Bến Bờ Vĩnh An
Người làm chứng: Nguyễn Phú Quyền
Tôi viết lên lời chứng này để tôi dâng trọn sự vinh hiển cho Ba Ngôi Đức Chúa Trời. Và nói lên rằng tình yêu của Chúa tuyệt vời đối với từng người con yêu dấu của Ngài.
Từ giữa dòng nước biển từng đợt sóng lượn lao đến, băng qua, lướt tới trên mặt nước, cuốn đi tất cả những gì có trên bãi biển. Những chiếc lá nhỏ vừa rơi từ trên cành cây dọc theo bãi biển hiển nhiên cũng bị cuốn theo, quật qua quật lại, xô lên xô xuống, cuộn tròn giữa dòng nước và bọt biển trắng xoá, và chẳng ai biết hay quan tâm đến những chiếc lá nhỏ ấy sẽ trôi về đâu và sẽ ra thế nào! Có những chiếc lá vàng úa, cũng có những chiếc lá non vừa rời cành cây xanh tươi….
Tôi thật giống như chiếc lá đó. Tôi tên là Nguyễn Phú Quyền. Tôi từng có cha, có mẹ cơ mà… nhưng tôi mới sanh được 14 ngày thì cha tôi đã bỏ tôi đi lấy người khác… Vâng, chiếc lá non rời cành theo gió bay đi với sự hững hờ của cội rễ là thế.
Tôi được dưỡng nuôi và lớn lên trong sự cô đơn và cách sống chịu đựng rất mộc mạc của mẹ tôi. Ngày tháng ấy đã trôi qua không bao giờ trở lại nữa, nhưng nó đã in hằn vào tâm trí và tính cách của tôi. Đối với nhiều người thì tuổi thơ thật là đáng nhớ vì đầy thơ mộng và hồn nhiên; còn đối với tôi đó là sự sợ sệt, trốn tránh, nước mắt và buồn tủi. Tôi cô đơn từ thơ ấu, thường xuyên gặp cảnh đói rách, bị hắt hủi và khinh rẻ. Có lẽ bởi vậy mà tôi chỉ biết tìm đến sách vở và nhiều ưu tư, và tôi sống đầy nội tâm. Đó chính là những điều ảnh hưởng đến tính cách của tôi, một con người chỉ thích sống với sự trầm lắng, âm thầm, rất dễ mặc cảm, tự ty…
Ước mơ tuổi thơ thật là giản dị và đơn sơ. Tôi hằng mơ nhận được một lời khuyên nho nhỏ của cha, một món đồ chơi nho nhỏ của mẹ mà không được. Xuân đến tết về tôi mong ước nhận được một chiếc áo mới, một quyển sách nhỏ… mà có ai hiểu để cho tôi! Trái lại tôi đã bị ép hai lần phải uống thuốc độc, một lần bị chém tại nhà về đêm phải chạy trốn không nơi nương tựa, và hằng bao nhiêu lần trốn chạy bởi sự nhạo báng, miệt thị… Quả thật, “con không cha như nhà không có nóc” là thế. Nhưng rồi tuổi thơ đầy tủi khổ và nước mắt ấy trôi dần qua mau…
Mặc dù không có ai hướng dẫn, chỉ đường, giúp đỡ những hướng đi cho cuộc đời tôi, tôi nhất định không chịu khuất phục, buông xuôi. Tôi quyết tâm tìm cho mình một lẽ sống, một chân lý, và một hướng đi. Trong sự tìm kiếm đó tôi nghĩ ra rằng việc học và con đường công danh sẽ là ánh sáng cho tôi hoàn thành mục đích. Tôi ra sức phấn đấu, cố gắng, nghiên cứu và học tập; nhưng cuối cùng tôi đã thất bại hoàn toàn so với những đứa bạn cùng trang lứa. Dù chẳng chịu thua ai về các môn học, siêng năng và đầy nghị lực nhưng trước cánh cửa đóng sầm của trường trung học phổ thông và trước cánh cửa đóng im lìm của trường đại học tôi phải thú nhận rằng: mình không thể tiếp tục vừa học, vừa làm được cả, tất cả vì mình chỉ độc mã đơn phương. Đau đớn trong nước mắt, và thấy mình thật là luống công, vô ích và bất hạnh, thật tôi giống như “dã tràng se cát biển đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cáng gì”.
