Thứ Hai , 23 Tháng Mười Hai 2024
Home / Tổng hợp / Lý Giải Những Phần Kinh Thánh Được Cho Là Mâu Thuẫn

Lý Giải Những Phần Kinh Thánh Được Cho Là Mâu Thuẫn

Trong hầu hết các trường hợp, các câu hỏi về những tuyên bố đối với tín lý và đạo đức trong Kinh Thánh sẽ dễ dàng được giải quyết khi chúng ta hiểu biết cách đầy đủ những gì Kinh Thánh thực sự muốn nói. Tuy nhiên, trong những trường hợp khác, vấn đề khó hiểu nảy sinh khi  người chỉ trích Kinh Thánh chỉ đơn giản là không đồng ý với vấn đề đạo đức của Kinh Thánh. Chúng ta có thể ghi nhận những điều này trong một số trường hợp sau:

  • Sự xúi giục về việc kiểm tra dân số của Đa-vít thường được coi là một mâu thuẫn thần học. Trong 2 Sa-mu-ên 24:1, “Cơn thạnh nộ của Đức Giê-hô-va lại nổi phừng cùng dân Y-sơ-ra-ên. Ngài giục lòng Đa-vít nghịch cùng chúng, mà rằng: Hãy đi tu bộ dân Y-sơ-ra-ên và Giu-đa.” Chúng ta đọc thấy Đức Chúa Trời đã xúi giục Đa-vít kiểm tra dân số Y-sơ-ra-ên và Giu-đa. Tuy nhiên, trong 1 Sử-ký 21:1, “Sa-tan dấy lên muốn làm hại cho Y-sơ-ra-ên, bèn giục Đa-vít lấy số Y-sơ-ra-ên.”  Ở đây Sa-tan được cho là đã xúi giục Đa-vít kiểm tra dân số Y-sơ-ra-ên. Một số người nói rằng đây là dấu hiệu của hai môn thần học khác nhau, một là Đức Chúa Trời kiểm soát thế giới và hai là Sa-tan kiểm soát. Một nhà phê bình khác tin rằng người chép sử đã sửa lại lời tuyên bố trước đó của Sa-mu-ên. “Rõ ràng là ông không tin rằng Đức Chúa Trời đã xúi giục Đa-vít thực hiện một cuộc điều tra dân số để bày tỏ sự tức giận của Ngài đối với Y-sơ-ra-ên.”32

Tuy nhiên, câu trả lời cho chuyện này không khó, khi chúng ta hiểu về mối quan hệ giữa Đức Chúa Trời và Sa-tan. Đức Chúa Trời thường cho phép Sa-tan thực hiện những việc làm xấu xa của nó vì một số mục đích lớn hơn. Vì vậy, Đức Chúa Trời trong trường hợp này được trình bày như là nguyên nhân cuối cùng khiến Sa-tan thúc giục Đa-vít thực hiện hành động này. Các tình huống song song được tìm thấy trong việc Đức Chúa Trời cho phép Sa-tan tấn công Gióp (Gióp 1:12; 2:6) và trong việc Ngài sai ác linh đến gây rắc rối cho Sau-lơ (1 Sa-mu-ên 16:14). Điều cần nhớ là đối với các trước giả Kinh Thánh, không có gì nằm ngoài quyền tể trị của Đức Chúa Trời.

Để tìm kiếm giải pháp cho những vấn đề như vậy, điều quan trọng là chúng ta phải hiểu biết đầy đủ về sự dạy dỗ trong Kinh Thánh về một chủ đề nhất định. Một câu Kinh Thánh thường đưa ra một mặt của vấn đề, và một câu khác nhìn nó từ một khía cạnh khác. Trong khi hai bên có vẻ mâu thuẫn, nhưng trên thực tế, chúng là một phần của toàn bộ sự thật.

  • Chúng ta cũng phải tìm cách để hiểu các từ trong ngữ cảnh riêng của chúng. Vấn đề khó hiểu được cho là giữa Phao-lô và Gia-cơ về việc biện luận có thể dễ dàng giải quyết khi chúng ta xem xét cách họ sử dụng những từ ngữ tương tự nhau. Phao-lô tuyên bố rằng chúng ta được xưng công bình bởi đức tin mà không cần việc làm (Rô-ma 4:5; Ê-phê-sô 2:8-9), nhưng Gia-cơ tuyên bố rằng sự xưng công bình đến bởi đức tin và việc làm (Gia-cơ 2:24). Tuy nhiên, nếu chúng ta xem xét việc sử dụng các từ “đức tin” và “việc làm”, chúng ta thấy rằng sự biện luận của Gia-cơ và Phao-lô về các từ này không có nghĩa hoàn toàn giống nhau.

Gia-cơ đã sử dụng từ “đức tin” theo hai nghĩa. Theo một nghĩa nào đó, nó có nghĩa là loại niềm tin đồng ý mà ngay cả ma quỷ cũng có (2:19). Ông nói, đức tin hay niềm tin như vậy là không đủ khả năng để được cứu rỗi. Thay vào đó, nó phải là một đức tin đang sống và đưa ra bằng chứng trong cuộc sống về các việc làm. “Việc làm” đối với Gia-cơ là việc thực hành đức tin cứu rỗi.

Mặt khác, bởi “đức tin”, Phao-lô muốn nói là một niềm tin thực sự của vấn đề trong hành động. Ông nói về một đức tin hành động thông qua tình yêu thương (Ga-la-ti 5:6). Khi phản đối “việc làm” và “đức tin”, Phao-lô muốn nói đến những việc làm có tính chất hợp pháp mà mọi người  có thể đạt được trước mặt Chúa.

