Tôi nhận được món quà quí giá thật đơn giản
Ngày lại ngày qua, tháng nầy sang tháng khác, năm nọ qua năm kia, mỗi buổi sáng tôi tất tả dậy sớm, chuẩn bị thức ăn, lo cho con đi học, vừa nổ máy xe đi làm vừa nhìn kiếng chiếu hậu xem mặt mũi có lọ lem không, đến sở thở phào nhẹ nhỏm khi chủ chưa đưa cho mình tờ giấy nghỉ việc, buổi chiều về tiếp tục việc nhà, việc ngoài đường, tối đến tất cả đều tươm tất đẹp đẻ. Buổi sáng hôm sau thức dậy tiếp tục diễn lại theo thứ tự công việc hôm qua. Ngày lại ngày qua, tháng nầy sang tháng khác, năm nọ qua năm kia!
Nhìn lại mình, sao tôi không có chút gì thay đổi, không có gì mới mẻ trong suy nghĩ, ngay cả trong ước mơ, cuộc sống cứ lập đi lập lại như một cái máy bền bỉ, một nhịp độ đều đặn đến lặng người. Tôi bây giờ không khác gì tôi của mười năm về trước, ngoại trừ những nếp nhăn ngày càng hằn sâu hơn, dường như đời sống tâm linh thực sự đã tắt nghẻn đâu đó mà tôi không biết. Tôi rùng mình khi nghĩ đến nếu cứ tiếp tục cuộc sống vô nghĩa thế nầy mười năm hay hai mươi năm nữa, thật là đáng sợ… Tôi muốn tìm cho mình một lối thoát, nhưng cứ loay hoay mệt nhoài rồi than trách..lại tiếp tục tìm rồi bỏ cuộc vì không có niềm tin…nổi trống trải trong tâm hồn càng lớn dần trong tôi theo thời gian… Có khi tôi tự hỏi, “Tôi sống trên đời nầy để làm gì?” Chẳng lẽ tôi được sinh ra, lớn lên, chịu bao nhiêu điều khổ nhọc, rồi chỉ vậy sao? Quả thật tôi không biết mục đích tôi sống trên đời nầy để làm gì. Sống không mục đích, đời sống thật buồn chán!
Khi xưa, ông nội tôi lập một cái chùa và ông tự phong chức hòa thượng trụ trì cho đến ngày ông qua đời ở tuổi hơn chín mươi. Khi còn nhỏ tôi rất thích đến chùa nầy, tôi phải đi ngang qua nhiều tượng lớn nhỏ đeo gươm giáo mặt mày trông rất dữ tợn, mới đến được cái bàn có nhiều thức ăn chè và trái cây bày sẵn, con nít không được phép ăn trước, phải chờ ăn sau cùng, chính vì vậy mà tôi thích đến chùa ông nội để ăn lén…Trong chùa có bày bàn tổ tiên, gọi là cúng cữu huyền thất tổ, trên đó bày nhiều bài vị viết chữ tôi không đọc được, nhưng dầu có nhiều cũng không làm sao kể hết tên người đã qua đời để thờ trên bàn tổ tiên, rồi linh hồn người không được thờ cúng sẽ ra sao? Tôi thật thắc mắc! Nhiều lần bị rầy khi đem thắc mắc nầy hỏi người lớn, tôi nghĩ chắc họ cũng không biết như tôi, nhưng vì là người lớn nên có quyền rầy và cấm tôi không được hỏi nữa. Khi ba tôi qua đời, tôi thấy mọi người tụ tập đọc kinh cầu siêu cho linh hồn ba tôi được siêu thoát, nhưng sau đó ít lâu lại làm đám giổ van khẩn linh hồn ba tôi về chứng giám và phò hộ. Tại sao cùng một lúc cầu nguyện với ai đó cho linh hồn ba tôi được siêu thoát, rồi lại nhang đèn khấn vái linh hồn ba tôi trở về chứng giám và nhận lễ giổ…Tôi thật không hiểu. “Ba tôi đã qua đời rồi, linh hồn ông đi về đâu?” “Khi tôi chết tôi đi về đâu?”. Những người đang đọc kinh cầu siêu đó không cho tôi được câu trả lời. Khi ba tôi còn sống, ông hay chở chúng tôi đi chơi. Tôi nhớ nhất và thích nhất được đi chơi ở biển. Làm sao tôi biết được mình được đi biển? Dễ quá! Tôi hỏi ba tôi, “Mình đi đâu vậy ba?” “Mình đi biển đó con!” Một chuyến đi chơi bình thường tôi còn biết mình đi đâu! Bây giờ ba tôi đi một chuyến không về, tôi lại không biết ông đi đâu, hồi nào gặp lại, gặp lại ở đâu. Hoàn toàn như người mù đi trong tối tăm. Tôi lại hỏi, “Ai sinh ra tôi?” “Hỏi kỳ quá, cha mẹ sinh ra chứ ai!” “Ai sinh ra cha mẹ, ai sinh ông bà, ai sinh ông bà của ông bà từ nhiều đời trước đây?” “Ai sinh ra loài người?” Không thể nào con người tự nhiên có mặt trên hành tinh nầy. Con người được tạo dựng trong một thân thể đáng lạ lùng, từng chi tiết không dư cũng không thiếu, rồi con người được đặt trên một hành tinh đã chuẩn bị sẵn để sống, những điều kiện sống mà những hành tinh khác không có được. “Ai sinh ra tôi?” vẫn còn là câu hỏi chưa lời giải đáp.
