để cầu xin cho chồng được giải oan. Tôi đã xây bỏ đường lối của Chúa, theo đường ma quỷ, phạm tội trọng với Chúa. Kết quả chẳng những không giải oan được gì cho chồng mà dây oan càng ngày càng thắt chặt.
*Hoạn nạn và quay đầu
Khi quên Chúa, xa Chúa, chạy đến với thế gian, ma quỷ nhờ cậy mà cũng lâm vào bi kịch, bị đẩy đến đường cùng, tôi mới nghĩ đến Chúa. Tôi đóng cửa phòng, quỳ gối cầu nguyện, khóc lóc, khẩn nài Chúa cứu chồng tôi. Cảm tạ Chúa, trong ánh sáng của người con sai lạc trở về, Chúa đã chỉ bảo cho tôi ứng phó với hoàn cảnh của cuộc sống. Tôi đã làm đơn lên cấp có thẩm quyền cao hơn để yêu cầu thanh tra kỹ càng về sự việc của chồng tôi bị vu oan. Và những sự việc diễn ra trước mắt những điều vừa thuận lợi và cả áp lực. Một cuộc họp toàn thể cơ quan, ban thanh tra có trách nhiệm đã tuyên bố là chồng tôi không làm điều gì sai trái, hoàn toàn vô tội. Trong khi đó, người có trách nhiệm lại triệu tập chồng tôi và lần này có ý định bắt giam chồng tôi luôn. Nhưng Chúa cho điều kỳ diệu đã xảy ra.
Người thư ký của chồng tôi đã đưa cho một tập tài liệu gồm các chứng từ, văn bản v.v… chứng minh chồng tôi không làm điều gì như những người kia đã vu cáo. Chồng tôi gặp người có trách nhiệm theo triệu tập và đưa những giấy tờ cho những người có trách nhiệm xem xét. Họ đọc qua và thay đổi thái độ, không còn áp đảo, nặng nề mà nhẹ nhàng hơn những lúc trước. Ngay lập tức, họ nói với chồng tôi: Thôi chú đem hết tài liệu này về đi, mời chú ra về. Vậy là người có trách nhiệm đã không bắt chồng tôi như họ đã định trước đó bởi những chứng cứ chứng minh chồng tôi không sai phạm, vô tội trước những sự chống đối, vu cáo. Chồng tôi lâm vào hoạn nạn trong thời gian bỏ Chúa nhưng cảm tạ Chúa đã không lìa bỏ gia đình tôi, đã thương yêu bảo bọc che chở khi tôi biết quay về, tìm cầu Chúa.
Đến bây giờ, suy nghĩ lại, tôi mới thấm thía rằng: tôi u tối đau khổ vì theo đường lối ma quỷ. Chúa biết hết và Chúa đã cứu chúng tôi bằng cách cho một đòn roi thật đau để tỉnh thức, cảnh tỉnh chúng tôi, là một đòn roi đầy yêu thương. Dù tôi đã nhận biết tình yêu thương của Chúa sau khi chồng thoát nạn nhưng tôi chỉ cảm tạ Chúa, trong lòng chưa hề nghĩ đến việc ăn năn tội để trở về với Chúa. Thật là tội lỗi quá. Đến lúc này Chúa vẫn dõi theo tôi, và Chúa vẫn kiên trì cảnh tỉnh tôi bằng cách khác, không phải là đòn roi nữa, mà là lời nhắc nhở êm dịu, tha thiết.
