“Không Phải Tất Cả Các Tôn Giáo Đều Dẫn Tới Chúa Sao?”
Chương 1
“Bạn tin điều gì cũng được chỉ cần bạn sống thành tâm”
Đây là điều bạn thường nghe thấy khi tôn giáo được đem ra bàn luận. Không phải khi nói về chủ đề chính trị hay nước này nên đánh bom nước kia. Bạn không bao giờ nghe thấy điều này khi người ta nói về sự tàn ác tại trại Auschwitz hay Belsen của Đảng quốc xã Đức. Hít-le hiển nhiên rất thành tâm khi nói về sự căm ghét của ông ta với người Do Thái, nhưng ai cũng phải công nhận ông ta đã sai. (Nếu bạn không công nhận điều này thì tôi thà mất trí chứ không thể tin lời bạn!) Cuộc thảm sát sáu triệu người Do Thái trong chiến tranh thế giới thứ hai đầy tính toán, tàn nhẫn, và là sản phẩm của một niềm tin được nắm lấy cách rõ ràng và thành tâm. Hít-le là người thành tâm nhưng sai khủng khiếp.
Ví dụ đã gây ra sự huỷ diệt hàng triệu người kể trên, nên khiến chúng ta phải thận trọng với tuyên bố bạn tin điều gì cũng được chỉ cần bạn thành tâm. Tuyên bố này hiển nhiên vô nghĩa. Trong nhiều thế kỷ, nhiều người thành tâm tin rằng sấm sét được tạo ra bởi cuộc chiến giữa các thần. Ngày nay chúng ta biết rằng niềm tin này hiển nhiên sai trật. Chúng rõ ràng nhưng sai. Trong hàng thế kỷ người ta tin rằng mặt trời xoay quanh trái đất. Khi Ga-li-lê, ủng hộ học thuyết của Copernicus, chỉ ra rằng điều này sai, ông đã bị mọi người cấm “nghĩ, dạy dỗ hay bảo vệ” quan điểm này và bị giao cho toà án dị giáo. Tôi chắc chắn rằng khi ông bị giam cầm, ông vẫn không đồng ý với quan điểm bạn tin điều gì cũng được chỉ cần bạn sống thành tâm.
Hiện nay, tất nhiên, sự thành tâm rất quan trọng. Không ai thích người giả tạo. Nhưng thành tâm thì không đủ. Tôi có thể thành tâm tin rằng tất cả các máy bay ở Sân bay Luân Đôn sẽ đưa tôi tới Mỹ, nhưng chắc chắn tôi sẽ sai. Tôi có thể thành tâm tin rằng ăn nhiều kem và sô-cô-la là liều thuốc tốt nhất để hồi phục sau cơn đau tim, nhưng tôi vẫn sai.
Nếu quan điểm sự thành tâm là tất cả những gì bạn cần là điều hoàn toàn ngớ ngẩn, tại sao mọi người thường nhắc đến nó khi chủ đề tôn giáo được nhắc đến? Có lẽ có một vài lí do.
Bởi một điều, mọi người có thể đơn giản chỉ là không muốn bị kéo vào một cuộc tranh cãi tôn giáo. Họ biết rằng sẽ không có kết quả gì, và bởi vậy họ cố gắng tránh các cuộc tranh luận rắc rối, gay gắt bằng cách tuyên bố rằng bạn tin điều gì cũng được chỉ cần bạn sống thành tâm.
Những người khác tuyên bố như vậy, tôi cho rằng, vì họ không bao giờ thực sự ngừng lại để suy nghĩ. Họ sẽ không bao giờ nói như vậy về một chủ đề lịch sử như Thế Chiến Thứ Hai: bạn có thể thành tâm tin rằng Hít-le thắng, nhưng bạn sẽ bị sai. Họ sẽ không bao giờ áp dụng điều này vào toán học: không ai có tâm trí bình thường có thể tưởng tượng rằng nếu niềm tin của họ đủ mạnh mẽ thì hai cộng hai sẽ bằng năm và kết quả sẽ đúng như vậy. Dù sự thành tâm của bạn có lớn đến đâu, bạn vẫn sẽ sai. Không, chỉ trong lĩnh vực tôn giáo mà mọi người nói vậy, có thể bởi vì không dễ để có được sự chắc chắn trong tôn giáo. Chủ đề này dễ trôi tuột đi như bánh xà phòng trong nước vậy. Thà sau đó chuyển chủ đề và khéo léo gợi ý rằng bạn tin điều gì cũng được chỉ cần bạn sống thành tâm.
Lý do khác có thể như sau, nhất là tại Anh và Mỹ: chúng ta là những người thực tế. Chúng ta không nổi tiếng về những suy nghĩ triết học. Nếu điều đó ổn thì tốt thôi, dù cho có ai nghĩ ra điều gì. Như một cuộc đua, chúng ta quan tâm tới hành động, chứ không phải học thuyết. Nên chẳng khó mà không giữ lấy cái thái độ, “Bạn tin điều gì cũng được chỉ cần bạn sống thành tâm”.
Nhưng tôi cho rằng có một nguyên nhân sâu xa. Tôn giáo là về các vấn đề nền tảng của sự sống và cái chết, và có điều gì đó trong chúng ta không muốn nhìn nhận chúng. Chúng khiến chúng ta sợ hãi hoặc khó chịu. Chúng ta thà sống cho hiện tại và nhắm mặt lại trước những vấn đề phức tạp như sự sống và cái chết. Dựa vào sự thành tâm và sống một cuộc đời dễ hiểu để hi vọng rằng những điều này sẽ giúp chúng ta thì dễ dàng hơn.
Thái độ này rất phổ biến. Tôi mới nói chuyện với một bệnh nhân trong bệnh viên về vấn đề này, và anh ta lắng nghe chăm chú câu chuyện về Chúa Giê-su, món quà và những thách thức của Ngài trên cuộc đời chúng ta – và sau đó anh ta mỉm cười, nhún vai thể hiện rõ anh ta không khoái chủ đề này. Tôi hỏi nếu anh ta muốn xem một số bằng chứng về Chúa Giê-su là ai và những gì Ngài đã làm cho loài người, nhưng anh ta từ chối. Tôi kể tiếp về Buổi ăn sáng chung hàng tháng cho nam giới (mà tôi mới đến chia sẻ) tại chỗ anh ấy ở, và đề nghị mời anh ta đến dự. Nhưng anh ta cảm ơn và từ chối. “Tôi cho rằng mình tin điều gì cũng được chỉ cần mình sống thành tâm”.
Điều này có nghĩa là gì? Sự dạy dỗ của Phật Giáo và Chúa Giê-su chỉ ra những vấn đề nền tảng khác nhau. Bạn có thể là Phật tử thành tâm nhưng nếu đến cuối cùng sự trung thành này là sai lầm thì sao? Bạn có thể thành tâm nghĩ rằng Chúa Giê-su lỗi thời rồi và có thể Ngài chỉ là một người tốt thôi. Nhưng nếu bạn thành tâm và sai thì sao? Nếu Chúa gặp bạn chỗ cuối đường và hỏi, “Sao con không để tâm tới Con Trai Ta là Chúa Giê-su, người đã phó chính mình để phục hoà giữa con với Ta”? Bạn lúc đó có lắp bắp, “À thì tại con tưởng rằng con tin điều gì cũng được chỉ cần con sống chân thành”? Sự thật là niềm tin quyết định hành động và niềm tin đúng đắn mang đến hành động đúng đắn. Chúng ta không thể lẩn trốn trong sự “chân thành”. Chân thành là yếu tố cần thiết, nhưng chỉ nó thôi thì chưa đủ. Chúng ta không bao giờ nên áp dụng sự tranh cãi đó vào khía cạnh khác của cuộc sống: điên mới áp dụng vào tôn giáo. Vậy nên hãy đọc chương tiếp theo với chủ đề quan trọng: tất cả các tôn giáo có giống nhau không?
Chương 2
“Tất cả các tôn giáo đều không giống nhau sao?”
“Toàn cầu hoá” là một trong những từ phổ biến hiện nay, thu hút sự chú ý đến thực tế là thế giới của chúng ta gần như kết nối hoàn toàn. Điều gì đang xảy ra ở chỗ chúng ta, như Bosnia hay Afghanistan, đều ảnh hưởng đến phần còn lại của thế giới. Nhạc pop của Mỹ được bật liên tục tại Trung Quốc hay Ấn Độ. Thế giới của chúng ta là một ngôi làng toàn cầu, và chúng ta ngày càng nhận ra điều đó. Nên khi bàn về tôn giáo, chúng ta không ngạc nhiên khi thấy người Do Thái, Sikhs, Hồi Giáo, Phật Giáo và Hindu sống và làm việc cùng chúng ta. Quốc tịch của họ giống hệt như chúng ta là những người sinh tại Mỹ, quyền và nghĩa vụ của họ cũng như chúng ta. Do đó, hiển nhiên nhiều người nghĩ rằng các tôn giáo thực ra đều giống nhau. Có phải các tôn giáo chỉ là những cách hiểu khác nhau về cùng một Đức Chúa Trời?
Đây là một quan điểm rất thú vị. Quá nhiều các bất đồng, đàn áp và chiến tranh nổ ra chỉ vì sự khác biệt tôn giáo. Vậy hãy thử cho rằng có một Đức Chúa Trời được các tôn giáo tìm kiếm theo những cách riêng nhé! Cuối cùng, hẳn phải có một quan điểm phổ biến, và nó cũng là quan điểm dung hoà – dung hoà là một tính từ thu hút, đặc biệt trong thế giới ngày nay khi các giá trị truyền thống bị bỏ qua rất nhiều. Hơn thế, hầu hết các tôn giáo lớn đều có nhận thức đạo đức chung: đều yêu chuộng hoà bình và nhân từ, và không có tôn giáo nào ủng hộ giết người, hãm hiếp, hay trộm cắp. Vậy sao không nhận lấy quan điểm của các tôn giáo khác nhau và dựng nên một bức tranh ghép về Chúa? Điều này liệu có thúc đẩy thế giới hoà bình và hiểu biết hơn không?
Quan điểm này không chỉ phổ biến, mà còn được ủng hộ bởi một số nhà tư tưởng rất có tiếng nói. Ngay lập tức, nhà lãnh đạo tinh thần Ấn Độ Mahatma Gandhi nói rằng, “Linh hồn của tôn giáo là một, nhưng nó được bao bọc bởi vô số hình thức”. Tu sĩ Hindu Ramakrishna thường nói về chính mình là cùng một linh hồn có kiếp trước là Rama, Krishna, Phật tổ và Chúa Giê-su.
Có một quan điểm từ xưa nữa: Hoàng đế La Mã Septimius Severus đặt trong điện thờ riêng của ông ta ngoài tượng của những Hoàng đế xưng thần còn có người làm phép lạ A-pô-lô ở Tyana, Áp-ra-ham, Orpheus và Chúa Giê-su để thắng cá cược.
Ngoài ra, có một quan điểm cũng khá đương thời. Có một nhóm nhạc pop tên là Quintessence đã hát bài này:
Chúa Giê-su, Phật tổ, Môi-se, Gauranga,
Kéo tôi xuống biển tình của Ngài.
Chúa Giê-su, Phật tổ, Môi-se, Gauranga,
Ôi Maya, ôi Maya, ôi Maya (Ghi chú: maya là thế giới vật chất tri giác được Hindu giáo cho là ảo tưởng che giấu sự tồn tại tuyệt đối).
Kiểu thuyết hổ lốn này rất lôi cuốn, nhưng sẽ không có tác dụng. Tại sao không?
Đầu tiên, vì nếu bạn hỏi những tín đồ thực sự trong mỗi niềm tin khác nhau này rằng tất cả các tôn giáo có giống nhau không, bạn sẽ nhận được sự phản đối mạnh mẽ. Họ biết rất rõ rằng Cơ đốc nhân khác với người Hồi Giáo và Hindu, và thường họ tin tưởng vào sự đúng đắn của tôn giáo của họ đến nỗi họ giết hại thành viên của các tôn giáo khác và đốt nhà thờ. Ví dụ như điều được viết tại Qur’a, “Đánh và giết kẻ ngoại giáo bất cứ nơi nào thấy chúng” (Kinh Koran, sura 9.5), và tại Nigeria và Sudan thì điều này đang xảy ra ở nhiều nơi ngay khi tôi đang viết quyển sách này. Quan điểm này là kiểu lý thuyết suông trong nghiên cứu của những người viết các quyển sách nói rằng tất cả tôn giáo là như nhau: chỉ những người thực hành chúng nghĩ khác nhau.
Hơn thế, ngay cả bài kiểm tra sơ sài nhất về các tôn giáo thế giới sẽ cho thấy rằng không có cách nào có thể giải thích quan điểm các tôn giáo giống nhau. Bởi một điều, chúng có các quan điểm hoàn toàn chống lại nhau về định nghĩa về Đức Chúa Trời. Thần thánh trong đạo Hindu không liên hệ với con người, và chỉ được liên hệ thông qua vô số các vị thần và tượng. Allah của đạo Hồi lại liên hệ với con người, không có các vị thần cấp dưới và hoàn toàn cấm thờ thần tượng hoặc bất kỳ phương thức nào đại diện cho Chúa Trời. Đạo Phật là tôn giáo không có Đức Chúa Trời, và không có cả sự tồn tại cuối cùng. Cơ đốc giáo dạy rằng Chúa vừa tha thứ vừa ban cho sự giúp đỡ siêu nhiên cho con người. Đạo Hồi và Phật không có sự tha thứ, chỉ có nghiệp chướng không ngừng, và không có sự giúp đỡ siêu nhiên.
Và theo như các tôn giáo khác nhau, mục tiêu cuộc sống là gì? Chúng ta về đâu sau cuộc đời trên đất? Mục tiêu của tất cả những sự tồn tại trong Phật Giáo là cõi niết bàn, tức là sự giải thoát hoặc “sự chấm dứt hoàn toàn cả khát vọng và nhân tính” – đạt được bởi Đức Phật sau không ít hơn 547 lần luân hồi. Hồi Giáo tìm kiếm một thiên đàng khoái lạc với rượu, đàn bà và ca hát. Mục tiêu của mọi sự tồn tại trong Cơ đốc giáo là biết Chúa và vui hưởng chính mình Chúa đời đời cùng với những người được Ngài cứu chuộc. Vậy, các tôn giáo dạy hoàn toàn khác nhau.
Ngay cả những tôn giáo tin vào Đức Chúa Trời đến gần con người không đồng ý rằng Ngài bày tỏ chính Ngài cho chúng ta và cách Ngài bày tỏ. Hồi Giáo chối bỏ sự kiện Allah từng tự bày tỏ ngài cho con người: ngài chỉ bày tỏ ý muốn ngài, và sự đáp ứng thích đáng lại chính là đạo Hồi, không hề như ý nghĩa “hoà bình”, mà là “thuận phục”. Cơ đốc giáo tuyên bố rằng Đức Chúa Trời không chỉ bày tỏ ý muốn Ngài mà còn bày tỏ chính Ngài: quả thật, Ngài đến để bày tỏ cho chúng ta hình ảnh của Ngài theo định nghĩa mà chúng ta có thể hoàn toàn hiểu, định nghĩa về cuộc đời một con người: đó là lý do chúng ta kỷ niệm Chúa Giáng sinh.
Có lẽ sự khác biệt lớn nhất với mọi lời nói dối là lời khẳng định của Cơ đốc nhân rằng không ai trong chúng ta có thể tự cứu mình hay khiến Chúa chấp nhận chúng ta: trong khi tất cả các niềm tin khác nhận định rằng bằng cách giữ những điều họ dạy người đó sẽ được cứu, trọn vẹn và tái sinh. Tôi thấy không có gì có thể làm rõ sự tương phản này mạnh hơn là câu chuyện của Phật tổ với phần mở đầu như câu chuyện Người con trai hoang đàng. Cậu con trai tiêu tiền như nước trở về và gặp cha mình, và sau đó phải làm việc như người hầu cho cha mình để trả giá cho những hành vi sai lầm trước kia. Sự khác biệt ở đây là tình yêu vô tận của người cha trong câu chuyện Phúc Âm đã không biến con mình thành người hầu mà mở tiệc linh đình để chào mừng cậu trở về. Nguyên tắc nghiệp chướng (nguyên nhân và hậu quả, trả giá cho tội lỗi) khác xa với ân điển (sự tha thứ không phải trả giá dù bạn không đáng nhận được chút nào). Quả thật, thế giới quan căn bản của đức tin Do Thái và Cơ đốc về một Đức Chúa Trời gần gũi yêu thương muốn có mối quan hệ với tạo vật của Ngài hoàn toàn trái ngược với quan điểm của các tôn giáo phương Đông cho rằng không có một Đức Chúa Trời gần gũi và điều tốt nhất chúng ta có thể hi vọng được là sự tan biến và hoà vào cõi niết bàn, nơi không thể phân biệt được ai với ai.
Chỉ có một vài sự khác biệt phân tách toàn bộ thế giới quan của các tôn giáo lớn. Nhiều người nói rằng, “Tất cả các tôn giáo đều như nhau” đều chưa từng nghĩ sâu xa về điều này và chẳng biết gì về những khác biệt được kể trên. Nhưng làm sao mà những nhà tư tưởng nghiêm túc đó vẫn tuyên bố như vậy? Câu trả lời của họ rất khó hiểu. Họ nhận thấy có rất nhiều những khác biệt rõ ràng giữa các tôn giáo khác nhau nhưng khẳng định là có một “Đức Chúa Trời phía sau Chúa” ở nơi mà tất cả sự khác biệt sẽ được trung hoà. Hiểu như vậy nên họ cho rằng tất cả các tôn giáo đều như nhau.
Quan điểm đó thấy rõ nhất trong câu chuyện Hindu cổ về vị vua và con voi. Một nhóm những người mù được yêu cầu miêu tả cảm nhận của họ khi họ được dẫn tới những phần khác nhau của con voi. Một người sờ vòi voi và nói nó là lá cọ. Người khác sờ cái đuôi và nói là dây thừng, và cứ thế với mấy người kia cũng vậy. Họ giải thích đủ kiểu nhưng đều không thể nhận ra cùng một con voi họ chạm vào. Họ mù, nhưng vị vua khôn ngoan vẫn nhận ra sự thật là họ đều chạm cùng một con voi.
Ngày nay câu chuyện này thược được sử dụng trong văn học dân chủ về chủ đề chứng minh các tôn giáo đều giống nhau. Nhưng thường thì những tác giả này đều thất bại trong việc nhận biết sự kiêu ngạo trong tuyên bố của họ. Bởi họ cho rằng họ giống như vị vua có thể thấy mọi tôn giáo đều như nhau, trong khi các tín đồ thì mù loà với sự thật. Chúng ta có quyền hỏi, “Ai cho những người này những hiểu biết đặc quyền như vậy?”, “Lý do nào để cho là họ đúng?”, và “Sao chúng ta có thể nghĩ là họ biết nhiều hơn những tín đồ thực sự?”
Ai đó có thể khiến vấn đề gây tranh cãi hơn khi nói rằng: “tất cả các tôn giáo cơ bản đều như nhau, ít nhất trong bản chất của chúng, kể cả khi những đặc điểm thứ yếu của chúng khác nhau rất nhiều”. Nếu quả thật như vậy, sao chúng ta có thể phân biệt được bản chất và đặc điểm khác của tôn giáo đó? Nguyên tắc nào chúng ta có thể dùng? Giả sử chúng ta có thể đánh giá một vài đặc điểm của tôn giáo nào tốt hơn tôn giáo khác. Nhưng đứng trên lập trường nào chúng ta có thể đánh giá cái nào tốt hơn? Và chẳng phải cả câu hỏi về sự thật bị phớt lờ và vất đi bằng cách ném tất cả vào chảo, đun sôi và gạn lấy phần chính? Thế nếu tôn giáo này thực sự mang đến sự bày tỏ đầy đủ hơn về bản chất hơn tôn giáo khác thì sao? Và thế nếu sự tuyệt đối thực sự đến trong vòng chúng ta, và Chúa Năng Quyền quả thật đã đến với dân sự Ngài thì sao? Nếu quả thực vậy, tại sao chúng ta phải tìm nhiều dẫn chứng để liên hệ với các niềm tin khác? Nhưng có một điều chắc chắn. Chúng ta không cần phải tuyên bố là tất cả các tôn giáo đều như nhau.
Cơ đốc giáo tách biệt với các niềm tin khác. Đó là niềm tin về Chúa hằng sống đã đến để chia sẻ với tình huống loài người chúng ta đang trải qua, chịu cái chết đau đớn để gánh lấy trách nhiệm với sự xấu xa của con người và phá vỡ rào cản cuối cùng là sự chết, vào ngày Phục sinh đầu tiên, mang đến kết quả không đong đếm nổi cho những người theo Ngài và cả thế giới. Không có niềm tin nào có thể tuyên bố điều này. Cơ đốc giáo có thể sai, nhưng không ai dù mất trí có thể tuyên bố rằng Cơ đốc giáo giống như những tôn giáo khác! Không, dù chúng ta muốn hay không thì chúng ta vẫn phải công nhận là tất cả các tôn giáo không giống nhau.
Chương 3
“Nhưng có chắc là mọi tôn giáo đều dẫn tới Chúa?”
Đúng vậy không? Ai nói vậy? Hãy dành chút thời gian suy nghĩ về điều này.
Tôi tạm cho rằng ý bạn nói “tôn giáo” là kiểu liên hệ hoặc gần gũi với các thánh thần. Đúng không? Nhưng, nhiều tôn giáo không có mục tiêu như vậy. Bạn thấy đó, không chỉ có các tôn giáo khác nhau, mà còn có các loại tôn giáo khác nhau, với các mục tiêu khác nhau. Đây là một vài ví dụ.
Đầu tiên, có các tà giáo, ví dụ như thuyết vật linh, phù thuỷ, phép thuật và mấy thành phần thuộc phòng trào Thời đại mới (New Age). Chúng đều có liên hệ với các linh, thường là tà linh cần phải được xoa dịu hoặc kiểm soát. Chúng nó thể ngụ trên cây, các nơi thánh hoặc con người. Chúng có thể thuộc về tổ tiên hoặc thiên nhiên. Nhưng linh này rất đa dạng tùy thuộc vào đối tượng kiểm soát chúng là các bác sĩ phù thuỷ Châu Phi, pháp sư Mông Cổ và các phù thuỷ địa phương. Tà giáo liên hệ với các linh chứ không phải với Đức Chúa Trời và không có mối quan hệ mật thiết nào với Ngài.
Thứ hai, có những tôn giáo bạn có thể gọi là tôn giáo thờ hoàng đế. Chúng cũng không liên hệ với Đức Chúa Trời. Chúng liên hệ với thẩm quyền chính trị cao nhất, đòi hỏi lòng trung thành tuyệt đối – từ nhưng vị vua thánh tại Ai Cập và Địa Trung Hải, từ Sê-sa của đế quốc La Mã, tới các hoàng đế Shinto của Nhật Bản – cùng với Hít-le, Mao Trạch Đông và Stalin trong thời đại của chúng ta. Thật thú vị khi thấy từ “thánh” được dùng cả bởi Hít-le và Stalin. Stalin thường có các bức tranh khổng lồ của chính mình ở trên các đám mây và phía dưới là nhiều đoàn người, trong khi Hít-le sử dụng ngôn từ về Đấng Mê-si-a để nói về chính mình và tiên đoán về nhà nước Một ngàn năm.
Thứ ba, có các tôn giáo khổ tu như đạo Giai-na, Phật Giáo, vài khuynh hướng của Hindu giáo và tất các các phiên bản “tự mình làm lấy” của Cơ đốc giáo. Chúng cũng không liên hệ với Chúa, mà là về sự tự từ bỏ. Sự tự chối bỏ hoặc hành xác để giảm bớt sự kìm cặp hoặc bỏ đi phần người bị buộc chặt với thế giới này. Đôi khi, như trong Phật Giáo, để dẫn tới sự loại bỏ chính mình cuối cùng sau nhiều đời, đó là hoà tan vào cõi siêu thoát. Nó chẳng có chút liên hệ gì đến Chúa. Thực tế, trong hầu hết các nhánh của các đạo khổ tu này, không hề có Chúa để được liên hệ mật thiết.
