

KHỦNG HOẢNG CỦA CƠ ĐỐC GIÁO TRONG THẾ KỶ 21
LỜI NÓI ĐẦU
“Giữa anh em cũng sẽ có những người nói lời hung-ác dấy lên, ráng sức dỗ môn-đồ theo họ. Vậy, hãy tỉnh-thức, nhớ lại rằng trong ba năm hằng đêm và ngày, tôi hằng chảy nước mắt ra mà khuyên-bảo cho mọi người luôn” (Công vụ 20:30-31)1
Hai mươi năm trước, tôi bắt đầu viết một cuốn sách trở thành một cuốn sách bán chạy nhất và giành được Giải thưởng Huy chương Vàng danh giá cho sự xuất sắc trong lĩnh vực truyền bá Cơ đốc giáo. Cuốn sách đó, có tựa đề là Cơ đốc giáo Trong Khủng Hoảng, đã vạch trần những sai lầm chết người của một phong trào nguy hiểm làm suy yếu nền tảng của đức tin phổ quát đã được truyền đạt cho các thánh đồ một lần và mãi mãi. Vào những ngày đó, Kenneth Hagin là người thúc đẩy chính cho phong trào Lời đức tin bên cạnh các quyển sách và lời chia sẻ của ông. Trong khi ảnh hưởng của Kenneth Hagin rất lớn trên toàn cầu, một thế hệ những nhà thuyết giáo về Tin Lành thịnh vượng đã đưa lời thuyết giảng và thực hành của ông lên những tầm cao không thể tưởng tượng được. Thật vậy, những người đi theo hướng dẫn của ông như Joel Osteen và Joyce Meyer là bằng chứng sống cho thấy sai lầm sinh ra sai lầm và dị giáo sinh ra dị giáo. Như vậy, họ đã đưa cuộc khủng hoảng trong Cơ đốc giáo do Hagin gây ra và được các môn đồ kế thừa như Kenneth Copeland và Benny Hinn phổ biến lên đến mức mà tôi khó có thể tưởng tượng được khi tôi viết chủ đề này vào thế kỷ XX. Đó là lý do tôi đã phát hành sách Khủng Hoảng Cơ đốc giáo Trong Thế Kỷ 21. Mặc dù quyển sách này có những điểm tương đồng với quyển trước đó, nó cũng có những điểm cập nhật khác biệt đáng kể.
Để bắt đầu, tôi đã giữ lại căn bản của bản gốc. Như vậy, quyển sách này, giống như quyển trước đây, được xây dựng xung quanh các từ viết tắt F-L-A-W-S (F: Faith force; L: little God; A: atonement atrocities; W: wealth and want; S: sickness and suffering.) Trong khi phần cốt lõi vẫn còn, nó được xen kẽ với các trích dẫn từ các ngôi sao hiện tại trong chòm sao đức tin. Thật vậy, mỗi chương có liên quan đều bắt đầu bằng một đoạn trích từ một ngôi sao đức tin lớn tượng trưng cho cuộc khủng hoảng (thực ra đó là sự tà dâm về khái niệm đức tin trong Kinh thánh, một sự thỏa hiệp hay một trò lừa đảo và che đậy đức tin thuần chánh vào Lẽ Thật). Hơn nữa, mỗi chương trong số những chương này đều có một bản tóm tắt có tiêu đề “Lỗi gây ra lỗi” chứng minh rằng tà giáo của những người truyền bá Lời đức tin ban đầu không chỉ được duy trì mà còn trở nên nguy hiểm hơn bởi thế hệ kế thừa. Những sai lệch ban đầu của E. W. Kenyon so với Cơ đốc giáo chính thống là nhỏ so với những sai lệch đặc trưng cho các giai đoạn sau mục vụ của ông. Và với mỗi môn đồ kế tiếp của Kenyon, những sai lầm trở nên rõ ràng hơn. Hagin là người đã phổ biến tư tưởng Kenyon, không chỉ mở rộng những sai lầm của ông ấy mà còn thêm vào những sai lầm khác. Sự tiến triển từ tệ hại đến tệ hại hơn đã tiếp diễn với những người như Kenneth Copeland và Benny Hinn. Và giờ đây đã tiến đến độ sâu mới thông qua sự phát triển và thực hành của những người “áp dụng đức tin” như T. D. Jakes và Joyce Meyer.
Hơn nữa, tập sách này được bổ sung thêm phần giới thiệu mới không chỉ cung cấp cái nhìn tổng quan hấp dẫn về các vấn đề được đề cập trong nội dung cuốn sách mà còn ghi lại những điểm tương đồng kỳ lạ giữa các hiện tượng nhạc pop được nói đến trong sách Bí Mật của Rhonda Byrne và Cuộc Sống Tốt Nhất Của Bạn Ngay Bây Giờ của Joel Osteen. Những điểm tương đồng như vậy chỉ ra sự suy thoái trong toàn bộ Cơ đốc giáo. Khi đã mất khả năng suy nghĩ theo Kinh thánh, những người theo đạo Cơ đốc hậu hiện đại đang bị biến đổi một cách có hệ thống từ những tác nhân có khả năng thay đổi văn hóa thế giới, nhưng lại trở thành những người theo chủ nghĩa tuân thủ, thỏa hiệp với văn hóa của thế gian. Văn hóa đại chúng vẫy gọi, và những người theo đạo Cơ đốc hậu hiện đại đang mắc bẫy. Kết quả là mô hình đức tin theo Kinh thánh đã nhường chỗ cho một loạt các trào lưu và công thức đức tin ngày càng kỳ lạ. Nói cách khác, niềm đam mê Kinh thánh đối với việc thực hành các kỷ luật tâm linh đang tạo cơ sở cho các công thức của thần học sai lệch. Vì vậy, tôi đã nỗ lực cải thiện phần “Trở lại những điều cơ bản” của quyển sách này để dựng lên một ngọn hải đăng giữa các cơn bão đang gầm thét.
Cuối cùng, Cơ đốc giáo Trong Cuộc Khủng Hoảng Thế Kỷ 21 đã được bổ sung thêm phần “Các nhân vật” cung cấp thông tin toàn diện cũng như đánh giá theo Kinh thánh về những ngôi sao mới và nổi tiếng nhất trong thiên hà đức tin – những ngôi sao nhạc rock ảo thu hút sự chú ý của các ứng cử viên tổng thống và ông trùm truyền thông. Mặc dù các nhân vật này không phải là một khối thống nhất, nhưng họ đều phát tán các văn bản bị bóp méo, các phép lạ bịa đặt, các truyền thuyết và một Đấng Christ giả mạo. Những gì bạn sẽ khám phá trong phần “Các nhân vật” mới thật kinh khủng đến mức phản ứng đầu tiên của bạn có thể là hoàn toàn không tin hoặc phủ nhận. Nhưng tôi bảo đảm với bạn rằng những gì tôi đã viết đã được nghiên cứu cẩn thận và có thể chứng minh được theo ngữ cảnh. Một ví dụ điển hình dù khó tin, John Hagee không chỉ vô liêm sỉ quảng bá về một Chúa Jesus với Tin lành thịnh vượng. Tác giả sống trong một ngôi nhà lớn và mặc quần áo thời trang – nhưng lại trắng trợn mô tả Chúa Jesus là một người “từ chối trở thành Đấng cứu thế cho người Do Thái.”
Nhìn chung, Cơ đốc giáo Trong Cuộc Khủng Hoảng Thế Kỷ 21, giống như quyển sách trước đây, là một cuốn sách cần được viết. Cuối cùng, nó không nói nhiều về chính những người dạy đức tin mà nói về những người theo đuổi đức tin, những người không tránh khỏi bị phân tâm, vỡ mộng và chán nản. Tôi đau lòng cho người cha đã ướp lạnh đứa con đã chết của mình trong nước mắt và tuyệt vọng đã lái xe 350 dặm đến một trung tâm Phục hưng giả mạo vì ông tin vào lời chứng của những nhà thuyết giáo Lời đức tin rao giảng về sự phục sinh từ cõi chết. (2) Tôi cũng đau buồn cho hàng triệu người đã rời khỏi các nhà thờ giữa những công thức đức tin thất bại. Một số người kết luận rằng Chúa không yêu họ; những người khác đặt câu hỏi về tính toàn vẹn của Cơ đốc giáo.
Điều đáng buồn là chúng ta thường tìm kiếm Chúa ở những nơi không đúng. Trải nghiệm thực sự không nằm ở những công thức giả mạo mà nằm ở chính nền tảng của Cơ đốc giáo. Hãy suy nghĩ một chút về lời cầu nguyện. Thay vì tìm kiếm những công thức mà qua đó chúng ta có thể nhận được mọi thứ từ Chúa, chúng ta phải luôn ghi nhớ rằng lời cầu nguyện là cơ hội để phát triển sự gần gũi với Đấng yêu thương chúng ta. Nếu chúng ta thành thật với chính mình, hầu hết chúng ta đã cầu nguyện ngược dòng với sự hướng dẫn từ Lời Chúa. Chúng ta vội vã đến với sự hiện diện của Chúa bằng các kỹ thuật và những lời thì thầm không ngừng và trong quá trình đó, chúng ta át đi âm thanh của chính Đấng mà chúng ta rất mong được nghe giọng nói của Ngài. Chúng ta thường muốn Chúa di chuyển các cột hàng rào và mở rộng nhà cửa và đất đai của chúng ta. Chúa muốn điều gì đó tốt hơn nhiều cho chúng ta (trong khi chúng ta muốn trở nên giàu có hơn trong vật chất). Ngài muốn chúng ta tĩnh lặng nghe tiếng phán của Ngài để Ngài có thể mở rộng vương quốc trong tấm lòng chúng ta. Ngài đã gửi cho chúng ta 66 bức thư được khắc bằng nét chữ của thiên đường. Và chúng ta càng suy ngẫm về những lời đó, thì giọng nói của Ngài sẽ càng rõ ràng hơn trong tâm trí chúng ta.
