Nhà Thần-học người Brazil, Leonardo Boff đã kể lại một mẩu đối-thoại ngắn với Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma, như sau:
Tại một cuộc hội-thảo bàn tròn về “Tôn-giáo và tự-do” có Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma và tôi cùng tham-dự. Lúc tạm nghỉ, tôi hỏi ngài vừa tinh-nghịch vừa tò-mò:
– “Thưa ngài, tôn-giáo nào tốt nhất? ”
Tôi nghĩ ngài sẽ nói:
– “Phật-giáo Tây-tạng” hoặc
“Các tôn-giáo phương Đông, lâu đời hơn Ki-tô giáo nhiều”.
Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma trầm-ngâm giây lát, mỉm cười và nhìn vào mắt tôi…
Điều này làm tôi ngạc-nhiên vì tôi biết đây là một câu hỏi ranh mãnh.
Ngài trả lời:
– “Tôn-giáo tốt nhất là tôn-giáo đưa anh đến gần Đấng tối-cao nhất. Là tôn-giáo biến anh thành con người tốt hơn”.
Để giấu sự bối-rối của tôi trước một câu trả-lời đầy khôn-ngoan như thế, tôi hỏi:
– “Cái gì làm tôi tốt hơn? ” 🙂
Ngài trả lời:
“Tất cả những gì làm anh:
– Biết thương-cảm hơn
– Biết theo lẽ-phải hơn
– Biết từ-bỏ hơn
– Biết dịu-dàng hơn
– Biết nhân-hậu hơn
– Có trách-nhiệm hơn
– Có đạo-đức hơn”
– “Tôn-giáo nào biến anh thành như vậy là tôn-giáo tốt nhất”.
Tôi thinh-lặng giây lát, lòng đầy thán-phục, ngay cả bây giờ, khi nghĩ đến câu trả-lời đầy khôn-ngoan và khó phản-bác, Ngài tiếp:
– “Anh bạn tôi ơi!
– Tôi không quan-tâm đến tôn-giáo của anh hoặc anh có ngoan-đạo hay không. Điều thật-sự quan-trọng đối với tôi là cách cư-xử của anh đối-với người đồng-đẳng, gia-đình, công-việc, cộng-đồng và đối với thế-giới.
Hãy nhớ rằng vũ-trụ dội lại hành-động và tư-tưởng của chúng ta. Quy-luật của hành-động (Action) và phản-ứng (Reaction) không chỉ dành riêng cho vật-lý. Nó cũng được áp-dụng cho tương-quan con người.
– Nếu tôi ở hiền, thì tôi gặp lành.
– Nếu tôi gieo gió, thì tôi gặt bão.
– Những gì ông bà nói với chúng ta là sự-thật thuần-túy. Chúng ta luôn nhận được những gì chúng ta làm cho người khác. Hạnh-phúc không phải là vấn đề số-mệnh. Đó là vấn-đề lựa-chọn.”
Cuối cùng ngài nói:
– “Hãy suy-tư cẩn-thận vì Tư-tưởng sẽ biến-thành Lời-nói,
– Hãy ăn-nói cẩn-thận vì Lời-nói sẽ biến-thành Hành-động,
– Hãy hành-xử cẩn-thận vì Hành-động sẽ biến-thành Thói-quen,
– Hãy chú-trọng Thói-quen vì chúng hình-thành Nhân-cách,
– Hãy chú-trọng Nhân-cách vì nó hình-thành Số-mệnh,
– Và Số-mệnh của anh sẽ là Cuộc-đời của anh.
-… và …
– “Không có tôn-giáo nào cao-trọng hơn Sự-Thật.”
Dựa vào mẫu chuyện trên đây tôi suy nghĩ và muốn bạn cùng tôi suy nghĩ. Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma là người khôn ngoan và nói những lời khôn ngoan. Tôi kính trọng ông vì ông nổi tiếng thế giới và đã được Tổng Thống Obama đón tiếp tại Tòa Bạch Ốc mới đây. Ông là một danh nhân nhưng cũng là một người như chúng ta. Ông đã nói đến những chủ đề quan trọng nhất mà người Việt Nam chúng ta cần suy nghĩ và lựa chọn.