Thứ tư, có các tôn giáo gọi là tôn giáo sinh dục, hay tôn giáo sinh sản. Họ phụng thờ tình dục. Kiểu tôn giáo này có từ lâu đời và cũng mới mẻ. Nó xuất hiện từ tôn giáo sinh sản của người Ca-na-an, đến các bức tượng khiêu dâm trong các đền thờ Hindu, đến Soho tại Luân Đôn và Amsterdam, tới các phim gợi cảm ngày nay và số lượng lớn các hình ảnh khiêu dâm được bày bán. Chúng cũng chẳng có liên hệ gì đến Chúa hay có mối quan hệ với Ngài.
Thứ năm là các tôn giáo thịnh vượng, mang đến xu hướng tôn giáo của các tầng lớp nhàn rỗi đòi hỏi các tín đồ của họ không gì ngoài các khoản đóng góp khổng lồ. Họ là những tôn giáo như Christian Science, Spiritualism, Scientology, Theosophy và những tôn giáo tự thay đổi mình. Chúng đều chỉ tập trung vào con người chứ không phải vào Chúa hay sự mật thiết với Ngài.
Thứ sáu, có các tôn giáo tiên tri nổi lên từ các lãnh đạo năng nổ và các thách thức đạo đức của một lãnh đạo lớn và có xu hướng càn quét cả thế giới trong một thế kỷ từ lúc họ xuất hiện. Hồi Giáo, tôn giáo đã du nhập thô bạo vào Trung Đông và Bắc Phi trong vài chục năm sau cái chết của Muhammad, là một ví dụ rõ ràng. Chủ nghĩa Mác cũng thế. Ta thấy rõ sự ảnh hưởng của chủ nghĩa này lên một phần ba thế giới chỉ trong vài chục năm sau cái chết của Mác. Mặc dù theo chủ trương vô thần dân quân, chủ nghĩa Mác tha thiết nắm lấy tín ngưỡng, lý tưởng, sự hi sinh và tin chắc vào một tương lai hoà hợp với các tôn giáo. Người ủng họ nó sẵn lòng chết vì lý tưởng như những tín đồ của Hồi Giáo. Nhưng ngay cả Hồi Giáo, bỏ qua quan điểm tôn thờ Chúa Trời của nó, không hề mang đến cho các tín đồ sự mật thiết với Chúa: “Allah mặc khải sứ điệp của Ngài. Ngài không bao giờ mặc khải chính mình”. Tín đồ cầu nguyện với Allah nhưng không được đáp lời để biết Allah hoặc quá quan hệ mật thiết với ngài. Dám tuyên bố như vậy bị coi là báng bổ và bạn có thể bị giết.
Cuối cùng là những tôn giáo khải thị. Chỉ có hai tôn giáo (có liên hệ gần với nhau) trong lịch sử thế giới dạy rằng tín hữu có thể nhận biết Chúa cách cá nhân. Chỉ có Do Thái giáo và “con đẻ” của nó là Cơ đốc giáo công nhận Chúa bày tỏ chính Ngài cách chắc chắn và cá nhân tới con người. Do Tháo giáo kể lại sự mặc khải của Chúa thông qua các hành động năng quyền và giải cứu Israel và qua lời của các tiên tri. Người Do Thái tin rằng sự hiện diện duy nhất của Chúa trên đất là khoảng không ở giữa cánh của che-ru-bim và phía trên “ngai thiên ân” của hòm giao ước: vị trí này được quy ước trước tại lều tạm và sau đó trong đền thờ tại Giê-ru-sa-lem. Tất nhiên, Do Thái giáo ngày nay đã khác. Không có hòm giao ước, không có thầy tế lễ, không có lều tạm, không có đền thờ. Do Thái giáo hiện đại thường tập chú vào các luật pháp tôn giáo, đạo đức và thờ phượng tại nhà hội.
Niềm tin khác phát triển sự mặc khải thánh mạnh mẽ trong Do Thái giáo là Cơ đốc giáo – hay Chúa Giê-su. Ngài tuyên bố là sự ứng nghiệm của tất cả lời hứa của Chúa cho dân Israel và là sự mặc khải cuối cùng của Chúa cho loài người. Ngài là Êm-ma-nu-ên, “Chúa ở cùng chúng ta”. “Trong Ngài”, sứ đồ Phao-lô tuyên bố: “vì sự đầy dẫy của bổn tánh Đức Chúa Trời thảy đều ở trong Đấng ấy như có hình” (Cô-lô-se 2:9). Và Cơ đốc nhân có thể nói cùng Phao-lô là, “ta biết ta đã tin Đấng nào”, hoặc nói với sứ đồ Giăng, “chúng ta biết Ngài ở trong lòng chúng ta, là nhờ Đức Thánh Linh mà Ngài đã ban cho chúng ta” (2 Ti-mô-thê 1:12, 1 Giăng 3:24). Sự mật thiết với Chúa là tất cả những gì về đức tin Cơ đốc. Các tôn giáo khác không như vậy.
Thật nực cười khi cho rằng tất cả tôn giáo đều dẫn tới Chúa, khi Phật Giáo không tin rằng có Chúa, Hồi Giáo thì khiến Ngài trở nên xa cách, Hindu giáo mang đến sự tận diệt sau nhiều lần chuyển kiếp và vẫn thờ cúng rất nhiều thần tượng. Làm sao tất cả các tôn giáo đều hướng về Chúa khi chúng có các niềm tin khác nhau về Chúa, về đời sau và cách để có được đời sau.
Hãy thử xem hai quan điểm về lịch sử của Cơ đốc giáo và Hindu giáo. Hai cái đều khác nhau giữa bánh xe và con đường. Biểu tượng của Hindu giáo là bánh xe, đại diện cho vòng tuần hoàn sinh ra, lớn lên, chết đi và tái sinh. Bánh xe luôn tự di chuyển và xoay vòng. Bánh xe mang đến một cách duy nhất để thoát khỏi chuyển động vô nghĩa, không hồi kết này. Đó là nắm lấy một cái nan hoa – cái nào cũng được – và di chuyển theo nó đến chỗ cái trục, nơi tất cả nan hoa tụ lại, là chỗ bạn có thể quan sát tất cả các chuyển động không ngừng mà không bị kéo vào. Họ coi đây là một ẩn dụ. Tức là bạn tham gia tôn giáo nào cũng được: cứ theo nó tới điểm trung tâm nơi không có chuyển động và thời gian, nơi tất cả đều an yên và nơi bạn có thể hiểu được về chuyển động không ngừng tạo nên lịch sử loài người – hiểu rằng nó chẳng đi đến đâu và chẳng có ý nghĩa gì. Tất cả chỉ là một ảo tưởng.
Có một biểu tượng khác không phải bánh xe mà là con đường. Đó là quan điểm về lịch sử của Cơ đốc giáo. Nó có sự bắt đầu về thời gian, một điểm giữa (sự đến, chết và sống lại của Chúa Giê-su) và một đích đến. Đích đến đó không phải là thực tế vô tận được giấu kín đằng sau tất cả sự đa dạng và thay đổi của cuộc sống hàng ngày. Không phải, lịch sử tiến tới một nơi cụ thể. Nó có một mục đích. Và mục đích là để những người được cứu chuộc của Chúa vui thoả trong sự mật thiết và thông công không ngớt với Chúa của lịch sử đời đời, trên thiên đàng.
Để tôi nói theo cách khác. Có hai lý do tại sao tất cả tôn giáo không dẫn tới Chúa. Thứ nhất là vì đặc tính của Chúa. Nếu có một Chúa, Ngài phải là nguồn của cả loài người và môi trường của chúng ta. Vị tiên tri nói:
“Các ngươi không biết sao? Vậy thì các ngươi không nghe sao? Người ta há chưa dạy cho các ngươi từ lúc ban đầu? Ấy là Đấng ngự trên vòng trái đất này, các dân cư trên đất như cào cào vậy… kìa các dân tộc khác nào một giọt nước nhỏ trong thùng, và kể như là một mảy bụi rơi trên cân”. (Ê-sai 40:21, 22, 15)
Đó là Chúa vĩ đại mà chúng ta đang nói đến. Làm thế nào chúng ta có thể đến chỗ Ngài? Chúng ta không tự làm được. Kể cả các tôn giáo dẫn dắt đến Chúa, không có tôn giáo nào có thể dẫn đến Chúa. Ngài quá vĩ đại. Tạo vật không thể khám phá được Đấng Tạo Hoá trừ khi Ngài chọn để bày tỏ chính mình. Đó là lý do tại sao tất cả tôn giáo đều không mang đến hi vọng. Bạn có biết bài thơ ngắn “Nếu”?
Nếu
Tất cả các tôn giáo
Dẫn dắt tới Chúa
Làm sao mà
Tất cả các tôn giáo
Được ban cho
Ít nhất một ngàn năm
Mà vẫn chưa
Tới?
Nếu chúng ta định nghĩa “tôn giáo” là sự tìm kiếm thánh thần của con người, chúng ta sẽ thất bại. Điều chúng ta cần là không so sánh kẽ hở mà các tôn giáo khác nhau nhận thức, mà cần kinh nghiệm mặt trời mọc bằng cách tắt đi các ngọn nến. Chúng ta không cần một tôn giáo mà là mặc khải. Và đó chính là điều Cơ đốc giáo tuyên bố. Không như những quyển sách thánh khác, Kinh Thánh không ghi lại câu chuyện về loài người tìm kiếm Chúa, mà là câu chuyện Chúa tìm kiếm loài người.
Có một lý do thứ hai tại sao không có tôn giáo nào có thể vươn đến Chúa. Không phải vì bản tính của Chúa mà là bản tính của con người. Kinh Thánh mang đến một bức tranh chân thật về loài người, dù không phải ai cũng thích. Kinh Thánh kể cho chúng ta, ngay lập tức, rằng chúng ta không có bản chất tốt đẹp như chúng ta tưởng, mà có tấm lòng đầy lừa dối và hoàn toàn xấu xa. Kinh Thánh kể về giết người và ngoại tình, dối trá và rồ dại không bắt nguồn từ hoàn cảnh mà là từ tấm lòng của chúng ta. Kinh Thánh nói rằng chúng ta đều như nhau, bởi tất cả đều phạm tội và thiếu đi tiêu chuẩn vinh hiển của Chúa. Kinh Thánh cho biết con người yêu sự tối hơn sự sáng vì việc làm của họ là gian ác (Giê-rê-mi 17:9; Mác 7:20-23; Rô-ma 3:23, Giăng 3:19). Có điều gì đó trong bản tính của chúng ta bị méo mó (cùng với những bản tính tốt). Kết quả là chúng ta không muốn Chúa can thiệp vào cuộc sống của chúng ta. Chúng ta muốn tự lèo lái con thuyền của mình. Và dù cho chúng ta có thực sự tìm kiếm Chúa, những việc làm xấu treo ngay cổ chúng ta như sợi xích và quả bóng sắt. Tất cả chúng ta đều thất bại trong việc đạt chuẩn, dù chúng ta có đến từ phương Tây nơi có nhiều người tin Chúa, hay khối Cộng sản, hay phương Đông huyền bí. Không ai có thể đến gần Chúa, bởi vì Ngài quá vĩ đại để bất cứ tạo vật nào tiến vào sự hiện diện của Ngài, và cũng bởi vì tạo vật của Ngài đã bị méo mó, quá tự phụ nên không muốn gần Ngài. Sự vĩ đại của Chúa và tội lỗi của con người là hai lý do lớn chứng minh tại sao mọi tôn giáo đều không dẫn tới Chúa.
Những người luôn cố chứng minh mọi tôn giáo đều dẫn tới Chúa cho chúng ta hình ảnh một ngọn núi, với nhiều lối đi dẫn đến đỉnh. Dù bạn chọn lối đi nào: lối đó cũng sẽ đưa bạn đến đỉnh núi. Chúng ta đều thấy quan điểm này không đủ sức thuyết phục. Để tôi cho bạn một suy luận khác. Nếu tình huống thật giống như những con người đang cố gắng tìm đường ra khỏi mê cung? Có nhiều lối đi đưa bạn đến ngõ cụt và không thể giúp bạn thoát ra. Chỉ có một con đường ra duy nhất.
Đó thật là một tuyên bố sửng sốt và tự tin của Cơ đốc nhân, và chúng ta sẽ kiểm tra điều này ở phần còn lại của quyển sách nhỏ này.
Chương 4
Vậy điều gì làm cho Chúa Giê-su đặc biệt?
Chú ý vào phần tôi không hỏi, “Điều gì làm Cơ đốc giáo đặc biệt?” Nó chẳng có gì đặc biệt. Nó bày tỏ ra nhược điểm và thất bại của tôn giáo khác. Lịch sử của nó bị phá huỷ bởi chiến tranh, chịu khổ, dối trá và tham lam. Như một tổ chức, nó bày tỏ đặc điểm của nhiều tổ chức thế tục. Hơn thế, nó buồn tẻ, giáo điều và độc tài. Quyển sách này không phải để tranh cãi rằng Cơ đốc giáo thì tốt hơn các niềm tin khác. Không. Chính Chúa Giê-su mới đặc biệt! Tôi không ngần ngại mà nói rằng tôi rất thích nói về Chúa Giê-su. Đây không phải là niềm đam mê mù quáng và gây hại! Có những lý do đúng đắn giải thích tại sao tôi tin Chúa Giê-su là con đường đưa Đức Chúa Trời đến với chúng ta và đưa chúng ta đến với Chúa, và các chương tiếp theo sẽ trình bày lý do đó. Nhưng tôi không yêu cầu độc giả nghe theo tôi ngay! Đến giờ tôi vẫn chưa đưa ra lý do tại sao tôi trung thành với Chúa Giê-su. Vậy nên hãy nhìn vào câu hỏi ở tựa đề: điều gì làm cho Chúa Giê-su đặc biệt? Có nhiều lãnh tụ tôn giáo vĩ đại. Tại sao nhiều người chuộng Chúa Giê-su hơn, và đặc biệt tại sao mọi người quá yêu mến Ngài mà bỏ qua các tôn giáo khác?
Sau tất cả, có nhiều điểm tương đồng giữa Chúa Giê-su và sự dạy dỗ của Ngài với những người vĩ đại khác. Chúa Giê-su, Phật tổ, Mác và Muhhammad đều sống trong nghèo khổ, và bị từ chối bởi phần lớn những người sống đương thời. Tất cả đều có lý tưởng vĩ đại. Họ đều chịu sự chống đối và đủ loại đàn áp. Họ đều tin tưởng vào lý tưởng họ mang tới. Họ đều quyết liệt ủng hộ sự thay đổi về đạo đức. Họ đều hi vọng về một tương lai hiệp một cho nhân loại tốt đẹp hơn hiện tại. Vậy điều gì khiến Chúa Giê-su khác với các thầy dạy tôn giáo tầm thường? Điều gì làm Ngài đặc biệt? Để tôi chỉ ra ba gợi ý căn bản ở đây, và sau đó các chương tiếp theo sẽ tìm hiểu sâu hơn về bốn lý do chính chỉ ra Chúa Giê-su độc nhất và siêu việt hơn tất thảy.
Thứ nhất, sự ảnh hưởng của Chúa Giê-su rất đặc biệt. Không có ai trong cả lịch sử có sự ảnh hưởng đến vậy. Ngày nay, hơn một phần ba dân số thế giới xưng nhận đi theo Ngài, và không có niềm tin nào có nhiều người thờ phượng như Cơ đốc giáo. Ngay cả tại Anh, số lượng người ở Anh đi nhóm Chủ nhật nhiều hơn là đi xem bóng đá chuyên nghiệp. Nhân vật Chúa Giê-su vẫn chi phối thế giới trong hai ngàn năm qua từ lúc Ngài bước trên những ngọn đồi ở Ga-li-lê. Ngài chỉ đơn giản là con người vĩ đại nhất từng sống. Napoleon có nhiều thời gian để suy ngẫm những điều này khi ông còn bị tù tại St. Helena, và ông nói:
“Alexander, Caesar, Charlemagne và chính tôi đã lập ra những đế quốc lớn, nhưng những sáng tạo từ tài năng của chúng ta đến từ đâu? Đến từ quyền lực. Nhưng Chúa Giê-su lập ra đế quốc của Ngài bằng tình yêu thương. Ngày nay có hàng triệu người sẽ chết cho Ngài. Tôi có thể khiến cho nhiều người tận trung: họ sẽ chết cho tôi. Nhưng để làm vậy, tôi phải xuất hiện với sự ảnh hưởng khuấy động mọi người bằng vẻ bề ngoài, lời nói, giọng nói của tôi. Khi tôi gặp con người và nói với họ, tôi thắp lên ngọn lửa trung thành trong họ. Nhưng Chúa Giê-su bằng sự ảnh hưởng siêu nhiệm, dù đã qua 18 thế kỷ, vẫn đưa dắt lòng người tới với Ngài nhiều đến nỗi hàng ngàn người sẽ nhảy vào nước sôi lửa bỏng, không màng tính mạng cho Ngài”.
Chắc chắn là, Muhammad có tầm ảnh hưởng lớn, nhưng đời sống của ông ta chắc chắn không thể so sánh với Chúa Giê-su. Tôn giáo của Muhammas hiếu chiến từ những ngày đầu tại Medina. Ông ta cướp bóc các đoàn lữ hành làm chiến lợi phẩm và tiêu diệt người Do Thái ở Banu Quraiza sau Trận đánh tại Khandaq năm 627 AD. Dù các nước Hồi Giáo ôn hoà có vẻ yêu chuộng hoà bình, Hồi Giáo vẫn luôn là tôn giáo chủ chiến tại nhiều nơi trên thế giới. Điều này thấy rõ tại một số quốc gia như Nigeria và Indonesia. Cuộc tấn công của người Hồi Giáo vào Toà tháp đôi tại Trung Tâm Thương Mại Thế Giới ở New York là một dẫn chứng gần đây cho điều này. Đáng buồn thay, một vài đại diện của Cơ đốc nhân cũng giống như vậy, nhưng Đấng sáng lập thì không. Chúa Giê-su không đi theo con đường bạo lực mà dùng tình yêu thương. Thập tự giá là một minh chứng vĩ đại cho tình yêu hi sinh vì kẻ thù của Ngài. Nhưng Chúa Giê-su cũng là động lực cho sự dũng cảm, hào phóng, quan tâm người khác, sự thánh khiết và những đức tính mà bạn có thể nghĩ tới. Chẳng phải tự nhiên mà Ngài chiếm lấy trái tim và tâm trí của người nông dân và vua chúa, người tri thức và người thất học trên toàn thế giới trong nhiều thế kỷ. Và ngày nay có khoảng 100.000 người tin Chúa mỗi ngày (không phải mỗi Chủ nhật mà là mỗi ngày!). Chúng ta có thể không thấy rõ điều này tại các nước phương Tây, nhưng chắc chắn tại châu Phi, châu Á, và Nam Mỹ. Chẳng có gì khác biệt khi bạn đến với các bộ lạc Naga tại vùng đồi núi Ấn Độ, người Maasai hiếu chiến tại Kenya, những tộc người cầu vồng tại Nam Phi, dân số tại Fiji và Phần Lan, hay Singapore và Sebastapol. Ở bất kỳ đâu, và từ mọi quốc gia và nền văn hoá, đều có Cơ đốc nhân và họ đang lan rộng hơn. Thường xuyên họ bị bắt bớ chửi rủa nhưng họ không sợ hãi. Họ sẵn sàng chết cho Chúa.
Bạn có thể nói những điều tương tự về Lê-nin hay Mác. Họ đều có những ảnh hưởng sâu rộng lên một số nơi trên thế giới. Những người đi theo họ thường đạt được một tiêu chuẩn cuộc sống tốt đẹp hơn và tìm thấy mục tiêu sống. Nhưng sự hấp dẫn này thường chỉ xảy đến cho một quốc gia, một giai cấp. Mao và Lê-nin mang hi vọng đến cho những công nhân bị bóc lột nhưng chẳng mang lại được điều gì ngoài sự kết án giai cấp tư sản. Chúa Giê-su cũng mang đến hi vọng, công bằng và tình yêu cho người nghèo, nhưng cánh tay Ngài mở rộng tới tất cả loại người, người giàu và người bất hạnh, già và trẻ, kẻ kiêu ngạo và người muốn tự sát. Chúa thay đổi tất cả: nhưng Chúa không đe doạ họ hay khiến họ chối bỏ nền văn hoá của mình. Sự ảnh hưởng của Mao và Lê-nin dựa trên sự tàn ác, ghét bỏ, sự thờ ơ tệ hại với sự thật. Cả hai đều là những kẻ giết hại vô số người. Hoàn toàn trái ngược với Chúa Giê-su! Bạn có thể tìm thấy ở đâu trong toàn bộ lịch sử con người một nhân vật thống trị giá trị đạo đức, văn hoá, nghệ thuật, y tế và giáo dục? Ai có thể sánh nổi với Chúa Giê-su về sự thu hút cả đàn ông, phụ nữ và trẻ em của mọi thế hệ và các kiểu người trên thế giới, và trong sự biến đổi họ trở nên con người tốt hơn? Không ai có ảnh hưởng tốt lành như Chúa Giê-su người Na-xa-rét. Đó là điều khiến Ngài trở nên đặc biệt.
Thứ hai, sự dạy dỗ của Chúa Giê-su rất đặc biệt. Không ai từng dạy dỗ như Ngài. Như là kết luận của những người lính được sai đến bắt Ngài bởi những thầy tế lễ là người ganh tỵ với sự ảnh hưởng của Ngài. Ngài dạy họ như là có quyền, chớ không giống các thầy thông giáo (Ma-thi-ơ 7:29). Sự dạy dỗ của Ngài sâu sắc, rõ ràng và dễ nhớ. Những thầy dạy trước Ngài thích trích dẫn thẩm quyển ủng hộ sự dạy dỗ của họ. Chúa Giê-su thì không. Ngài chỉ nói: “Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi”. “Ta” ở đây là ai mà dạy dỗ với thẩm quyền và sự thu hút đến vậy? Ai có thể mời đủ kiểu người bước vào Vương quốc của Ngài, và ví sánh Đức Chúa Trời như một vị vua vĩ đại mở tiệc lớn, mời những người nam và nữ đến dự miễn phí? Những người tôn giáo tìm cớ thoái thác thấy mình bị loại bỏ và ngạc nhiên khi thấy tầng lớp hạ lưu của xã hội được chào đón. Bạn có thấy niềm tin nào mà ở đó Chúa mở tiệc và mời những người vô cùng không xứng đáng đến dự tiệc cùng Ngài không? (Lu-ca 14:15-24)
Bạn chỉ cần so sánh sự dạy dỗ của Chúa Giê-su với Cựu Ước để hiểu quyền năng này. Đừng hiểu sai ý tôi. Chúa Giê-su sử dụng Cựu Ước làm Kinh Thánh. Nhưng Ngài vẫn dạy những điều trái ngược với Cựu Ước để chứng minh sự ứng nghiệm chứ không phải chống lại lời hứa:
“Các người đừng tưởng ta đến đặng phá luật pháp hay là lời tiên tri; ta đến, không phải để phá, song để làm cho trọn.” (Ma-thi-ơ 5:17)
Hãy đọc Bài Giảng Trên Núi (Ma-thi-ơ 5-7) và tự mình cảm nhận quyền năng ở đó. Cựu Ước cấm giết người và tà dâm: Chúa Giê-su vượt trổi hơn khi cấm ghét bỏ và cấm lòng ham muốn. Cựu Ước khích lệ yêu người lân cận: Chúa Giê-su trổi hơn và khích lệ yêu kẻ thù nghịch. Cựu Ước đặt giới hạn về báo thù: “mắt đền mắt, răng đền răng” (và thế thôi!). Chúa Giê-su cấm trả thù:
“Song ta bảo các ngươi, đừng chống cự kẻ dữ. Trái lai, nếu ai vả má bên hữu ngươi, hãy đưa má bên kia cho họ luôn; nếu ai muốn kiện ngươi đặng lột cái áo vắn, hãy để họ lấy luôn cái áo dài nữa.” (Ma-thi-ơ 5:39-40)
Lời Chúa dạy thật sâu sắc và vượt trổi. Bạn có thể tìm sự sai sót ở đâu trong lời dạy của Chúa Giê-su không? Làm sao bạn có thể giải thích cho thực tế là sự dạy dỗ đạo đức của Ngài từ xưa đến nay không thay đổi? Ngài có được sự dạy dỗ không ví sánh này thể nào trong khi Ngài chưa từng đến trường học? Làm thế nào mà sự dạy dỗ đó phù hợp với mọi người đến từ mọi nền văn hoá. Nhân tố không thể lặp lại trong sự di truyền và môi trường sống của Ngài là gì mà có thể sản sinh ra một giáo viên kiệt suất vậy? Vâng, sự dạy dỗ của Chúa Giê-su quả thực đặc biệt! Nếu bạn có thể trở nên tốt hơn qua những lời đó, bạn sẽ ở trên trang bìa của mọi tờ bào chính trên thế giới.