Khi Cơ đốc giáo Trong Cuộc Khủng Hoảng Thế Kỷ 21 tác động đến cuộc sống của hàng nghìn người từ Nairobi, Kenya đến Seoul, Hàn Quốc; và từ Bắc Kinh, Trung Quốc đến Los Angeles, California, tôi cầu nguyện rằng quyển sách này sẽ hướng dẫn hàng triệu người đi đúng với nền tảng Kinh thánh.
Hank Hanegraaff
Charlotte, Bắc Carolina
Tháng 9 năm 2008.
GIỚI THIỆU
“Lời nói của chúng ta đóng vai trò quan trọng trong việc biến ước mơ thành hiện thực. Chỉ nhìn thấy bằng đức tin hay trong trí tưởng tượng thôi là chưa đủ. Bạn phải bắt đầu nói những lời đức tin trong cuộc sống của mình. Lời nói của bạn có sức mạnh sáng tạo to lớn. Ngay khi bạn nói ra điều gì đó, bạn đã tạo ra nó. Đây là một nguyên tắc tâm linh và nó có hiệu quả cho dù điều bạn nói là tốt hay xấu, tích cực hay tiêu cực.” (1) Joel Osteen đã viết như thế.
Mọi người đều muốn biết bí mật mà bạn biết, bí mật của sức khỏe; bí mật của sự giàu có; bí mật của các mối quan hệ thành công; bí mật để kiếm được một gia tài trên Phố Wall; bí mật để duy trì số cân nặng lý tưởng. Danh sách này thì vô tận. Vì vậy, khi Rhonda Byrne thông báo với thế giới rằng bà đã khám phá ra “Bí mật của cuộc sống”, một bí mật được “những người vĩ đại nhất trong lịch sử như: Plato, Shakespeare, Newton, Hugo, Beethoven, Lincoln, Emerson, Edison, Einstein” (2) khai thác, thế giới đã chú ý. Trong vòng vài tuần, tác phẩm Bí Mật đã đứng đầu danh sách các sách bán chạy nhất và trở thành một hiện tượng văn hóa (3). Oprah gọi Bí Mật là “thay đổi cuộc sống”. Theo Oprah, “Những suy nghĩ và cảm xúc mà bạn truyền ra thế giới, cả tốt lẫn xấu, chính xác là những gì luôn quay trở lại với bạn, vì vậy bạn có cuộc sống mà bạn đã tạo ra. Tôi đã nói về điều này trong nhiều năm trên chương trình của mình. Tôi chỉ không bao giờ gọi nó là Bí Mật.” (4)
Bí mật là gì? Đó là “luật hấp dẫn.” Byrne nói: “Những người thầy vĩ đại nhất từng sống đã nói với chúng ta rằng luật hấp dẫn là luật mạnh mẽ nhất trong vũ trụ.” (5) Byrne tiếp tục giải thích, “Luật hấp dẫn là luật sáng tạo. Các nhà vật lý lượng tử nói với chúng ta rằng toàn bộ vũ trụ xuất hiện từ suy nghĩ! Bạn tạo ra cuộc sống của mình thông qua suy nghĩ và luật hấp dẫn, và mọi người đều làm như vậy. Nó không chỉ hiệu quả nếu bạn biết về nó. Nó luôn hiệu quả trong cuộc sống của bạn và cuộc sống của mọi người khác trong suốt chiều dài lịch sử.” (6)
Mặc dù khoa học vật lý lượng tử rất phức tạp, nhưng nó được cho là dễ áp dụng. Byrne nói rằng, “Quy trình sáng tạo được sử dụng trong sách Bí Mật, được trích từ Tân Ước, là một hướng dẫn dễ dàng để bạn tạo ra những gì bạn muốn theo ba bước đơn giản: (7) Hỏi, Tin và Nhận. (8) Byrne lấy chính mình làm ví dụ điển hình. Để chuyển mình từ béo thành gầy, bà suy nghĩ về những cơ thể gầy và thậm chí không nhìn vào những người béo: “Nếu bạn nhìn thấy những người thừa cân, đừng quan sát họ, mà hãy ngay lập tức chuyển tâm trí sang hình ảnh của bạn trong cơ thể hoàn hảo và cảm nhận nó.” (9) Kết quả là bà ấy nói rằng, “Bây giờ tôi duy trì cân nặng lý tưởng là 116 pound và tôi có thể ăn bất cứ thứ gì tôi muốn.” (10) Theo sách Bí Mật, sai lầm là nghĩ rằng thức ăn chịu trách nhiệm cho việc tăng cân:
Suy nghĩ phổ biến nhất mà mọi người có, và tôi cũng vậy, là thức ăn chịu trách nhiệm cho việc tôi tăng cân. Đó là một niềm tin không hữu ích cho bạn, và trong tâm trí tôi bây giờ, nó hoàn toàn là một điều nhảm nhí! Thức ăn không chịu trách nhiệm cho việc tăng cân. Chính suy nghĩ của bạn rằng thức ăn chịu trách nhiệm cho việc tăng cân mới thực sự khiến thức ăn làm cho bạn tăng cân. Hãy nhớ rằng, suy nghĩ là nguyên nhân chính của mọi thứ, và mọi thứ còn lại đều là kết quả từ những suy nghĩ đó. Hãy nghĩ đến những vóc dáng hoàn hảo và kết quả phải là bạn có một trọng lượng hoàn hảo.” (11)
Mặc dù thoạt nhìn, lời lẽ của Byrne có vẻ ngớ ngẩn, nhưng có một mối nguy hiểm rõ ràng và hiện hữu trong lý luận của bà. Cũng giống như những người theo bà phải tránh những người béo vì sợ bị béo, họ cũng phải tránh những nạn nhân ung thư vì sợ mắc bệnh ung thư, hoặc những người nghèo vì sợ trở nên nghèo đói. Nói cách khác, bạn nên tránh chính những người mà Chúa Jesus khuyên chúng ta quan tâm đến, thậm chí đừng nhìn vào họ!
Byrne và những người đồng tình với bà rất cởi mở khi đề cập đến nhiều sắc thái nguy hiểm của “bí mật” đen tối. Vì vậy, bà chỉ ra những sự kiện trong lịch sử “khi hàng trăm sinh mạng đã mất đi”. Trong khi một số người có thể thấy khó hiểu khi nhiều người bị kéo tới trong cùng một vụ thảm sát, thì Byrne lại không thấy vậy. “Nếu mọi người tin rằng họ ở sai nơi vào một thời điểm sai, và họ không thể kiểm soát được hoàn cảnh bên ngoài, thì những suy nghĩ sợ hãi, và bất lực đó, nếu dai dẳng, có thể thu hút họ đến sai nơi, vào một thời điểm không thích hợp.” Byrne nói: “Không có gì có thể đến với trải nghiệm của bạn trừ khi bạn luôn suy nghĩ về nó.” (12)
Thật vậy, như các tác giả đóng góp vào sách Bí Mật đã nói rõ, nạn nhân của đau khổ và bi kịch đã thu hút những hoàn cảnh đau thương vào cuộc sống của họ. Khi được Larry King hỏi liệu Jessica Lunsford, một bé gái chín tuổi ở Florida bị cưỡng hiếp và giết hại dã man, có bị ám ảnh nỗi kinh hoàng này vào bản thân mình không, tác giả Joe Vitale đã trả lời, “Chúng ta đang hấp thu mọi thứ vào bản thân mình và không có ngoại lệ.” (13)
Tóm lại, suy nghĩ là nguyên nhân chính của mọi thứ – dù tốt hay xấu. Một mặt, những suy nghĩ về một thân hình mảnh khảnh tạo ra một cơ thể mảnh khảnh; mặt khác, sáu triệu người Do Thái đã tự mang lấy nỗi kinh hoàng của cuộc diệt chủng Holocaust, vì họ đã có suy nghĩ bị ám ảnh như thế. Sách Bí Mật đã nêu rõ, “Luật hấp dẫn không bao giờ sai lệch… Không có ngoại lệ nào đối với luật hấp dẫn. Nếu có điều gì đó đến với bạn, bạn đã vẽ nó, với suy nghĩ kéo dài.” (14) Byrne nói, “Bạn là chủ nhân của vũ trụ, và Thần đèn ở đó để phục vụ bạn.” (15)
Đối với Rhonda Byrne, Thần đèn là luật hấp dẫn. Còn đối với Joel Osteen, một hiện tượng kỳ thú khác, đó là Lời của Đức tin. Vì vậy, ông cam kết với quan niệm rằng đức tin là một sức mạnh, rằng lời nói là vật chứa sức mạnh, và thông qua sức mạnh của đức tin, mọi người có thể tạo ra thực tế của riêng họ. Như ông giải thích trong cuốn sách bán chạy nhất của mình Cuộc Sống Tốt Nhất Của Bạn Ngay Bây Giờ: “Bạn phải bắt đầu nói những lời của đức tin trong cuộc sống của mình. Lời nói của bạn có sức mạnh sáng tạo to lớn. Ngay khi bạn nói ra điều gì đó, bạn đã sinh ra nó. Đây là một nguyên tắc thuộc linh, và nó có hiệu quả cho dù những gì bạn nói là tốt hay xấu, tích cực hay tiêu cực.” (16)
Theo Osteen – người ảnh hưởng đến cuộc sống của hàng chục triệu người ở hơn một trăm quốc gia trên toàn thế giới, qua các chương trình phát sóng truyền hình hàng tuần, những cuốn sách bán chạy nhất của ông trên New York Times, các chuyến lưu diễn quốc tế cháy vé và các chương trình podcast nằm trong top 10 hàng tuần của ông (17) “Chỉ suy nghĩ tích cực thôi là chưa đủ: Bạn cần phải nói tích cực về bản thân mình. Bạn cần phải nói và nghe đi nghe lại nhiều lần.” (18)
Mặc dù Osteen và Byrne có những khác biệt đáng chú ý, nhưng họ đều thống nhất trong niềm tin rằng sức mạnh của đức tin mạnh mẽ đến mức ngay cả Chúa (bất kể bạn định nghĩa Ngài như thế nào) cũng bị ràng buộc bởi thực tế không thể thay đổi của nó. Để làm bằng chứng, Osteen trích dẫn sự ra đời của John the Baptist. Zechariah nghi ngờ rằng vợ mình không thể sinh con trai, do đó Chúa đã khiến ông không nói được trong suốt thời gian Elizabeth mang thai. “Tại sao Chúa lại lấy đi lời nói của ông?” Osteen hỏi. “Đó là vì Chúa biết rằng những lời tiêu cực của Zechariah sẽ hủy bỏ kế hoạch của Ngài… Bạn thấy đấy, Chúa biết sức mạnh của lời nói của chúng ta. Ngài biết chúng ta tiên tri về tương lai của mình. Và Ngài biết rằng chính những lời tiêu cực của Zechariah sẽ ngăn cản kế hoạch của Ngài.” (19).
