Với tổng số khoảng 14,5 triệu người sống rải rác tại 73 nước trên khắp thế giới (trong đó riêng tại Israel là 6 triệu, ở Mỹ 5,6 triệu), người Do Thái chiếm tỷ lệ rất nhỏ là 0,2% tổng dân số thế giới. Tuy nhiên, trong số những người nhận được giải thưởng Nobel trong các lĩnh vực vật lý, hóa học, kinh tế và y tế từ đầu thế kỷ XX đến nay, các nhà khoa học gốc Do Thái đến từ các quốc gia khác nhau đoạt được khoảng 30% tổng số các giải thưởng trên. Họ là một dân tộc đặc biệt, mà từ đó Chúa Cứu thế Giê-su đã vào đời.
Hai bài viết có tính đối nghịch về người Do Thái sau đây:
Bài 1. LỜI CẦU NGUYỆN CHO NHỮNG CHUYẾN ĐI
Khi bắt đầu cho những chuyến đi xa, đặc biệt là những chuyến đi ra ngoài thành phố thì người Do Thái có một lời cầu nguyện mang tên là Tefilat Haderech “Lời cầu nguyện cho con đường”. Có nhiều phiên bản khác nhau nhưng tất cả đều bắt nguồn từ lời cầu nguyện chính được ghi trong Kinh Talmud ( Talmud là một tập hợp các tác phẩm bao gồm đầy đủ các luật Do Thái và truyền thống, biên soạn và chỉnh sửa giữa thế kỷ thứ ba và thứ sáu).Khi bắt đầu một chuyến hành trình, thì người Do Thái thường cầu nguyện lời cầu nguyện này. Lời cầu nguyện đó có nội dung như sau:“Cầu xin Chúa là Đức Chúa Trời của tôi, Đấng có thể đưa tôi đến với sự bình an, chỉ dẫn các bước của tôi trong an bình. Xin Chúa hướng dẫn tôi đi bình an, giải cứu tôi khỏi tay bất kỳ kẻ thù rình rập tôi trên được đi. Xin Chúa ban phước cho công việc của cánh tay tôi. Xin Chúa cho tôi thấy ân điển, lòng nhân từ và sự thương xót tôi trong mắt Chúa và trong mắt tất cả những ai nhìn thấy tôi. Phước cho Đấng đã nghe lời cầu nguyện của tôi.”Lời cầu nguyện này cũng được dùng khi người ta quay trở về lại chỉ thay đổi từ “đưa tôi đến” ở trên thành “trả tôi về” khi cầu nguyện để quay trở về.
Cầu xin Chúa ban phước cho những con đường mà bạn sẽ đi và đến. Nguyện xin huyết Chúa bao phủ, thiên sứ Chúa đóng trại xung quanh bạn để bạn được phước khi đi ra và khi đi vào.
Biên tập bởi Mục Vụ Do Thái Lời Sự Sống Việt Nam.
Bài 2.Tại sao hầu hết người Do Thái không tin nhận Chúa Giê-su?
–
Trong số 14 triệu người Do Thái trên toàn thế giới, hầu hết họ đều không tin rằng Chúa Giê-su là Đấng Mê-si/Đấng Christ/Đấng Cứu Thế của người Do Thái. Một số thống kê cho thấy chỉ riêng tại Hoa Kỳ, có ít nhất 175.000 người Do Thái tin nhận Chúa Giê-su, trong khi ước tính trên toàn thế giới dao động từ 350.000 đến 1,7 triệu.Khi một người Do Thái tin nhận Chúa Giê-su là Đấng Mê-si, hầu hết những người Do Thái khác cảm thấy người đó không còn là người Do Thái nữa. Tại sao lại như vậy, và tại sao nhiều người Do Thái coi thường những người tin nhận Chúa Giê-su? Hầu hết các lý do để không tin nhận Chúa Giê-su có thể được nhóm thành ba loại: văn hóa, lịch sử và tôn giáo.