Là một người quan tâm nghiên cứu các tín ngưỡng của người Việt Nam, tôi không quên được bài báo ”Diệu Pháp Mạn-đà-la Tây Tạng” của nhà báo Việt Nam nổi tiếng Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh đăng trên báo Bút Việt tại Dallas ngày 1 tháng 10 năm 1999.
Mở đầu bài báo, ông Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh đã giới thiệu: ”Vì một chuyện tình cờ may mắn, tôi đã được gặp Đại sư Lạt Ma Khen Rinpoche, Viện Trưởng Sera Mey. Đại sư cùng các vị Lạt Ma đệ tử 11 người hiện đang đi thuyết pháp ở nhiều nơi trên đất Mỹ… Đại sư Khen Rinpoche tên là Sermey Khenpo Lobsang Jamyang. Chữ Rinpoche là chữ Tây Tạng chỉ người tái sinh được tìm thấy. Khen Rinpoche có nghĩa là Viện Trưởng một Viện lớn. Sera Mey là một trong hai viện chính của Đại Học Tu Viện Sera, được thành lập ở Tây Tạng năm 1421. Cho đến năm 1959 Viện Sera Mey là nơi tu học của gần 5 000 tu sĩ. Sau khi Trung Quốc chiếm Tây Tạng, các tu sĩ tạm rời về Buxa, một vùng hoang vắng ở miền Đông Ấn Độ, lúc đó chỉ còn 170 tu sĩ. Năm 1970, các tu sĩ rời về Mysore, miền Nam Ấn Độ và tái lập Sera Mey ở đây. Hiện nay Sera Mey có khoảng 1 500 tu sĩ.”
Lời giới thiệu như trên cho tôi thấy địa vị quan trọng và thẩm quyền về Phật Pháp của vị Đại sư Tây Tạng. Tiếng nói của vị Đại sư nầy có thể xem là tiếng nói của nhiều người theo Phật Giáo ngày nay. Bài báo nầy đã giúp tôi hiểu thêm được tín ngưỡng Phật Giáo cách cụ thể nhưng cũng để lại trong tôi nhiều suy nghĩ. Tôi không hiểu được sự mầu nhiệm của Diệu Pháp Mạn-đà-la Tây Tạng cũng như của triết lý Phật Giáo trong cái nhìn của nhà báo, nhưng đối với tôi ba câu hỏi và ba câu trả lời sau đây trong bài báo đã khêu gợi cho tôi mối quan tâm tìm hiểu. Tôi muốn mời bạn cùng tôi tìm cho ra chân lý.
Thứ nhất, niềm tin của Phật Giáo Việt Nam không khác Phật Giáo Tây Tạng.
Nhà báo hỏi: “Phật Giáo Tây Tạng có khác gì với Phật Giáo Việt Nam không?”
Đại sư lắc đầu cười nói: “Không khác (No different)”.
Nhà báo: Tôi nói Phật Giáo Việt Nam đại đa số là Phật Giáo Đại Thừa. Đại sư gật đầu nói Phật Giáo Tây Tạng cũng là Đại Thừa (Mahayana).”
Thứ hai, Phật Giáo tin sự thực hữu của Đấng Tối Thượng.
Nhà báo hỏi: “Có một vị nào tối thượng trên vũ trụ không?”
Đại sư trả lời: “Có, có.”
Nhà báo hỏi tiếp: “Có phải đó là Đức Phật không?”
Vị Đại sư Tây Tạng nghiêm nét mặt lắc đầu: “Không phải, không phải.” Rồi người lại cười và hạ bàn tay ra hiệu: “Đức Phật còn ở dưới.”
Thứ ba, Phật Giáo tin chết không phải là hết.
Nhà báo xin phép đổi đề tài và chuyển sang câu hỏi: “Sau cái chết có sự sống hay không? (Life after death?).”
Đại sư đáp nhẹ nhàng một chữ “Reborn (Tái sinh)”.
Nhà báo hỏi: “Có phải đó là Reincarnation không?”
Đại sư lắc đầu xua tay: “Không phải, không phải… Reincarnation là cho những bậc cao hơn.”