Thứ ba, Chúa Giê-su có nhân cách đặc biệt. Chưa từng có một nhân vật như Chúa, hạ mình nhưng vẫn mạnh mẽ, cầu nguyện liên tục nhưng vẫn thực tế, thanh thản nhưng vẫn đầy năng lượng, yêu thương rất nhiều nhưng không uỷ mi, năng động nhưng không táo bạo. Không ai có thể sánh nổi với cuộc đời vô song đó, và cũng không ai có thể coi thường cuộc đời đó. Chúa Giê-su là người duy nhất từng sống có thể cân bằng hoàn toàn. Ngài không có điểm mạnh vì Ngài không có điểm yếu. Ngài có tất cả những đức tính chúng ta từng thấy nơi con người và không có một điểm xấu nào. Trong thế giới này, không có ai tương xứng với Ngài.
Ngài liên tục bảo đoàn dân đông đừng đi theo Ngài nếu Ngài không làm như Ngài nói. Và họ đã làm theo. Chính xác. Dạy về tình yêu vô hạn của Chúa thì dễ hơn là yêu những kẻ giả hình, lính La Mã, người ăn xin và người bị hủi – và yêu những môn đồ đã phản bội bạn đến chết. Nói rằng, “Phước cho những kẻ khó khăn” còn dễ hơn là thoả lòng trong khi đang vô gia cư và không xu dính túi. Dạy rằng “Cầu nguyện cho kẻ thù nghịch ngươi” còn dễ hơn là nói, “Lạy Cha, xin tha cho họ” khi những tên lính độc ác đóng đinh thân thể bê bết máu của bạn lên thập tự giá. Nhưng đó là những gì Chúa đã làm. Ngài làm đúng những gì Ngài dạy.
Đó là những điều không ví sánh được. Socrates, Môi-se, Khổng Tử, Phật Tổ, Muhammad – hoặc những người trong thời đại chúng ta như mẹ Tê-rê-sa, Martin Luther King Jr. và Billy Graham – tất cả đều dạy những điều tuyệt vời, và mọi người học theo lời họ dạy. Nhưng chưa có một ai trong họ có thể thực hành tất cả những điều họ dạy. Phật Tổ hưởng thụ cuộc sống nhung lụa trong những năm đầu đời. Hôn nhân của Khổng Tử là một thảm họa và ông đã li dị. Socrates mê đắm các câụ bé. Muhammad cưới mười một người vợ và vô số thê thiếp (sura 33.50), dù ông tuyên bố sự mặc khải thánh cho biết chỉ có tối đa bốn vợ (sura 4.3)! Hơn thế, ông ta còn tổ chức ám sát nhà thơ Ka’b Ibn Al’Ashraf vì đã viết ra những câu châm biếm ông ta, và đầu nhà thơ bị ném xuống dưới chân Muhammad với tiếng hò reo “Allahu Akbar”, “Chúa rất lớn”, tiếng hò reo này luôn đi kèm với các hoạt động tàn ác của Hồi Giáo ngày nay. Chúa cư xử khác hoàn toàn! Hơn thế, tất cả những cá nhân thực sự vĩ đại đều nhận thức sự thất bại. Sự thừa nhận đó thực sự là dấu hiệu đảm bảo cho sự vĩ đại. Nhưng Chúa Giê-su thì khác. Ngài dạy những tiêu chuẩn cao nhất so với những gì các thầy giáo khác từng tạo ra, và Ngài giữ trọn. Đây là điều gần như không tưởng, nhưng bằng chứng chứng minh điều này thật năng quyền!
Kẻ thù của Ngài không thể bôi xấu Ngài. Ba lần Bôn-xơ Phi-lát, kẻ xét xử Chúa Giê-su, tuyên bố Ngài vô tội. Ngay cả kẻ phản bội Giu-đa phải thú nhận hắn đã làm đổ huyết vô tội. Kẻ cướp bị đóng đinh cùng Chúa Giê-su công nhận rằng Ngài chẳng có gì sai, trong khi thầy đội chịu trách nhiệm hành hình phải kêu lên rằng, “Thật người nầy là người công bình”.
Nếu bằng chứng từ kẻ thù của Chúa đã gây bất ngờ như vậy, thì bằng chứng từ bạn bè của Ngài còn tác động mạnh hơn. Bình thường thì chẳng ai có thể trở thành anh hùng với những người bạn thân: họ biết hết mọi điểm yếu của anh ta. Nhưng điều này không áp dụng với Chúa Giê-su. Một trong những môn đồ của Chúa là Giăng, biết rõ Ngài và gọi Ngài “sự sáng nầy là sự sáng thật, khi đến thế gian soi sáng mọi người”. Ông khẳng định,
“Ví bằng chúng ta nói mình không có tội chi hết, ấy là chính chúng ta lừa dối mình … trong Ngài [i.e. Chúa Giê-su] không có tội lỗi.” (1 Giăng 1:8; 3:5)
Phi-e-rơ có thể gọi Ngài là “Đấng công bình” trái ngược với chúng ta là “kẻ không công bình” (1 Phi-e-rơ 3:18). Phao-lô miêu tả Ngài là “Đấng vốn chẳng biết tội lỗi” (2 Cô-rinh-tô 5:21), và tác giả viết thư cho người Hê-bơ-rơ nói về Ngài là Đấng chúng ta cần, “thánh khiết, không tội, không ô uế, biệt khỏi kẻ có tội” (Hê-bơ-rơ 7:26). Tóm lại, mọi chủ đề trong Tân Ước, được viết bởi những người biết hoặc tìm hiểu sâu về Ngài, đều nói rõ như vậy. Chúa Giê-su đã sống một cuộc đời toàn hảo.
Và đó là những gì chúng ta có thể suy luận từ lời dạy và hành động của Chúa Giê-su. Chúng ta không bao giờ đọc thấy Ngài phải xin lỗi hay thừa nhận mình sai. Và đấy là từ người thừa thông minh để chỉ ra sự giả hình của người khác! Trong bài Cầu Nguyện Chung, Ngài dạy chúng ta cầu nguyện, “Xin tha tội cho chúng tôi” nhưng Ngài không bao giờ có lời cầu nguyện đó cho chính mình. Ngài là Đấng dám tuyên bố rằng Ngài luôn làm theo những gì làm đẹp lòng Cha trên trời (Giăng 8:29). Ngài là Đấng có thể đối mặt với đám đông giận dữ bởi tuyên bố Ngài với Cha là một, và nói, “Trong các ngươi có ai bắt ta thú tội được chăng?” (Giăng 8:46) – và không ai trả lời nổi! Dù bạn nhìn nhận Chúa theo cách nào thì bản chất và đức tính của Ngài vẫn đặc biệt.
Có một vài điều khiến Chúa Giê-su trở nên đặc biệt. Tôi có thể kể nhiều hơn nhưng tôi không làm. Bạn xem nhé:
- Người khác có tầm ảnh hưởng lớn, dù không vĩ đại.
- Người khác dạy những lẽ thật vĩ đại, dù chẳng có ai trọn vẹn.
- Người khác sống cuộc đời tốt đẹp, dù chẳng có ai tốt đẹp.
Trong những chương tiếp theo, tôi muốn tập trung vào bốn điều làm Chúa Giê-su khác biệt, không chỉ đặc biệt mà còn độc nhất.
Chương 5
Không một vị thầy vĩ đại nào từng tuyên bố sẽ đưa Đức Chúa Trời đến với chúng ta
Khi chủ đề nói chuyện chuyển sang Đức Chúa Trời, mọi người thường có một trong những phản ứng sau: “Ờ, ý bạn là có quyền lực lớn đứng phía sau vụ nổ Big Bang – đã hình thành nên thế giới đúng không? Có lẽ vậy, nhưng Ngài không muốn bị loài người như bạn và tôi làm phiền”. Hoặc kiểu như, “Tôi tin rằng thế giới này là chính nó. Thích gọi nó là Chúa cũng được”.
Nhóm đầu tiên nhìn nhận Chúa là Đấng cao xa, vĩ đại, và Ngài không để tâm đến thế giới máu me này. Nhóm thứ hai nhìn nhận Chúa chính là thế giới chúng ta đang sống và chúng ta thờ phượng Ngài bằng cách thờ phượng mẹ trái đất. Cả hai đều chạm tới một điều quan trọng. Chúa đáng ngợi khen một mặt phải vĩ đại đến không tưởng, và mặt khác yêu thế gian đến nỗi Ngài thực sự quan tâm tới từng người trong chúng ta.
Và đó rõ ràng là những gì Chúa Giê-su bày tỏ khi Ngài đến. Có một bài thánh ca cổ bày tỏ rất nhiều về Chúa Giê-su được ghi lại trong một trong những bức thư Tân Ước. Bài ca cho thấy Chúa Giê-su có cả sự vĩ đại của Đức Chúa Trời và sự yêu mến và quan tâm cá nhân của Chúa cho từng người chúng ta. Bài ca như sau:
“Hãy có đồng một tâm tình như Đấng Christ đã có, Ngài vốn có hình Đức Chúa Trời, song chẳng coi sự bình đẳng mình với Đức Chúa Trời là sự nên nắm giữ; chính Ngài đã tự bỏ mình đi, lấy hình tôi tớ và trở nên giống như loài người; Ngài đã hiện ra như một người, tự hạ mình xuống, vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên cây thập tự. Cũng vì đó nên Đức Chúa Trời đã đem Ngài lên rất cao, và ban cho Ngài danh trên hết mọi danh, hầu cho nghe đến danh Đức Chúa Giê-su, mọi đầu gối trên trời, dưới đất, bên dưới đất, thảy đều quì xuống, và mọi lưỡi thảy đều xưng Giê-su Christ là Chúa, mà tôn vinh Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Cha.” (Phi-líp 2:5b-11)
Bài ca trong Tân Ước này được viết trong khoảng hai mươi năm sau khi Chúa Giê-su qua đời. Bài ca chứa một tuyên xưng sửng sốt. Hãy suy ngẫm đến nội dung bài ca. Đầu tiên, Chúa Giê-su chia sẻ bản tính của Chúa quyền năng. Ngài là Đấng duy nhất trong cả lịch sử chọn sinh ra trong thế giới này. Ngài hạ mình bằng cách trở thành một người trong chúng ta – điều này cũng tương tự như chúng ta trở thành con chuột cống hoặc con sên! Chúa quyền năng vô đối thu nhỏ chính mình vào trong tử cung của một cô gái. Đó chính là tuyên xưng của Cơ đốc nhân. Bạn hãy đánh giá điều này cẩn thận để thấy đây là một tuyên xưng không tưởng. Chúa Giê-su không phải thầy thông giáo sáng suốt, một tiên tri lang thang, nhưng là Chúa quyền năng tự giới hạn chính mình mang hình hài giống con người, để con người biết hình dáng của Ngài và Ngài yêu họ nhiều bao nhiêu. Trong sự giáng thế của Chúa mà Cơ đốc nhân gọi là “sự hoá hình” đó, bạn có sự kết hiệp của Chúa vĩ đại vô đối nhưng cũng yêu thương vô cùng và hoà nhập với cuộc sống con người. Ngài yêu đến nỗi sẵn lòng chịu sự coi khinh, chống nghịch và chịu chết: tệ hơn là cái chết tàn ác nhất có thể tưởng nổi, chết trên thập tự giá. Chúng ta sẽ biết lý do ở chương sau. Còn giờ, hãy suy ngẫm tuyên xưng này của một trong những môn đồ của Ngài:
“Chẳng hề ai thấy Đức Chúa Trời; chỉ Con một ở trong lòng Cha, là Đấng đã giải bày Cha cho chúng ta biết.” (Giăng 1:18)
Nói cách khác, nếu bạn muốn biết Đức Chúa Trời trông như thế nào, hãy nhìn kỹ vào Chúa Giê-su. “Trong Ngài”, một môn đồ khác nói, “Vì sự đầy dẫy của bản tánh Đức Chúa Trời thảy đều ở trong Đấng ấy như có hình” (Cô-lô-se 2:9). Phi-e-rơ, một trong những người bạn thân nhất của Ngài, nói về “quyền phép Đức Chúa Trời” (2 Phi-e-rơ 1:3), và Giu-đe, có thể có cùng họ với Ngài, nói về “Đức Chúa Trời có một, là Cứu Chúa chúng ta, bởi Đức Chúa Giê-su Christ là Chúa chúng ta” (Giu-đe 25). Tác giả viết cho Cơ đốc nhân người Hê-bơ-rơ rất dũng cảm. Ông nhắc đến Chúa Giê-su là,
“Con Ngài, là Con mà Ngài đã lập lên kế tự muôn vật, lại bởi Con mà Ngài đã dựng nên thế gian; Con là sự chói sáng của sự vinh hiển Đức Chúa Trời và hình bóng của bản thể Ngài, lấy lời có quyền phép Ngài nâng đỡ muôn vật; sau khi Con làm xong sự sạch tội, bèn ngồi bên hữu Đấng tôn nghiêm ở trong nơi rất cao.” (Hê-bơ-rơ 1:2-3)
Như bạn biết, Chúa Giê-su sống giản dị và dễ bị hiểu nhầm là thầy giáo dạy học dạo. Nhưng Ngài đã có một tuyên bố quan trọng nhất. Ngài gọi Đức Chúa Trời là “A-ba”, từ Ả-rập có nghĩa là “Cha yêu dấu”. Không ai trong cả lịch sử từng được ghi chép lại gọi Đức Chúa Trời như thế. Ngài tuyên xưng là Ngài tồn tại trước cả khi Áp-ra-ham được sinh ra – Áp-ra-ham là người khởi đầu của người Do Thái hai ngàn năm trước: “trước khi chưa có Áp-ra-ham, đã có ta” (Giăng 8:58). Ngài tuyên bố là ai thấy Ngài thì quả thật đã thấy Cha là Đức Chúa Trời (Giăng 14:9). Ngài tuyên bố rằng Ngài sẽ sống lại và ban cuộc sống đời đời tới ai giao phó chính họ cho Ngài (Giăng 11:25f). Ngài nói rằng không ai có thể biết Cha trừ khi thông qua Ngài là Đấng bày tỏ Cha cho mọi người biết (Ma-thi-ơ 11:25-27; Giăng 14:10-11). Ngài khẳng định rằng đến thời kỳ cuối, Ngài sẽ nhận lấy trọng trách phán xét loài người và phân tách chiên ra khỏi đàn dê, người được cứu ra khỏi kẻ hư mất (Ma-thi-ơ 7:24ff; 25:31-46).
Hãy dành thời gian suy ngẫm về những tuyên xưng vĩ đại này. Liệu có ai tâm trí ổn định có thể tuyên xưng như vậy trừ khi người đó có bản tính của Chúa? Tuyên xưng này hẳn chưa từng đến với tâm trí của Phật Tổ hay Khổng Tử vì họ chỉ mang đến hệ thống hành vi đạo đức chứ không phải mối quan hệ với Đức Chúa Trời. Muhammad trong những năm tuổi trẻ sợ hãi các thần tượng xung quanh mình, cho nên nguyên lý cơ bản cho tín ngưỡng của ông ta là Allah chỉ có một, và tội lỗi chính là gắn mác thần thánh cho bất cứ ai. Muhammad không bao giờ có thể mơ đến một tuyên xưng về việc mang lấy bản tính của Đức Chúa Trời. Nếu ông ta nghe thấy ai nói vậy, nó sẽ giáng cho ông ta một đòn nặng nề bởi sự báng bổ này, và ông ta có lẽ sẽ khiến cho kẻ dị giáo đó chết đi. Rất nhiều kẻ đi theo ông ta đã làm điều tương tự kể từ đó. Khi tôi đang viết sách thì có một tin tức cho biết hơn 10,000 Cơ đốc nhân bị giết hại bởi những kẻ Hồi Giáo cực đoan tại tỉnh Central Sulawesi tại Indonesia và hơn 8,000 người bị dí dao ép phải cải đạo sang Hồi Giáo. Còn những người từ bỏ Hồi Giáo, irtidad có thể bị xử tử. “Nếu chúng bỏ đạo thì bắt chúng và giết ngay tại nơi tìm thấy chúng” (sura 4:89).
Bất kỳ sự đánh giá công bằng dựa về các bằng chứng đều chỉ ra rằng trong các thầy giảng vĩ đại đó, chỉ có Chúa Giê-su mới tuyên bố mình có cùng bản tính của Đức Chúa Trời quyền năng trong khi đang ở trong thân thể khiêm nhu và đầy tình yêu thương của con người. Đây thực là điều không thể so sánh nổi với bất kỳ niềm tin nào trên thế giới và khiến cho Chúa Giê-su trở nên thực sự đặc biệt.
Tất nhiên, ngoài tuyên bố có cùng bản tính của Đức Chúa Trời thì điều khiến hàng trăm triệu người trên khắp thế giới trong hai ngàn năm tiếp theo bị thuyết phục là những gì Chúa Giê-su đạt được. Hãy làm rõ hơn trước khi chúng ta nhìn vào bằng chứng. Không một người Do Thái nào có thể chấp nhận ý tưởng Đức Chúa Trời đã đến thế gian trong hình hài con người. Họ tin vào thuyết độc thần như người Hồi Giáo. Nhưng mà tất cả những Cơ đốc nhân đầu tiên chính là người Do Thái: họ phải vượt qua định kiến và sự hoài nghi vô cùng lớn khi công nhận Chúa Giê-su chính là con người duy nhất mang Đức Chúa Trời đến giữa vòng chúng ta. Đây là điều họ vẫn luôn tuyên bố, như chúng ta đã thấy ở trên. Họ bị thuyết phục như thế nào? Chúng ta hãy xem lại một chút và thêm vào các quan điểm đã được nhắc đến ở các chương trước.
Họ bị thuyết phục bởi cuộc đời của Ngài. Cuộc đời vô đối. Không ai có thể chỉ ra vấn đề trong cuộc đời mà chúng ta đã thấy đó. Về tình yêu thương, sự trung thực, dũng cảm, hi sinh, hoàn toàn tin kính – là những đức tính chưa từng có ai đả động đến. Hiển nhiên là Ngài đã ảnh hưởng vô cùng lớn lên những người ở gần Ngài và khiến họ tự hỏi: “Cuộc đời này không có nổi một thất bại thông thường nào. Liệu Chúa Giê-su có trổi hơn người thường không?”
Họ bị thuyết phục bởi sự dạy dỗ của Ngài. Đó là sự dạy dỗ thẳng thắn, rõ ràng, đầy thẩm quyền, thách thức và thu hút nhất mà tai người từng nghe. Đọc một sách Phúc Âm, và tự xem. Các câu chuyện dụ ngôn năng quyền và thu hút, các thách thức tới các lãnh đạo tôn giáo, sự quan tâm tới người nghèo và thiếu thốn, khích lệ người sợ hãi, sự dạy dỗ về định mệnh của loài người, tất cả làm nên một vị thầy năng động nhất từng có. So sánh sự sắc bén của Chúa Giê-su với sự dạy dỗ dài dòng, quanh co, dù đẹp đẽ của kinh Koran, hay nếu bạn chịu đựng nổi với bài thơ Bhagavad Gita của Hindu, hay hơn 5 ngàn quyển kinh của đạo Phật Trung Quốc! Hãy tự mình xem sự đối nghịch. Sự dạy dỗ của Chúa Giê-su thu hút đến nỗi hàng ngàn người tình nguyện bỏ công bỏ việc đến để được vinh dự nghe Ngài, và sự dạy dỗ này đầy thách thức và trực tiếp đến tôn giáo đương thời đến nỗi nó khuấy động sự căm ghét dữ dội của các thầy tế lễ và khiến Ngài bị hành hình. Ngài tuyên bố rằng sự dạy dỗ của Ngài không phải đến từ Ngài mà đến từ Cha là Đấng đã sai Ngài (Giăng 7:16). Càng nhiều những người đến nghe Ngài cũng phải công nhận như vậy.
Họ bị thuyết phục bởi những phép lạ của Ngài. Không có ai từng làm những điều Chúa Giê-su đã làm. Đó là những phép lạ chữa lành: Ngài chữa lành người mù, điếc, què và có cả khiến người chết sống lại. Có những phép lạ trên thiên nhiên: cho năm ngàn người ăn bằng vài ổ bánh mì và mấy con cá nhỏ, hoá nước thành rượu, dẹp yên cơn bão, và Chúa bước đi trên biển. Thêm vào đó là sự giáng sinh thần kỳ của Ngài mà không cần có cha là con người và sự sống lại từ nấm mồ. Những phép lạ này được kiểm chứng bởi các nguồn từ người Do Thái và dân ngoại cũng như Cơ đốc nhân. Những phép lạ này không được thực hiện bởi các mục đích cá nhân. Chúng xảy ra do Chúa thương xót nhu cầu của con người. Chúng là bằng chứng chứng minh Vương quốc được mong chờ của Chúa đã đến. Và đó là những dấu hiệu thấy rõ của những gì Chúa Giê-su mang đến cho nhân loại. Đấng cho đám đông ăn có thể thoả mãn linh hồn đói khát. Đấng mở mắt người mù có thể mở mắt những người bị mù bởi định kiến và sự kiêu ngạo của họ. Đấng khiến kẻ chết sống lại có thể mang đời sống mới tới người chết thuộc linh và đạo đức. Chúng ta đọc được rằng sau khi chứng kiến một trong những phép lạ đầu tiên của Ngài “môn đồ bèn tin Ngài” (Giăng 2:11). Các phép lạ là một nhân tố năng quyền để chứng minh với họ rằng Chúa Giê-su không phải người thường.
Chúng ta sẽ bàn về thập tự giá và sự sống lại của Chúa Giê-su trong hai chương sau. Đó là những bằng chứng vô cùng quan trọng để thuyết phục các môn đồ rằng Ngài quả thực là Đức Chúa Trời đã đến để giải cứu loài người. Nhưng hai nhân tố khác cần nhắc đến ngắn gọn trước khi kết thúc chương này.