Trở về trong vòng tay của Chúa
Vào một buổi sáng Chúa nhật, tôi đi bộ thể dục như thường ngày trên đường Trần Hưng Đạo, bất chợt nghe tiếng hát Thánh ca vang vọng. Tôi đứng sựng lại, nhìn thì hóa ra đây là nhà thờ Tin Lành ở số 155 đường Trần Hưng Đạo đương nhóm thờ phượng. Lúc đó tình cảm trong tôi thật khó tả. Bao nhiêu kỷ niệm sinh hoạt trước đây trong nhà Chúa tại HTTL Hà Nội ùa tới trong tâm trí tôi. Tôi mạnh dạn bước vào bên trong, kiếm một chỗ ngồi trong góc tại một dãy ghế cuối cùng. Ngồi yên lặng trong nhà Chúa bao nhiêu năm đã xa rời, nước mắt tôi tuôn trào không kiềm chế được. Tôi biết, Chúa đã nhắc nhở tôi. Miệng tôi cứ liên tục lẩm bẩm: Chúa ôi, xin tha tội cho con, tha tội cho con… Lúc đó, ông Mục sư đang giảng, còn tôi trong tâm trạng ăn năn, chỉ biết khóc và cảm thấy như Chúa đương nhìn mình… Thật kỳ diệu, cách nhắc nhở, thức tỉnh nhẹ nhàng êm dịu và thấm thía của Chúa dành cho chính tôi. Chúa đã cho tôi cơ hội để trở về với bầy chiên của Ngài. Và từ đó, tôi đi nhóm thờ phượng Chúa trung tín mỗi sáng Chúa nhật. Vài năm sau chồng tôi nghỉ hưu, cũng trở về nhóm thờ phượng với hội thánh.
Từ đây, cuộc sống của gia đình chúng tôi thoát khỏi bàn tay cai trị của ma quỷ. Thật là hạnh phước từ Chúa ban khi chúng tôi trở lại với đức tin đã nhận từ thuở ban đầu. Bắt đầu một cuộc sống thay đổi, phước hạnh được Chúa tể trị, thật như Lời Chúa đã phán: “Kẻ đến cùng ta thì ta không bỏ ra ngoài đâu” (Giăng 6:37b). Vợ chồng tôi cũng tham gia học Kinh Thánh đều đặn hằng tuần thời kỳ Mục sư Châu Văn Sáng quản nhiệm Hội Thánh Sài Gòn. Nhờ vậy, đức tin của chúng tôi ngày càng được tăng trưởng. Sau khi chồng tôi qua đời, tôi có cơ hội được sinh hoạt Ban Lão niên với Hội Thánh Sài Gòn, cũng góp phần được vài lần nói về câu chuyện đức tin. Sau đó, vì đau bệnh nên tôi không sinh hoạt tiếp được nữa nhưng lòng của tôi luôn hướng về Chúa.
Từ khi trở về nhà Chúa, nhóm thờ phượng cùng Hội Thánh, sự cầu nguyện tương giao với Chúa mỗi ngày, học Lời Chúa… tất cả đã cho tôi sự vui thỏa, bình an, ơn càng thêm ơn, phước càng thêm phước. Chúa đã ban phước cho tôi và gia đình gia đình các con, cháu, chúng tôi. Nhưng con trai tôi vẫn chưa trở lại với nhà Chúa, tôi vẫn hằng cầu nguyện với Chúa về điều này. Tôi sống với đồng lương hưu và thỏa lòng trong sự che chở Chúa cho.
*Ơn Chúa tuôn đầy
Năm nay tôi đã 89 tuổi nhưng không giống nhiều người già cùng trang lứa, lưng tôi không còng, không phải nhờ người chăm sóc mọi sinh hoạt, đầu óc còn minh mẫn, tỉnh táo, vẫn tự nấu ăn do con cháu ở xa. Chúa cho tôi mắt còn sáng, đọc Kinh Thánh mỗi ngày, truy cập để nghe các bài giảng, đài Nguồn sống và các bài hát Thánh ca. Hàng xóm, bạn bè ai cũng khen là có phước quá, tôi đều trả lời là Chúa ban cho tôi được như vậy đấy.