Nhà báo giải thích: Reincarnation trong tiếng Anh có nghĩa là hồn tái nhập vào một cơ thể khác, còn Reborn là đầu thai sang một kiếp khác.
Nhà báo tiếp: ”Tôi hỏi gặng tại sao người ta tái sinh (reborn), mà không nhớ tiền kiếp của mình?”
Đại sư cười lớn co hai tay lại nhắm mắt, cong lưng, bắt chước bào thai nằm trong bụng mẹ, rồi nói: “Mất 9 tháng 10 ngày như vậy thì bất cứ cái gì cũng phải quên hết nữa là tiền kiếp. Đó là lúc vô tri vô giác.”
Trên đây là phần trích đăng nguyên văn bài báo về Phật Giáo của nhà báo Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh.
Những câu hỏi cần được trả lời thỏa đáng.
Đọc xong bài báo, mặc dầu không thoả mãn với những câu trả lời, nhưng lòng tôi cảm phục nhà báo Việt Nam cùng vị Đại sư Tây Tạng đã hết sức thẳng thắng, rõ ràng và chân thành trong câu hỏi lẫn câu trả lời. Tôi tin rằng những câu hỏi của nhà báo cũng là câu hỏi mà nhiều người đi tìm chân lý đang quan tâm. Giống như nhiều người Việt Nam khác, phải chăng người Phật Giáo tin có Đấng Tối Thượng nhưng không biết Đấng Tối Thượng là ai? Nếu Đấng Tối Thượng không phải là Đức Phật, vậy thì ai là Đấng Tối Thượng?
Dù bạn là người đang theo Phật Giáo, dù bạn đang theo hay chưa theo một tôn giáo nào khác, thiết tưởng câu hỏi, “Có Đấng Tối Thượng không?” và “Đấng Tối Thượng Là Ai?” là những câu hỏi chúng ta cần quan tâm tìm hiểu và phải tìm cho ra câu trả lời chân chính nhất.
Có hai cách để biết Đấng Tối Thượng là ai.
Nhà Thần Học Karl Barth, người Thụy Sĩ, cho rằng chỉ có hai cách để con người biết được Đấng Tối Thượng là ai. “Cách thứ nhất là bắt đầu với con người và từ đó suy luận trở lên; cách thứ hai là bắt đầu với Đấng Tối Thượng và chấp nhận sự mạc khải của Ngài tỏ bày cho chúng ta.” Hầu hết các tôn giáo và triết lý trên thế giới đi theo cách thứ nhất là cố gắng suy luận từ con người trở lên, duy có Cơ-đốc Giáo là theo cách thứ hai từ trên xuống. Bạn có quyền chọn lựa một trong hai con đường bạn nhận thấy là đúng nhất.
Có Đấng Tạo Hóa không?
Trước khi tìm hiểu cho biết Đấng Tối Thượng là ai, thiết tưởng chúng ta nên bắt đầu với câu hỏi có Đấng Tạo Hóa Tối Thượng không? Lý do là vì hiện nay trên thế giới, kể cả giữa vòng người Việt Nam, một số người vẫn không tin sự thực hữu của Đấng Tạo Hóa, nhiều người không biết Đấng đó là ai, hoặc nhiều người cứ sống mà không cần biết đến sự hiện diện của Ngài.
Ít nhất có ba sự lựa chọn về Đấng Tạo Hóa.
Lựa chọn thứ nhất:
Không có Đấng Tạo Hóa nào cả!