Nhưng rồi tôi tự nhủ: “Cuộc sống đâu phải đã hết, có nhiều con đường để đi đến mục đích mà”. Tôi cho rằng mình có thể đi đến chân lý bằng con đường binh nghiệp. Tự nguyện gia nhập vào bộ đội, tôi luôn tự rèn mình và kỷ luật gắt gao tự bản thân mình. Chẳng bao lâu sao tôi được công nhận là “bộ độ cụ Hồ” trước đơn vị. Sau những ngày tháng cố gắng học tập và rèn luyện tôi được chuyển lên làm quân số của phòng hậu cần, và được cử làm việc cho phòng tham mưu của sư đoàn. Được giao cho quản lý và coi giữ cả một tài sản lớn của quân đội tôi rất hãnh diện và tự đắc; nhưng chính tại đây không lâu sau đó tôi tìm thấy những mục đích của mình tìm kiếm trong quân đội là những điều “không tưởng” (không thể làm được). Những người chú, người bác là những người lãnh đạo đã từng làm gương sáng cho tôi, tôi đã từng kính trọng và ngưỡng mộ qua ứng xử và cách sống của họ biết bao. Thì nay, tôi thấy lần lượt hết thảy họ bị cám dỗ và sa ngã vào vật chất rất sâu đậm. Tôi thấy rõ tất cả sự xấu xa đê hèn và tội lỗi của việc họ làm.
Từ đó, tôi đã nhận thấy rằng: giá trị bản thân thật cao quý hơn giá trị vật chất biết bao. Không thể tránh nổi sự dằn vặt, cắn dứt lương tâm cùng với giá trị vật chất hay hư nát ây để nhận lấy giá trị bản thân thật đáng quý, cao đẹp, tôi quyết định trở về với tình thương của mẹ.
Nhưng rồi tôi lại giống như người lữ khách đi tìm mục đích mà không gặp, như người bộ hành lang thang trong sa mạc tìm dòng nước mát mà không thấy. Tôi lại đi khắp nơi làm nhiều việc và tiếp xúc với nhiều người để tìm cho mình một chân lý tốt lành. Nhưng ở đâu đâu tôi cũng nhận thấy một điều là mình vẫn cô đơn, buồn tủi, giả tạo và xấu xa. Tôi muốn quên đi tất cả nên tìm đến những cái mà tôi từng cho là chỉ dành cho người thiếu nghị lực và yếu hèn đó là rượu bia và thuốc lá. Nhưng khốn nạn cho tôi, tôi càng uống càng tỉnh táo, sự khốn cùng của quá khứ và hiện tại cứ hiện lên mãi trong tôi, tôi đau đớn và tuyệt vọng kêu rào một mình trong đêm với đầy tràn nước mắt: “Trời ơi! Tôi sinh ra để làm gì? Tôi muốn chết mà sao không được chết; còn muốn sống có ý nghĩa mà sao không sống được thế này?”. Sống mãi trong tuyệt vọng, nghẹn tràn trong nước mắt như thế khá lâu.
Thình lình một ngày kia một cơ hội may mắn đã đến với tôi. Trong buổi chiều tà tôi đang đi lang thang tại vùng biên giới Trung-Việt sau khi vừa rời đơn vị. Tôi nhận được tin đơn xin đi lao động của tôi tại Hàn Quốc được chấp nhận. Và chỉ sau 3 tháng tôi đã có mặt tại Hàn Quốc.