Mọi người bị thuyết phục về nhân dạng của Ngài bởi sự ứng nghiệm lời tiên tri qua Ngài. Cựu Ước có đầy những tiên đoán về Đức Chúa Trời sẽ đích thân can thiệp để giải cứu dân Ngài. Đó là sự cai trị không dứt của dòng dõi của Đa-vít. Đó là Đấng như Con Người đến với Đức Chúa Trời để nhận lấy vương quốc không bao giờ bị phá huỷ, cùng với quyền năng, vinh quang và phán xét. Họ nói về một tiên tri như Môi-se dấy lên với sự dạy dỗ không thể sánh nổi. Đó là người đầy tớ của Chúa phải chịu khổ vô cùng và sự chết của người đó sẽ lấy đi tội lỗi của nhân loại. Đó là Con Người mà phẩm chất của Ngài sánh ngang với Chúa Cha. Đấng đang đến sẽ làm trọn vai trò của tiên tri, thầy tế lễ và vua đời đời. Ngài sẽ sinh ra từ dòng dõi Đa-vít nhưng đến từ một gia đình hèn mọn. Nơi Ngài sinh là Bết-lê-hem. Ngài sẽ phục hồi Y-sơ-ra-ên và là ánh sáng cho dân ngoại. Ngài sẽ bị chối bỏ bởi dân mình, chết cùng những kẻ tội phạm và bị chôn trong mộ của nhà giàu. Nhưng không chỉ có vậy. Ngài sẽ sống lại, và chương trình của Chúa sẽ được phát triển trong tay Ngài. Sự chết và sống lại của Ngài sẽ khiến con người phục hoà với Chúa, là Đấng sẽ sai Đức Thánh Linh tới để ngự trong đời sống họ.
Tất cả những điều này đều đúng về Chúa. Không phải vài điều mà là tất cả. Điều này giúp thuyết phục những người Do Thái chính thống là Đức Chúa Trời quả thật đã đến với họ trong hình hài Chúa Giê-su. Bởi, tất nhiên, không có một hình mẫu khác ở bất cứ đâu trong văn học tiên tri thế giới được viết ra hàng thế kỷ trước đó và được ứng nghiệm sau này bởi một nhân vật lịch sử. Đây là một cú huých quyền năng khiến người ta tin.
Một điều khác thuyết phục họ rằng Chúa Giê-su quả thật đã mang Đức Chúa Trời tới với họ là những tuyên bố của Chúa. Thật lạ kỳ. Một mặt, khi bạn đọc sách Phúc Âm, bạn thấy trong Chúa Giê-su là một nhân vật khiêm nhường, vô kỷ, chữa lành kẻ đau, dạy dỗ dân sự, làm bạn với những người bị ruồng bỏ. Mặt khác, Ngài có những tuyên bố kì lạ khác, phần lớn đều ngẫu nhiên, gần như không đáng để ý đến. Ngài hiển nhiên cho mình quyền nhận được sự thờ phượng chỉ dành cho mình Đức Chúa Trời: khi môn đồ Thô-ma quỳ dưới chân Ngài sau khi Ngài sống lại và khóc, “Lạy Chúa tôi và Đức Chúa Trời tôi!” (Giăng 20:28), Chúa Giê-su chấp nhận điều này cách hiển nhiên. Không có con người tốt đẹp nào sẽ làm thế. Hẳn là Chúa Giê-su còn hơn cả một con người tốt đẹp! Hãy xem cách Ngài phản ứng với người đàn bà bị bắt vì tội ngoại tình hay người què được mang đến chỗ Ngài. Trong cả hai trường hợp Ngài nói, “Tội lỗi ngươi đã được tha rồi” và người què hưởng ứng với điều đó bằng cách đứng dạy và bước đi! Chúng ta làm sao có thể tuyên bố như vậy? Người Pha-ri-si biết rất rõ điều gì có thể khiến Chúa có tuyên bố như vậy. “Sao người nầy nói như vậy?” họ hỏi. “Ngoài một mình Đức Chúa Trời, còn có ai tha tội được chăng?” Đó chính là điểm mấu chốt. Chúa Giê-su đã đặt xuống một tuyên bố tuyệt đối là Ngài làm điều Đức Chúa Trời làm, tha thứ tội lỗi con người (xem Giăng 8:1-11; Mác 2:1-12).
Có nhiều tuyên bố khác mà Chúa Giê-su đã công bố: Ngài tuyên bố Ngài là Bánh của sự sống mà con người không có sẽ bị đói, là Đường đi tới Đức Chúa Trời, Lẽ thật về Đức Chúa Trời và sự sống của Đức Chúa Trời (Giăng 6:48; 14:6). Ngài tuyên bố là Sự sống lại và Con đường tới sự đời đời (Giăng 11:25). Ngài tuyên bố Ngài là Đấng duy nhất bày tỏ Đức Chúa Trời cho chúng ta và đưa chúng ta đến chỗ Đức Chúa Trời (Ma-thi-ơ 11:25-30; Giăng 14:1-14). Hãy đọc bất kỳ sách Phúc Âm nào – bạn sẽ chỉ nhất nhiều lắm một tiếng đồng hồ– và bạn sẽ thấy những tuyên bố như vậy. Bạn sẽ nghĩ như thế nào về những lời này? Chỉ có ba sự lựa chọn. Ngài bị điên, hoặc lừa đảo, hoặc những tuyên bố đó là sự thật. Bạn có thể tưởng tượng ra một con người có đời sống quy chuẩn cùng những dạy dỗ sâu nhiệm như vậy bị điên không? Bạn có thể tưởng được một con người dạy những lẽ thật như vậy lại là một kẻ nói dối vô cùng không? Nếu không, chỉ có duy nhất một kết luận. Đó là Chúa Giê-su thực sự đã mang Đức Chúa Trời đến cho chúng ta.
Một giáo sự vô thần đã tin Chúa, C. S. Lewis, đã nói về điều này trong quyển sách của ông Mere Christianity (Tạm dịch: Cơ đốc Giáo Thuần Nhất):
“Tôi đang cố găng ngăn cản bạn nói một điều thực sự ngớ ngẩn mà mọi người thường nói về Ngài: “Tôi sẵn lòng tiếp nhận Chúa Giê-su là thầy dạy đạo vĩ đại, nhưng tôi không chấp nhận tuyên bố là Đức Chúa Trời của ông ta”. Đó là một điều bạn không nên nói. Một con người mang hình hài con người và nói đến những điều Chúa Giê-su đã nói không thể là một thầy dạy đạo vĩ đại. Người đó hẳn bị điên – đến mức tự gọi mình là quả trứng luộc – hoặc là Ma quỷ từ Hoả ngục. Bạn phải chọn một. Cả hai đều không phải là Con Người: hoặc một gã điên, hoặc cái gì đó tệ hơn. Bạn có thể khiến kẻ dại đó câm nín: phỉ nhổ vào hắn và giết hắn như một con quỷ; hoặc bạn có thể quỳ dưới chân và gọi Ngài là Chúa và Đức Chúa Trời. Nhưng đừng đến với Ngài với bất kể những điều vô nghĩa kiêu ngạo như gọi Ngài là một con người giảng đạo vĩ đại. Ngài không có muốn bạn nghĩ vậy. Ngài chưa từng muốn vậy.”
Chúa Giê-su quả thật đặc biệt khi Ngài mang Đức Chúa Trời tới cho chúng ta. Hãy lắng nghe Lewis lần nữa.
“Không có nhà tạm, và không có sự tương đương giữa các tôn giáo. Nếu bạn đến với Phật Tổ và hỏi, ‘Ông có phải là con của Bramah?’ ông ta sẽ nói, ‘Con trai à, con vẫn đang ở trong trũng ảo tưởng.’ Nếu bạn đến với Socrates và hỏi, ‘Ông có phải là thần Zeus?’ ông ta sẽ cười vào mặt bạn. Nếu bạn đến với Muhammad và hỏi, ‘Ông có phải là Allah?’ ông ta sẽ xé quần áo của ông ta và chặt đầu bạn”.
Chúa Giê-su khác biệt trong vòng những nhà lãnh đạo tôn giáo khi tuyên bố mang Đức Chúa Trời đến với thế giới của chúng ta trong chính con người Ngài và thực hiện tuyên bố đó bằng những bằng chứng quyền năng.
Chương 6
Không có vị thầy vĩ đại nào triệt để xử lý sự xấu xa của con người
Với tôi dường như sự trưởng thành và chiều sâu của bất kỳ tôn giáo nào đều được thể hiện tốt nhất qua thái độ đối với sự xấu xa, khổ đau và sự độc ác phá huỷ sự tồn tại của con người. Chúa có hành động với cả sự công chính và thương xót không? Đây là lĩnh vực mà sự thiển cận của tôn giáo được tỏ ra rõ nhất. Đây cũng là một trong các lĩnh vực mà trí tưởng tượng về các tôn giáo phần lớn như nhau là sự dối trá nực cười.
Sự xấu xa của con người tồn tại liên tục suốt chiều dài lịch sử, và nó có gốc rễ trong mỗi người được sinh ra. Bạn chỉ cần bật tivi lên hoặc xem tờ báo, và nó sẽ chỉ thẳng cho bạn thấy: bạo lực, dâm dục, tham lam, đồi truỵ, chiến tranh, gia đình đổ vỡ, hiếp dâm, thù ghét, cay đắng, áp bức, chênh lệch giàu nghèo – và nhiều nữa. Không may thay, đây là phần vốn có trong bản chất con người và nó trường tồn bất chấp thiện chí của chính quyền, sự cải thiện điều kiện xã hội và sự giúp đỡ của các nhà tâm lý học, giảng viên và đạo đức học. Nó không thể biến mất. Đây là bằng chứng lâu dài cho thấy chúng ta không có tấm lòng vàng như chúng ta mong ước.
Hãy nhìn xem những gì các tôn giáo trên thế giới cho chúng ta biết về sự ngăn chặn sự xấu xa trong tấm lòng và hành động của con người.
Để nhấn mạnh quan điểm là tất cả các tôn giáo đều không có quan điểm chung về sự xấu xa và chịu khổ, hãy bắt đầu với chủ nghĩa Sa-tan. Đừng tưởng rằng không có chủ nghĩa này hoặc nghĩ nó vô hại. Hãy xem sự ảnh hưởng lan rộng của trào lưu phụng thờ Sa-tan. Nó không còn chỉ giới hạn trong Hội Sa-tan, băng đảng Mason, hay phòng vé xem phim Rosemary’s Baby. Tổ chức của phù thuỷ đen đang gia tăng trên toàn châu Âu. Mọi người ngày càng ưa thích khám phá tà giáo, chiêm tinh, bói toán và gọi hồn. Và chẳng có một cái nào có câu trả lời cho nan đề về sự xấu xa của con người. Chúng hoặc là ủng hộ hoặc bỏ qua.
Đạo Khổng, như chủ nghĩa nhân văn, cũng đang càn quét. Đạo Khổng có quan điểm đạo đức cao: quả thật, đạo Khổng là một hệ thống đạo đức tốt đẹp được thiết lập để giúp con người hoà hơp với nhau hơn là niềm tin được tạo ra để phục hoà con người với Trời. Nó đầy những dạy dỗ về cách cư xử của Chun-tzu, “thánh nhân” (quân tử). Nó bao gồm phiên bản phủ quyết của Luật Vàng: “Đừng áp đặt lên người khác những gì mà chính bạn không muốn” (Văn tuyển 15.24). Vậy điều gì xảy ra nếu chúng ta không làm theo được? Đạo Khổng không có câu trả lời thoả đáng.
Đạo Khổng dạy rằng bản chất con người vốn thiện: như môn đồ Meng-tzu (Mạnh Tử) của ông ta nói: “Dù nước vốn chảy xuôi xuống, nó có thể bị ép chảy ngược lên nếu chịu một áp lực từ bên ngoài. Tương tự, bản chất con người vốn là thiện, nhưng có thể bị ép vào con đường xấu xa bởi áp lực bên ngoài”. Đây là một quan điểm nông cạn. Cho rằng lời nói, việc làm, suy nghĩ và thái độ sai trái căn bản là kết quả của kết quả của áp lực bên ngoài là phi lý. Phân tích về thiện ác của Chúa Giê-su thật khác biệt:
“Vì thật là tự trong, tự lòng người mà ra những ác tưởng, sự dâm dục, trộm cướp, giết người, tà dâm, tham lam, hung ác, gian dối, hoang đàng, con mắt ganh đố, lộng ngôn, kiêu ngạo, điên cuồng. Hết thảy những điều xấu ấy ra từ trong lòng thì làm cho dơ dáy người.” (Mác 7:21-23)
Phật Giáo cũng chẳng thể giúp chúng ta. Nhiều người theo chủ nghĩa vô thần hơn đạo Khổng, vì niềm tin kiểu này mang đến những chỉ dẫn cho cuộc sống thực tế hơn. Trong Phật Giáo không có khái niệm tội lỗi chống lại Đấng Tối Cao, bởi không có đấng như thế. Nhưng có một luật đạo đức gọi là luật nhân quả. Bạn thừa hưởng món nợ đạo đức, theo kiểu từ các đời trước, và bạn thêm vào (hoặc bớt đi) phụ thuộc vào việc bạn làm trong đời này. Vậy tổng số những việc thiện và ác sẽ tái hiện trong đời sau. Bạn gửi vào một tài khoản và bạn sẽ rút ra trong đời sau. Và tiến trình vô vọng lại tiếp tục, trong hàng trăm đời, đến khi hoặc trừ khi bạn đột phá đến sự khai sáng, như chính Phật Tổ. Do đó đạo Phật áp đặt các quy tắc không hồi kết đạt được sự xuất sắc: 30 nguyên tắc để kìm nén lòng tham, 75 nguyên tắc cho người mới trở thành sư, 227 nguyên tắc cho sư nam và 311 nguyên tắc cho sư nữ! Ở đây có Quyển Nguyên Tắc thay thế toàn bộ các quyển nguyên tắc! Nhưng nó không có câu trả lời cho sự xấu xa của con người hay sự chịu khổ trừ khi từ bỏ tất cả sự ham muốn kèm với sự từ bỏ chính mình.
Đạo Hindu, xuất phát điểm của Phật Giáo, cũng tương tự ngoại trừ việc nói về sự đầu thai thay vì sự tái sinh. Nó cũng không có niềm tin về một Chúa Trời gần gũi ngoại trừ tại cõi Brahmanm, thực tại tối cao xa xôi. Nó cũng có cùng giáo lý về nghiệp chướng, luật về hậu quả đạo đức. Bạn phải trả giá cho những gì bạn làm. Không có nhiều hi vọng và cũng chẳng có nhiều tính hợp lý trong đó. Nghiệp chướng yêu cầu trả giá cho hành vi sai trái – và tất nhiên không có Chúa Trời nào nhận lấy!
Hồi Giáo còn xa rời thực tế nữa. Nó công nhận một Đấng Siêu Nhiên, Allah. Nó thừa nhận Allah vừa thánh vừa thương xót. Nó nhận biết tội lỗi và sự xấu xa của con người phải bị trừng phạt. Và kinh Koran nói rất nhiều về sự phán xét trong lửa địa ngục. Tuy nhiên, Allah vĩ đại không tưởng nổi và hoàn toàn xa cách tạo vật của mình, loài người không thể gần gũi ông ta. Tội lỗi thì không làm tan nát tấm lòng của Chúa nhưng là sự nổi loạn chống nghịch Allah. Hồi Giáo thi hành dưới một hệ thống pháp luật gồm 5 phần chính: tín điều, cầu nguyện, dâng hiến, kiêng ăn và hành hương tới thánh địa Mecca. Hồi Giáo dạy rằng, trong ngày phán xét Allah sẽ cân việc làm tốt và xấu của bạn (sura 23:102, 103), và bạn có thể hoặc không nhận được sự thương xót: “Allah trừng phạt kẻ Ngài muốn và bày tỏ lòng thương sót cho kẻ Ngài muốn” (Koran, sura 2.284, cf. 3.129, 5.18). Do vậy, không có người Hồi Giáo nào có thể đảm bảo rằng Allah sẽ thương xót cho anh ra đến thiên đàng tươi đẹp hay kết án anh ta dưới lửa địa ngục. Hậu quả là trong Hồi Giáo thường thấy những nỗ lực liên tục để đạt được sự tha thứ. Ở một số nơi, Muhammad được tôn lên gần như thánh thần: ông ta có lẽ sẽ cầu thay cho bạn tới Allah. Với một số người thì ông ta là pir, hay thánh nhân, có thể gọi là người hoà giải cho bạn. Với nhiều người thì lời cầu nguyện của người trung tín và của lễ của họ sau khi bạn qua đời có thể khiến bạn vượt biển lửa dễ dàng và có cơ hội vào thiên đàng. Nhưng không có chỗ nào có sự bảo đảm cho sự tha thứ.
Hiểu biết của Cơ đốc nhân, tôi công nhận, còn sâu sắc hơn những tôn giáo này. Không có thầy dạy vĩ đại nào xử lý quyết liệt với sự xấu xa của con người như Chúa Giê-su. Kinh Thánh cho biết, như chúng ta đã thấy, bản chất tội lỗi đặc hữu ở trong tấm lòng con người. Nó giống như cỏ lùng cứ mọc lên bất kể bạn đã nỗ lực cắt bỏ nó ra sao. Và Phúc Âm Cơ đốc duy trì những điều đúng đắn: tuyên bố Đức Chúa Trời, Đấng sáng tạo gần gũi và đời đời của thế gian và con người, rất đau lòng khi tạo vật của Ngài chối bỏ Ngài và tự đi theo ý riêng. Và Ngài phải phán xét các hành động xấu xa mà sự phản loạn bên trong dấy lên. Không có một Chúa tốt lành, chân thật và yêu thương có thể coi sự xấu xa chỉ là vấn đề không đáng bận tâm. Ngài sẽ không bao giờ vỗ vai chúng ta và nói, “Đó, đó, chẳng có vấn đề gì!” Bởi nó là vấn đề. Nó chống lại sự công bằng đạo đức trên thế giới. Hãy nghĩ đến Hitler và Stalin là những ví dụ rõ ràng của thảm sát hàng loạt. Liệu Chúa có bỏ qua không? Không. Ngài phải xử lý nó nếu Ngài là Đấng đạo đức tối cao của vũ trụ. Mặt khác, Hồi Giáo có hiểu biết đúng đắn về Đức Chúa Trời thương xót, đầy lòng thương xót và nhân từ. Kinh Thánh còn trổi hơn Hồi Giáo, vốn nhận định Đức Chúa Trời là Đấng thương xót bày tỏ sự thương xót hoặc không tuỳ theo ý muốn Ngài, khi bày tỏ về Đấng yêu thương mong mỏi có mối quan hệ mật thiết với chúng ta. Kinh Thánh dám nói rằng Chúa là tình yêu thương! Vậy chắc hẳn có một vấn đề. Sự thánh khiết và công chính của Chúa không thể cho rằng sự xấu xa chẳng sao hết. Sự xấu xa phải bị xử lý. Nó giống như bệnh ung thư tổn hại, lan ra và giết chết con người. Nó phải bị cắt bỏ.
Vậy, Chúa phải làm gì? Sự thánh khiết của Ngài phải phán xét Ma quỷ. Nhưng tình yêu thương của Ngài lại dành cho tội nhân. Làm sao Ngài có thể là Đấng mà Tân Ước viết, vừa “công chính” vừa “tỏ ra mình là công bình và xưng công bình kẻ nào tin đến Đức Chúa Giê-su” (Rô-ma 3:26). Đó chính là vấn đề.
Câu trả lời hấp dẫn bởi nó sâu sắc. Tóm lại như này. Chúa quyền năng yêu chúng ta đến nỗi Ngài đã nỗ lực chiến thắng sự bướng bỉnh và tấm lòng vị kỷ của chúng ta. Nên Ngài đã chọn một nhóm người, người Do Thái, mà Chúa đã chịu đau đớn để cho họ thấy Ngài là ai và họ nên đáp ứng sao. Ngài phải bỏ công sức để chuẩn bị họ cho cái ngày mà Ngài đích thân đến thế gian này: chúng ta gọi thời điểm đó là Giáng sinh đầu tiên. Ngài hiện ra trong hình hài con người, đạo Khổng gọi là “thánh nhân”; và cho những người có mắt thấy, Ngài hiện thân cùng lúc với sự thánh. Ngài là người và cũng là Đức Chúa Trời. Ngài sống hạ mình và hoàn toàn vâng phục Cha Thiên Thượng và sẵn lòng chia sẻ sự chịu khổ với những người cùng đi với Ngài. Ngài bị coi là con hoang, gần như bị giết sau khi sinh hạ trong chuồng chiên dơ bẩn, và trở thành dân tị nạn. Ngài sống trong một gia đình tầng lớp lao động nghèo, sau đó thì từ bỏ nhà cửa mà đi dạy dỗ, không có đặc quyền giáo dục, không có thu nhập. Ngài phải chịu sự chống đối, xét xử bất công và cái chết oan dưới một trong những hình thức xét xử đau đớn nhất, chết trên thập tự giá. Ngài uống cạn chiếc cốc khổ nạn của con người. Không ai có thể nói với Chúa là, “Ngài không hiểu đâu”. Ngài hiểu, vì Ngài đã trải qua hết rồi. Chịu khổ trọn vẹn vì tội lỗi trọn vẹn. Thế giới đã đi lệch khỏi quỹ đạo. Con người không còn cư xử như Chúa đã định, và sự chịu khổ là hậu quả không thể tránh khỏi. Có một sự liên kết dầu không trực tiếp giữa tội lỗi và sự khổ nạn của con người. Và khía cạnh tuyệt vời nhất của sự chết của Chúa Giê-su là Ngài không chỉ chia sẻ sự khổ nạn của chúng ta mà còn gánh lấy trách nhiệm cho toàn bộ rác rưởi chúng ta mang đến do sự xấu xa của con người. Khi bạn và tôi làm gì đó sai, nó ảnh hưởng và hạ thấp chúng ta. Nó tổn thương người khác. Nó luôn tạo ra một rào cản giữa chúng ta và Đức Chúa Trời. Đó là rào cản giữa Chúa yêu thương thánh khiết và chúng ta mà sự chết của Đấng Christ trên thập tự giá phải giải quyết. Đấng thánh nhân đó sẵn lòng mang lấy trên vai tất cả tội lỗi trước Chúa mà thế gian đã làm sai. Sự chết này đã xử lý sự vi phạm của cả mọi người từng sống, và của tất cả những người sẽ sống cho đến Ngày Phán Xét. Ngài mang lấy hết.
“Vả, Đấng Christ cũng vì tội lỗi chịu chết một lần, là Đấng công bình thay cho kẻ không công bình, để dẫn chúng ta đến cùng Đức Chúa Trời; về phần xác thịt thì Ngài đã chịu chết, nhưng về phần linh hồn thì được sống.” (1 Phi-e-rơ 3:18)
Không ai có thể nói rằng Chúa đã thất bại khi xử lý phải lẽ với sự xấu xa của con người: Chính Ngài đã trả giá. Ngài đã trải qua hậu quả tệ hại của nó. Bởi Ngài là con người, Ngài đã hành động đúng mực như người thay thế cho chúng ta và mang lấy gánh nặng của tội lỗi thế nhân. Và bởi Ngài là thánh, sự hi sinh của Ngài có ảnh hưởng đời đời mà không cần lặp lại hay thêm vào.