Đây là thái độ của những người theo thuyết Vô Thần (Atheism). Người vô thần tuyên bố, “Tôi biết không có Đấng Tạo Hóa nào cả.” Người vô thần thường đặt ra vô số câu hỏi tương tự như sau:
Nếu có Đấng Tối Thượng thì tại sao không ai thấy Ngài? Tại sao có những người vô tội, kể cả trẻ em, đã chết vì những thiên tai như động đất, lụt lội, hoả hoạn, bão tố, hạn hán…? Nếu có Đấng Tối Thượng thì tại sao có bệnh tật, chiến tranh, đói kém, dịch lệ? Tại sao Ngài không chấm dứt những khổ nạn? Tại sao có người giàu người nghèo, nước giàu nước nghèo? Tại sao có bất công đầy dẫy trong xã hội loài người? Nếu có Đấng Tối Thượng thì tại sao Ngài không nhậm lời tất cả những lời cầu nguyện của chúng ta? Nếu có Ngài, tại sao mọi người không thể có cùng một niềm tin về Ngài là Đấng như thế nào? Phật Giáo tin về Ngài khác, Ấn Giáo khác, Hồi Giáo khác và Cơ-đốc Giáo tin về Ngài khác hẳn các tôn giáo kia? Nếu Ngài không thể kiểm soát được thiên tai, nhân họa như chúng ta mong muốn thì làm sao Ngài làm Đấng Tối Thượng được? Nếu có Ngài thì tại sao có những người tự xưng là vô thần chống nghịch Ngài, bắt bớ những người tin Ngài mà Ngài vẫn tiếp tục yên lặng? Tại sao Ngài không lên tiếng để thuyết phục mọi người rằng Ngài đang có mặt? Tại sao Ngài không tự xuất hiện một lần đủ cả để cất đi mọi nỗi hoài nghi, suy đoán trong lòng mọi người? Và nếu có Đức Chúa Trời thì ai đã dựng nên Ngài?
Tất cả những câu hỏi trên đây không phải là mới và không phải là không có câu trả lời. Vấn đề là người đặt câu hỏi có thật lòng tìm kiếm câu trả lời hay không mà thôi.
Giả thử bạn đang chọn thái độ nầy thì trước hết xin bạn vui lòng cùng tôi vẽ một vòng tròn lớn tiêu biểu cho toàn bộ mọi lãnh vực hiểu biết của loài người. Tiếp theo, xin bạn hãy vẽ ra một điểm trong vòng tròn đó để tiêu biểu cho mức độ hiểu biết của chính mình bạn so với toàn bộ sự hiểu biết của loài người. Bạn sẽ vẽ được một điểm nào đáng kể trong cái vòng tròn to lớn đó hay không? Riêng phần tôi, cái điểm tôi vẽ ra bên trong vòng tròn đó thật nhỏ nhoi. Tôi tin rằng dù bạn là một nhà bác học hiện đại đi nữa, cái điểm vẽ của bạn cũng sẽ rất nhỏ nhoi. Mọi người đều công nhận sự hiểu biết của con người rất giới hạn so với tất cả những gì cần phải biết, vì thế thật vô lý khi nói rằng, “Tôi biết không có Đấng Tạo Hóa nào cả.” Một người nói câu đó phải là người hiểu biết tất cả mọi sự và có mặt ở khắp mọi nơi trong vũ trụ. Đó là khả năng mà chỉ có Đấng Tạo Hóa Toàn Tri, Toàn Tại mới có được mà thôi.
Bạn biết không, các giáo sĩ Tây phương rất khó để mô tả băng tuyết cho dân bản xứ vùng xích đạo nóng bức. Các giáo sĩ càng ra sức mô tả nước đá trở nên rắn chắc đến nỗi người và xe đi lại trên đó được, dân bản xứ càng cười ra. Băng tuyết nằm ở ngoài lĩnh vực hiểu biết của họ, nhưng điều nầy không có nghĩa là băng tuyết không có thực. Tương tự như vậy, một người muốn từ chối sự thực hữu của Đức Chúa Trời thì người đó phải biết hết mọi sự. Điều mỉa mai là một người phải có tầm cỡ bằng Đức Chúa Trời mới dám tuyên bố chắc chắn là Đức Chúa Trời không thực hữu. Thực ra, những người từ chối Đức Chúa Trời đang ra sức đè nén sự ý thức về Đức Chúa Trời mà Ngài đã ban cho họ (xem Rô-ma 1:18-21). Một người cố tình không tin có Đức Chúa Trời thì không thể dùng lý luận mà thuyết phục người đó được. Tuy nhiên, người không tin Đức Chúa Trời thực hữu cần biết rõ một vũ trụ không có Đức Chúa Trời sẽ như thế nào.