–
Lý do văn hoá:Hầu hết người Do Thái được dạy rằng Chúa Giê-su chỉ dành cho dân ngoại. Hơn nữa, nếu một người Do Thái quyết định tin nhận Chúa Giê-su, cộng đồng Do Thái coi họ là người cải đạo sang Cơ đốc giáo/Ki-tô giáo. Vào một thời điểm trong lịch sử, những người như vậy bị coi là những kẻ bội đạo—trục xuất khỏi cộng đồng Do Thái, hoặc ngay cả với chính gia đình của họ. Để một người Do Thái xem xét đức tin nơi Chúa Giê-su, họ phải xem xét sự kỳ thị xã hội mà họ sẽ phải đối diện từ bạn bè, gia đình và cộng đồng Do Thái lớn hơn. Liệu một giáo sĩ Do Thái có bao giờ đồng ý kết hôn với họ không? Họ có được phép nhập cư vào vùng đất của Israel ngày nay không? Họ có bị cấm tham gia một giáo đường Do Thái không? Đây là những hệ lụy mà nhiều người Do Thái gặp phải khi xem xét tin nhận Chúa Giê-su.
–
Lý do lịch sử: Có vẻ như một trong những lý do khiến “người Do Thái không tin vào Chúa Giê-su” là vì lịch sử giữa hội thánh và nhà hội/giáo đường Do Thái đã được viết bằng máu và được nhấn mạnh bằng bạo lực và chủ nghĩa bài Do Thái. Khi hội thánh phát triển nhanh chóng giữa những người ngoại bang vào những năm 200-500 sau Công nguyên trong khi nhận được nhiều sự phản đối từ phong trào Do Thái giáo Rabbinic đang phát triển, nhiều nhà lãnh đạo Cơ đốc giáo người ngoại đã nghĩ rằng Đức Chúa Trời đã từ chối người Do Thái vì không tiếp nhận Đấng cứu thế của họ và vì đã giết Con Đức Chúa Trời. Augustine đã viết vào đầu thế kỷ thứ 5 SCN, “Người Do Thái đã bị phân tán khắp thế giới để làm nhân chứng cho tội lỗi của chính họ….”Ngôn ngữ kích động như vậy đã được lặp đi lặp lại trong suốt nhiều thế kỷ khi các nhà lãnh đạo Cơ đốc giáo khẳng định rằng người Do Thái đã bị phân tán và bảo tồn để bị trừng phạt vì đã từ chối Đấng Cứu Thế. Trải qua các thời đại, sự tàn bạo, giết người và thảm sát đều được biện minh trên cơ sở này.
Vào ngày 27/05/1096, hơn 600 người Do Thái đã bị tàn sát ở Mainz khi bắt đầu cuộc Thập tự chinh đầu tiên. Năm 1492, Vua Ferdinand và Nữ hoàng Isabella ký lệnh trục xuất người Do Thái khỏi Tây Ban Nha trừ khi họ cải đạo sang Cơ đốc giáo ngay lập tức. Ngay cả Nhà cải cách Tin lành Martin Luther cũng không dè dặt trong ngôn ngữ độc ác của mình kêu gọi tiêu diệt người Do Thái gốc Đức: “Đầu tiên, hãy phóng hỏa các giáo đường Do Thái của họ.… Thứ hai, tôi khuyên rằng nhà của họ cũng nên bị san bằng và phá hủy.” Nhiều sử gia cho rằng tâm lý bài Do Thái kéo dài 15 thế kỷ đã đặt nền móng cho sự tàn ác tồi tệ nhất mà người Do Thái từng phải chịu đựng—Holocaust. Rose Price, người sống sót sau thảm họa Holocaust, nhớ lại khi lính canh trại đánh cô, họ nói với cô rằng họ đang làm theo lệnh của Chúa Giê-su.