Vì vậy, khi chúng ta xem xét ý nghĩa của những từ này trong ngữ cảnh của chúng, cả Phao-lô và Gia-cơ đều tin như vậy. Mỗi người đều nhấn mạnh một khía cạnh nhất định của lẽ thật. Phao-lô tin rằng các cá nhân chỉ được cứu bởi đức tin, một đức tin sống và hành động. Gia-cơ cũng tin rằng mọi người được cứu bởi đức tin, đức tin này còn hơn cả sự đồng tình về mặt lý trí, một đức tin có việc làm.

  • Một số nhà phê bình nói rằng Cựu Ước cho phép chế độ đa thê, trong khi Tân Ước thì không. Trong khi Cựu Ước trình bày rằng một số dân sự của Đức Chúa Trời bao gồm cả những người lãnh đạo có nhiều hơn một người vợ, nhưng Kinh Thánh không bao giờ dạy rằng đây là ý định của Đức Chúa Trời đối với hôn nhân. Trên thực tế, Kinh Thánh cung cấp nhiều bằng chứng cho thấy đây không phải là ý muốn của Đức Chúa Trời.33
  • Một vấn đề khác liên quan đến mạng lệnh của Đức Chúa Trời đối với dân Y-sơ-ra-ên là phải tiêu diệt kẻ thù khi đã chinh phục Đất Hứa (Phục. 20:16-18). Và rất nhiều Thi thiên ghi lại những lời cầu nguyện rằng Đức Chúa Trời sẽ tiêu diệt kẻ thù của họ (ví dụ, Thi. 55, 59, 79, 109, 137). Những đoạn văn này dường như đang bày tỏ cho những hành động và thái độ trái với đạo đức, và chúng dường như mâu thuẫn với những câu nói rằng những người tin Chúa phải yêu kẻ thù của họ (Lu-ca 6:35–36).

Một số yếu tố có thể được nhận thấy về những vấn đề được cho là vô đạo đức này. Trong suốt Kinh Thánh, Đức Chúa Trời không chỉ được xem là Đức Chúa Trời của tình yêu thương vô hạn, mà còn là Đức Chúa Trời của sự phán xét công bình. Chắc chắn không có sự thay đổi nào giữa Cựu Ước và Tân Ước khi chúng ta xem xét thực tế của sự phán xét trong tương lai đã được báo trước một cách rõ ràng trong Tân Ước (Khải. 19:11-21). Trên thực tế, Chúa Giê-su nói về sự hủy diệt đời đời dành cho những người từ chối Đức Chúa Trời hơn bất kỳ trước giả Tân Ước nào.

Những tiếng kêu cứu đòi sự báo thù của Đức Chúa Trời, mà những người viết Thi thiên nêu lên để chống lại kẻ thù là bằng chứng về việc dân sự nhận thức sự công bình và phán xét của Đức Chúa Trời. Họ chỉ ra thời điểm mà tội lỗi sẽ bị hạ gục và sự công bình sẽ chiến thắng.

Mạng lịnh của Đức Chúa Trời là giết người Ca-na-an sẽ dễ hiểu hơn khi chúng ta nhận ra chiều sâu của sự sa đọa của họ. Đức Chúa Trời chống lại họ khi tội lỗi của họ đạt đến một mức độ cao không thể phục hồi (Sáng. 15:16; Lêvi. 18:24–30). Và rồi, vì họ nghiện tất cả các hình thức tội lỗi gớm ghiếc đã tiêm nhiễm vào xã hội của họ, Đức Chúa Trời đã đưa ra phán xét trên họ thông qua dân sự của Ngài. William Arndt mô tả trường hợp này như sau:

Các bộ lạc Ca-na-an thể hiện những thói xấu xa vô đạo đức đã làm cho cái chén tội lỗi của họ gia tăng đến tràn trề. Khi hình phạt đến, nó giáng xuống tất cả cư dân, bao gồm cả phụ nữ và trẻ em. Lỗi không phải là của Đức Chúa Trời; họ đã tự biến mình trở thành những người chà đạp dưới chân các luật công bằng và chính trực. Hãy hình dung thế này: khi những người đàn ông đưa bản thân và gia đình họ lên một con tàu, rồi chèo thuyền ra biển để có một chuyến đi chơi vui vẻ, và biến con tàu đó trở thành một nơi đầy dẫy sự gớm ghiếc và trụy lạc, và sau đó tất cả đều chết trong một cơn bão rất mạnh bất ngờ ập xuống họ, ai là người đáng trách? Bạn sẽ buộc tội Đức Chúa Trời vì đã không phân biệt đối xử giữa người lớn và trẻ em? Một khía cạnh đáng sợ của tội lỗi là sự khốn nạn mà nó tạo ra giống như một cơn xoáy nước, mà sức hút của nó sẽ hút mọi vật thể gần đó xuống đáy sâu. Đó là phụ nữ Ca-na-an phóng túng và là công cụ khiến dân Y-sơ-ra-ên rời bỏ con đường chân lý và sự trong sạch, hay là đối với những đứa trẻ thà chết từ khi còn nhỏ hơn là khi lớn lên sẽ trở thành như những kẻ sùng bái thần tượng và trụy lạc?34

Khi chúng ta xem xét cách đầy đủ bản chất đạo đức của Đức Chúa Trời như đã được dạy trong Kinh Thánh, thì những phân đoạn này không còn gây ra vấn đề khó khăn gì nữa. Người Ca-na-an đối diện với thực tế nghiêm khắc của sự phán xét; những điều họ làm chỉ có thể được gọi là vô đạo đức đến nỗi Đức Chúa Trời không thể chấp nhận.

trích từ HIỂU BIẾT THẦN HỌC CƠ ĐỐC
VMI

Trả lời

Hướng Đi Ministries Hướng Đi Ministries
9/10 1521 bình chọn