Từ trong sâu thẳm của tấm lòng, con người luôn luôn kêu gào ý nghĩa, giá trị và mục đích của cuộc sống, nhưng đây chính là những điều bị từ chối trong một vũ trụ vô thần. Khoa học cho biết vũ trụ đang nở rộng ra và cứ để cho nó diễn ra tự nhiên, thì các thiên hà sẽ rời ra xa nhau và các ngôi sao cuối cùng sẽ tàn tắt. Tất cả sẽ là một thế giới lạnh lẽo, tối tăm, và không còn sự sống.
Trên phương diện thời gian, cả loài người (không kể chi đến một đời người) sẽ chỉ là một sự hiện hữu trong chốc lát trước khi tiêu mất đi so với cõi vĩnh hằng. Tất cả những việc chúng ta làm sẽ vô nghĩa, không ai còn lại để nhớ gì cả trong đêm dài vô tận của cõi thời gian.
Hơn nữa, nếu không có Đức Chúa Trời thì chúng ta sẽ không có nền tảng nào cả cho đạo đức, cho những giá trị để đo lường đúng sai, tốt xấu. Lúc đó mọi sự đều là tương đối, không có gì tuyệt đối cả. Nếu con người chỉ là sự kết hợp ngẫu nhiên, tình cờ của vật chất trong một vũ trụ phi nhân tính thì những giá trị mà con người tôn trọng như sự hy sinh vì chính nghĩa, sự thành thật, tình huynh đệ, tình bằng hữu, tình yêu thương, sự hiếu kính, sự công bình, sự khiêm nhường, sự tha thứ, sự tử tế, lòng vị tha, lòng biết ơn, lòng trung tín, sự thánh thiện, đạo đức, tự do, hạnh phúc vân vân… đều chẳng có nghĩa lý gì hơn sự lọc lừa, ích kỷ, hận thù, thành kiến, kiêu căng, bất công, tàn nhẫn, cố chấp, phản bội, vô ơn, nô lệ và bất hạnh… Hãy thử nhớ lại xem trong lịch sử cận đại của thế giới, những nhà lãnh đạo chính trị vô thần đã làm gì và đã đem lại gì cho nhân loại? Nếu một người thực sự sống với thuyết vô thần sẽ để lại kết quả gì cho những người chung quanh?
Trong một thế giới vô thần, con người không có mục đích sống. Một thế giới không có ai sáng tạo và điều khiển sẽ loại trừ mục đích và kế hoạch, cuối cùng khuynh hướng của nó sẽ dẫn tới chỗ hư hoại, suy tàn, vô trật tự và chết chóc. Không một ai khôn ngoan lại muốn sống trong một thế giới hỗn loạn, vô mục đích như thế cả. Ai cũng sống và cư xử như là sự hiện hữu của con người đang có ý nghĩa, những giá trị là có thực, và đời người có mục đích cao cả. Tất cả những giá trị thực tế nầy đòi hỏi phải có một Đấng Tạo Hóa vô hạn, có nhân tính. Nhờ có Ngài mà con người sống có mục đích và giá trị.
Một nhà thần học Tin Lành tên là Francis Schaeffer đã gồm tóm thuyết phủ nhận sự thực hữu và sáng tạo của Đấng Tạo Hoá bằng phương trình sau đây: “Hư không + phi nhân tính + thời gian + sự tình cờ may rủi = Sự hiện hữu của muôn loài vạn vật” (Nothing + the impersonal + time + chance = Everything there is.) Bạn thấy lý thuyết phủ nhận Đấng Tạo Hoá có hợp tình hợp lý hay không?
Có người nói rằng thuyết Vô Thần thực chất là một tôn giáo xây dựng trên đức tin mù quáng, nghĩa là phải cần có đức tin cực lớn mới làm được người vô thần. Người vô thần bởi đức tin tin rằng không có Đức Chúa Trời và dù không có bất cứ bằng chứng nào họ đã tin vũ trụ không do ai dựng nên cả. Vô thần là một tôn giáo không có Đức Chúa Trời, một đức tin không có lý trí và một cuộc hành trình không có đích.