Như một vận động viên chạy đường trường, dù thất bại nhiều lần nhưng tôi quyết không bỏ cuộc. Tôi lại đứng dậy sao khi nằm ngã soài trên đường đời. Tôi lại tiếp tục cẩn thận tìm kiếm chân lý cho cuộc đời tôi trong cơ hội cuối cùng này. Nhưng không bao lâu sau đó, giống như bao lần khác, tôi lại nhận được một sự tuyệt vọng và bất lực. Lần này, tôi nghĩ là mọi cánh cửa cơ hội như đóng lại trước mắt tôi.
Cảm tạ Đấng nhiệm mầu, là Đấng Hay Thương Xót những kẻ chẳng đáng thương xót. Trong khi tôi đau đớn về thể xác, kiệt quệ về tinh thần, bế tắc trong mọi đường đời, không gia đình, không người thân, không người bạn nào chia sẽ nổi sự đó với tôi tại một nơi gọi là xứ lạ quê người. Cảm tạ Chúa, đúng lúc đó Ngài đã vẫy gọi đúng tên tôi.
Loanh quanh trong căn phòng nhỏ chỉ có 2 mét, vừa đau khổ vừa tuyệt vọng. Trong một ngày trời mưa tầm tã, phố phường vắng lặng. Sau khi làm việc cực nhọc từ nhà máy trở về, theo như thói quen tôi lấy cuốn sách gì đó trong phòng đọc ngấu nghiến. Không hiểu vì lý do gì mà cuốn Kinh Thánh ai đó tặng tôi lúc nào tôi chả nhớ lại nằm gọn trong tay tôi, chẳng lấy làm thích mấy thứ này, tôi tiện tay định quăng đi nhưng cuốn sách trật tay tôi rơi xuống và mở ra mà thoát nhìn tôi thấy có dòng chữ rất rõ hiện lên trong trang giấy: “Quả thật, quả thật, ta phán cùng các ngươi: chẳng có tình yêu nào lớn hơn vì bạn hữu mà phó sự sống mình”.
Câu ấy đập mạnh vào mắt tôi trước khi quá muộn để tự xếp lại dưới sàn nhà. Câu Kinh Thánh đó như thách thức, khiêu khích, mời gọi tôi vì hầu hết những người tôi từng biết đều sống trong gian ác, gian dối, ích kỷ, ganh tỵ, thiếu tình thương. Nên ngoài người thân là người tôi biết tính cách họ nên hiểu họ muốn gì dù họ nói dối đi nữa, còn lại tôi chẳng muốn, và chắng thể nào tin vào ai được. Họ đối với tôi, và tôi đối với họ như nhau, đó là lối sống hai mặt mà xã hội đã dạy tôi: mặt bên ngoài rất là thân mật, nhưng mặt bên trong không ai lường trước cái gì sẽ xảy ra sau đó.
Nhưng Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hoá không chỉ của vũ trụ mà của chính tôi. Và Ngài đã thắng tôi. Như có một quyền năng nào đó thúc đẩy tôi chộp ngay quyển Kinh Thánh đọc ngấu nghiến, đọc ào ào giống như người đói gặp bữa ăn thịnh soạn, như người khát giữa sa mạc gặp ốc đảo đầy nước. Vâng tôi đọc như chưa bao giờ được đọc từ cha sanh mẹ đẻ đến giờ. Quả thật, trong đời chưa hề có ai cho tôi lấy một lời khích lệ, động viên, dạy bảo chân thành như thế cả. Từng chữ, từng lời của Kinh Thánh sao mà ngọt ngào và tươi mát đến như thế, thật tôi đã tìm được kho châu báu và nguồn chân lý cho cuộc đời mình.