Osteen tin chắc rằng lời nói tạo nên hiện thực đến mức ông biến một người bại liệt kém may mắn từ một người can đảm thành một kẻ hèn nhát. Osteen viết trong ngữ cảnh này: Chúa Jesus gặp một người đàn ông bên hồ Bethesda chỉ nằm ở đó và cảm thấy thương hại cho chính mình. Để đáp lại câu hỏi đơn giản, thẳng thắn của Chúa Jesus, người bại liệt bắt đầu nói những lời bào chữa: “Tôi hoàn toàn đơn độc. Tôi không có ai giúp đỡ. Những người khác đã làm tôi thất vọng. Những người khác dường như luôn vượt lên trước tôi. Tôi không có cơ hội nào trong cuộc sống.” Không một chút thương xót, Osteen bình luận: “Có gì lạ khi anh ta vẫn ở trong tình trạng đó trong ba mươi tám năm?” (20) Để nói điều ngược lại, Osteen cho biết chị gái Lisa của ông đã trỗi dậy từ đống tro tàn của một cuộc ly hôn đau đớn và rồi tái hôn. Không giống như người đàn ông bại liệt kia, chị ấy “sẽ không ngồi bên hồ trong ba mươi tám năm để cảm thấy thương hại cho bản thân mình.” (21)
“Dù tích cực hay tiêu cực”, Osteen nhắc lại, “sức mạnh sáng tạo nằm ở lời nói của bạn.” (22) Để đưa ra quan điểm của mình, Osteen trích dẫn câu chuyện về Abraham và Sarah. Ngay khi Chúa nói với Sarah rằng bà sẽ có một đứa con, Sarah – người “tự coi mình là một người phụ nữ lớn tuổi, hiếm muộn” – bắt đầu đưa ra những lời thú nhận tiêu cực. Thật vậy, Osteen nói, “Chúa phải thay đổi hình ảnh mà Abraham và Sarah có về bản thân trước khi họ có thể có đứa con đó. Chúa đã làm điều đó như thế nào? Ngài đã thay đổi tên của họ; Ngài đã thay đổi những từ mà họ nghe thấy. Ngài đã đổi Sarai thành Sarah, có nghĩa là ‘công chúa’… [Vì vậy] mỗi khi ai đó nói, ‘Xin chào, Sarah’, họ đang nói, ‘Xin chào, công chúa’. Theo thời gian, điều đó đã thay đổi hình ảnh bản thân của bà. Bây giờ, bà không còn coi mình là một người phụ nữ lớn tuổi, hiếm muộn nữa; bà bắt đầu coi mình là một công chúa”. Kết quả là, Osteen viết, “bà ấy đã sinh ra một đứa con.” (23)
Đối với Osteen, lời nói thực sự có sức mạnh kỳ diệu. “Trong thế giới vật chất, bạn phải nhìn thấy mới tin được, nhưng Chúa nói rằng bạn phải tin, và sau đó bạn sẽ thấy”. (24) “Hãy nghĩ về điều đó”, Osteen khuyên nhủ. “Lời nói của bạn thốt ra từ miệng bạn và chúng sẽ quay trở lại vào tai bạn. Nếu bạn nghe những bình luận đó đủ lâu, chúng sẽ rơi vào tâm hồn bạn, và những lời nói đó sẽ tạo ra chính xác những gì bạn đang nói.” (25) Để chứng minh, Osteen viện dẫn Kinh thánh: “Kinh thánh cho chúng ta biết rằng chúng ta phải gọi những điều không có như thể chúng đã có rồi.” (26)
Osteen không chỉ vội vàng lý luận rằng mục đích của Chúa khi thay đổi Sarai thành Sarah là để ảnh hưởng đến hình ảnh bản thân của cô ấy và thay đổi những lời thú nhận tiêu cực của cô ấy, mà ông còn áp dụng một cách thiếu đạo đức vào tình huống hiện tại. Ông kể câu chuyện về một người bạn tên là Joe, người vợ anh ấy đã bị sảy thai năm lần trước khi “có điều gì đó lóe lên trong anh ấy”. Anh nhận ra rằng tên của mình là Joseph, có nghĩa là “Chúa sẽ thêm vào”. Sau đó, Joe yêu cầu mọi người gọi anh là Joseph, tin rằng khi làm như vậy “họ đang truyền đức tin vào cuộc sống của anh” và kết quả là Chúa sẽ thêm vào cho anh một người con trai. Osteen viết: “Vài tháng sau khi Joseph bắt đầu tin vào tên mình, vợ anh lại mang thai. Và lần đầu tiên sau mười năm, cô đã mang thai đủ tháng và sinh ra một bé trai khỏe mạnh.” Bài học rút ra từ câu chuyện, Osteen kết luận, là “bằng lời nói của mình, chúng ta có thể tiên đoán tương lai của chính mình.”
Thật khó để bỏ qua hàm ý này. Nếu Joe nghe “Chúa nói với anh ấy” sớm hơn mười năm, mạng sống của năm đứa trẻ đã được cứu, và anh ấy cùng vợ đã được cứu khỏi một thế giới đau khổ. Không chỉ vậy, với hàng triệu cuốn sách của Osteen được xuất bản, người ta chỉ có thể tưởng tượng ra số lượng người hiện vẫn đang lo lắng một cách mê tín về những hàm ý trong tên gọi của họ.
Phương pháp của Osteen rất giống với phương pháp của Byrne. Trên bục giảng và trong sách báo, ông truyền đạt một chuỗi vô tận những giai thoại và truyền thuyết không có chứng cứ. Đôi khi những câu chuyện có vẻ ngớ ngẩn một cách kỳ lạ. Trong nỗ lực củng cố niềm tin của mình vào lời nguyền của thế hệ, Osteen ghi chép lại một nghiên cứu thú vị của quân đội Hoa Kỳ được thực hiện vào năm 1993. Họ tìm hiểu về những đặc điểm được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Osteen kể lại câu chuyện sau:
Các nhà nghiên cứu đã trích xuất một số tế bào bạch cầu từ một tình nguyện viên và họ cẩn thận đặt chúng vào một ống nghiệm. Sau đó, họ đặt một đầu dò từ máy phát hiện nói dối xuống ống nghiệm đó để đo phản ứng cảm xúc của người đó. Tiếp theo, họ hướng dẫn chính tình nguyện viên này đi xuống một vài cánh cửa và xem một số cảnh bạo lực từ một bộ phim chiến tranh cũ trên truyền hình. Khi người đàn ông này xem các cảnh đó, mặc dù máu đang được thử nghiệm ở một căn phòng khác, khi anh ta trở nên căng thẳng và lo lắng, thì bài kiểm tra máy phát hiện nói dối đó đã phát hiện ra phản ứng cảm xúc của anh ta mặc dù máu không còn trong cơ thể anh ta nữa. (29)
Osteen nói thêm rằng đây không phải là một thí nghiệm biệt lập. Các nhà thí nghiệm của Hoa Kỳ đã thực hiện điều này với từng người một và có cùng kết quả. Họ kết luận rằng các tế bào máu dường như nhớ nơi chúng đến từ đâu. (30) Mặc dù câu chuyện này rõ ràng là kỳ lạ ở nhiều cấp độ khác nhau, Osteen sử dụng nó để thuyết phục độc giả của mình rằng những vấn đề họ gặp phải trong hiện tại có thể được giải quyết từ cha mẹ và ông bà của họ trong quá khứ.