–
Những hành động tàn ác này đối lập trực tiếp với lời dạy của Chúa Giê-su hoặc các tác giả Tân Ước.Có thể hiểu được, điều này đã khiến nhiều người Do Thái tin rằng mục tiêu của Cơ đốc giáo trong nhiều thế kỷ là thực hiện tội ác diệt chủng, thông qua giết người hoặc cải đạo. Những hành động tàn bạo này không phù hợp với lời dạy của Chúa Giê-su hoặc các tác giả Tân Ước, và trên thực tế, chúng trực tiếp chống lại chúng.–Lý do tôn giáo:Nhiều giáo sĩ Do Thái và các nhà lãnh đạo tôn giáo tin rằng Chúa Giê-su không thể là Đấng Mê-si vì Ngài không hoàn thành các yêu cầu của Đấng Mê-si: “Do Thái giáo không tin rằng Chúa Giê-su là Đấng Mê-si vì Ngài không thực hiện bất kỳ lời tiên tri nào về đấng cứu thế. ‘Nước này không còn vung gươm đánh nước kia, họ cũng không còn tập luyện chinh chiến nữa’ (Ê-sai 2:4). Thay vì thiết lập hòa bình thế giới, chính Chúa Giê-su đã nói rằng Ngài đến để chia rẽ “cha chống con trai, con trai chống cha, mẹ chống con gái và con gái chống mẹ” (Lu-ca 12:53). Trên thực tế, đã có nhiều vụ đổ máu nhân danh Chúa Giê-su hơn là nhân danh hòa bình. Vậy thì làm sao có ai có thể tranh luận rằng Chúa Giê-su là Đấng Mê-si được hứa theo Kinh Thánh Do Thái?
–
Tại Sao nhiều người Do Thái tin nhận Chúa Giê-su là Đấng Mê-si
Bởi vì cộng đồng Do Thái hiện tại quá tập trung vào việc hòa nhập, điều đó đã buộc họ phải tin nhận Chúa Giê-su theo một cách khác. Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy rằng quan điểm từng vững chắc này hiện đang thay đổi, cả trên giấy tờ và trong cuộc sống hàng ngày của người Do Thái. Một nghiên cứu của Barna về Thế hệ Thiên niên kỷ Do Thái được thực hiện vào năm 2017 cho thấy 20% Thế hệ Thiên niên kỷ Do Thái được khảo sát trả lời rằng Chúa Giê-su là “Đức Chúa Trời dưới hình dạng con người sống giữa con người vào thế kỷ thứ nhất”. Một thống kê như thế này cho thấy rằng các thế hệ mới nổi của người Do Thái ở độ tuổi 20 và 30 đang tự quyết định xem Chúa Giê-su là ai.
Trong khi những người Do Thái tin theo Chúa Giê-su thừa nhận những trở ngại về văn hóa và sự thật lịch sử đau lòng xung quanh danh tính của Ngài, thì vẫn có nhiều lý do khiến họ tin rằng Ngài là Đấng Mê-si. Đầu tiên và quan trọng nhất, hầu hết những người tin nhận Chúa Giê-su, dù là người Do Thái hay không, đều có một cuộc gặp gỡ cá nhân với Thiên Chúa làm thay đổi cuộc đời họ. Do đó, những người Do Thái có trải nghiệm này không thể không đón nhận một cách nồng nhiệt cả đức tin và di sản của họ.
Cho đến khi trời và đất qua đi, không một chấm, một nét nào sẽ biến mất khỏi Kinh Torah/Ngũ Kinh.Họ nhận ra rằng Chúa Giê-su được sinh ra trong một gia đình có cha mẹ là người Do Thái, lớn lên trong một gia đình Do Thái ở Israel, tuân theo Ngũ Kinh và khuyên dạy dân Israel như một giáo sĩ Do Thái. Những lời dạy của Ngài không phải là một cuộc tấn công vào Do Thái giáo, mà là một sự giải thích thông minh, có thẩm quyền về Ngũ Kinh và phê phán một hệ thống tôn giáo đã thối nát vào thời của Ngài: “Đừng nghĩ Ta đến để bãi bỏ Luật pháp/Ngũ Kinh hoặc các Lời tiên tri! Ta đến không phải để bãi bỏ, mà để hoàn thành/làm trọn … cho đến khi trời đất qua đi, không một chấm một nét nào sẽ biến mất khỏi Ngũ Kinh … bất cứ ai tuân giữ và dạy chúng, người đó sẽ được gọi là vĩ đại trong vương quốc thiên đàng” (Ma-thi-ơ 5:17–19).