Đấng Christ mang đến một của lễ chuộc tội cho mọi thời kỳ. Vậy nên chúng ta đã được thánh hoá qua sự dâng thân thể Đấng Christ một lần đủ cả (He-bơ-rơ 10: 10,12). Đó là tuyên bố vinh hiển của Tân Ước để bạn và tôi có thể được thứ tha. Tình yêu của Chúa mời chúng ta về nhà. Của lễ không tưởng của Chúa tức là chúng ta có thể được chấp nhận bất chấp vết nhơ nào có trong bản tính của chúng ta. Và, tất nhiên, ngay khi chúng ta đáp ứng sự rời rộng vĩ đại đó, hành động của chúng ta được thay đổi. Đó là lý do tại sao khi mà một người đã thực sự dâng cuộc đời mình cho Chúa Giê-su thì người đó sẽ có sự thay đổi đạo đức lớn lao, dù chưa hoàn hảo. Tình yêu của Ngài cho chúng ta thắp lên ngọn lửa nhiệt huyết trong chúng ta và chúng ta mong đợi sống đời sống ngay thẳng yêu thương cho Ngài. “Chúng ta yêu,” vị sứ đồ nói, “vì Chúa đã yêu chúng ta trước” (1 Giăng 4:19). Chúa thánh khiết không chỉ xử lý tội lỗi con người mà người nhận sự tha thứ của Ngài còn bắt đầu tiếp nhận phong cách sống khác đến từ lòng biết ơn. Không có người thầy hay người có uy tín nào trong toàn bộ lịch sử có thể mang đến sự tha thứ trọn vẹn và một khởi đầu hoàn toàn mới như vậy. Chúa Giê-su là Đấng duy nhất kiên quyết xử lý sự xấu xa của con người bằng cách gánh lấy sự dơ bẩn đó lên chính mình để chúng ta không bao giờ phải mang lấy. Đó là lý do tại sao người theo Ngài yêu và thờ phượng Ngài. Không có một tôn giáo nào trên thế giới có thể làm được như vậy. Và không tôn giáo nào có thể mang đến câu trả lời thoả mãn để làm thế nào chúng ta có mối quan hệ mật thiết với Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, Đấng yêu thương đó cũng là Đấng công chính. Làm thế nào một Chúa công chính bỏ qua vi phạm của chúng ta? Cách có thể duy nhất là nếu trong tình yêu tuyệt đối đó Ngài quyết định chính mình trả sạch món nợ của chúng ta. Giáo lý về nghiệp chướng của Hindu dạy rằng, “Bạn phạm tội, bạn trả giá”. Thập tự giá của Đấng Christ cho thấy Đức Chúa Trời phán, “Con phạm tội, Ta trả giá”. Và đó là điểm hoàn toàn độc nhất!
Chương 7
Không có vị thầy vĩ đại nào phá bỏ rào cản cuối cùng – Sự chết
Vào ngày 27 tháng 4 năm 1783, Trung Tướng Sir Eyre Coote, KB, Chỉ huy Lực lượng Anh tại Ấn Độ qua đời. Tôi đã đến xem và bất ngờ chiêm ngưỡng đài tưởng niệm lớn dành cho những công lao của ông, có phần tóm tắt sau: “nhưng cái chết đã ngăn trở sự nghiêp vinh quang của ông”. Một sự thật hiển nhiên! “Hai phút đầu tiên của cuộc đời là hai phút then chốt,” dòng chữ được ghi trên tường phòng phẫu thuật. Bên dưới ai đó đã thêm vào, “Hai phút cuối cùng cũng nguy hiểm không kém”. Một người khác hài hước viết, “Điều nguy hiểm nhất trên đời là sống. Tỷ lệ chết là 100%”.
Đây là một quan điểm tiêu cực. Hầu hết chúng ta đều tránh nghĩ về điều này, có lẽ đến khi chúng ta đến sự đám tang một người bạn hay chính mình trải qua cơn đột quỵ. Sau đó chúng ta suy nghĩ liệu có cuộc sống đời sau. Nhà triết học người Anh Thomas Hobbes phản ánh thái độ của chúng ta rất hay: “Khi tôi chết, dòi bọ sẽ cắn nuốt thân thể tôi và tôi sẽ giao phó chính mình cho “Đấng Có Lẽ”.
Mọi người vẫn thường làm vậy từ thuở xa xưa. Tôi sẽ không bao giờ quên chuyến thăm Lebanon và xem một trong những ngôi mộ cổ nhất từng tồn tại. Bộ hài cốt được chôn trong một vị trí cao trọng. Đầu gối bị ấn xuống dưới cằm, và họ bị bọc trong một quả trứng bằng đất nung. Nói cách khác, con người từ thuở rất xưa đó ôm lấy niềm hi vọng về một cuộc đời mới sẽ chui ra khỏi “quả trứng” cái chết. Họ dám hi vọng rằng khi họ chết, họ có thể sống lại. Tôi nhớ lại mình đã bị cuốn hút bởi sự bận tâm về cái chết của người Rô-ma cổ trong chuyến đi tới Ý. Có rất nhiều bản điêu khắc có liên hệ với cái chết và đời sau tại Herculaneum và Pempeii, những thành phố Ý bị chôn vùi bởi núi lửa Vesuvius năm 79 sau công nguyên. Tại đó có những hình ảnh bộ xương cầm bình trong tay, hay sọ người nấp sau những người đang tham gia tiệc tùng và đoạn chú thích như sau, “Nhớ rằng ngươi sẽ phải chết”. Một trong những hình ảnh đáng nhớ nhất là của một con phượng hoàng, con chim trong truyền thuyết được cho rằng sẽ sống lại sau khi bị thiêu trên giàn: bên dưới là dòng chữ của một nghệ nhân, “Phượng hoàng, ngươi thật may mắn!”
Những tôn giáo lớn nói gì về rào cản vô cùng lớn, cái chết? Nhìn chung, họ không có câu trả lời thoả mãn.
Cả đạo Hindu và đạo Phật tin rằng có đời sau. Nhưng đây là những đời không đáng mong chờ. Trong đạo Hindu, atman, linh hồn của bạn được đầu thai vào trong một thân thể khác và bạn bắt đầu trả giá cho những điều xấu bạn đã làm trong đời trước. Đạo Phật thích dùng từ “tái sinh” để “đầu thai”, tin rằng ý thức khác phải chịu trách nhiệm với món nợ đạo đức xuất hiện sau khi chết. Nên nghiệp chướng là từ cuối cùng trong cả hai tôn giáo, trừ khi bạn đủ may mắn, sau nhiều đời, thấy việc tốt bạn làm trổi hơn việc xấu, trong trường hợp này thì bạn có cơ hội đến cõi niết bàn, nơi mọi ý thức kết thúc và bạn trở về với Đấng ban đầu hay Đơn tử (Monad) tạo nên và chứa đựng mọi thứ trong vũ trụ. Không có cuộc sống đời đời hay “chính bạn” để tận hưởng nó. Tương tự nhưng trăm sông đổ về một biển, và tro bụi của bạn sẽ được rải ra trên sông Ganges và trôi ra đại dương. Chả có gì để hân hoan. Điều thú vị là theo quan điểm phương Tây, đầu thai là một khái niệm phổ biến để bỡn cợt như quan điểm khoái lạc, người giàu hi vọng họ có thể giàu có và hạnh phúc hơn trong đời tiếp theo. Nhưng với phương Đông là nơi khởi đầu của giáo lý này, cõi niết bàn là một gánh rất nặng mà không ai vui vẻ mong đợi nó.
Mới đầu thì thấy Hồi Giáo tích cực hơn. Hiển nhiên họ tin vào đời sau. Ngày cuối cùng, Ngày Phán Xét, miêu tả chủ yếu trong kinh Koran (xem sura 75. 81.1-19,82, 83.4-21, 84). Ngày và giờ bí mật, nhưng có 25 dấu hiệu cho thấy nó đang đến. Tất cả mọi người sẽ sống lại. Những thiên sứ chịu trách nhiệm ghi chép sẽ mở sổ, và Allah sẽ cân việc làm của mỗi người (Koran, sura 23,102f). Ai theo và vâng lời Allah và Muhammad sẽ vượt qua cây cầu hẹp tới thiên đàng cho đạo Hồi, dù một vài người có thể rơi xuống hoả ngục tạm thời, hay đời đời. “Dân ngoại”, dân không phải người Hồi Giáo, và kẻ xấu xa sẽ bị hành hạ trong lửa hoả ngục. Khái niệm về thiên đàng của người Hồi Giáo đầy khoái lạc và dành cho nam giới nhưng lại rất ít cho nữ giới. Đàn ông sẽ ngả trên bộ ghế mềm mại và thảm sang trọng nhâm nhi ly đồ uống được dâng bởi huris, gái đồng trinh tại thiên đàng. “Họ là những trinh nữ chưa từng ô uế, với đôi mắt to, lúng liếng” (sura 88.8ft. và 56.8-38). “Họ chưa bị đàn ông hay linh hồn chạm đến” (jinn, sura 55.74). Sự nhấn mạnh vào những phần thưởng khoái lạc và hình phạt tàn khốc được lặp lại liên tục trong kinh Koran. Nhưng dù bạn có là người Hồi Giáo trung tín đến đâu thì bạn vẫn không thể tự tin được vào thiên đàng. “Cảm thấy an toàn khỏi cơn giận của Allah” là một trong 17 tội chính của Hồi Giáo, nhưng nó lại bị dung hoà bởi một tội chính khác, “tuyệt vọng với sự thương xót của Allah”. Bởi có một giáo lý mạnh mẽ về kismat xuyên xuốt những dạy dỗ của Hồi Giáo, khái niệm về định mệnh. Thiện và ác đều bắt nguồn từ ý muốn của Allah, và đó là ý muốn độc tài và không hiểu nổi. Ngay cả lời hứa “người được phước sẽ ngự trên thiên đàng” cũng bị dung hoà bởi những từ sau đó “trừ khi Allah định đoạt còn không sẽ không được” (Koran, sura 11.108). Nên một trong những câu Hồi Giáo phổ biến nhất là thuyết tiền định Insh’allah, “nếu đó là ý muốn của Allah”. Ngạc nhiên thay, chú ý không chắc chắn này đã bị thu hồi trong tuyên bố gần đây của các nguồn Hồi Giáo và nói rằng những ai tự sát và giết hàng ngàn người khác trong vụ đánh bom vào Toà Tháp Đôi tại New York, và những kẻ đánh bom tự sát người Palestine đã cố gắng giết càng nhiều người Israel càng tốt sẽ có được sự đảm bảo lên thiên đàng ngay lập tức. Ai dám tuyên bố như vậy? Làm sao chúng ta có thể đảm bảo rằng phần thưởng cho tội giết người là thiên đàng? Chắc chắn con người không thể nhận được lợi ích từ hành động này! Nó cũng không phản ánh đúng đắn lời hứa của tôn giáo đó.
Đây là lý do sứ điệp của Cơ đốc nhân thật khác biệt. Chúa Giê-su ban tặng sự sống đời đời cho những ai yêu và tin cậy Ngài. Món quà này không đặt trên niềm vui khoái lạc mà là niềm vui được ở trong mối quan hệ mật thiết với Đức Chúa Trời hằng sống và dân sự Ngài đời đời. Chúng ta đọc thấy trong ngôn ngữ biểu tượng của sách Khải Huyền:
“Nầy, đền tạm của Đức Chúa Trời ở giữa loài người! Ngài sẽ ở với chúng, và chúng sẽ làm dân Ngài; chính Đức Chúa Trời sẽ ở với chúng. Ngài sẽ lau ráo hết nước mắt khỏi mắt chúng, sẽ không có sự chết, cũng không có than khóc, kêu ca, hay là đau đớn nữa; vì những sự thứ nhất đã qua rồi. Đấng ngự trên ngôi phán rằng: Nầy, ta làm mới lại hết thảy muôn vật. Đoạn, lại rằng: Hãy chép; vì những lời nầy đều trung tín và chân thật.” (Khải huyền 21:3-5)
Rất ít chỗ trong Kinh Thánh miêu tả cuộc sống sau khi chết. Đó là “ở cùng với Chúa luôn luôn”, “đi ở với Đấng Christ, là điều rất tốt hơn” và ở “với Đấng Christ” ngôn từ bày tỏ mối quan hệ (1 Thê-sa-lô-ni-a 4:17, Phi-líp 1:23). Hoàn toàn trái ngược với sự dạy dỗ của các niềm tin khác, thẻ thành viên của thiên đàng không thể kiếm được bằng việc thiện của chúng ta, mà là nhân cách. Đó là món quà của Chúa tể trị cho những ai giao phó cuộc đời họ cho Chúa Giê-su và tìm kiếm sự vâng lời Ngài. Tất nhiên, không có sự ép buộc. Chúa không có lính nghĩa vụ trên thiên đàng. Những ai kiên quyết quay lưng lại với Chúa và từ chối món quà sự sống đời đời thì chính họ bị chê trách. Nếu họ chọn điều trong Kinh Thánh gọi là: “hình phạt hư mất đời đời, xa cách mặt Chúa và sự vinh hiển của quyền phép Ngài” (2 Tê-sa-lô-ni-a 1:9), Chúa cũng đành phải chấp nhận sự lựa chọn của họ. Nhưng họ sẽ phải đẩy lùi thập tự giá mà Chúa dựng lên để làm vạch ngăn cách con người khỏi đi xuống hoả ngục. Trong mọi sự kiện, đến cuối cùng chúng ta đều phải phân tích mà đưa ra sự lựa chọn. Và Chúa thực sự ban cho điều lòng chúng ta ao ước. Mỗi chúng ta sẽ phải đi tới nơi thuộc về mình.
Vậy thì bạn có thể nói rằng, tại sao lại tin vào một điều tốt hơn quan điểm về thiên đàng và hoả ngục của Hồi Giáo? Đây là một câu hỏi hay có sẵn câu trả lời quyền năng. Đó là lời hứa Chúa Giê-su để lại vào đêm trước khi Ngài bị nộp.
“Trong nhà Cha ta có nhiều chỗ ở; bằng chẳng vậy, ta đã nói cho các ngươi rồi. Ta đi sắm sẵn cho các ngươi một chỗ. Khi ta đã đi, và sắm sẵn cho các ngươi một chỗ rồi, ta sẽ trở lại đem các ngươi đi với ta, hầu cho ta ở đâu thì các ngươi cũng ở đó.” (Giăng 14:2-3)
Đây thực là điều đáng kể khi công nhận một tuyên bố như trên: sống lại để đi đến một cuộc sống mới, tươi sáng sau ba ngày. Và đây quả thật là điều Chúa Giê-su đã làm. Bằng chứng cho điều này rất thuyết phục. Trong tất cả các thầy dạy vĩ đại của các tôn giáo trên thế giới, chỉ duy Chúa Giê-su ra khỏi sự kìm hãm lạnh lẽo của sự chết. Xương của Phật Tổ bị chia nhỏ và cất giữ ở các quốc gia khác nhau. Xương của Muhammad nằm lại Medina. Nhưng xương của Chúa Giê-su không tìm thấy hay được tôn thờ ở bất cứ đâu. Thân thể của Ngài đã sống lại từ bụi đất của sự chết bởi Đức Chúa Trời, Cha Ngài trên trời. Ngài sống đời đời. Sự sống lại từ trong ngôi mộ là sự khởi đầu cho toàn bộ phong trào Cơ đốc.
Không ai có thể tin vào tuyên bố này nếu không có bằng chứng đúng. Và bằng chứng cho sự phục sinh của Chúa Giê-su không chỉ đúng mà còn rất thuyết phục. Tóm lại, tôi đã nói chi tiết hơn về điều này trong quyển The Empty Cross of Jesus (tạm dịch: Thập Tự Trống của Chúa Giê-su, Hodder, 1998).
Trước nhất hãy hiểu rõ rằng Chúa Giê-su thực sự đã chết trên thập tự giá. Hồi Giáo vẫn nắm lấy quan niệm là Ngài không chết trên thập tự giá: hầu hết người Hồi Giáo tin rằng Giu-đa Ích-ra-ri-ốt mới chết. Thực ra chính kinh Koran tự mâu thuẫn về chủ đề này, chúng ta đọc thấy, “Sau đó Allah phán ‘Ôi Giê-su, Ta đã bắt ngươi chết rồi đem ngươi lên đến chỗ ta và thanh tẩy ngươi khỏi những lời vu khống’” (Koran, sura 3.55) và vào thời điểm giáng sinh, hài nhi Giê-su đáng nhẽ phải nói, “Bình an trong ngày ta sinh ra, ngày ta chết, và ngày ta được sống lại” (Koran, sura 19.33). Nhưng quan điểm phổ biến trong Hồi Giáo lại được tìm thấy trong Koran, sura 4. 156f: “Họ không giết ngài, cũng chẳng đóng đinh ngài, tất cả là để họ nhìn thấy … Bởi chắc chắn họ không giết ngài. Không, chính Allah đưa ngài đến chỗ mình”. Tức là Chúa Giê-su không chết trên thập tự giá, mà là ai đó hoặc ma quỷ, một dị giáo được chép trong Công Vụ của Giăng ở đầu thế kỷ thứ ba. Liệu Muhammad có quen thuộc với bản dịch tiếng Ả-rập không? Cả Trí huệ giáo vốn phát minh ra thuyết này và Hồi Giáo đều bị thuyết phục rằng Đức Chúa Trời không thể chịu khổ. Tất nhiên Hồi Giáo cũng không tin Chúa Giê-su có thần tính: gán thần tính cho bất kỳ ai ngoài Allah là shirk, tội không thể tha. Nhưng Hồi Giáo không thể tưởng nổi Allah có thể từ bỏ một tiên tri để hoàn thành sứ mạng của mình và điều này cũng trái ngược với sự công bình của ngài khi để cho một con người vô tội chịu khổ thay cho những người khác. Nên người Hồi Giáo gặp rắc rối với Chúa Giê-su. Họ coi Ngài là một tiên tri, nhưng không vĩ đại được như tiên tri Muhammad. Nhưng họ tin rằng Chúa Giê-su được đưa lên thiên đàng mà không phải trải qua sự chết, khiến Ngài siêu việt hơn Muhamad đã chết.
Sự chết của Chúa Giê-su trên thập tự giá là chắc chắn. Đó là một cuộc hành hình La Mã công khai và được xác định không chỉ trong bốn sách Phúc Âm và cả Tân Ước, mà còn trong cả các tài liệu La Mã và Do Thái thời đó, như là của sử gia Tacitus (Annals 15.44) và Josephus (Antiquities 18.3). Quả thật, tấm biển “Giê-su người Na-za-rét, vua Do Thái” được viết bằng ba ngôn ngữ và đóng trên thập tự giá, có thể đã được bảo tồn, và được nhận diện gần đây bởi giáo sư Carsten Thiede. Người La Mã rất là kỹ lưỡng về các cuộc hành hình. Không thể nghi ngờ về sự đóng đinh Chúa Giê-su và bằng chứng cho điều này hiện hay được so sánh với những lời khẳng định không chắc chắn của kinh Koran được viết từ thế kỷ thứ bảy!
Tất nhiên, Ngài đã bị đóng đinh, nhưng Ngài có thực sự chết? Liệu Ngài có được hồi phục khi đang ở trong ngôi mộ lạnh lẽo, bước ra và thuyết phục các môn đồ là Ngài đã sống lại? Đây là một giả thiết ngu xuẩn, dù nhiều người tuyệt vọng bác bỏ sự sống lại trong nhiều thế kỷ cho đến nay. Bởi một điều, không có một ghi chép nào về ai đó còn sống sau khi bị đánh bằng roi và tử hình bởi người La Mã. Kể cả nếu Chúa Giê-su có sống sót nổi, Ngài hẳn quá yếu để có thể đẩy hòn đá to lớn chặn cửa mộ. Mà nếu Ngài làm được điều đó, làm sao một con người máu me be bét, thương tật, liệt giường có thể thuyết phục các môn đồ rằng Ngài là Chúa của sự sống và chiến thắng sự chết? Nếu bạn muốn có bằng chứng cuối cùng chứng minh Chúa chết, đó chính là bằng chứng mắt thấy đảm bảo rằng Ngài đã chết của người lính xiên giáo ngang sườn Ngài và thấy “máu và nước” chảy ra (Giăng 19:34). Tác giả xưa hẳn không biết gì về các biểu hiện lâm sàng mà ông thấy, nhưng bất kỳ vị bác sĩ nào ngày nay có thể nói với bạn rằng máu đông bị tách khỏi huyết thanh là một trong những bằng chứng bảo đảm nhất cho cái chết. Đây là bằng chứng chắc chắn cho sự chết của Chúa.
Và những bằng chứng trong lịch sử chứng minh rằng Chúa Giê-su đã chết và được chôn, ngôi mộ bị niêm phong bởi tảng đá lớn, có một lính gác canh cửa mộ thì Chúa Giê-su đã sống lại từ cõi chết trong ngày Phục sinh đầu tiên, và ngôi mộ được tìm thấy trống không.
Kẻ thù của Ngài có di chuyển cái xác đi không? Tất nhiên không. Vì họ đã khiến Ngài ở trong nơi họ muốn rồi. Hay bạn của Ngài? Không. Họ đều không còn tâm trí mà chạy trốn vì cảm thấy họ đã đi theo một lãnh đạo mất tín nhiệm, bị tử hình và đập nát mọi hi vọng. Họ chắc chắn không mong đợi Ngài sống lại: các ghi chép trong sách Phúc Âm cho thấy họ hoàn toàn ngạc nhiên và từ chối tin ngay từ đầu. Họ không thể lọt khỏi người canh gác lẻn vào ngôi mộ niêm phong, và kể cả nếu họ đã làm thế thì họ cũng không thể đi khắp thế gian công bố sự sống lại của Ngài với niềm vui vô vàn khiến mọi người tưởng họ say rượu, và có sự kiên trì đến nỗi tù đày, hành hạ và cái chết không thể ngăn cản họ. Bạn sẽ không để mình bị giết để tuyên bố một lời dối trá!
Mọi ghi chép chứng minh ngôi mộ trống vào ngày Phục sinh, và có những bằng chứng vui mừng được kể đến trong sách Phúc Âm. Ví dụ như sau. Thánh đồ Giăng kể cho chúng ta là Phi-e-rơ và Giăng đã chạy đến ngôi mộ khi họ nghe thấy Chúa còn sống từ một người đàn bà. Khi họ đến đấy, khom người nhìn vào, họ thấy có điều kỳ lạ về tấm vải liệm được ướp với các hương liệu (cách chôn của người Do Thái) và quấn quanh người Chúa Giê-su. Tấm vải nằm đó nguyên hiện trạng – nhưng không có người bên trong. Các môn đồ cũng thấy tấm khăn liệm trùm đầu Ngài “chẳng cùng một chỗ với vải, nhưng cuốn lại để riêng ra một nơi khác” – và họ thấy mà tin (Giăng 20:7). Tại sao? Vì họ thấy rõ ràng là cơ thể của Chúa Giê-su đã ra khỏi bộ đồ tang, như con bướm chui khỏi kén: và tấm khăn liệm trùm đầu để riêng ra nơi khác giống như cái nắp của cái kén rời ra khi con bướm chui ra. Kẻ thù của Chúa chắc chắn không dời cơ thể Chúa đi. Bạn của Chúa cũng không. Không ai làm hết. Bằng chứng của bộ áo tang chứng minh điều này. Do đó chúng ta đi đến một kết luận là ngôi mộ trống vì Đức Chúa Trời đã khiến Chúa Giê-su sống lại.
Nhưng ngôi mộ trống không phải là bằng chứng quan trọng nhất cho thấy Chúa đã chiến thắng sự chết. Hội thánh Cơ đốc được sinh ra bởi ngày Phục sinh đầu tiên. Ban đầu, Cơ đốc giáo chẳng khác gì với Do Thái giáo ngoài niềm tin về Chúa Giê-su là Đấng giải cứu tối cao của Đức Chúa Trời đã bị đóng đinh và sống lại từ cõi chết. Như Phao-lô đã nói trong Rô-ma 1:4, Chúa Giê-su chứng minh Ngài là Con Đức Chúa Trời bởi sự sống lại từ kẻ chết. Và Hội thánh, được trang bị với niềm tin này, vốn bị người Do Thái và dân ngoại coi là không có thật, càn quét thế giới Địa Trung Hải, cải giáo bất cứ nơi nào họ đi qua. Ngày nay hội thánh chiếm hơn một phần ba dân số thế giới.
Hội thánh ban đầu có ba đặc điểm mà bạn đã thấy ở bất cứ nơi đâu. Giờ bạn vẫn thấy. Một ngày đặc biệt, Chủ nhật. Một lễ nghi bắt đầu đặc biệt, báp-têm. Và một lễ đặc biệt, Tiệc Thánh. Cả ba đặc điểm này sẽ không thể có được nếu sự sống lại là giả. Tín hữu báp-têm mọi người để tượng trưng cho sự hiệp một với Chúa Giê-su trong sự chết và sự sống lại của Ngài. Họ ăn bữa tiệc thánh với niềm vui trong sự hiện diện của Chúa sống lại. Và họ đổi ngày nghỉ ngơi từ thứ Bảy (để tôn kính sự hoàn thành công việc của Chúa trên tạo vật của Ngài) sang Chúa nhật (để tôn kính Đức Chúa Trời đã khiến Chúa Giê-su sống lại)! Báp-têm, Tiệc Thánh và Chúa nhật xác nhận sự sống lại của Chúa Giê-su. Không thể chấp nhận được quan điểm Cơ đốc nhân đã sáng tạo ra bất kỳ điều nào nói trên nếu sự sống lại không xảy ra.