Trong khi Byrne chủ yếu lạm dụng khoa học để chứng minh các câu chuyện của mình, thì Osteen lại lạm dụng Kinh thánh. Trong khi những diễn giải sai lầm của ông có thể được hợp lý hóa dựa trên thần học hạn chế. Ông liên tục thay đổi ngữ cảnh để phù hợp với khuynh hướng của Lời Nói Đức tin. Như đã lưu ý, để củng cố niềm tin rằng lời tạo ra thực tế, Osteen viết. “Kinh thánh cho chúng ta biết rằng chúng ta phải gọi những điều không có như thể chúng đã có rồi. Osteen phải biết điều này: Kinh thánh không có ý nói như vậy. Thật vậy, chính đoạn văn mà Osteen tham khảo trong Rô-ma 4:17, “Ta đã lập ngươi làm cha nhiều dân-tộc, thật người là cha chúng ta trước mặt Đức Chúa Trời, tức là Đấng người đã tin, là Đấng ban sự sống cho kẻ chết, gọi những sự không có như có rồi.” Câu Kinh thánh này truyền đạt rõ ràng rằng “Đức Chúa Trời ban sự sống cho kẻ chết và Ngài gọi những điều không có như chúng đã có” chứ không phải chúng ta “gọi những điều không có như thể chúng đã có rồi.” (Đọc bản Tiếng Anh: as it is written, “I have made you a father of many nations”) in the presence of Him whom he believed—God, who gives life to the dead and calls those things which do not exist as though they did; NKJV). Đây là lời hứa của Chúa dành cho Abraham.
Những câu chuyện và sự lạm dụng Kinh thánh của Osteen không phải là duy nhất. Các giáo viên nổi tiếng của Lời Đức tin đã sử dụng các kỹ thuật tương tự và kết quả là đang đẩy Cơ đốc giáo vào một cuộc khủng hoảng ngày càng sâu sắc. Vào cuối thế kỷ XX, các giáo viên của Lời Đức tin như Kenneth Hagin, Robert Tilton, Marilyn Hickey, John Avanzini và Morris Cerullo đã đi tiên phong. Vào đầu thế kỷ 21, họ bị lu mờ bởi một thế hệ mới của những nhà thuyết giáo về Tin lành thịnh vượng như Creflo Dollar, Rod Parsley, Joyce Meyer, John Hagee, T. D. Jakes và Paula White ngày càng trở nên được ưa chuộng. Paula White được Donald Trump ca ngợi là “một người phụ nữ tuyệt vời” với “một thông điệp có ý nghĩa (31) và T. D. Jakes được Báo Time ca ngợi là “Billy Graham tiếp theo.”(32)
Nếu các nguồn huyền bí như những nguồn được trích dẫn trong quyển sách Bí Mật gây ra mối đe dọa lớn nhất đối với thân thể của Chúa Jesus từ bên ngoài, thì các học thuyết chết người do những nhà thuyết giáo về Tin lành thịnh vượng và Lời đức tin lại gây ra mối đe dọa lớn nhất đối với Cơ đốc giáo từ bên trong. Để ngăn chặn cuộc khủng hoảng này, cần phải có một sự thay đổi mô hình ở quy mô lớn – một sự thay đổi từ việc coi Chúa là phương tiện để đạt được mục đích, chuyển sang sự công nhận rằng Ngài là mục đích.
Và mặc dù sự thay đổi phải đến, nhưng rõ ràng là nó sẽ không đến dễ dàng. Những người đang phân phối chất độc cyanide tâm linh bằng liều lượng lớn chiếm giữ các nền tảng mạnh mẽ trong truyền thông của Cơ đốc giáo. Họ kiểm soát các nguồn tài nguyên khổng lồ và có nguy cơ mất hàng triệu đô la nếu bị phát hiện. Có nhiều rủi ro đến nỗi những người đang đẩy Cơ đốc giáo vào khủng hoảng sẵn sàng làm và nói hầu như bất cứ điều gì để bịt miệng những tiếng nói phản đối.
Paul Crouch, người sáng lập Trinity Broadcasting Network (TBN), đã đi xa hơn khi cho rằng nếu Chúa không giết “những kẻ săn tà giáo”, thì ông sẽ giết. (33) Benny Hinn còn đi xa hơn nữa. Trong chương trình Tôn vinh Chúa của TBN, ông nói, “Các người đã tấn công tôi. Con cái các người sẽ phải trả giá.” (34) Trong một lần khác, Benny Hinn hét lên, “Nếu các người quan tâm đến con cái mình, hãy ngừng tấn công Benny Hinn; các người đang tấn công tôi trên đài phát thanh mọi lúc. Các người sẽ phải trả giá, và con cái các người cũng sẽ phải trả giá. Hãy nghe điều này từ miệng của người hầu việc Chúa. Các người đang ở trong sự nguy hiểm.”(35) Những mối đe dọa khác có thể được trích dẫn, bao gồm cả khi Benny Hinn gầm gừ một cách đáng lo ngại, “Tôi không hẳn là người bình thường, các người biết đấy. Tôi đến từ Israel. Đôi khi tôi ước Chúa ban cho tôi một khẩu súng máy của Chúa Thánh Linh. Tôi sẽ bắn nát đầu các người.” (36)
Ngoài ra, vì lập trường của tôi về các nguyên lý của Lời Đức tin được nêu trong cuốn sách này, tôi đã trải qua sự kiểm duyệt khó khăn trên đài phát thanh và truyền hình Cơ đốc giáo. Hơn nữa, các nhà thờ từng chào đón tôi nồng nhiệt giờ lại đóng cửa với tôi. Mặc dù điều này vô cùng nản lòng, nhưng điều thậm chí còn nản lòng hơn là các nhà lãnh đạo Cơ đốc giáo đáng tin cậy, một số người trong số họ có thể được coi là chính khách Cơ đốc giáo, lại im lặng một cách đáng xấu hổ khi nói đến việc xác định những con sói trong cộng đồng Cơ đốc đang đội lốt cừu.
Mặc dù họ không ngần ngại chỉ trích phương tiện truyền thông thế tục và ngành công nghiệp giải trí Hollywood, nhưng khi nói đến việc vạch trần các sự dối trá trên truyền hình và phát thanh Cơ đốc giáo, họ lại sợ mất đi nền tảng của mình và hàng triệu đô la mà các diễn đàn này cung cấp. Để đổi lấy chương trình miễn phí hoặc quảng cáo trên các mạng lưới như TBN, một số nhà lãnh đạo Cơ đốc giáo này đã đi xa hơn khi cung cấp sự chứng thực cho phong trào Lời đức tin mà không có sự phê phán. Họ gây ra nhầm lẫn, thỏa hiệp và mâu thuẫn với giáo lý nền tảng của Cơ đốc giáo.
Bất chấp hậu quả, tôi hoàn toàn tin rằng Cơ đốc giáo Trong Khủng Hoảng Thế Kỷ 21 là một cuốn sách cần được viết, một cuốn sách mà tôi cầu nguyện sẽ không chỉ vạch trần căn bệnh ung thư đang tàn phá cơ thể của Chúa Jesus từ bên trong mà còn tạo ra những thay đổi lâu dài giữa những người dám nói lên cái tên thiêng liêng Cơ đốc giáo trên môi họ.
Căn bệnh ung thư này hiện đã đạt đến giai đoạn dịch bệnh và đang lây lan với tốc độ thực sự xứng đáng với cụm từ “Cơ đốc giáo trong cơn khủng hoảng”. Nó đã làm biến dạng bộ mặt của Cơ đốc giáo đến mức những người ngoại đạo nhìn từ bên ngoài mỉm cười với thái độ hoài nghi, hoặc với người sáng lập CNN là Ted Turner đã vẽ biếm họa những người theo đạo Cơ đốc là “những kẻ ngốc” (37)
Tại sao lại như thế?
Vì những “nhà tiên tri” tự phong này bắt đầu bằng một khái niệm méo mó về Đấng sáng tạo, nên cuối cùng họ đưa ra những học thuyết lệch lạc làm cho tâm trí của nhiều người bối rối. Những điều được gọi là mặc khải của họ hạ thấp Chúa xuống vị thế của một “người làm việc vặt trong vũ trụ”, đồng thời tôn vinh con người lên vị trí làm chủ “điều khiển vũ trụ”.
Ngụy trang thành những người chăn chiên, họ trình bày một Đấng Christ khác biệt với Chúa Jesus trong Kinh thánh. Chúa Jesus của họ mặc quần áo sang trọng, sống trong một dinh thự nguy nga và được bao quanh bởi một nhóm các môn đồ rất giàu có. Cùng hòa điệu với Ý Tưởng Mới, Tiến sĩ Catherine Ponder, tác giả của Những Định Luật Năng Động Của Sự Thịnh Vượng, họ ca ngợi “những triệu phú trong Kinh thánh”. Như Rhonda Byrne của Bí Mật đã nói thêm, “Nếu bạn được nuôi dạy để tin rằng giàu có không phải là thuộc linh, thì tôi thực sự khuyên bạn nên đọc sách Những Triệu Phú Trong Kinh Thánh của Catherine Ponder. Trong cuốn sách tuyệt vời này, bạn sẽ khám phá ra rằng Abraham, Isaac, Jacob, Joseph, Moses và Chúa Jesus không chỉ là những người dạy về sự thịnh vượng mà còn là những triệu phú, với lối sống giàu có hơn nhiều triệu phú ngày nay mà bạn có thể hình dung.” (38)
Những gì bạn sẽ khám phá ra khi tiếp tục đọc thật kinh hoàng đến mức khuynh hướng tự nhiên của bạn có thể là không tin hoặc phủ nhận. Nhưng tôi đảm bảo với bạn rằng những gì tôi đang truyền đạt là chính xác một cách tỉ mỉ và được nghiên cứu cẩn thận. Tổ chức mà tôi thành lập đã xây dựng được danh tiếng vững chắc trong việc xử lý các vấn đề đến Cơ đốc giáo với mức độ chính xác và toàn vẹn cao. Ngay cả những người không chia sẻ thế giới quan của Viện Nghiên Cứu Cơ đốc giáo (CRI) cũng nhìn thấy cam kết của chúng tôi đối với việc nghiên cứu cẩn thận, không cường điệu hoặc gây sốc.