Một sự việc đặc biệt vượt quá sự hiểu biết của tôi, đó là cuối năm 2020, tôi đau bệnh liên miên, ba lần đi cấp cứu, nằm bệnh viện mỗi lần gần cả tháng, con cháu không ở gần, phải mượn người giúp việc chăm sóc. Sang đầu năm 2021, cận ngày Tết, không còn người giúp việc, cơ thể tôi còn yếu, bệnh tim nặng, đêm ở một mình rất nguy hiểm, tôi lo lắng lắm, không biết xoay xở làm sao. Đúng lúc đó, Lời Chúa đã nhắc nhở tôi: “Lại hãy trao mọi điều lo lắng mình cho Ngài vì Ngài hay săn sóc anh em” (I Phi-e-rơ 5:7). Vậy là tôi kiên trì cầu nguyện với Chúa và Chúa đã lắng nghe, đáp lời! Chúa đã cảm động một cô tín đồ còn trẻ đến thăm, thấy cảnh đơn chiếc lại đau bệnh, cô đã tự nguyện đến ngủ ban đêm với tôi những ngày cận Tết. Và từ sau Tết đến nay, cô đã đến ở luôn với tôi. Ban ngày cô đi làm việc, tối đến cô ở bên tôi. Thật phước hạnh quá! Điều đáng nói, cô là một người xa lạ, tôi chưa hề quen biết, vậy là Chúa đã dự bị sẵn cho tôi tự bao giờ, trước cả khi tôi cầu xin! Điều cao quý hơn nữa, cô lại là một tín đồ Tin Lành, chẳng những vừa giúp đỡ tôi trong sinh hoạt, lại có tình thương yêu trong Chúa, cầu nguyện cho nhau mỗi ngày. Cảm tạ Chúa đã lo toan cho tôi quá chu toàn: cả thuộc thể lẫn thuộc linh.
Đúng là từ khi trở về với đàn chiên của Chúa, Ngài đã ban cho ơn phước nhiều không xiết kể, song không phải là không có những thử thách mà Chúa đã cho phép xảy ra. Thử thách lớn nhất là ma quỷ đã dùng vợ chồng đứa con trai lớn của tôi gây cho tôi nhiều đau buồn. Song, cảm tạ ơn Chúa vẫn tiếp sức, ban bình an, vui thỏa vì tôi biết rằng ơn phước Chúa đã ban cho nhiều gấp bội phần so với thử thách. Vì vậy, tôi vẫn kiên trì cầu nguyện, xin Chúa thương xót, tha thứ, và cảm động cho vợ chồng con trai tôi có cơ hội ăn năn tội, tin nhận Chúa Giê-xu để được sự cứu rỗi. Tôi tin sẽ được! Chúa cho tôi biết được rằng thử thách là cơ hội rèn luyện, để đức tin của tôi trong Chúa được tăng trưởng! Cảm ơn Chúa.
*Ơn Chúa tuôn đầy
Nhìn lại hành trình theo Chúa của tôi không trọn vẹn, nhiều năm tháng xa cách Chúa, lìa bỏ Chúa, phạm tội trọng với Chúa, nhưng Chúa vẫn dõi theo tôi, khi tôi cùng đường khốn khổ bởi ma quỷ cai trị thì đúng thời điểm Chúa dùng mọi cách, từ roi vọt nặng nề đến sự nhắc nhở êm dịu, cho tôi cơ hội thức tỉnh ăn năn được trở về trong bầy chiên của Chúa. Quả thật, Chúa là Đấng Thành Tín, Ngài đã phán hứa: “Ngài đã yêu kẻ thuộc về mình trong thế gian, thì cứ yêu cho đến cuối cùng.”(Giăng 13: 1b) Cảm tạ, biết ơn Chúa hết lòng!
Để kết luận, xin được mượn những lời trong một bài Thánh ca để dâng lên Đức Chúa Trời Ba Ngôi: “Nguyện đời tôi là bài ca tôn vinh Chúa Ba Ngôi. Nguyện đời tôi là mùi hương cho danh Chúa muôn phương. Nguyện đời tôi hằng ngày truyền ra tình yêu của Chúa”.