Nhưng chúng ta có thể tiến xa hơn. Chúa xuất hiện sau khi sống lại trước rất nhiều người. Phao-lô, sau sự kiện đó khoảng hai mươi năm, viết thư nhắc nhở tín hữu tại Cô-rinh-tô về một điểm then chốt của sự sống lại: toàn bộ đức tin của họ là ở tại sự kiện đó. Và ông kể Chúa Giê-su đã hiện ra với Phi-e-rơ, người đã chối Chúa, sau đó là mười hai sứ đồ, những người đã bỏ chạy, sau đó với 500 người theo Ngài, có lẽ là tại Ga-li-lê nơi phần lớn chức vụ của Ngài diễn ra. Ngài hiện ra với em trai Ngài là Gia-cơ, người đã không tin Ngài khi Ngài đang thi hành chức vụ, và cuối cùng Phao-lô nhắc đến chính mình, người đã bắt bớ tàn bạo Hội thánh non trẻ. Hãy kết nối các chi tiết lại: thêm vào chi tiết những người nữ đã thấy ngôi mộ trống vào buổi sáng Phục sinh, bạn thấy Ngài hiện ra (ở nhiều địa điểm khác nhau) tới những người đánh cá đã theo Ngài trong ba năm, tới người em trai hoài nghi, tới phe chống đối Pha-ra-si cuồng tín, và tới 500 con người bình thường, phần lớn bọn họ đều còn sống khi Phao-lô viết thư (1 Cô-rinh-tô 15:1-11). Quả là một bằng chứng mạnh mẽ phải không? Không có ai trong thời đó có thể chối cãi được.
Và có lẽ bằng chứng thuyết phục nhất là cách cuộc đời của các môn đồ đầu tiên được biến đổi hoàn toàn bởi sự đồng công với Chúa Giê-su sau khi Ngài sống lại. Phi-e-rơ được biến đổi từ một kẻ hèn nhát chối từ thầy mình khi sự bắt bớ đến, thành người đàn ông đá tảng mà người Do Thái không thể đe doạ bằng vũ lực, bỏ tù hay tử hình. Mười hai môn đồ được biến đổi từ những người bị đánh bại sang đội quân thiện chiến bởi sự sống lại. Năm trăm người được biến đổi từ nhóm người ô hợp sang hội thánh: lời chứng của họ trở thành một trong những câu chuyện về “sự trở lại” vĩ đại nhất trong lịch sử thế giới. Tất cả môn đồ, gồm cả Thô-ma (Giăng 20: 26-31), thay đổi từ không tin đến đức tin nóng cháy. Gia-cơ, người em hoài nghi, được thay đổi bởi sự sống lại trở thanh tín hữu và sau đó lãnh đạo hội thánh tại Giê-ru-sa-lem. Nguyên nhân là vì sao? Đơn giản: “Ngài hiện ra cho Gia-cơ”. Và có lẽ điều kỳ diệu nhất là sự biến đổi Sau-lơ người Tạt-sơ, kẻ bắt bớ hội thánh tàn nhẫn, thành Phao-lô, môn đồ không biết sợ nhất. Lý do ư? “sau những người ấy, Ngài cũng hiện ra cho tôi xem” (1 Cô-rinh-tô 15:7, 8).
Chúa Giê-su cũng đã xuất hiện cho tôi. Tôi không được thấy Ngài thuộc thể, nhưng tôi đã kinh nghiệm quyền năng và sự hiện diện của Ngài từ lúc tôi đặt niềm tin nơi Ngài 56 năm trước. Tôi không nghĩ rằng Chúa Giê-su đang sống. Tôi biết Ngài đang sống. Ngài dẫn dắt tôi khi tôi bối rối, khích lệ tôi trong những lúc nản lòng, mạnh sức tôi để chiến thắng sự cám dỗ, mang cho tôi niềm vui và sự bình an mà tôi không thể tìm thấy ở đâu, tình yêu cho những người không được để ý tới, và một lý tưởng tuyệt vời để sống. Tôi có thể nói với sứ đồ Phao-lô, “vì biết ta đã tin Đấng nào” (2 Ti-mô-thê 1:12). Không chỉ biết về Ngài, nhưng biết Ngài. Và đó là đặc quyền của hàng tỷ người khi trở thành Cơ đốc nhân kể từ ngày Phục sinh đầu tiên. Họ đều là chứng nhân cho sự sống lại. Không có niềm tin nào có thể nói như vậy. Chúa Giê-su đặc biệt, vì Ngài đã phá vỡ rào cản sự chết. Và vì Ngài còn sống, chúng ta có thể biết Ngài và vui thích Ngài trong đời này và tự tin rằng sau khi chết chúng ta sẽ ở với Ngài, là niềm vui lớn hơn bất kỳ niềm vui nào thế gian có thể mang đến. Không như những lãnh đạo khác, Ngài không chỉ hứa sự sống đời đời khi bước đi với Ngài mà còn xác nhận lời hứa đó thông qua sự sống lại từ cõi chết. Và Khổng Tử, Muhammad, Socrates và những người khác không thể làm được. Bạn có thấy đây là điều thực sự khiến Chúa Giê-su trở nên đặc biệt không?
Chương 8
Không có vị thầy vĩ đại nào chọn sống chung với môn đồ
Không có điểm nào khiến Cơ đốc giáo hoàn toàn khác với các niềm tin khác trên thế giới hơn điểm này. Đó là người sáng lập chọn đến và sống trong lòng và cuộc đời của các tín hữu! Hãy xem xét tuyên bố hoàn toàn ngược đời này.
Xét trên nhiều khía cạnh, Chúa Giê-su có những điểm giống như các thầy dạy tôn giáo và triết học khác. Socrates có một nhóm tín đồ luôn đi theo thảo luận về bản chất của lẽ thật với ông. Phật Tổ cũng có một nhóm tương tự. Chúa Giê-su cũng vậy. Đây là điều phổ biến trong thế giới cổ xưa. Đó là cách để Thầy truyền đạt kiến thức tới cho môn đồ. Nên không có gì bất thường về Chúa Giê-su. Sự khác biệt khác thường bắt đầu xuất hiện vào cái đêm trước khi Ngài chết. Ngài bắt đầu dạy dỗ họ, mà họ chỉ có thể hiểu mơ hồ, về Đức Thánh Linh. Ngài nói như vậy:
“Ta lại sẽ nài xin Cha, Ngài sẽ ban cho các ngươi một Đấng Yên ủi khác, để ở với các ngươi đời đời, tức là Thần lẽ thật, mà thế gian không thể nhận lãnh được, vì chẳng thấy và chẳng biết Ngài; nhưng các ngươi biết Ngài, vì Ngài vẫn ở với các ngươi và sẽ ở trong các ngươi. Ta không để cho các ngươi mồ côi đâu, ta sẽ đến cùng các ngươi.” (Giăng 14:16-18)
Ý Chúa là gì? Ngài đang nhắc đến ai?
Hồi Giáo có câu trả lời rất hay. Họ tin rằng Chúa Giê-su, mà kinh Ko-ran coi trọng như một vị tiên tri đến từ Allah, đang tiên đoán về sự xuất hiện của Muhammad vào sáu thế kỷ sau. Sự giải thích này là không thể. “Đấng Yên Ủi” phải ở cùng các môn đồ mãi mãi và sẽ sống trong họ, và thế gian sẽ thấy, biết và tiếp nhận Ngài. Chắc chắn đó không phải là Muhammad hay người khác: bất cứ con người xác thịt tài năng nào cũng sẽ được biết đến, chào mừng nhưng chắc chắn không thể sống trong thân thể người khác.
Không. Chúa Giê-su nhắc đến Đức Thánh Linh, Đấng họ đã biết bởi Ngài ngự trong Chúa Giê-su. Chúa Giê-su là Đấng dẫn dắt, dạy dỗ và yên ủi cho môn đồ Ngài, và Ngài hứa sau khi Ngài chết họ sẽ nhận được “Đấng Yên Ủi” khác. Trong lời dạy của Chúa Giê-su trước khi chết tới các môn đồ có nhiều liên hệ đến Ngài, được ghi lại trong Giăng đoạn 14-16. Đức Thánh Linh sẽ là món quà lâu dài cho họ, Ngài sẽ đưa họ tiến xa đến lẽ thật của Đức Chúa Trời, ngập tràn họ trong sự bình an của Chúa Giê-su, mang lời chứng về Chúa Giê-su và dẫn dắt các môn đồ làm điều tương tự. Họ còn nhận thấy lợi ích của sự kiện Chúa Giê-su yêu dấu bị mang đi, bởi nếu không thì Thánh Linh sẽ không đến với họ.
Nhưng bởi sự hiểu biết giới hạn về những gì Chúa Giê-su nói, các môn đồ vẫn có thể nắm được ý chính của Chúa Giê-su, từ những hiểu biết về Cựu Ước. Thánh Linh của Chúa được bày tỏ từ thuở ban đầu. Sáng thế ký 1:2 nói rằng Thần Đức Chúa Trời vận hành trên mặt nước và tham gia vào sự sáng tạo thế giới. Trong Cựu Ước, vai trò của Đức Thánh Linh càng rõ rệt. Đó là Thánh Linh của Đức Chúa Trời mà chúng ta đang nói đến, không phải khía cạnh thuộc linh của con người. Thần của Đức Chúa Trời không phải bị thuần hoá bởi con người, mà là một “Thần khác” và mạnh mẽ hơn. Thánh Linh đó giáng trên người thợ Bết-sa-lê-ên, khiến anh ta trở nên một người thợ lành nghề (Xuất 31:2-5). Thánh Linh ngự trên con người bình thường như Ghê-đê-ôn khiến ông trở thành một người giải cứu mạnh mẽ (Các quan xét 6). Thánh Linh giáng trên Sam-sôn và khiến ông trở thành người mạnh nhất thế gian (Các quan xét 13). Nhưng mạnh mẽ nhất là khi chúng ta thấy Thánh Linh Chúa cảm hứng các tiên tri và khiến họ phán lời của Đức Chúa Trời cho dân Y-sơ-ra-ên.
Tuy nhiên, có ba điểm hạn chế lớn về Đức Thánh Linh trong Cựu Ước. Thứ nhất, Thánh Linh chỉ là một năng quyền: không phải một thân vị. Thứ hai, Thánh Linh không phải dành cho mọi người mà chỉ dành cho những người đặc biệt được chọn bởi Chúa, như vua và tiên tri. Và thứ ba, Đức Thánh Linh không nhất thiết phải ở mãi với một người trong thời điểm Cựu Ước. Thánh Linh có thể rời đi nếu người đó bất tuân, như Vua Sau-lơ hay Sam-sôn.
Có những bất lợi, nhưng cũng có những hi vọng tươi sáng, đặc biệt trong ghi chép của Ê-xê-chiên và Giê-rê-mi. Họ tìm kiếm người sẽ ra từ dòng dõi vua Đa-vít, dù mịt mù bởi sự lưu đày, thất bại và cái chết.
“Có một chồi sẽ nứt lên từ gốc Y-sai, một nhánh từ rễ nó sẽ ra trái. Thần của Đức Giê-hô-va sẽ ngự trên Ngài, tức là thần khôn ngoan và thông sáng, thần mưu toan và mạnh sức, thần hiểu biết và kính sợ Đức Giê-hô-va.” (Ê-sai 11:1-2)
Họ cũng tìm kiếm ngày mà Thánh Linh của Chúa sẽ ngự trong tất cả dân sự Ngài. Ngày đó sẽ đến với sự thoả thuận mới và kéo dài giữa Đức Chúa Trời và con người. Ê-xê-chi-ên đã tiên tri 600 năm trước về Chúa Giê-su.
“Ta sẽ rưới nước trong trên các ngươi, và các ngươi sẽ trở nên sạch; ta sẽ làm sạch hết mọi sự ô uế và mọi thần tượng của các ngươi. Ta sẽ ban lòng mới cho các ngươi, và đặt thần mới trong các ngươi. Ta sẽ cất lòng bằng đá khỏi thịt các ngươi, và ban cho các ngươi lòng bằng thịt. Ta sẽ đặt Thần ta trong các ngươi, và khiến các ngươi noi theo luật lệ ta, thì các ngươi sẽ giữ mạng lịnh ta và làm theo … các ngươi sẽ làm dân ta, ta sẽ làm Đức Chúa Trời các ngươi.” (Ê-xê-chi-ên 36:25-29)
Tiên tri Giê-rê-mi là người sống cùng thời cũng có sứ điệp tương tự:
“Đức Giê-hô-va phán: Nầy là giao ước mà ta sẽ lập với nhà Y-sơ-ra-ên sau những ngày đó. Ta sẽ đặt luật pháp ta trong bụng chúng nó và chép vào lòng. Ta sẽ làm Đức Chúa Trời chúng nó, chúng nó sẽ làm dân ta. Chúng nó ai nấy sẽ chẳng dạy kẻ lân cận mình hay là anh em mình, mà rằng: Hãy nhận biết Đức Giê-hô-va! vì chúng nó thảy đều sẽ biết ta, kẻ nhỏ cũng như kẻ lớn. Đức Giê-hô-va phán: Ta sẽ tha sự gian ác chúng nó, và chẳng nhớ tội chúng nó nữa.” (Giê-rê-mi 31:33-34)
Đây là một điều không tin nổi. Tất cả dân sự của Chúa sẽ nhận lãnh Đức Thánh Linh. Thay vì có các điều răn đặt trước mặt họ trên các tấm bảng đá, họ sẽ có các điều răn ở trong họ bởi Thánh Linh. Thay vì chỉ có những con người đứng đầu biết Chúa, tất cả đều sẽ biết Ngài. Thay vì hệ thống tế lễ, mà tội lỗi được nhắc lại mỗi năm nhưng không được tha, tội lỗi của họ sẽ sẽ được làm trọn và tha thứ! Thật là một lời hứa tuyệt diệu. Mối quan hệ cá nhân với Chúa, sự tha thứ thật, và Thánh Linh của Chúa sống trong họ để chỉ dẫn họ trong các quyết định đạo đức để họ thực sự làm đẹp lòng Chúa.
Đó là bối cảnh phía sau lời hứa của Chúa Giê-su cho các môn đồ vào đêm trước khi Ngài bị nộp. Ngài đã ứng nghiệm điều Ê-sai mong đợi. Ngài đến từ dòng dõi Đa-vít, rễ đâm ra từ dòng dõi hoàng tộc. Và các nhà truyền giáo đều nói về Thánh Linh của Chúa ngự trên Ngài khi Ngài làm phép báp-têm tại sông Giô-đanh và ở lại (như một món quà đời đời) xuyên suốt chức vụ trên đất, nên sự dạy dỗ, phép lạ, đuổi quỷ đều là công việc của Đức Thánh Linh ngự trong Ngài. Và tại buổi ăn tối, Ngài nói với các môn đồ đang ủ rũ, thất vọng vì họ biết Ngài sẽ chết, rằng ngày lớn được phán bởi tiên tri Giê-rê-mi và Ê-xê-chi-ên đang đến. Sự chết và sống lại của Ngài sẽ giải phòng Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời đang ngự đầy dẫy trong Chúa Giê-su, bước vào cuộc đời của tất cả những người theo Ngài. Thánh Linh sẽ không phải một Đấng xa lạ nhưng mang những đặc tính của Chúa Giê-su. Con người sẽ không còn kinh nghiệm Thánh Linh như một quyền năng mà như một thân vị: không phải quyền năng mà là Ngài! Và Thánh Linh sẽ không chỉ dành cho số ít người được chọn mà cho tất cả các tín hữu. Ngài sẽ bày tỏ sự hiện diện của Chúa Giê-su tới những người chưa từng thấy Ngài hoặc sống cách xa nhiều thế kỷ sau đó, để họ cũng biết và vui thoả với Ngài, giống như những người sống cùng thời với Ngài. Và có lẽ quan trọng hơn là không còn nguy cơ ngày nay có Thánh linh, nhưng mai mất Thánh Linh: Ngài sẽ thuộc sở hữu của tín hữu đời đời, lời cam kết của sự tha thứ, năng quyền, và tri thức của Đức Chúa Trời.
Tôi không cho rằng các môn đồ hiểu hết khi ở trên Phòng Cao vào buổi tối của Buổi Ăn Tối Cuối Cùng. Nhưng sớm thôi họ sẽ thấy điều đó thành sự thực cách vinh hiển. Khi chúng ta đọc chương cuối, Chúa Giê-su sống lại trong ngày Phục Sinh đầu tiên, và trước khi trở về với Cha trên trời, chức vụ của Ngài trên đất đã thành. Việc làm cuối cùng trên đất của Chúa là lặp lại lời hứa Thánh Linh sẽ giáng trên họ và ban cho họ năng quyền để công bố Phúc Âm trên toàn thế giới:
“Nhưng khi Đức Thánh Linh giáng trên các ngươi, thì các ngươi sẽ nhận lấy quyền phép, và làm chứng về ta tại thành Giê-ru-sa-lem, cả xứ Giu-đê, xứ Sa-ma-ri, cho đến cùng trái đất.” (Công vụ 1:8)
Chúa Giê-su rõ ràng nhận diện Đức Thánh Linh với chính Ngài, kinh nghiệm cách thuộc linh, bởi câu chia tay của Ngài có nhắc đến: “Và nầy, ta thường ở cùng các ngươi luôn cho đến tận thế” (Ma-thi-ơ 28:20).
Ý nghĩa của lời này là gì. Chúa Giê-su mà Đấng tiên tri Ê-sai đã chỉ ra quả thật được đầy dẫy Đức Thánh Linh. Và giờ Ngài hứa về sự hiện diện của cùng một Thánh Linh ở cùng với các môn đồ trong cuộc đời họ, khi Ngài rời đi. Thánh Linh sẽ khiến Chúa Giê-su trở nên chân thực với họ và giúp họ biết Ngài cách cá nhân, kinh nghiệm sự tha thứ mỗi ngày, và tìm thấy năng quyền của Ngài trong sứ mạng truyền giáo thế giới. Điều được hứa trong Cựu Ước đã được ứng nghiệm đầy vinh hiển. Và các môn đồ đều chấn động với thực tế họ đã kinh nghiệm. “Đấng Christ ở trong anh em, là sự trông cậy về vinh hiển,” sứ đồ Phao-lô hân hoan nói (Cô-lô-se 1:27) “Về phần anh em, nếu thật quả Thánh Linh Đức Chúa Trời ở trong mình, thì không sống theo xác thịt đâu, nhưng theo Thánh Linh; song nếu ai không có Thánh Linh của Đấng Christ, thì người ấy chẳng thuộc về Ngài” (Rô-ma 8:9). Có nhiều câu trong Tân Ước cũng nói như vậy. Bạn có thấy ý nghĩa của các câu đó không? Bí quyết để trở thành Cơ đốc nhân là phải chào đón Thánh Linh của Chúa Giê-su bước vào tấm lòng và cuộc đời. Đó không phải là cố gắng đi theo sự dạy dỗ xuất sắc, như các tôn giáo khác, mà là chào đón Đấng Christ ngự vào lòng! Thật khác biệt với các niềm tin khác mà thế giới từng chứng kiến. Cả hội thánh non trẻ đã choáng ngợp với đặc quyền này. Họ nhanh chóng trở thành một cộng đồng của Đức Thánh Linh, và sách Công vụ các sứ đồ kể câu chuyện về họ đón nhận Thánh Linh vào lễ Ngũ Tuần và sự vươn ra năng nổ sau đó, trên khắp thế giới lúc đó.
Cụ thể, Đức Thánh Linh sống trong họ đã tạo ra một sự thay đổi lớn trong nhận thức đạo đức và lối sống. Bạn có nhớ lời hứa của tiên tri Giê-rê-mi nói rằng luật pháp của Chúa sẽ ngự bên trong kẻ tin? Và điều đó bắt đầu xảy ra. Thay vì “thạnh nộ, buồn giận và hung ác, nói hành, lời tục tĩu” thuộc về những ngày tháng chưa tin Chúa (như Phao-lô đã thẳng thắn nhắc nhở họ), độc giả tại Cô-lô-se mặc vào áo choàng tinh sạch, bản tính mới của người có Đấng Christ ngự vào lòng. Họ không bao giờ còn có định kiến, dựa trên sắc tộc, tầng lớp và tôn giáo. Đấng Christ là tất cả và ngự trong mọi việc họ làm. Khi là những người thánh (được biệt riêng) của Chúa, họ “mặc lấy sự nhân từ, khiêm nhường, mềm mại, nhịn nhục, nếu một người trong anh em có sự gì phàn nàn với kẻ khác thì hãy nhường nhịn nhau và tha thứ nhau”. “Tha thứ,” ông nói, “như Chúa đã tha thứ anh em thể nào, thì anh em cũng phải tha thứ thể ấy”. Nhưng trên hết mọi sự đó, họ phải mặc lấy lòng yêu thương và để sự bình an của Đấng Christ cai trị trong lòng họ. Đó là những gì họ đã được kêu gọi. Họ lại phải biết ơn. Họ phải để lời Chúa đầy dẫy trong lòng. Họ phải dùng những ca vịnh, thơ thánh, bài hát thiêng liêng mà dạy và khuyên nhau, vì được đầy ơn Ngài. Và mọi lời nói việc làm, họ phải làm mọi sự trong danh Chúa Giê-su, tạ ơn Đức Chúa Cha qua Ngài (Cô-lô-se 3:12-17).
Thật là một sự biến đổi lớn được Phao-lô nhắc đến – ngay cả trong các Cơ đốc nhân Cô-lô-se mà ông chưa từng gặp. Đó là những phẩm chất của cuộc sống đã làm ngạc nhiên xã hội lúc đó và khiến cho đức tin mới của Cơ đốc giáo có ảnh hưởng lớn đến vậy. Họ quyết định làm theo tấm gương của Chúa Giê-su và làm vui lòng Ngài trong mọi điều. Họ làm trong sức mạnh mà Đức Thánh Linh cho họ. Như thể Chúa Giê-su sống lại qua họ. Đó chính là và luôn là trung tâm của đạo đức Cơ đốc. Không phải giữ một quyển sách luật pháp, mà là yêu thương và làm vừa lòng con người, và trong năng quyền của Ngài chiến thắng xu hướng sai lầm của bản chất con người và tuôn đổ tình yêu của Đấng Christ cho người khác.
Ngoài sự dạy dỗ đạo đức của Tân Ước, bạn còn thấy tấm gương và sự vùa giúp của Đấng Christ. Lắng nghe sứ đồ Phao-lô, viết từ trong tù,
“Tôi đã tập hễ gặp cảnh ngộ nào, cũng thỏa lòng ở vậy. Tôi biết chịu nghèo hèn, cũng biết được dư dật. Trong mọi sự và mọi nơi, tôi đã tập cả, dầu no hay đói, dầu dư hay thiếu cũng được. Tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi!” (Phi-líp 4:1-13)
Ông có thể đối mặt với mọi thứ vì quyền năng của Đấng Christ hằng sống ở trong ông.
Đây là sự tương phản rõ nét với hệ thống đạo đức của niềm tin khác.