Vì giáo viên dạy về Đức tin Cơ đốc là một phần của một phong trào chứ không phải là một tổ chức thống nhất, nên không phải mọi giáo viên đều tuân theo mọi học thuyết được xem xét trong cuốn sách này. Tuy nhiên, đề cập đến các giáo lý sai lầm mà tôi phân tích thực sự đại diện cho toàn bộ phong trào Lời Đức tin. Nói cách khác, không phải tất cả các giáo viên đều tuân theo cùng một niềm tin về mọi điểm của học thuyết, nhưng họ tuân theo một cốt lõi học thuyết sai lệch, điều này đặt họ vào đúng các phác thảo chung của phong trào Lời Đức tin.
Tôi đã nghĩ đến ba loại độc giả khi tôi ngồi xuống để viết cuốn sách này.
Đầu tiên, tôi xin gửi lời chia buồn đến những người đã bị lừa dối khi tham gia phong trào Lời Đức tin. Những người đáng kính này chân thành trong mong muốn phục vụ Chúa, nhưng họ đã bị dẫn dắt vào một con đường đến vương quốc của các giáo phái. Tôi vô cùng mong muốn những người quý giá này nhìn thấy sự thật của phúc âm và đổi đức tin giả mạo lấy đức tin thật. Lẽ thật từ Kinh thánh luôn khuyến khích, nuôi dưỡng và củng cố những người nam và nữ trong suốt hai nghìn năm lịch sử của Cơ đốc giáo chính thống.
Hơn nữa, tôi viết thư cho những Cơ đốc nhân trung tín có thể lo lắng hoặc bối rối về phong trào Lời Đức tin. Tôi cầu nguyện rằng cuốn sách này sẽ giải quyết mọi câu hỏi mà bạn có thể có về bản chất thực sự của phong trào Lời đức tin và vị trí của nó trên lăng kính Cơ đốc giáo. Câu trả lời là: Phong trào này lệch lạc như giáo lý của người Mặc Môn, Nhân chứng Giê-hô-va và Khoa học Cơ đốc. Và như vậy, nó không xứng đáng được Cơ đốc giáo ủng hộ.
Cuối cùng, tôi muốn chứng minh rõ ràng với những người quan sát bên ngoài rằng phong trào Lời Đức tin không đại diện cho Cơ đốc giáo theo Kinh thánh. Trong vài tháng qua, nhiều giáo viên dạy về đức tin Cơ đốc đã bị phơi bày trên phương tiện truyền thông quốc gia vì những niềm tin và thực hành đáng ngờ, và tôi muốn truyền đạt một cách thuyết phục rằng phong trào Lời Đức tin không đại diện cho đức tin Cơ đốc giáo. Có lẽ gánh nặng mà tôi cảm thấy khi viết Cơ đốc giáo Trong Khủng Hoảng Thế Kỷ 21 được mô tả rõ nhất qua những lời cảnh báo được tiên tri Jeremiah và các sứ đồ Peter và Paul đưa ra. Hãy xem xét những lời của họ khi chúng luôn vang vọng qua các thời đại.
“Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Chớ nghe những lời của các tiên tri nói tiên tri với các ngươi. Chúng nó dạy cho các ngươi sự hư không, và nói sự hiện thấy bởi lòng mình chẳng phải bởi miệng Đức Giê-hô-va…Ta chẳng sai những tiên tri nầy, mà chúng nó đã chạy; ta chẳng phán với, mà đã nói tiên tri. .. Những tiên tri ấy, theo sự dối trá của lòng mình mà nói tiên tri, chúng nó có lòng ấy cho đến chừng nào?” (Giê-rê-mi 23:16, 21, 26)
“Dầu vậy, trong dân chúng cũng đã có tiên tri giả, và cũng sẽ có giáo sư giả trong anh em; họ sẽ truyền những đạo dối làm hại, chối Chúa đã chuộc mình, tự mình chuốc lấy sự hủy phá thình lình. Có nhiều kẻ sẽ theo họ trong những sự buông tuồng, và đạo thật vì cớ họ sẽ bị gièm pha. Họ sẽ bởi lòng tham mình, lấy lời dối trá khoét anh em; nhưng sự kêu án nghịch cùng họ đã nghị định từ lâu nay, và sự hư mất của họ chẳng ngủ.” (2 Phi-e-rơ 2:1-3)
“Giữa anh em cũng sẽ có những người nói lời hung-ác dấy lên, ráng sức dỗ môn-đồ theo họ. Vậy, hãy tỉnh-thức, nhớ lại rằng trong ba năm hằng đêm và ngày, tôi hằng chảy nước mắt ra mà khuyên-bảo cho mọi người luôn.” (Công vụ 20:30-31)
Nguyện Chúa vui lòng sử dụng những trang tiếp theo sau đây để vạch trần sự nhồi nhét dối trá của Lời Đức Tin và đưa ra giải pháp cho Cơ đốc giáo trong Khủng hoảng của thế kỷ 21.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
LỜI NÓI ĐẦU
1. Acts 20:30-31.
2. John W. Allman, “Revival Prays to Raise an Infant from the Dead,” The Pensacola News Journal, September 20, 1998.
GIỚI THIỆU
1. Joel Osteen, Your Best Life Now: 7 Steps to Living at Your Full Potential (New York: Warner Faith, 2004), 129.
2. Rhonda Byrne, The Secret (New York: Atria Books/Beyond Words, 2006), ix.
3. Byrne’s The Secret is the official companion book to the movie The Secret, Extended Edition (TS Production LLC, 2006), DVD. As of this writing, The Secret has been on the New York Times hardcover advice bestseller list for fifty-eight weeks and is currently number one (http://www.nytimes.com/pages/books/bestseller/index.html, accessed February 25, 2008).
4. Oprah Winfrey, “One Week Later: The Huge Reaction to The Secret,” The Oprah Winfrey Show, February 16, 2007, emphasis added.
5. Byrne, The Secret, 4.
8. Ibid., 47ff. Although Byrne claims that “The creative process used in The Secret” is taken from the New Testament, she does not actually quote a single biblical passage. Perhaps she was thinking, though completely out of context, of Jesus’ Sermon on the Mount, in which he taught, “Ask, and it will be given to you; seek, and you will find; knock, and it will be opened to you. For everyone who asks receives; and the one who seeks finds; and to the one who knocks, the door will be opened” (Matthew 7:7-8).
9. Ibid., 61, emphasis in original.
11. Ibid., 59, emphasis in original.
12. Ibid., 28, emphasis added.
13. Joe Vitale in an interview with Larry King, Larry King Live, CNN, March 8, 2007, emphasis added.
14. Byrne, The Secret, 36.
16. Joel Osteen, Your Best Life Now, 129.
17. Joel Osteen, Become a Better You: 7 Keys to Improving Your Life Every Day (New York: Free Press, 2007), inside back cover.
19. Joel Osteen, Discover the Champion in You, Trinity Broadcasting Network, May 3, 2004.
20. Osteen, Your Best Life Now, 148-49.
22. Osteen, Becoming a Better You, 111.
23. Ibid., 113, emphasis added. In fact, while Sarai and Sarah are two forms of the same name meaning “princess,” the change draws attention to the meaning of the name, which becomes especially evident in the play on words in the Hebrew root (see John H. Sailhamer, Genesis, in Frank E. Gaebelein, general editor, The Expositor’s Bible Commentary, Vol. 2 [Grand Rapids: Zondervan, 1990], 139, 141).
26. Ibid., 112, emphasis added. Osteen takes Romans 4:17b out of context; the verse actually reads, “He [Abraham] was our father before God, in that he believed in God who gives life to the dead and calls things that do not exist as though they existed.”
27.Ibid., 114
28. Ibid., 114
29. Ibid., 60
30. Ibid., 61.
31. Larry King Live, CNN, November 26, 2007.
32. Time magazine cover, September 17, 2001.
33. Crouch’s fiery words “The devil takes you! Get out of my life, Get out of my way. Stop blocking God’s bridge. I’m done with this. Oh, hallelujah!… Get out of God’s way. Stop blocking God’s bridge, or God will shoot you if I don’t!… Don’t call me if you want to debate doctrine, if you want to correct someone here, if you want to criticize Ken Copeland for his sermon on faith, or Dad Hagin. Get out of my life! I don’t want to talk to you or hear you say anything! I don’t want to see your ugly face! Get out of my face, in the name of Jesus.” aired in Praise-a-Thon, Trinity Broadcasting Network, April 2, 1991.
34. Benny Hinn, Praise the Lord, Trinity Broadcasting Network, October 23, 1992.
35. Benny Hinn, Presentation at the World Charismatic Conference, Melodyland Christian Center, Anaheim, CA, August 7, 1992.