Tôi biết tôi phải thay đổi. Tôi phải bắt đầu thay đổi từ trong suy nghĩ, nhưng rồi tôi cũng bị tắt nghẻn ở đâu đó. Tôi chia xẻ với vài người bạn thân, “Suy nghĩ chi phiền quá, đơn giản chút đi, không hợp lý chút nào…” nhưng những điều nầy hoàn toàn hợp lý với tôi. Càng nhận những lời chống đối, tôi càng nhận ra nhu cầu tâm linh của mình là cần thiết được đáp ứng. Tôi cần câu trả lời đúng. Ai có thể lo cho linh hồn tôi khi tôi không có cách gì để cứu linh hồn mình? Một hôm thừa cơ hội nhà mọi người đi vắng, tôi la lớn như gào, “Ông Giê-su ở đâu? Nếu quả thật có ông, ông đến cứu tôi đi, trả lời cho tôi đi, tôi cần ông!” Tôi khóc. Nước mắt cứ rơi và tôi cứ khóc. Ngồi bệch trên sàn nhà, lưng dựa tường, lần đầu tiên tôi cảm nhận sự bình an trong tâm linh thật lạ lùng. Tay tôi chạm phải một quyển sách trong đám sách phế thải trên sàn nhà sắp sửa đem bỏ. Tôi vớ lấy, ngồi ngay ngắn lại và bắt đầu đọc. “Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất.” Trí tôi như được mở ra, như có ánh sáng lọt vào chiếu rọi tăm tối, như vậy trời đất nầy không tự nhiên mà có, ông Trời hay là Đức Chúa Trời đã dựng nên muôn vật trong vũ trụ, trong đó có trái đất là hành tinh chuẩn bị sẵn cho loài người để ở. Tôi đọc tiếp và đọc tiếp, “Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ.” Tôi biết rồi, tôi có câu trả lời! Đức Chúa Trời dựng nên tôi, tôi không đến thế gian nầy cách tình cờ, tôi đến đây, sống ở đây có mục đích. Tôi chưa biết giải thích tại sao tôi tin, nhưng tôi biết chắc điều tôi tin là thật!
Từ lâu lắm tôi có một người bạn Tin Lành, chị ấy có khi đến an ủi tôi, có khi đến chị kể về Chúa Giê-su của chị, nhiều lúc tôi rất bực mình nói với chị, “Tôi có đạo rồi! Nếu chị muốn đến nhà tôi thì đừng nói! Nếu chị muốn nói thì đừng đến!” Dù cho lời thách thức khá nặng của tôi, chị vẫn đến, không nói về Chúa của chị nữa, thăm viếng, giúp đỡ tinh thần. Có lần chị xin tặng tôi quyển Kinh Thánh, rất nể tình nên tôi nhận rồi quăng đâu đó. Cho đến hôm ấy, tâm linh tôi được tự do khi bắt đầu đọc trang đầu tiên của Kinh Thánh. Tôi đi tìm chị nhờ đưa tôi đến nhà thờ. Tôi muốn biết nhiều hơn về những điều quyển sách ấy viết cho tôi. Tôi chắc chắn như vậy, không chút nghi ngờ! Tôi không hiểu bằng lý trí để giải thích tại sao, tôi chỉ biết một điều, tôi như người chết, nay được sống, như người mù nay sáng mắt!
Chị đưa tôi đến nhà thờ vào buổi tối thứ tư sau đó. Gần bảy giờ chiều mà trời tối sầm vì cơn bão ập đến, giông gió nên thành phố bị cúp điện. Mưa gió, tối tăm, lạnh lẽo, nhưng lòng tôi nóng nãy tìm kiếm. Nhà thờ thắp sáng bằng những đèn dầu lớn đặt trên bệ cao treo trên vách. Ánh sáng tỏa lung linh, lòng tôi nao nả! Khi ban hát bước lên trên hướng dẫn ca ngợi, tôi thấy chỉ lát đát vài người ngồi bên dưới. Lời bài hát tôn vinh Đức Chúa Trời chạm vào lòng tôi. Tôi khóc. Đây chính là sự sống thật tôi cần. Sau khi ông mục sư kêu gọi, tôi chờ đợi giây phút nầy, lẹ làng đứng lên, nhanh chân đi lên trên để được cầu nguyện. Tôi bắt đầu đời sống hoàn toàn mới trong Chúa Giê-su, sự sống mới tôi được nhận từ Cứu Chúa của tôi.
Trước đây biết bao lần tôi áp dụng mọi cách để đem lại cho mình bình an, cố gắng bao nhiêu cũng thất bại. Càng thất bại càng nản lòng. Tôi vẫn cứ thở ăn uống đi đứng nghỉ ngơi và làm việc, như mọi việc xảy ra hoàn toàn tốt đẹp; thật ra một khoảng trống to lớn trong tôi không cách gì tôi lấp đầy. Khi không dấu được sự bất an trong tâm hồn, tôi bắt đầu cau có la hét; có nghĩa đôi khi tôi hành động ngu xuẩn không còn là tôi. Bây giờ khoảng trống đã lấp đầy, tự nhiên đến nỗi tôi không biết tôi đã làm gì ngoài một điều tôi nói với Chúa là tôi cần Chúa! Tôi nhớ vài hôm trước đây, tôi không nói mà la lên một cách trịch thượng, “Ông Giê-su ở đâu? Nếu quả thật có ông, ông đến cứu tôi đi, trả lời cho tôi đi, tôi cần ông!” Câu gào thét nầy Chúa Giê-su đã nghe. Chúa chờ đợi tôi cho phép, và khi tôi cho phép, Ngài hành động đáp lời. Tôi nhận món quà quí giá thật đơn giản, không phải bằng sức lực của tôi nhưng bằng ơn thương xót không điều kiện của Đức Chúa Trời.
Lê Thành Hòa
Tacoma