Cơ đốc giáo không vận hành như Phật Giáo với sách giới luật, hay như Hồi Giáo với nhiều luật cấm cố định (haram). Họ cũng không có sách luật pháp, không có luật shariah, là luật ném đá người phạm tội tà dâm và chặt tay kẻ trộm. Thay vào đó, họ tìm cách làm theo tấm gương của con người hoàn hảo duy nhất từng tồn tại, Chúa Giê-su, và trong năng quyền của Đức Thánh Linh để có thể tiến gần đến Ngài nhất. Đó là lý do chúng ta không cho phép có bốn vợ và vô số thê thiếp như Muhammad. Chúa Giê-su đã cho họ thấy tầm quan trọng của một vợ một chồng, như Đức Chúa Trời đã hoạch định từ thuở ban đầu (Sáng thế ký 2:24). Đó là lý do tại sao họ không tìm cách đạt đại nghĩa bằng vũ lực như các đội quân đang bắt bớ Cơ đốc nhân tại 32 quốc gia dưới danh nghĩa Hồi Giáo: Chúa Giê-su từ chối dùng gươm và những người theo Ngài cũng vậy. Đó là lý do tại sao họ không giết những người bội đạo, như những gì Muhammad dạy sau đó và luật này vẫn tồn tại trong một số quốc gia Hồi Giáo, như Saudi Arabia, Iran và Sudan. Chúa Giê-su không hại ai kể cả Giu-đa đã phản bội Ngài. Đó là lý do tại sao họ không phân loại con người theo thứ tự ưu tiên, đẳng cấp như đạo Hindu, với số lượng lớn nô lệ và Dalit (những người không thể chạm vào) ở đáy cùng xã hội. Chúa Giê-su đối xử trong tình yêu thương và tôn trọng với mọi người như nhau. Đạo đức Cơ đốc luôn học theo tấm gương và bản tính của Chúa Giê-su. Họ không học theo những luật lệ đạo đức mà là nỗ lực làm đẹp lòng Đấng họ yêu. Đức Thánh Linh dần dần giúp chúng ta làm được điều này, nếu chúng ta dựa vào Ngài.
Thường thì, than ôi, Cơ đốc nhân gặp thất bại trong việc dựa vào Thánh Linh và sức mạnh của Ngài, và nhận được kết quả thất bại. Nhưng trong sự mặc khải của Cơ đốc nhân không bao giờ có sự giết hại những người chưa tin hay đàn ông được phép hạ thấp phụ nữ như chép trong kinh Koran (sura 9.5, 73 và 4.4, 34), ghi rằng, “Người nam có thẩm quyền trên người nữ vì Chúa tạo nên họ cao quý hơn”. Luật pháp tôn giáo (shariah) chỉ cho người nữ nửa giá trị như đàn ông trong lời chứng và đền bù. Khi Cơ đốc nhân phạm tội, họ không tìm kiếm lệnh của toà án trong Tân Ước. Thay vào đó, hậu quả sai lầm của họ đến từ thất bại trong việc đi theo tấm gương của Chúa Giê-su và nghe theo sự dẫn dắt của Kinh Thánh. Mục tiêu vĩ đại của đạo đức Cơ đốc, và công việc cao quý của Thánh Linh của Chúa Giê-su trong chúng ta, là khiến các tín hữu trở nên như Chúa. Ngài muốn chúng ta được biến đổi từ vinh hiển này (tức là giống Đấng Christ) tới vinh hiển kia bởi Chúa, Đức Thánh Linh (2 Cô-rinh-tô 3:18). Cuộc đời của chúng ta phải được cai trị bằng tình yêu thương. Phao-lô nói trong bài hát tuyệt diệu về tình yêu thương trong 1 Cô-rinh tô 13:4-6:
“Tình yêu thương hay nhịn nhục; tình yêu thương hay nhơn từ; tình yêu thương chẳng ghen tị, chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo, chẳng làm điều trái phép, chẳng kiếm tư lợi, chẳng nóng giận, chẳng nghi ngờ sự dữ, 6 chẳng vui về điều không công bình, nhưng vui trong lẽ thật.”
Ông đang vẽ lên một lý tưởng cho tín hữu. Nhưng bạn sẽ hiểu sự thách thức của đạo đức tuyệt vời đó chỉ khi bạn thay “Tình yêu thương” bằng danh “Chúa Giê-su”. Than ôi, bản thân tôi thì không phải lúc nào cũng nhịn nhục và nhân từ. Tôi hay khoe mình và ghen tị. Nhưng Chúa Giê-su không như vậy. Ngài không bao giờ nhạy giận hay nghi ngờ sự dữ, kiêu ngạo hay làm điều trái phép. Và hơn thế, bởi quyền năng của sự hiện diện của Ngài có trong chúng ta, Chúa Giê-su hành động trong các tín hữu để họ bắt đầu bộc lộ bản tính của Ngài. Cũng cần thời gian, cũng như Michelangelo cần thời gian để biến đổi tảng đá hoa trở thành một bức tượng đẹp đẽ mang tên “Đa-vít”. Nhưng Đấng Christ sống trong chúng ta mài dũa chúng ta để có được thành phẩm tương tự. Chỉ có một vị thầy trên thế giới làm vậy bằng cách ngự bên trong môn đồ Ngài. Tên Ngài là Chúa Giê-su.
Chương 9
Hãy đối mặt với một vài câu hỏi khó
Hãy tóm tắt lại những gì chúng ta đã nói đến. Chúng ta đã thấy tuyên bố bạn tin điều gì cũng được chỉ cần bạn sống thành tâm thật lố bịch. Rõ ràng là hành động của bạn về bất cứ chủ đề nào phụ thuộc vào niềm tin của bạn về chủ đề đó. Điều này cũng dại dột như suy tưởng tất cả các tôn giáo đều như nhau. Chúng hoàn toàn khác nhau trong khái niệm về Chúa Trời, nhân loại, sự cứu rỗi và đời sau. Suy nghĩ mọi tôn giáo đều chỉ về một Chúa cũng chả thông minh hơn được bao nhiêu. Bởi các tôn giáo có khái niệm khác nhau về “Chúa Trời” và cả những cách khác nhau để vươn tới Chúa. Vậy chúng ta hãy bắt đầu nhìn vào điều khiến Chúa Giê-su trở nên đặc biệt. Cơ bản đó là bởi vì trong khi các tôn giáo nỗ lực tìm cách để con người vươn tới Chúa, Cơ đốc giáo căn bản cho rằng điều này là không thể, mà chính Chúa rộng lượng vươn xuống chúng ta qua hình hài Chúa Giê-su. Tóm lại, Cơ đốc giáo không phải là tôn giáo, mà là một sự mặc khải và sự giải cứu và tìm kiếm mối quan hệ với Đức Chúa Trời qua Chúa Giê-su.
Chúng ta sau đó xem xét điều gì khiến Chúa Giê-su thật đặc biệt so sánh với những lãnh đạo tôn giáo khác. Và chúng ta phát hiện ra chỉ có Ngài mới đem Đức Chúa Trời tới chỗ chúng ta. Một mình Ngài triệt để xử lý sự xấu xa của con người. Chỉ duy Ngài phá bỏ rào cản sự chết, và chỉ có Ngài trong vòng các lãnh đạo tôn giáo muốn đến và sống trong tấm lòng và cuôc đời của con cái Chúa, do đó Ngài không chỉ ban cho tấm gương để chúng ta theo mà còn ban cho chúng ta quyền năng để làm được như vậy, khi Ngài bày tỏ chính cuộc đời Ngài qua chúng ta.
Đến điểm này thì có lẽ nhiều câu hỏi xuất hiện trong tâm trí các bạn.
Đầu tiên, liệu các tôn giáo có những điểm chung không? Có. Hầu hết các tôn giáo đều tin vào một đấng siêu nhiên mà chúng ta có thể gọi là Chúa Trời. Hầu hết các tôn giáo đều tin vào những đạo đức cơ bản – vài tôn giáo khuyến khích giết người, ngoại tình hay hành vi độc ác, dù chỉ số ít, như tộc người Sawi trước khi họ cải đạo, tôn thờ giết người và lừa đảo. Và tất cả tôn giáo đều hướng sự tập chú của con người ra khỏi những bận tâm cá nhân ích kỷ tới vài lý tưởng cao đẹp hơn. Đó là tất cả những điểm chung họ có. Trong mọi khía cạnh khác, họ có những bất đồng rất lớn, như chúng ta đã thấy.
Thứ hai, nếu quan điểm Cơ đốc là đúng, Cơ đốc nhân nên cư xử với các niềm tin khác ra sao? Trong quá khứ, điểm này có rất nhiều thất bại. Cơ đốc nhân từng có những lúc đối xử sai chệch với người Do Thái và Hồi Giáo, đôi khi với Hindu giáo, đặc biệt khi người Anh kiểm soát Ấn Độ hay người Pháp kiểm soát Việt Nam. Nhưng tất nhiên sự độc ác và man rợ không phải là thái độ của Chúa nên Cơ đốc nhân cũng cần phải tránh. Chúa Giê-su dạy hãy yêu tất cả mọi người. Ngài dạy rằng chúng ta nên đi thêm hai dặm để phục vụ những người không nghĩ giống như chúng ta. Ngài dạy chúng ta chúc phước người bắt bớ chúng ta và làm việc lành với người đối xử tệ với chúng ta. Nếu Cơ đốc nhân thực sự đi theo sự kêu gọi của mình, họ nên bày tỏ cùng tình yêu chất lượng đó tới những người khác (là những người vô thần, học giả hoặc thành viên của những niềm tin khác) mà Chúa đã bày tỏ cho chúng ta trong ân điển và sự kiên nhẫn của Ngài. Đó là điểm mấu chốt. Bất cứ điều nào kém hơn là thất bại và tội lỗi.
Hơn thế, có nhiều cách để Cơ đốc nhân và những người thuộc niềm tin khác có thể cộng tác trong vấn đề gìn giữ hoà bình và công bằng, đạo đức và an sinh xã hội trong cộng đồng, và làm vậy với sự tôn trọng và hợp tác chung. Điều này đòi hỏi phải không có sự thoả hiệp trong quan điểm tôn giáo của bất kỳ bên tham gia nào.
Câu hỏi nhạy cảm khác được dấy lên: Cơ đốc nhân nên liên hệ với các tôn giáo khác như thế nào? Cơ đốc nhân có ba cách phản ứng chính với câu hỏi này.
Đầu tiên, có những người coi những niềm tin khác là sự chuẩn bị cho Phúc Âm. Trong quá khứ, Cơ đốc nhân thích học từ các nhà triết học Hi Lạp và nhà thơ La Mã để tìm những quan điểm giáo dục dẫn dắt đến Đấng Christ. Tại sao Cơ đốc nhân ngày nay không học hỏi về đời sống cộng đồng Do Thái dưới sự tể trị của Đức Chúa Trời, sự sùng bái Chúa Trời của Hồi Giáo và Hindu Giáo, sự yên tâm và tách mình khỏi những ham muốn của Phật Giáo, niềm tin vào sự thiêng liêng thần thánh của cuộc sống từ những người theo thuyết vật linh, nhân cách thiện của những người theo chủ nghĩa nhân văn? Sau đó, Cơ đốc nhân sẽ tin rằng mọi thứ đều tốt, dù nó đến từ đâu thì chắc chắn cũng ra từ Chúa. Và sau đó, hoàn toàn có thể lượng giá tích cực về vài khía cạnh của các niềm tin khác trong khi cùng lúc đó giữ những dạy dỗ trong Tân Ước về sự sáng trọn vẹn đã đến trong Đấng Christ và sự cứu rỗi đó chỉ có trong Ngài, Đấng đã chết cho những “kẻ ngày trước cách xa” cũng như những người “được gần rồi”.
Tuy nhiên, một bộ phận Cơ đốc nhân khác dạy rằng tất cả các tôn giáo khác đều là mối họa. Họ mở cửa cho sự tấn công của các thế lực thuộc linh không đến từ Chúa, mà đến từ những ảnh hưởng của Sa-tan lừa dối và dẫn con người đi lạc lối. Thái độ này, có lẽ, không nghiêm trọng như quan điểm của nó. Giám mục Lesslie Newbigin, một giáo sĩ đầu tiên tại Ấn Độ và sau đó cho miền Tây, người biết nhiều về các tôn giáo khác hơn cả những người đang sống khác, viết một quyển sách tâm đắc, “The Finality of Christ” (tạm dịch: Sự cuối cùng của Đấng Christ). Trong đó, bước đầu ông tranh luận về cách Ma quỷ bày tỏ nó nhiều nhất trong lĩnh vực tôn giáo (nghĩ về các cuộc chiến tôn giáo đang diễn ra trong thế giới ngày nay!), và ông nhấn mạnh đó là lý do mà những người cải đạo từ bỏ những phong tục truyền lại cho họ. Và thứ hai, ông viết,
“Phúc Âm ở mức độ thành tựu cao nhất về đạo đức và thuộc linh khi bị các tôn giáo e ngại và chĩa mũi dùi. Những người bảo vệ khải tượng của Chúa lại là những người đóng đinh Con Ngài. Đó là những người thuộc tầng lớp cao trong vòng những người theo đạo Hindu sốt sắng chối bỏ Phúc Âm. Đó là những người nói ‘Chúng tôi thấy’ nhưng lại triệt để dập tắt ánh sáng”.
Quan điểm Cơ đốc thứ ba về các niềm tin khác là không coi họ như sự chuẩn bị cho Phúc Âm hay sự tuyên truyền của Ma quỷ mà là khát vọng của tâm linh con người. Ví dụ như Phật Giáo, là sự khao khát cao quý của tâm linh con người để chống lại cái khổ, trong khi người theo thuyết duy linh tìm cách yên ủi quyền lực tàn ác những tà linh. Hiển nhiên có một vài lẽ thật ở đây, nhưng vẫn thiếu sót vì nó không thi hành công bằng tới phần mặc khải tự nhiên của các niềm tin khác. Đức Chúa Trời lại làm vậy, khi Phao-lô giảng cho người A-then là họ cần “tìm kiếm Đức Chúa Trời, và hết sức rờ tìm cho được, … vì tại trong Ngài, chúng ta được sống, động” (Công vụ: 17:27-28). Ngay cả nhà thơ thuộc dân ngoại Aratus cũng ủng hộ Phao-lô rằng, “chúng ta quả thật là con cái Ngài”. Hơn thế, lương tâm và đạo đức con người là một phần của sự bày tỏ chính Chúa, bởi,
“Vả, dân ngoại vốn không có luật pháp, khi họ tự nhiên làm những việc luật pháp dạy biểu, thì những người ấy dầu không có luật pháp, cũng tự nên luật pháp cho mình. Họ tỏ ra rằng việc mà luật pháp dạy biểu đã ghi trong lòng họ: chính lương tâm mình làm chứng cho luật pháp, còn ý tưởng mình khi thì cáo giác mình, khi thì binh vực mình. Ấy là điều sẽ hiện ra trong ngày Đức Chúa Trời bởi Đức Chúa Giê-su Christ mà xét đoán những việc kín nhiệm của loài người, y theo Tin Lành tôi.” (Rô-ma 2:14-16)
Vì vậy Cơ đốc nhân coi các niềm tin khác là nỗ lực của con người trong sự tìm kiếm Chúa là sai lầm. Dù sao tổng thể thì loài người chúng ta cũng không thực sự tìm kiếm Chúa. Chúng ta luôn nỗ lực tìm cách rời xa con đường của Ngài và ngạc nhiên (hoặc sợ hãi) khi phát hiện ra Chúa đang tìm chúng ta!
Có thể cách tốt nhất là coi các tôn giáo ngoài Cơ đốc là tấm chăn vá chằng đụp. Chúng chứa các phần của lẽ thật mà hẳn phải đến từ chính Chúa. Nhưng cũng có những phần hoàn toàn sai và dường như đến từ “cha sự nói dối”, là kẻ có mục tiêu lớn nhất là ngăn cản loài người đến với Chúa Cứu Thế. Hơn thế, các đức tin khác hiển nhiên chứa đựng sự khát khao tìm kiếm Chúa của con người.
Vậy tình huống của những người không đáp ứng Phúc Âm là gì? Lại lần nữa có sự cân nhắc đáng kể trong vòng Cơ đốc nhân. Tạ ơn Chúa là chúng ta không có quyền đoán xét: quả thực Chúa Giê-su hoàn toàn cấm điều này. “Các ngươi đừng đoán xét ai, để mình khỏi bị đoán xét,” Ngài phán (Ma-thi-ơ 7:1) và Ngài nhắc nhở những người lắng nghe Ngài là sự đoán xét thuộc về Chúa, Đấng sẽ làm điều đó với sự thấu hiểu trọn vẹn hoàn cảnh của chúng ta cùng sự thương xót. Dù có sự cảnh báo đó trong tâm trí, Cơ đốc nhân vẫn có xu hướng về ba góc nhìn. Cả ba, tôi thấy, đều không đủ.
Đầu tiên, thuyết phổ quát với quan điểm là tất cả đều được “cứu” hoặc được đưa đến thiên đàng của Chúa dù muốn hay không. Dù tất cả chúng ta đều muốn điều này thành thật, Kinh Thánh loại bỏ nó và điều này không hợp lý chút nào. Hitler và Pôn-pốt hiện đang ở thiên đàng sao? Liệu Chúa sẽ cho vào nhà mình những kẻ không có thời gian cho Ngài và không muốn sống với Ngài đời đời? Không. Chúa Giê-su chỉ rõ là chúng ta đều có quyền tự do chọn lựa. Và Ngài cũng nói rõ là chúng ta phải sống với quyết định của mình. Nên chúng ta đọc về sự phân tách chiên và dê trong Ngày Phán Xét (Ma-thi-ơ 25:32-33), hoặc con đường khoảng khoát dẫn đến sự hư mất và con đường hẹp dẫn đến sư sống (Ma-thi-ơ 7:13-14), hay lúa mì được thâu trữ trong kho của Chúa và cỏ lùng bị đốt đi (Ma-thi-ơ 13:24). Và nhiều đoạn Kinh Thánh khác tương tự. Luôn có hai con đường, hai đích đến. Luôn có sự lựa chọn.
Quan điểm thứ hai thiên về hình phạt không dứt cho những ai không phải Cơ đốc nhân. Có nhiều Cơ đốc nhân giữ quan điểm này, nhưng tôi không tin là Kinh Thánh có nhắc đến điều này. Để chắc chắn, Kinh Thánh nói thẳng về hoả ngục, và không ai có thể nói thẳng hơn Chúa Giê-su. Ngài cảnh báo về “đó là nơi sâu bọ của chúng nó chẳng hề chết và là nơi lửa chẳng hề tắt” (Mác 9:48), dường như đây là phép ẩn dụ về thành chứa rác toàn ròi bọ chui ra từ đó và lửa thiêu rác cháy âm ỉ. Đó là hình ảnh về sự huỷ diệt cuối cùng, hình phạt không dứt được cảm nhận rõ. Từ “huỷ diệt” được dùng nhiều nhất để miêu tả trận đánh cuối cùng trong Kinh Thánh. Chúng ta đều có sự lựa chọn: sống trong thời kỳ sẽ đến – hay hoang tàn trong thời kỳ sẽ đến. Quả thật có một phân đoạn trong Tân Ước nói về hồ lửa – nhưng nơi này không phải dành cho con người mà là cho tay sai của Ma quỷ, sẽ bị huỷ diệt (Khải Huyền 19:20). Tôi tin rằng chúng ta nên xác quyết bác bỏ quan điểm về hình phạt không dứt được cảm nhận rõ.
Quan điểm thứ ba tìm thấy trong vòng Cơ đốc nhân là người không tin Chúa sẽ bị Chúa phán xét tuỳ theo việc họ làm. Nhưng cả Kinh Thánh nói rõ là không ai được cứu bởi việc làm lành. Bởi những việc lành này sẽ không bao giờ đủ tốt với Chúa thánh khiết, ngoài ra, quan điểm đạt được mối quan hệ bởi việc làm thật ghê tởm. Như kiểu con cái bạn thường xuyên rửa bát đĩa và dọn giường nhưng không bao giờ bày tỏ tình cảm hay nói chuyện với bạn. Liệu như thế có thoả mãn tấm lòng cha mẹ của bạn không?
Không một quan điểm sai lầm trên phù hợp với sự cao quý của Phúc Âm Cơ đốc. Thực tế là như vầy. Không ai xứng đáng có được sự chấp nhận của Chúa, nhưng Chúa bằng sự thương xót của Ngài đã ban điều đó cho những ai tin cậy Ngài để được chấp nhận thông qua lòng rộng rãi mà chúng ta hoàn toàn không đáng nhận được của Ngài. Ngài để chính mình mang lấy gánh nặng xấu xa của chúng ta bằng cách phó thân trên thập tự giá, và bởi vậy, với sự công chính hoàn hảo, Ngài có thể tha thứ và tuyên bố chúng ta được phục hoà với Ngài… nếu chúng ta hạ mình xin Ngài. Tuyệt diệu thay! Và những ai không đáp ứng Phúc Âm sẽ bỏ lỡ mối quan hệ ân điển này với Chúa, là mục đích khi chúng ta được tạo dựng. Buồn thay, họ đã bỏ lỡ mãi mãi.
Vậy còn những người chưa từng nghe về Chúa Giê-su thì sao? Họ phải đối mặt như thế nào? Một lần nữa, chúng ta không có quyền phán xét. Chúa Giê-su đã phán bảo chúng ta giao sự phán xét cho Đức Chúa Trời, Đấng hoàn toàn công bằng và yêu thương vô cùng. Nhưng theo tôi, chúng ta có một gợi ý về cách Chúa hành động. Hãy nghĩ về tất cả những người tin Chúa vĩ đại trong Cựu Ước, những người như Đa-vít và Ê-sai. Môi-se và Giê-rê-mi. Bạn chỉ cần đọc cuộc đời họ để thấy những người này có sự hiểu biết về Chúa mật thiết như chúng ta. Làm thế nào được, nếu Chúa Giê-su mới là trung tâm của mọi sự? Họ chưa từng được nghe về Ngài!
Vị thần học Cơ đốc và sứ đồ Phao-lô rõ ràng đã vật lộn với vấn đề này, và trong Rô-ma đoạn 3 và 4, ông cho chúng ta một câu trả lời xuất sắc. Trong hành động phục hoà thánh trên thập tự giá của Chúa, Ngài bày tỏ hai điều. Một là Ngài hoàn toàn công chính, bởi vậy Ngài không thể bỏ qua tội lỗi. Tuy nhiên, Ngài cũng “xưng công bình kẻ nào tin đến Đức Chúa Giê-su” (Rô-ma 3:26). Và Phao-lô tiếp tục chia sẻ trong các câu tiếp theo để làm rõ rằng những người nam và nữ tin kính trong Cựu Ước được xưng “công chính” theo đúng cách tương tự. Họ được chấp nhận vì họ đặt trọn niềm tin nơi Chúa, theo cách tốt nhất mà họ biết. Họ không hiểu làm cách nào mà Chúa có thể chấp nhận những người bất toàn như họ. Họ chỉ đơn giản là tin cậy Chúa để tìm ra con đường. Và Phao-lô hiểu rằng thập tự giá có tác dụng cả cho những người ở trong quá khứ và tương lai. Ông thấy Chúa chấp nhận Đa-vít và Áp-ra-ham và những người khác dựa trên những gì Đấng Christ sẽ làm khi mang lấy tội lỗi nhân loại trên thập tự giá. Và Chúa chấp nhận bạn và tôi bởi vì những gì Chúa Giê-su đã làm trên thập tự. Chỉ khác là chúng ta có thể thấy điều này xảy ra rõ hơn họ. Sự chết và sống lại mạnh mẽ của Chúa Giê-su được đặt ở thời điểm trung tâm, như Chúa muốn. Cái bóng của những việc đó ngả cả về phía trước và sau. Để Đức Chúa Trời chấp nhận những người chưa từng nghe về Chúa Giê-su nếu họ như Đa-vít và Áp-ra-ham, những người chưa từng nghe về Chúa Giê-su nhưng không tin tưởng vào quan điểm tôn giáo của họ mà chỉ tin cậy sự thương xót của Chúa. Những người như vậy có thể được cứu, không phải bởi tôn giáo họ theo, mà vì những gì Đấng Christ đã làm cho tất cả mọi người. Quan điểm này rất được chấp nhận. Nó cho thấy Đức Chúa Trời kiên định với cách Ngài hành động với nhân loại trong những giai đoạn sau này. Nó cho thấy tầm nghiêm trọng của sự ác. Nó cho thấy chúng ta không thể tự cứu mình, nhưng sẽ bị hủy diệt nếu không có Đấng Cứu Thế. Chúa Giê-su là Đấng Cứu Thể duy nhất mà tội nhân như chúng ta cần, bất kể tôn giáo và sắc tộc. Nó cho thấy Chúa hoàn toàn công bằng. Cùng lúc, nó không tạo nên ngộ nhận sai chệch rằng những người thuộc niềm tin khác an toàn với điều họ tin, rằng họ không cần Phúc Âm, rằng họ được cứu bởi niềm tin tôn giáo của họ.