36. Benny Hinn, Praise the Lord: Praise-a-Thon, Trinity Broadcasting Network, November 8, 1990,
37. See Shauna Snow, “Turner’s Pro-Choice Film Creates a Stir,” Los Angeles Times, July 15, 1989, Calendar, section 5; page 1; column 4, Entertainment Desk.
38. Byrne, The Secret, 109.
Tác giả: HANK HANEGRAAFF
Hank Hanegraaff, sinh năm 1950, còn được gọi là “Người trả lời các câu hỏi theo Kinh thánh”, là một tác giả Cơ đốc người Mỹ và người dẫn chương trình trên Radio. Trước đây ông là một nhà truyền giảng Phúc âm. Ông cũng là một nhà biện giáo thẳng thắn của Cơ đốc giáo, nơi ông đã tạo dựng được danh tiếng từ những lời phê bình của mình đối với các tôn giáo không phải Cơ đốc giáo, các phong trào tôn giáo mới sai lạc và các tà giáo trong Cơ đốc giáo. Ông cũng là một người biện hộ cho các vấn đề về giáo lý và văn hóa đương đại.
Tham khảo thêm từ gotquestions.org
Is the Word of Faith movement biblical?
Phong trào Lời Đức Tin có theo đúng Kinh thánh không?
Sự giảng dạy về Lời của Đức tin là hoàn toàn không có trong Kinh thánh. Nó không phải làm một giáo phái và không có một tổ chức chính thức hoặc hệ thống phân cấp. Thay vào đó, nó là một phong trào bị ảnh hưởng nặng nề bởi một số mục sư và giáo viên nổi tiếng như Kenneth Hagin, Benny Hinn, Kenneth Copeland, Paul và Jan Crouch, và Fred Price.
Phong trào Lời của Đức tin phát triển từ phong trào Ngũ Tuần vào cuối thế kỷ 20. Người sáng lập của nó là E. W. Kenyon, người đã nghiên cứu về những lời giảng dạy Tư duy mới siêu hình của Phineas Quimby. Khoa học trí tuệ (nơi “đặt tên nó và tuyên bố nó” bắt nguồn) đã kết hợp với thuyết Ngũ Tuần, kết quả là một sự pha trộn kỳ lạ của Cơ Đốc giáo chính thống với thuyết thần bí. Kenneth Hagin lần lượt nghiên cứu dưới sự chỉ đạo của E. W. Kenyon và đã tạo ra phong trào Lời của Đức tin như hiện nay. Mặc dù những lời giảng dạy cá nhân có phạm vi từ dị giáo hoàn toàn đến lố bịch hoàn toàn, nhưng những điều sau đây là thần học cơ bản mà hầu hết các giáo viên của Lời của Đức tin tin tưởng vào.
Trọng tâm của phong trào Lời của Đức tin là niềm tin vào “sức mạnh của đức tin”. Người ta tin rằng lời có thể được sử dụng để điều khiển sức mạnh đức tin, và do đó thực sự tạo ra điều mà người nói tin rằng Kinh Thánh hứa (sức khoẻ và sự giàu có). Các luật được cho là đang điều khiển sức mạnh đức tin được đồn rằng độc lập với ý muốn tối cao của Đức Chúa Trời và chính Đức Chúa Trời phải tuân theo các luật này. Điều này chắc chắn là một sự thờ thần tượng, biến đức tin của chúng ta – và rộng hơn là chính chúng ta – trở thành chúa.
Từ đây, thần học của nó ngày càng lạc xa khỏi Kinh thánh: nó tuyên bố rằng Đức Chúa Trời đã tạo dựng nên con người theo hình ảnh chân thực, tự nhiên của Ngài như những vị thần nhỏ. Trước khi sa ngã, con người có khả năng tạo ra vạn vật bằng cách sử dụng sức mạnh đức tin. Sau khi sa ngã, con người đã nhận lấy bản chất của Sa-tan và đánh mất khả năng tạo ra vạn vật. Để khắc phục tình trạng này, Chúa Giê-su Christ đã từ bỏ thần tánh của Ngài và trở thành người, đã chết thuộc linh, chính mình nhận lấy bản chất của Sa-tan, đi xuống địa ngục, được tái sanh và sống lại từ cõi chết với bản chất của Đức Chúa Trời. Sau đó, Chúa Giê-su đã sai Đức Thánh Linh tái tạo Sự nhập thể vào trong tín hữu để họ có thể trở thành các vị thần nhỏ như Đức Chúa Trời đã dự định ban đầu.
Theo tiến trình tự nhiên của những lời dạy này, như các vị thần nhỏ chúng ta lại có khả năng điều khiển sức mạnh đức tin và trở nên thịnh vượng trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Bệnh tật, tội lỗi và thất bại là kết quả của việc thiếu đức tin, và được giải quyết bằng cách xưng tội — tuyên bố lời hứa của Chúa cho chính mình có tồn tại. Nói một cách đơn giản, phong trào Lời của Đức tin đề cao con người đến địa vị của thần và hạ Đức Chúa Trời xuống địa vị của con người. Không cần phải nói, đây là một sự mô tả sai hoàn toàn về Cơ Đốc giáo. Rõ ràng, sự giảng dạy Lời của Đức tin không tính đến những gì được tìm thấy trong Kinh Thánh. Sự mặc khải cá nhân, không phải Kinh Thánh, rất được tin cậy để đưa ra những niềm tin vô lý như vậy, là điều cho thấy thêm một bằng chứng nữa về bản chất dị giáo của nó.
Chống lại sự giảng dạy Lời của Đức tin là một vấn đề đơn giản khi đọc Kinh Thánh. Chỉ có Đức Chúa Trời là Đấng sáng tạo tối cao của Vũ trụ (Sáng thế ký 1:1; Ê-sai 46:9-10; I Ti-mô-thê 6:15) và không cần đức tin — Ngài là đối tượng của đức tin (Mác 11:22; Hê-bơ-rơ 11:3). Đức Chúa Trời là thần và không có thân thể vật lý (Giăng 4:24). Con người được dựng nên theo hình ảnh của Đức Chúa Trời (Sáng thế ký 1:26, 27), nhưng điều này không làm cho con người trở thành một vị thần nhỏ hay thần thánh. Chỉ một mình Đức Chúa Trời có bản chất thần linh (Ê-sai 43:10-11; 44:6; 46:10; Thi thiên 8:6-8). Đấng Christ là Đấng đời đời, là Con trai duy nhất được sinh ra, và là sự nhập thể duy nhất của Đức Chúa Trời (Giăng 1:1, 2, 14, 15, 18, 3:16, I Giăng 4:1). Trong Ngài có đầy đủ thân thể Chúa ba ngôi (Cô-lô-se 2:9). Bằng cách trở thành người, Chúa Giê-su đã từ bỏ vinh hiển của thiên đàng chứ không phải là thần tánh của Ngài (Phi-líp 2:6-7), mặc dù Ngài đã chọn cách giữ quyền phép của Ngài trong khi bước đi trên trái đất như một con người (Giăng 5:19).
Phong trào Lời của Đức tin đang lừa dối vô số người, khiến cho họ nắm lấy lối sống và đức tin không thuộc Kinh Thánh. Điểm cốt lõi của nó cũng là lời nói dối mà Sa-tan đã nói từ Vườn Ê-đen: “Ngươi sẽ như Đức Chúa Trời” (Sáng thế ký 3:5). Đáng buồn thay, những người chấp nhận học thuyết Lời của Đức tin vẫn còn đang lắng nghe Sa-tan. Niềm hy vọng của chúng ta ở trong Chúa, không phải trong lời nói của chúng ta, thậm chí cả với đức tin của chúng ta (Thi thiên 33:20-22). Đức tin của chúng ta đến từ Đức Chúa Trời trước hết (Ê-phê-sô 2:8, Hê-bơ-rơ 12:2) và không phải là điều chúng ta tạo ra cho chính mình. Vì vậy, hãy thận trọng với phong trào Lời của Đức tin và bất kỳ giáo hội nào nào đồng hành với lời dạy của Lời của Đức tin.
Đọc bản Tiếng Anh tại đây:
English
Tin Lành Thịnh Vượng?
Trong Phúc âm thịnh vượng cũng được biết đến như phong trào “Lời đức tin”, những tín đồ được dạy lợi dụng Chúa, trái ngược với lẽ thật Cơ Đốc giáo, Chúa sử dụng tín đồ. Phong trào ‘Lời đức tin’ hay thần học thịnh vượng xem Đức Thánh Linh như là quyền năng phục vụ cho bất cứ điều gì theo ý muốn của tín đồ. Kinh Thánh dạy Đức Thánh Linh là một thân vị giúp cho người có đức tin làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời. Phong trào Phúc âm thịnh vượng gần giống với các giáo phái tham lam phá hoại đã xâm nhập vào Hội Thánh đầu tiên. Phao-lô và các sứ đồ khác đã không khoan nhượng hoặc chấp nhận với các giáo sư giả là những người truyền bá tà thuyết đó. Các sứ đồ nhận dạng sự nguy hiểm của những giáo sư giả đó và kêu gọi các Cơ Đốc nhân tránh xa họ.