Tôi bắt đầu miệt mài đọc, cắm cúi đọc quyển Kinh Thánh ấy. Càng đọc tôi càng thấy thật là sâu sa và đầm ấm quá. Và những dòng lệ rơi nhoà khắp trang Kinh Thánh từ lúc nào tôi chẳng biết nữa. Tôi cứ tiếp tục đọc, cho đến khi tôi đọc đến Lời có chép rằng: “Ta là đường đi, chân lý và sự sống; chẳng bởi ta thì không ai được đến cùng Cha” thì không giấu được nữa, tôi oà lên khóc nức nở, khóc như chưa từng được khóc. Tôi la lên và nhảy khắp phòng: “Tôi đã tìm ra điều tôi hằng tìm kiếm bao nhiêu năm!”.
Tôi như người sắp chết đuối giữa đại dương bắt được chiếc phao cứu mạng, như người lang thang đói khát giữa sa mạc tìm thấy nước, như người mù bẩm sinh thấy được ánh mặt trời, và như người chết sống lại. Sung sướng vô cùng tôi quỳ xuống trước Lời Ngài và tiếp nhận Chúa Giê-su làm Chúa, làm chủ đời sống của tôi. Thật tôi chỉ biết nói rằng tôi là người có tội trước mặt Chúa bao năm qua, xin Ngài tha thứ cho tôi. Và xin Ngài đừng bỏ tôi tôi như cha tôi bỏ tôi. Tôi sẽ theo Ngài trọn đời tôi. Ngay tức thì tôi thấy sự bình an và phước hạnh tuôn tràn trong thân thể tôi mà tôi chưa bao giờ kinh nghiệm trước đây trong đời.
Mặc dù tôi vẫn làm việc nặng nhọc và vất vả nhưng lòng tôi thấy thảnh thơi vì từ nay tôi có Chúa hướng dẫn và đồng đi mỗi ngày với Ngài. Tôi bắt đầu tìm đến nhà thờ Tin Lành sau đó và thờ phượng Chúa cho đến nay.
Trên mặt biển bây giờ chiếc lá nhỏ bé kia không còn thấy nữa, chỉ thấy một con thuyền bé nhỏ đang tiến dần vào bãi an toàn, con thuyền nhỏ phút giây, từng chặng đường dài ngắn đang vượt qua những đợt sóng to sóng nhỏ vỗ tới. Có những đợt sóng to và mạnh tưởng chừng phá vỡ con thuyền nhỏ bé và mong manh, có những ba đào đưa con thuyền lên cao và thảy xuống thấp như muốn nhận chìm con thuyền ấy. Nhưng con thuyền vẫn tiến dần đến bến bờ bình tịnh, bởi vì trên con thuyền ấy có một thuyền trưởng đại tài là Đấng Cứu Thế Giê-su. Ngợi khen Đức Chúa Trời, là Đấng Yêu Thương và là Đấng Toàn Năng. Ngài đã yêu kẻ thuộc về mình trong thế gian thì cứ yêu cho đến cuối cùng…
Vào một buổi trưa giữa thu, khí trời trong trẻo và se se lạnh, những chiếc lá vàng rơi lả tả bên ngoài hiên nhà. Một sự nhiệm mầu đã xảy đến trong căn phòng nhỏ của tôi. Rõ ràng tôi đang nằm trong căn phòng có cửa hướng ra ngoài vườn giữa trưa ấy. Thình lình có một làn ánh sáng trắng từ trên cao chiếu vào phòng tôi mang những hạt nắng li ti đủ màu sắc, chiếu êm dịu và nhẹ nhàng vào tôi. Tôi chợt nghe một giọng nói êm dịu và đầy tình thương mà nhìn quanh tôi không thấy ai: “Hỡi con trẻ ta, đừng sợ!” Tôi ngước mắt lên và kìa một Đấng mà tôi nhận biết là Đức Chúa Giê-su của tôi trên thập tự giá, hai tay và chân Chúa bị đóng đinh, còn trên đầu Chúa phát ra những vòng hào quang sáng rực khắp căn phòng nhỏ bé của tôi. Tôi nghĩ rằng mình chắc đang nằm mơ. Không, tôi đâu phải mơ, mắt tôi mở mà, tôi thấy rõ mọi vật trong phòng tôi mà, thật tôi đâu có ngủ. Tôi thấy Chúa ôm tôi vào lòng, trong phút chốc tôi thấy Chúa đưa tôi lên không trung, sau giây phút ấy tôi thấy mình đang ở Việt Nam quê hương nhỏ bé. Từ trên không trung Chúa chỉ cho tôi thấy ở giữa cánh đồng lúa vàng giữa cái nắng mùa hè oi bức, một chú bé nhỏ một mình lặng lẽ cô đơn, thân hình yếu ớt, rất là nhỏ bé ngây thơ và trông tội nghiệp và đáng thương. Chú bé vừa làm vừa khóc, nước mắt chảy ràn rụa hai bên má; chú bé đang cặm cụi ra cố hết sức của mình để làm việc.