Liệu có khả năng có những người trên thiên đàng chưa từng nghe về Chúa Giê-su nhưng tin cậy trọn vẹn hết sức có thể nơi Đức Chúa Trời, khiến Chúa Giê-su quyết định lùi lại và không làm gì cả? Điều này có ngăn cản con người truyền giáo không? Không hề. Sao không? Vì người sứ đồ vui mừng về cánh cửa hi vọng này cũng là người hết lòng truyền giáo nhất từng sống. Ông không muốn dựa vào những suy đoán không chắc, mà khao khát đưa mọi người khác niềm tin mà ông gặp đến với Chúa Giê-su là Đấng đã biến đổi cuộc đời ông. Điều này dẫn chúng ta đến câu hỏi cuối cùng.
Cơ đốc nhân có nên cải đạo những người thuộc niềm tin khác? Câu trả lời hiển nhiên là “có” bởi nhiều lý do. Đầu tiên, đó là mạng lệnh đặc biệt của Chúa Giê-su môn đệ hoá muôn dân (Ma-thi-ơ 28:19-20). Thứ hai, đó là điều hiển nhiên: nếu bạn tìm được Chúa Giê-su như bửu vật, tất nhiên bạn sẽ muốn chia sẻ kho báu đó với mọi người. Thứ ba, Cơ đốc giáo hiển nhiên là đức tin truyền giáo từ những ngày đầu tiên. Tất cả những Cơ đốc nhân ban đầu cải đạo từ các tôn giáo khác (họ từng là người Do Thái hoặc dân ngoại). Hơn thế, Cơ đốc nhân thực sự luôn cảm thấy thúc đẩy chia sẻ Phúc Âm với những người chưa biết, như thể bạn tìm thấy phương thuốc trị ung thư: bạn không thể giữ lại cho chính mình. Vậy nên, truyền giáo là một phần thiết yếu của Cơ đốc giáo.
Nhưng cũng cần phải nói rằng Cơ đốc nhân cần đối xử lịch thiệp với những người thuộc niềm tin khác. Cơ đốc nhân cần tôn trọng bằng cách tìm hiểu niềm tin của họ và đáp ứng lại, thay vì nhảy bổ vào như bò húc. Cơ đốc nhân cần khen ngợi những điểm tốt trong niềm tin của họ – vốn có rất nhiều. Cơ đốc nhân cần sống giữa vòng họ, yêu thương và chia sẻ cuộc sống và sở thích của họ: Chúa Giê-su đã làm vậy! Đừng chỉ khăng khăng nói về đức tin kẻo bạn sẽ bị gọi là Cơ đốc nhân học gạo. Và họ không bao giờ được đe doạ hay ép người khác cải đạo. Cơ đốc nhân bị cấm làm vậy. Chúa Giê-su không bao giờ ép buộc ai phải theo Ngài. Ngài đeo đuổi chúng ta bằng tình yêu thương. Và những nhà truyền giáo Cơ đốc cần theo tấm gương này. Yêu thương, nói chuyện, tuyên bố mạnh dạn và làm chứng về những gì Chúa đã làm cho cuộc đời chúng ta và những cách phù hợp và hiệu quả nhất để truyền giáo trong mọi nền văn hoá.
Chương 10
Vậy tiếp theo chúng ta nên làm gì?
Chúng ta đã đi được rất nhiều trong quyển sách ngắn này. Chúng ta đều thấy sự vô nghĩa của những quan điểm như mọi tôn giáo đều như nhau, bạn tin điều gì cũng được chỉ cần bạn sống thành tâm, các tôn giáo đều dẫn tới Chúa. Chúng ta thấy rằng Cơ đốc giáo thật sự khó có thể bị đánh đồng là tôn giáo. Tôn giáo đơn giản là hệ thống do con người lập nên để vươn tới Đấng Thánh. Và các tôn giáo đều khác nhau bởi quan điểm của con người về thánh thần rất đa dạng. Nhưng Cơ đốc giáo nhận ra cách tiếp cận này sẽ không bao giờ kết quả. Chúng ta không thể bắt đầu tiếp cận Chúa đến khi chúng ta biết chắc Ngài là ai. Và con người chỉ có thể suy đoán trừ khi và cho đến khi Ngài đến bày tỏ chính mình Ngài. Đức tin duy nhất trên thế giới tuyên bố Ngài đã làm vậy là đức tin Cơ đốc. Đó là Đức Chúa Trời thực sự đã bày tỏ chính Ngài chứ không phải chỉ bày tỏ ý muốn của Ngài (như Hồi Giáo) cho chúng ta. Hơn thế, Ngài đã giải cứu chúng ta khỏi sự tự tôn và nổi loạn mù loà bằng cách mang lấy gánh tội lỗi của chúng ta trên thập tự giá. Hơn hết, Ngài sống lại và đến sống trong tấm lòng và cuộc đời những người có Ngài thông qua Đức Thánh Linh. Điều này sẽ bắt đầu một mối quan hệ mà sự chết không thể chia cắt. Đó là điểm mấu chốt của Cơ đốc giáo. Như chúng ta đã thấy, đó không phải là một tôn giáo mà là một mặc khải, sự giải cứu và mối quan hệ.
Hiển nhiên điều này dẫn chúng ta đến một câu hỏi. Nếu chúng ta đồng ý là Chúa Giê-su rất đặc biệt, vì chẳng có ai bày tỏ Đức Chúa Trời cho chúng ta, hay triệt để xử lý sự xấu xa của chúng ta, hay phá bỏ rào cản của sự chết hay muốn đến và bước vào cuộc đời của những ai mời Ngài vào – chúng ta nên đáp ứng sao? Chúng ta sẽ làm gì cho Chúa Giê-su?
Chỉ có ba khả năng.
Có thể chúng ta khước từ Chúa Giê-su. Nếu chúng ta làm vậy với nhận thức đầy đủ về những vấn đề kèm theo và hậu quả của sự lựa chọn này, thì chúng ta gặp rắc rối to rồi. Tất nhiên chúng ta luôn có cơ hội đổi ý. Nhưng có thể không. Một cơn đau tim hay tai nạn có thể chấm dứt cuộc đời chúng ta ngay lập tức. Và sau đó, chúng ta sẽ đi tới cõi đời đời không có Chúa. Tôi hi vọng không có độc giả nào có tầm nhìn hạn hẹp sẽ nói “Không, cảm ơn” với Chúa là Đấng yêu bạn và phó chính mình cho bạn. Kết quả sẽ thật bất hạnh.
Mặt khác, chúng ta có thể trì hoãn quyết định. Khi xưa, có những người dù được lẽ thật của Phúc Âm bắt phục, vẫn chẳng làm gì và chỉ chịu báp-têm khi nằm chờ chết! Dù không đến nỗi như vậy nhưng thái độ của chúng ta có thể tương tự vậy. “Vâng, có thể tôi có sự thúc giục nhưng tôi không muốn làm gì bây giờ. Rất bất tiện cho các kế hoạch, sự thoải mái và thứ tự ưu tiên của tôi”. Bạn có cho rằng đây là một đáp ứng phù hợp tới Đấng mà Phao-lô gọi là “Đấng đã yêu tôi, và đã phó chính mình Ngài vì tôi”? (Ga-la-ti 2:20). Tôi từng nghe về một người trong toa xe lửa ngạc nhiên khi thấy một người lính chăm sóc tận tình cho người bạn liệt tay chân, thỉnh thoảng ngất đi và liên tục chảy dãi. Khi được hỏi tại sao anh có thể chăm sóc tận tình đồng đội của mình tới vậy thì anh lính trả lời, “Người đàn ông này là một sĩ quan trong Chiến tranh Việt Nam. Tôi ở trong trung đội của anh ta. Anh ta đã hi sinh chính mình cứu tôi khỏi trận lửa lớn. Hậu quả là như mọi người thấy đó. Tôi sẵn sàng làm mọi điều cho anh ta”. Vâng, Chúa Giê-su không mạo hiểm cuộc sống Ngài cho chúng ta. Ngài trao hết thảy. Và chắc chắn sự đáp ứng phù hợp nhất là nói “vâng” tới Đấng đã nói “có” cho chúng ta khi những chiếc đinh nhọn đóng vào thân thể Ngài. Tất nhiên, có một lý do khác cho thấy sự trì hoãn là không khôn ngoan. Kinh Thánh khích lệ chúng ta “hãy tìm kiếm Đức Giê-hô-va đang khi mình gặp được; hãy kêu cầu đang khi Ngài ở gần” (Ê-sai 55:6). Và nếu bạn cảm nhận được Ngài ở gần và quay lưng lại với Ngài, bạn sẽ gặp khó khăn hơn để đáp ứng trong dịp khác. Không phải là không thể nhưng khó hơn vì bạn đã cứng lòng.
Chắc chắn hành động khôn ngoan và biết ơn nên là mở toàn bộ con người bạn với Chúa Cứu Thế. Khó có thể tìm được ngôn từ miêu tả quyết định quan trọng này. Kinh Thánh sử dụng những gì như “tin” Chúa Giê-su, “ăn năn và đức tin”, “đến với Ngài”, “ở trong Ngài”. Điểm mấu chốt của những từ này là Chúa Giê-su và chúng ta có mối quan hệ sống động. Chúng ta kết nối với Ngài. Chúa chủ động để chúng ta kết nối với Ngài và phần của chúng ta là đáp ứng lại. Tôi thích câu chuyện “Người Con Trai Hoang Đàng” đã xúc động trước tình yêu của người cha mà xin làm đầy tớ để rồi thấy mình được tôn trọng bằng những thứ tốt nhất và chào đón như một người con yêu dấu (Lu-ca 15:11-24). Ý nghĩa “trở về nhà” thật cảm động và chính xác! Tôi cũng thích câu chuyện trong sách Phúc Âm về người đàn ông được hỏi rằng ông có tin rằng Chúa Giê-su có thể cứu con trai bị bệnh của ông. Câu trả lời là, “Tôi tin, xin Chúa giúp đỡ trong sự không tin của tôi” (Mác 9:24) dường như rất phù hợp với giai đoạn bất an của chúng ta. Nhưng trên hết, tôi thích lời hứa của Chúa Giê-su trong Khải Huyền 3:20. Ngài nói:
“Nầy, ta đứng ngoài cửa mà gõ; nếu ai nghe tiếng ta mà mở cửa cho, thì ta sẽ vào cùng người ấy…”
Có lẽ bạn từng thấy một bức tranh nổi tiếng minh hoạ lời hứa đó, bởi hoạ sĩ Holman Hunt theo trường phái Raphaelite. Ông đã hai bản, một bản treo ở trường Keble, Oxford và bản khác ở Nhà thờ Phao-lô. Đó là một bức tranh bày tỏ ý nghĩa của lời hứa Chúa Giê-su dành cho chúng ta. Có một căn nhà có dây leo bám trên cánh cửa không có tay cầm. Chúa Giê-su đứng người cửa với một cái đèn lồng (bởi Ngài là Ánh sáng của thế gian), mặc áo dài trắng với áo choàng đỏ tượng trưng cho cuộc đời vô tội và cái chết cứu chuộc được nhấn mạnh bằng mão gai trên đầu và bàn tay có dấu đinh gõ cửa. Dây leo ngoài cửa chứng minh Ngài đã đợi lâu lắm rồi. Cửa không có tay cầm cho thấy cửa phải được mở từ bên trong. Tôi yêu lời hứa và hình ảnh đó bởi vì đây là hai điều khiến tôi tin cậy Chúa từ nhiều năm trước.
Quan điểm rất rõ ràng. Ngôi nhà tượng trưng cho cuộc đời chúng ta. Chúa Giê-su, phải đứng bên ngoài, dựng nên căn nhà khi chúng ta sinh ra và chuộc lại với một giá cao trên thập tự giá khi chúng ta, người thuê nhà, đã ăn cắp nó từ tay Ngài. Ngài đã dựng nên nó rồi Ngài mua lại. Ngôi nhà thuộc về Ngài. Ngài đứng đó như một Đấng thánh không thể hiệp cùng với Ma quỷ và Đấng phó chính mình chịu cực hình nơi thập giá cho chúng ta. Ngài đứng đó kiên nhẫn gõ cửa. Với tôi, tôi thấy Ngài hẳn đã chờ ở đó nhiều năm rồi. Còn bạn thì sao?
Tại sao Ngài không vào? Vì người thuê không mời Ngài vào. Tôi cho rằng đó là chiều sâu của tội lỗi nhân loại: không phải là làm những điều tệ hại, mà là nuôi dưỡng một thái độ khước từ đi theo ý riêng và để Chúa Giê-su, con người vĩ đại và yêu thương nhất từng sống, ở bên ngoài cuộc đời chúng ta.
Liệu Ngài có bỏ cuộc? Không. Ngài đứng đó gõ cửa. Lời hứa của Ngài là bước vào cuộc đời của “bất cứ ai” nghe tiếng Ngài và “mở cửa”. Ý của Ngài được bày tỏ rất rõ. Cơ đốc giáo thật nằm ở chỗ có sự hiện diện không thấy được của Chúa Giê-su (tức là Đức Thánh Linh như Cơ đốc nhân thường gọi) sống trong tấm lòng và cuộc đời chúng ta. Chúa Giê-su đề nghị vào – nếu chúng ta có Ngài. Ngài không chỉ đề nghị mà còn hứa rằng bất cứ ai (gồm cả bạn) mở cửa thì Ngài sẽ vào. Không phải “có thể” mà là Ngài sẽ vào.
Thật là một đề nghị kỳ lạ. Đấng Christ sống từ lâu lắm rồi sao có thể bước vào cuộc đời con người? Bằng Đức Thánh Linh hằng sống của Ngài. Đó là cách giải thích tốt nhất của tôi rồi. Còn lại thì tuỳ vào bạn. Bạn có thể và sẽ kinh nghiệm điều đó nếu bạn mời Ngài vào.
Nhưng tôi có phải dọn sạch các việc làm của tôi trước và trang trí lại ngôi nhà? Không. Ngài chấp nhận con người chúng ta, và dần dần Ngài sẽ là người trang trí lại. Nếu chúng ta có thể tự trang trí nhà mình thì Chúa đã không phải rời thiên đàng đến giải cứu chúng ta!
“Nhưng tôi không hiểu hết,” bạn có thể nói vậy. Tôi cũng không hiểu. Bạn có thể hiểu tình yêu như thế nào? Bạn không thể đặt nó trong ống thí nghiệm và phân tích nó. Bạn dang tay chào đón người mình yêu. Đó là cách Chúa Giê-su mời bạn đáp ứng tình yêu của Ngài.
Hành động này phải trả giá đắt sao? Đúng vậy. Bạn sẽ phải trả giá là những tội lỗi ưa thích, vết bẩn trên tấm thảm phòng khách. Chúa Giê-su là người có máy hút bụi. Phần của Ngài là dọn vết bẩn, còn phần của bạn là để Ngài làm vậy. Điều này gọi là “sự ăn năn”! Theo Chúa Giê-su, bạn phải trả giá tội lỗi của bạn, vâng, và sự tự tôn của bạn nữa. Dần dần bạn sẽ bị nhổ đi vài cái dằm và nhận ra Chúa Giê-su mới là chủ trên nhiều khía cạnh khác nhau của cuộc đời bạn. Sự thuần phục và môn đồ hoá không thể diễn ra ngay, nhưng cần có trong đời sống Cơ đốc. Bạn cũng phải trả giá là sự bí mật của bạn. Bạn thấy đấy, kết quả sẽ không phải là giao dịch bí mật với Chúa Giê-su và mong là không có ai để ý tới. Mọi người sẽ nhận ra nếu bạn trung tín với Chúa. Và Chúa Giê-su nói rõ là nếu chúng ta không xưng nhận Ngài trước mặt người khác thì Ngài cũng sẽ không xưng nhận chúng ta trước mặt Cha Ngài trên trời. Sứ đồ Phao-lô lại nói:
“Vậy nếu miệng ngươi xưng Đức Chúa Giê-su ra và lòng ngươi tin rằng Đức Chúa Trời đã khiến Ngài từ kẻ chết sống lại, thì ngươi sẽ được cứu.” (Rô-ma 10:9)
Niềm tin bí mật và tuyên xưng công khai hoàn toàn trái ngược nhau. Vâng, trở thành Cơ đốc nhân phải trả giá. Nhưng không là Cơ đốc nhân, bạn còn trả giá cao hơn. Tức là không có sự tha thứ, niềm vui, mối tương giao với Đấng Christ và dân sự của Ngài trên đất, và không có thiên đàng. Trả giá rất lớn. Gần giống như hôn nhân. Bạn nói tạm biệt với đời sống cũ khi bạn đón nhận kết ước mới và công khai bằng lễ cưới và đeo nhẫn mà không bận tâm bị ai thấy. Hơn thế, bạn cố gắng làm vừa lòng người phối ngẫu không phải vì bắt buộc mà vì bạn muốn. Cũng như vậy với Chúa Giê-su. Và không ai quay đầu nhìn lại cuộc đời và nói rằng, “Cái giá phải trả quá lớn để theo Ngài, Chúa Giê-su. Thật không đáng!”
Bạn băn khoăn, “Liệu điều này có bền lâu?” Có. Không phải vì bạn bỗng nghiên trở thành siêu nhân, nhưng vì Chúa hứa rằng Ngài sẽ không bao giờ lìa bỏ bạn (Hê-bơ-rơ 13:5). Tức là Ngài sẽ không bao giờ khiến bạn thất vọng hay từ bỏ bạn.
Có lẽ bạn đang hỏi chính mình: “Chính xác tôi có thể bắt đầu mối quan hệ với Chúa Giê-su như thế nào? Dường như chỉ mời Ngài bước vào và làm chủ cuộc đời tôi thì quá dễ rồi”. Dễ nhưng không vô lý đâu. Mọi người thường không hiểu vì họ lỡ phức tạp hoá câu hỏi này. Nghĩ thử xem. Khi ai đó được nhận vào làm, họ phải ký hợp đồng xác nhận phải không? Khi ai đó vào quân đội cũng phải ký giấy xác nhận đúng không? Là một sĩ quan quân đội, tôi phải thực hiện lời thề trung thành trước những người lính. Họ ký, và từ lúc đó họ là những người lính và có được những quyền lợi và thách thức dành cho vị trí đó. Và tất nhiên cũng tương tự như khi chúng ta làm lễ kết hôn. Người chủ lễ hỏi chú rể, “Anh có tiếp nhận người nữ này dù tốt hay xấu, giàu hay nghèo, đến khi cái chết chia lìa chứ?” và anh ta trả lời, “Vâng”. Câu hỏi tương tự cho cô dâu, và cô cũng trả lời, “Vâng”. Sau đó người chủ lễ sẽ đặt tay họ với nhau và tuyên bố họ là vợ chồng. Rồi ông nói, “Điều gì Chúa kết hiệp, không ai có thể chia tách”. Một mối quan hệ mới hoàn toàn bắt đầu và được hoạch địch sẽ kéo dài. Hãy bắt đầu mối quan hệ với Chúa Giê-su bằng một điều tương tự như vậy. Chúng ta nhìn lên Ngài và nói, “Ngài có tha thứ và chấp nhận con bước vào mối quan hệ mật thiết với Ngài?” và Ngài trả lời, “Ta có”. Sau đó chúng ta quyết định ở bên Ngài dù tốt hay xấu, giàu hay nghèo, đến khi cái chết chia lìa”! Nếu như vậy, thì đây cũng giống như hôn nhân. Và phép báp-têm của Cơ đốc giáo cũng giống như nhẫn trong hôn nhân: đó là dấu hiệu trông thấy của sự khởi đầu cuộc đời mới mà ngày càng tốt đẹp hơn theo năm tháng.
Quyển sách này không giải thích về cuộc sống Cơ đốc sau đó. Tôi đã viết về điều này trong quyển New Life, New Lifestyle (tạm dịch: Cuộc Đời Mới, Cách Sống Mới, Hodder). Nhưng hãy nghĩ về người lính mới: anh ta sẽ có lương, súng trường, đồng phục và nhiều lợi ích khác – nhưng anh cũng phải chịu những huấn luyện cơ bản (ít nhất anh không phải làm một mình mà là với những người khác trong đội). Hãy nghĩ về người vợ mới: cô thấy tài chính của chồng cũng là của cô, nhưng cô phải mang tên chồng và thay đổi chính mình theo cách của anh.
Môn đồ hoá cần sức mạnh của Đấng Christ, bằng cách xin khi cần. Chúng ta phải mặc lấy bộ đồng phục và không hổ thẹn bày tỏ Đấng Christ và các giá trị của Ngài ở chỗ làm và tại nhà. Tức là tìm một nhóm những Cơ đốc nhân khác để được giúp trong những ngày đầu sống như một Cơ đốc nhân: Giáo trình Alpha hiện tại nổi tiếng và dễ tìm nhất. Và nó sẽ giúp bạn liên kết với Đấng yêu thương mà bạn không thấy được. Như thế nào? Như bạn với những người bạn ở xa. Bằng thư từ, người đó cho bạn biết mình là ai, có thể giúp gì được, bạn có thể làm được gì cho người đó, và người đó yêu bạn dường nào. Và với Chúa, bạn có thể phản hồi bằng cách nhấc điện thoại là lời cầu nguyện – nói chuyện với Ngài về những vui buồn, nan đề và những người mà bạn muốn giới thiệu với Chúa. Đây là một vài cách để tăng trưởng trong mối quan hệ với Chúa Giê-su. Nhưng nó không thể tăng trưởng đến khi nó bắt đầu. Bạn không thể chia sẻ kinh nghiệm của bạn với ai đó cho tới khi bạn được giới thiệu. Bạn không thể trở thành người phối ngẫu của ai đó tới khi bạn nói “Có”. Vậy bạn phải làm gì? Từ từ. Suy ngẫm về thực tế Chúa Giê-su mang Đức Chúa Trời đến với bạn và mong đợi mang bạn đến với Chúa. Ngài chết trên thập tự giá để dọn đường. Ngài còn sống để chào đón bạn và đặt để Thánh Linh không thấy được của Ngài vào trong tấm lòng bạn, nếu bạn xin Ngài.
“Nầy, ta đứng ngoài cửa mà gõ; nếu ai nghe tiếng ta mà mở cửa cho, thì ta sẽ vào cùng người ấy…”
Hãy cầu xin Ngài. Hãy nói những câu đại loại như thế này, bằng ngôn ngữ của bạn:
“Chúa Giê-su ơi, con đã để Ngài ở bên ngoài quá lâu rồi. Xin mời Chúa bước vào và cho con bắt đầu mối liên hệ mật thiết với Ngài. Xin bước vào hôm nay. Xin mời vào và ở lại với con”.
Sau đó bạn hãy cảm tạ Chúa vì Ngài đã đến, Ngài giữ lời hứa và nếu như Chúa nói Ngài sẽ vào thì Ngài quả đã nhận lời cầu xin của bạn. Bạn có thể cảm thấy sự khác biệt ngay hoặc chưa thấy ngay. Điều quan trọng là mối quan hệ của Chúa với bạn đã được bắt đầu, và bạn có cả cuộc đời và cả cõi đời đời để phát triển mối quan hệ đó.
VIETNAMESE MISSIONARY INSTITUTE