Phao-lô đã cảnh cáo về những người như vậy trong I Ti-mô-thê 6:5; 9-11. Những người nầy có “Tâm thần sai lạc” đã nghĩ rằng sự tin kính là phương tiện của lợi lộc và lòng ham muốn giàu sang của họ là cái bẫy đem họ “vào trong sự tàn phá và hủy hoại” (c.9) Việc theo đuổi sự giàu có là con đường nguy hiểm cho nhiều Cơ Đốc nhân mà Đức Chúa Trời đã cảnh cáo: “Bởi chưng sự tham tiền bạc là cội rễ mọi điều ác, có kẻ vì đeo đuổi nó mà bội đạo, chuốc lấy nhiều điều đau đớn.” c.10. Nếu giàu có là mục tiêu hợp lý của lòng kính sợ Đức Chúa Trời, Chúa Giê-xu đã theo đuổi nó. Nhưng Ngài đã không làm, hãy xem việc chọn lựa của Chúa, Ngài không có chỗ gối đầu thay vì giàu có (Mat 8:20) và Ngài dạy dỗ các môn đồ phải làm như thế. Nên nhớ rằng chỉ có một môn đồ duy nhất là Giu Đa mới liên lụy đến sự giàu có.
Phao-lô đã nói sự tham lam là thờ hình tượng (Ê-phê-sô 5:5) và ông đã hướng dẫn Hội Thánh Ê-phê-sô tránh xa bất cứ ai mang sứ điệp vô đạo đức hoặc tham lam (Ê-phê-sô 5: 6-7). Giáo lý của phúc âm thịnh vượng từ chối việc Chúa có thể hành động theo ý muốn của Ngài cho tới khi chúng ta cho phép Ngài làm vậy, nghĩa là Chúa không phải là Chủ Tể của vạn vật. Đối với giáo lý “Lời đức tin”, Đức tin không phải là niềm tin phục tùng Đức Chúa Trời; Đức tin là một công thức giúp chúng ta chi phối các định luật thuộc linh đang điều khiển vũ trụ, theo như niềm tin của các giáo sư ‘thịnh vượng’. Tên gọi ‘Lời đức tin’ mang hàm ý đó. Phong trào này dạy rằng đức tin là về những gì chúng ta nói hơn là Đấng chúng ta trông cậy và lẽ thật chúng tiếp nhận và tín xác trong tấm lòng của mình.
Một thuật ngữ yêu thích trong phong trào ‘Lời đức tin’ là ‘tích cực xưng nhận’. niềm tin này dạy rằng bản thân lời nó có quyền năng tạo dựng. Theo lời dạy của các giáo sự ‘Lời đức tin’, thì điều mà bạn nói sẽ quyết định việc đến với bạn. Những lời xưng nhận của anh, đặc biệt là những nhu cầu mong ước anh đòi hỏi Chúa, anh phải trình bày cách mạnh dạn và không lay chuyển. Sau đó Đức Chúa Trời bắt buộc phải trả lời (giống như con người có thể đòi hỏi bất cứ điều gì của Đức Chúa Trời vậy). Theo họ, năng lực ban phước của Đức Chúa Trời phụ thuộc vào đức tin của chúng ta. Gia-cơ 4:13-16 có sự đối nghịch rất rõ về sự dạy dỗ này: “Hỡi anh em, là kẻ nói rằng: Hôm nay hoặc ngày mai, ta sẽ đi đến thành kia, ở đó một năm, buôn bán và phát tài, – song ngày mai sẽ ra thế nào, anh em chẳng biết! Vì, sự sống của anh em là chi? Chẳng qua như hơi nước, hiện ra một lát rồi lại tan ngay.” Khác xa với việc ‘nói điều này điều kia và sự việc sẽ xảy ra’, chúng ta còn không thể biết ngày mai sẽ mang lại điều gì cho chúng ta thậm chí liệu chúng ta vẫn còn sống tới ngày mai.
Thay vì phải nhấn mạnh vào tầm quan trọng của sự giàu có, lời Chúa cảnh báo việc theo đuổi nó. Những người tin Chúa, đặc biệt là những người lãnh đạo trong Hội Thánh (1 Tim 3:3) phải tránh xa khỏi lòng yêu tiền bạc (Hê 13:5), lòng yêu tiền bạc dẫn đến vô số điều ác (1 Tim 6:10). Chúa Giê-su đã cảnh tỉnh: “Hãy giữ cẩn thận, chớ hà tiện gì hết; vì sự sống của người ta không phải cốt tại của cải mình dư dật đâu” (Lu 12:15). Sự tương phản sâu sắc với ‘Lời đức tin’ nhấn mạnh vào việc tích lũy tiền bạc và tài sản trong đời nầy, Chúa Giê-su đã nói: “Các ngươi chớ chứa của cải ở dưới đất, là nơi có sâu mối, ten rét làm hư, và kẻ trộm đào ngạch khoét vách mà lấy” (Mat 6:19). Sự mâu thuẫn không thể hòa hợp được giữa giáo lý thịnh vượng và Phúc âm của Chúa Giê-su Christ chúng ta được thể hiện sắc nét nhất là trong lời nói của Chúa Giê-su Christ trong Ma-thi-ơ 6:24, “Các ngươi không thể vừa phục vụ Đức Chúa Trời lại vừa phục vụ tiền bạc.”
Đọc bản Tiếng Anh sau đây:
English
Ý nghĩa của Rô-ma 4:17

“Gọi những điều không có như thể chúng đã có” (Rô-ma 4:17) có nghĩa là gì?
Bối cảnh của Rô-ma 4 là sự cứu rỗi bởi đức tin. Phao-lô sử dụng ví dụ về tộc trưởng Áp-ra-ham để chỉ ra mối quan hệ của chúng ta với Đức Chúa Trời dựa trên đức tin chứ không phải các việc làm của Luật pháp. Rô-ma 4:17 nêu rõ, “Như có chép rằng: ‘Ta đã lập ngươi làm cha của nhiều dân tộc.’ [Áp-ra-ham] là cha chúng ta trước mặt Đức Chúa Trời, là Đấng mà ông đã tin—Đức Chúa Trời ban sự sống cho kẻ chết và gọi những điều không có vào hiện hữu.”
Sự thật rằng Đức Chúa Trời “gọi những điều không có vào hiện hữu” được diễn đạt theo nhiều cách khác nhau trong nhiều bản dịch khác nhau: Đức Chúa Trời “gọi những điều không có vào hiện hữu” (KJV), “gọi những điều không có vào hiện hữu” (ESV), “gọi những điều không có vào hiện hữu” (NASB), và “triệu hồi những điều chưa có vào hiện hữu như thể chúng đã có rồi” (NET).
Có thể hiểu phần cuối của Rô-ma 4:17 có nghĩa là Đức Chúa Trời có khả năng tạo ra mọi thứ từ hư không (trong khi con người không có khả năng này). Ý tưởng này được đưa ra trong các bản dịch nói rằng Đức Chúa Trời “tạo ra những điều mới từ hư không” (NLT) hoặc đơn giản là “tạo ra những điều mới” (CEV). “những sự không có” trong bối cảnh này sẽ là sự chết của tử cung Sarah (câu 19), và “những điều mới” mà Đức Chúa Trời tạo ra sẽ là con cháu của Abraham được đề cập trong câu 18. Đức Chúa Trời ban sự sống cho người chết và tạo ra mọi thứ từ hư không.
Các bản dịch khác nhấn mạnh đến sắc lệnh của Đức Chúa Trời—thực tế là Ngài “gọi” hoặc “triệu tập”. Khi Đức Chúa Trời phán, thì điều đó đã được thực hiện. Ngài đã đổi tên Abram thành Abraham (“cha của nhiều người”) trong khi Sarah vẫn chưa có con. Đức Chúa Trời đã phán về con cháu của Abraham khi vẫn chưa có ai. Đức Chúa Trời thực sự có khả năng phán về những điều không có và trong lời phán, làm cho chúng trở nên có thể.
Abraham đã nghe lời hứa của Đức Chúa Trời và tin vào lời hứa đó. Đức tin đó được ghi cho Áp-ra-ham là sự công chính (Sáng thế ký 15:6) và cung cấp tấm gương cho tất cả những ai sau này sẽ thực hành đức tin nơi Đức Chúa Trời (Rô-ma 4:11). Nhìn về tương lai, Đức Chúa Trời có thể nói về những điều không tồn tại như thể chúng tồn tại. Đức Chúa Trời có quyền năng trên sự chết và khả năng tạo ra sự sống. Áp-ra-ham đã tin điều này, và chúng ta cũng vậy, nếu chúng ta là hậu duệ thuộc linh của Áp-ra-ham (xem Ga-la-ti 3:29).
Một số nhóm Lời Đức Tin đã sử dụng sai Rô-ma 4:17 để dạy học thuyết “đặt tên và tuyên bố”. Theo học thuyết sai lầm này, chúng ta có thể nói Lời Chúa về tài chính, cơ thể, ô tô của mình, v.v. và thấy kết quả kỳ diệu có lợi cho mình. Tất cả những gì chúng ta cần là một “lời thú nhận” và đủ đức tin, và Đức Chúa Trời sẽ biến đổi thế giới vật chất thành một môi trường phước lành. Chúng ta có thể “nói những điều không có như thể chúng có”, ngồi lại và tận hưởng thành quả của lời nói của mình. Tất nhiên, Rô-ma 4:17 không hề nói về sức mạnh của lời nói của chúng ta; đó là về quyền năng của lời hứa của Chúa và lòng trung thành của Ngài trong việc giữ những lời hứa đó. Isaac, con trai của lời hứa, không được sinh ra vì Abraham đã “xưng tội” hoặc “tuyên bố” những lời nhất định mà vì Chúa đã hứa rằng ông sẽ được sinh ra.