Tuân theo những lời dạy của Ngài là tiếp tục đức tin của người Do Thái, không phải là từ bỏ nó.–Điều quan trọng là phải hiểu tất cả những lời tiên tri mô tả Đấng Mê-si trong Kinh Thánh Do Thái chứ không chỉ những đoạn được chọn. Phần Kinh Thánh tiếng Hê-bơ-rơ thuật lại một bức tranh phức tạp về nhân vật này là ai. Trên thực tế, chúng ta học được từ họ rằng trước hết Ngài sẽ chịu đau khổ và chịu chết để chuộc tội: “Ngài đã bị truất khỏi đất người sống, vì tội lỗi của dân ta” (Ê-sai 53:8).Điều cần thiết là Đấng Mê-si phải đến trước, chịu đau khổ và chết như một sự chuộc tội cho tội lỗi. Bằng cách đó, Ngài đã mang lại hòa bình giữa nhân loại và Thiên Chúa. Tuy nhiên, Tanakh tiếp tục giải thích rằng Ngài sẽ trở lại vào một thời điểm để thiết lập hòa bình trên đất. Chúa Giê-su đến để mang lại sự hòa giải với Thiên Chúa, chứ không phải bạo lực và đổ máu, đặc biệt là chống lại dân tộc của mình. Ngài sẽ trở lại vào một ngày nào đó, và Ngài sẽ mang lại sự bình an với Chúa cho những ai sẽ tiếp nhận Ngài, cho dù họ là người Do Thái hay người ngoại bang.Chúa Giê-su sẽ không bao giờ tha thứ cho chủ nghĩa bài Do Thái dưới bất kỳ hình thức nào.Mặc dù những hành động được thực hiện dưới danh nghĩa Ngài trong suốt lịch sử là khủng khiếp và không thể tha thứ được, nhưng bất kỳ ai đã nghiên cứu Tân Ước đều biết rằng Chúa Giê-su sẽ không bao giờ dung túng cho chủ nghĩa bài Do Thái dưới bất kỳ hình thức nào. Ngài đã báo trước về sự hủy diệt của Jerusalem và vô cùng đau buồn về điều đó: “Khi đến gần, nhìn thấy thành phố, Đức Chúa Giê-su khóc về nó và phán: ‘Ước gì, ngay hôm nay, ngươi biết được những điều làm cho ngươi bình an! Nhưng bây giờ những điều ấy bị che khuất khỏi mắt ngươi.’” (Lu-ca 19:41–42). Ngay cả khi Ngài có một số thất vọng và tranh luận với một số nhà lãnh đạo tôn giáo vào thời của Ngài, Ngài đã giảng dạy và thực hành tình yêu thương đối với tất cả mọi người, kể cả những người ngược đãi Ngài (Ma-thi-ơ 5:43–48 ; 22:34–40 ; Lu-ca 23:34). Ngài không bao giờ giảng dạy hoặc tán thành bất kỳ thành kiến hoặc ngược đãi nào đối với người Do Thái.
–
Bạn có thể là người Do Thái và tin nhận Chúa Giê-su?
Vâng, bạn có thể là người Do Thái và tin nhận Chúa Giê-su! Không còn nghi ngờ gì nữa, có một số rủi ro cần xem xét. Chính Chúa Giê-su đã nói với chúng ta rằng chúng ta sẽ bị tẩy chay và chế giễu nếu chọn đi theo Ngài. Nhưng nếu Ngài thực sự là Đấng cứu thế người Do Thái đã hứa, thì việc công tin nhận Ngài như vậy cuối cùng cũng xứng đáng với bất cứ điều gì chúng ta có thể mất trong quá trình này. Bạn có đủ cởi mở để khám phá sự thật tâm linh cho chính mình không?
(Nguồn: https://jewsforjesus.org/…/why-do-most-jews-not-believe…)