Tôi chẳng hiểu gì hết. Chúa vịn vai tôi Ngài khẻ nói: “Con hãy nhìn chú bé đó một lần nữa thật kỹ đi con”. Mặc dù đã nhìn rồi, nhưng tôi cố mở to mắt để nhìn thật kỹ vào chú bé đó theo như Chúa bảo. Ôi! Tôi phát hiện ra! Chú bé đó chẳng ai khác hơn chính là tôi lúc tuổi thơ kia mà, cũng hình ảnh đồng lúa ấy, cánh đồng ấy mà, tôi đâu có thể nào quên được giây phút nghẹn ngào ấy của tôi. Lúc đó, tôi bị bắt phải đi làm để kiếm sống giữa tuổi thơ, tủi thân tôi đã khóc đó.
Nhìn biết chú bé ấy chính là tôi, tôi sung sướng quá, tôi bật khóc trong tiếng cười. Tôi thủ thỉ với Chúa: “Chúa ôi! con là ai mà Chúa lại biết và nhớ đến; mọi người bỏ rơi con, hắt hủi con, khinh miệt con như thế mà sao Chúa lại yêu con, hả Chúa?”. Chúa lại cất tiếng trả lời tôi với ánh mắt đầy yêu thương mà tôi chưa từng thấy ở đâu cho tôi như thế: “Hỡi con trẻ của ta, đừng sợ; ta đã thấy và biết con từ khi con còn rất nhỏ, như thế đấy con ạ… Ta thấy những giọt nước mắt và tiếng than siết trong lòng con… Ta vẫn ở cùng con và mãi ở trong căn nhà của con ở bất kỳ nơi nào con đến…”. Không còn biết nói sao, tôi dựa vào vòng tay Chúa mà khóc… Ánh sáng trong căn phòng không còn thấy nữa nhưng tôi hãy còn chưa thôi khóc…
Con thuyền nhỏ đã đến bến bờ vĩnh an. Sóng gió của biển không làm gì được nó. Bến bờ ấy là nơi neo lại của con thuyền nhỏ ấy cách bình an. Chúa là bến bờ vĩnh an cho linh hồn tôi. Chính Chúa Giê-su của tôi là Đấng tuyệt vời, Ngài đã vì tôi mà phó sự sống mình cho, Ngài đã chết vì tội lỗi tôi và nhưng Ngài không chết luôn, Ngài đã sống lại và vĩnh cửu để bày tỏ quyền năng Ngài cho nhân loại.
Trong quyền năng ấy, Ngài vẫn đang mời gọi mỗi người chúng ta: “Hỡi những kẻ mệt mõi và gánh nặng, hãy đến cùng ta, ta sẽ ban cho các ngươi được yên nghỉ”. Và Ngài vẫn đang chờ đợi bạn để ban phước nếu bạn tiếp nhận Ngài làm Cứu Chúa của mình, bạn sẽ được Ngài lèo lái con thuyền bé nhỏ của cuộc đời đến bến bờ vĩnh an.
Muốn thật hết lòng.
NGUYỄN PHÚ QUYỀN