–
Lưu ý là con người có thể rất sáng tạo, nhưng chúng ta không thể tạo ra một điều gì đó từ hư không. Nói một cách chính xác, chúng ta không thể sáng tạo giống như Thiên Chúa; chúng ta chỉ có thể tổng hợp. Chúng ta cần vật liệu để xây dựng một cái gì đó. Chúa không bị hạn chế như vậy. Điều này khó hiểu đối với chúng ta vì một định luật vật lý cơ bản mà tất cả chúng ta đều quen thuộc. “Định luật khoa học đầu tiên” nêu rằng vật chất (thứ tạo nên vũ trụ) không thể được tạo ra hoặc phá hủy. Vật chất có thể chuyển đổi từ rắn sang lỏng, sang khí sang plasma và ngược lại; các nguyên tử có thể được kết hợp thành phân tử và phân tách thành các thành phần của chúng; nhưng vật chất không thể được tạo ra từ hư không hoặc bị phá hủy hoàn toàn. Và vì vậy, ý tưởng rằng Chúa tạo ra mọi thứ từ hư không không phải là điều tự nhiên đối với chúng ta. Nó không tự nhiên chút nào, mà là siêu nhiên.
Thuật ngữ sáng tạo “mọi thứ từ hư không” ám chỉ sự kiện siêu nhiên là khởi đầu của vũ trụ. Đó là khoảnh khắc Chúa tạo ra một cái gì đó (mọi thứ) từ hư không.
gotquestions.org
F-L-A-W-S có nghĩa gì?
Những chữ F-L-A-W-S trong Tin lành thịnh vượng vừa nguy hiểm vừa giả tạo.
Nếu bạn khỏe mạnh và thịnh vượng, lời nói đã tạo ra thực tế của bạn. Ngược lại, nếu con bạn chết hoặc bạn mắc bệnh ung thư, bạn là nghi phạm chính. Theo một trong những nhà thuyết giáo về Tin lành thịnh vượng nổi tiếng nhất của Hoa Kỳ, “Ngay khi bạn nói ra điều gì đó, bạn đã sinh ra nó. Đây là một nguyên tắc tâm linh và nó có hiệu quả cho dù điều bạn nói là tốt hay xấu, tích cực hay tiêu cực.”
FAITH FORCE (sức mạnh đức tin) Theo những nhà thuyết giáo Tin lành thịnh vượng, đức tin là một sức mạnh, lời nói là vật chứa sức mạnh và thông qua sức mạnh của đức tin, bạn tạo ra thực tế của riêng mình. Như vậy, họ thuyết phục những người theo mình rằng những gì xảy ra trong cuộc sống của họ – dù tốt hay xấu – đều là kết quả trực tiếp của lời nói. Khái niệm này là một dạng siêu hình học huyền bí – được đóng gói khéo léo và rõ ràng là độc hại. Trong sự khác biệt rõ ràng, đức tin trong Kinh thánh là kênh của niềm tin sống động, một sự bảo đảm kéo con người đến với Thiên Chúa. Nói cách khác, đức tin chỉ tốt khi đối tượng mà đức tin được đặt vào. Đức tin vào lời nói là cả tin (xu hướng quá sẵn sàng tin rằng điều gì đó là có thật hoặc đúng). Đức tin vào Ngôi Lời đã trở nên xác thịt mới là đức tin chắc chắn.
LITTLE GOD (một vị thần nhỏ). Hầu như mọi quan niệm sai lầm về bản chất tà giáo đều bắt đầu bằng một quan niệm sai lầm về bản chất hay thuộc tánh của Chúa. Đó là trường hợp của những kẻ rao giảng Tin lành thịnh vượng, họ đúc lại hình ảnh con người theo hình ảnh của một vị thần nhỏ và làm lại Thiên Chúa theo hình ảnh của một người đàn ông to lớn. Kenneth Copeland là một ví dụ. Ông tuyên bố rằng Chúa là “một đấng rất thần diệu giống như bạn và tôi. Một đấng cao khoảng 6’2″ đến 6’3″, nặng khoảng vài trăm pound, và có sải tay dài chín 9 inch”. Ngay khi Chúa được gán cho những phẩm chất vật lý, chẳng hạn như chiều cao và cân nặng, Ngài không còn là Chúa của Kinh thánh nữa. Hãy nhớ Chúa Jesus đã nói, “Đức Chúa Trời là Thần, và những người thờ phượng Ngài phải thờ phượng trong tâm linh và lẽ thật” (Giăng 4:24).
ATONEMENT ATROCITIES (sự chuộc tội) Vì chữ A nằm ở trung tâm F-L-A-W-S của các chữ, nên sự chuộc tội cũng là trọng tâm của lời hứa cứu chuộc trong phúc âm. Thật bi thảm, những nhà thuyết giáo Tin lành thịnh vượng như Joel Osteen đã trắng trợn tái tạo tính trung tâm của sự chuộc tội của Chúa Jesus trên thập tự giá. Kinh thánh nói rõ ràng với chúng ta rằng qua cái chết của Ngài, Chúa Jesus đã hủy diệt “kẻ cầm quyền sự chết, tức là ma quỷ” (Hê-bơ-rơ 2:14), nhưng Osteen cho rằng Chúa Jesus hoàn thành công cuộc cứu chuộc trong địa ngục. Trong phiên bản Kinh thánh của Osteen, ngay cả điều đó cũng không đủ để chuộc tội lỗi của chúng ta. Sau khi phục sinh, “vẫn phải có một sự hy sinh bằng huyết cho tội lỗi của chúng ta. Vẫn phải có một cái giá phải trả.” Đó là lý do tại sao Chúa Jesus bảo Mary không được chạm vào Ngài sau khi phục sinh. “Tại sao Chúa Jesus không cho phép Mary chạm vào Ngài?” Osteen hỏi. “Tôi sẽ cho bạn biết lý do! Vừa mới sống lại từ ngôi mộ, và Ngài vẫn còn huyết thánh trên mình. Đó là huyết mà Ngài sẽ dùng làm của lễ chuộc tội lỗi của chúng ta”. Tóm lại, Chúa Jesus đã nói, “Mọi việc đã hoàn tất!” thì Joel Osteen nói, “Mọi việc chỉ mới bắt đầu!”
WEALTH AND WANT (giàu có và thiếu hụt) Sự giàu có là khẩu hiệu của phong trào Tin lành thịnh vượng. Chúa Jesus giàu có. Vì vậy, chúng ta cũng nên giàu có. Mục sư thịnh vượng John Hagee chỉ ra phúc âm của John là bằng chứng xác thực rằng Chúa Jesus sống trong “một ngôi nhà lớn” và mặc một áo choàng được thiết kế thời trang. John Hagee rất tận tâm trong việc giới thiệu một Chúa Jesus đeo đồng hồ Rolex đến nỗi ông sẵn sàng làm bất cứ điều gì để truyền tải huyền thoại này cho các giáo dân “Tin mừng cho người nghèo là gì?” Hagee hỏi và trả lời: Lời nguyền của sự nghèo đói đã bị phá vỡ tại thập tự giá. Nếu bạn có sự xức dầu, bạn sẽ không có lời nguyền của sự nghèo đói. Nếu bạn thực hành các nguyên tắc thịnh vượng trong Lời Chúa, Chúa sẽ khiến bạn trở thành người đứng đầu, chứ không phải là người đứng cuối. Nếu John Hagee và những người bạn đồng công với ông đúng, nếu sự thịnh vượng thực sự là một lời hứa và sự nghèo đói là một lời nguyền, thì sứ đồ Paul sẽ là một trong những người bị nguyền rủa nhiều nhất. Tuy nhiên, Paul không hề bị nguyền rủa, ông vẫn thỏa lòng: “Tôi đã học được bí quyết để thỏa lòng trong mọi hoàn cảnh, dù no đủ hay đói khát, dù sống trong dư dật hay thiếu thốn” (Phi-líp 4:12)
SICKNESS AND SUFFERING (bệnh tật và đau khổ). Kenneth Hagin, cha đẻ của phong trào Lời Đức Tin, đã khoe khoang rằng ông không bị đau đầu, cúm, hoặc thậm chí “một ngày bị ốm” trong gần sáu mươi năm, nhưng ông đã phải chịu đựng ít nhất bốn cơn đau tim, bao gồm một lần ngừng tim hoàn toàn. Cuối cùng, ông đã trải nghiệm thực tế rằng khả năng tử vong là điều tự nhiên. Nếu không có sự giáng lâm của Đấng Cứu Rỗi, tất cả chúng ta đều sẽ chết về mặt thể xác. Một ngày kia, tôi nhận được một lá thư từ một người phụ nữ có anh rể đã đăng ký vào Trung tâm đào tạo Kinh thánh Rhema của Kenneth Hagin. Trong khi đó, vợ anh đã mắc bệnh ung thư buồng trứng. Thay vì tìm kiếm trạm y tế, cặp đôi này đã phủ nhận các triệu chứng của bệnh ung thư. Có thể đoán trước được điều gì xảy ra sau đó. Cô ấy đã qua đời. Những người bạn Lời Đức Tin của cô ấy nhắc lại về sức khỏe tiêu chuẩn và Tin lành thịnh vượng: cô ấy không được chữa lành vì thiếu đức tin. Thật kinh ngạc khi chứng kiến những bi kịch như thế vẫn không làm cho phong trào Lời Đức Tin thức tỉnh.
–
Hank Hanegraaff
Translated by Hon Pham