Một người Vô Thần phải tin rằng (1) Vật chất là vĩnh cửu. (2) Vật chất phi sự sống đã sản sinh ra sự sống. (3) Vật chất phi tâm trí đã tạo ra tâm trí. (4) Vật chất phi thông minh đã tạo ra thông minh. (5) Vật chất phi đạo đức đã tạo ra đạo đức. (6) Vật chất phi lương tâm đã tạo ra lương tâm. (7) Vật chất phi mục đích đã tạo ra mục đích và trật tự.
Một người Vô Thần phải làm được những việc sau đây: (1) Chứng minh không có Đức Chúa Trời. (2) Từ khước tất cả những bằng chứng về sự thực hữu của Đức Chúa Trời. (3) Phủ nhận được sự thực về Đức Chúa Giê-xu Christ. (4) Loại hết những bằng chứng về sự phục sinh của Đức Chúa Giê-xu Christ. (5) Phủ nhận được sự ứng nghiệm của những lời tiên tri trong Kinh Thánh. (6) Chứng minh được rằng Kinh Thánh là chuyện bịa đặt. (7) Thiết lập được sự đáng tin của thuyết Vô Thần. Từ xưa đến nay, người Vô Thần đã không làm được điều đó.
Có người ví sánh thuyết Vô Thần giống như phạm trù của cái mà các nhà luận lý gọi là “những lời tuyên bố tự phản.” Thí dụ như một người Việt nói câu, “I cannot say a word of Enghish” (Tôi không thể nói một chữ tiếng Anh nào) là người đó đã nói một câu tự phản khi người đó dùng tiếng Anh để nói mình không biết một câu tiếng Anh nào cả. Hoặc câu, “Không có lẽ thật nào cả” là một câu tự phản. Nếu câu đó sai thì đó là một câu sai. Nếu câu đó đúng, thì nó cũng sai luôn, vì trong trường hợp đó không có lẽ thật nào cả, kể cả câu nói đó.
Không có người nào biết đủ để làm người Vô Thần. Chính nhà Bác học Albert Einstein có lần đã nói ông biết ít hơn một nửa của một phần trăm. Vậy câu hỏi đặt ra với người Vô Thần là, “Có thể có Đức Chúa Trời thực hữu bên ngoài sự hiểu biết của người vô thần không?” Câu trả lời là “Có thể!” Người Vô Thần không thể nói cách hợp lý là không có Đức Chúa Trời. Không có nền tảng lý luận nào cho thuyết Vô Thần. Người Vô Thần không có nền tảng nào, lý luận nào hợp lý để phủ nhận Đức Chúa Trời.
Một học giả nổi tiếng tên là G.K. Chesterton đã có nhận xét như sau: “Khi người ta ngưng tin Đức Chúa Trời, không phải là họ không tin gì cả, nhưng là hầu như họ tin tất cả.” Câu nầy thật đúng trong thế giới của người Vô Thần.
Tuy nhiên, trước khi khẳng định thái độ của mình, xin bạn hãy cùng tôi suy nghĩ đến câu nói nầy của một học giả Cơ-đốc Giáo, “Không một phủ định nào về Thiên Chúa lại có thể chạm đến Ngài được, bởi nó ở ngoài Thiên Chúa, nó là sự phủ định một ngụy thần hay một ý niệm trừu tượng về Thiên Chúa mà thôi.” Đúng vậy! Có lẽ Đấng mà một số người đang phủ nhận không phải là Đấng Tạo Hóa Tối Thượng mà chúng ta cần tin tưởng và phó thác cuộc đời. Có lẽ đó là một tà thần hoặc một hình ảnh tưởng tượng chứ không phải là Chân Thần. Chúng ta có quyền tự do lựa chọn, vấn đề là chúng ta phải chọn cho đúng.
Gần Đấng Tối Thượng hơn.
– “Tôn-giáo tốt nhất là tôn-giáo đưa anh đến gần Đấng tối-cao nhất.”
Câu nói nầy rất hay và rất quan trọng. Nhưng chúng ta cần cẩn thận để định nghĩa và xác nhận về Đấng Tối Cao. Ấn Giáo lẫn Phật Giáo đều có quan niệm khác nhau về Đấng Tối Cao. Các tôn giáo như Hồi Giáo và Cơ-đốc Giáo đều biết về Đấng Tối Cao cách khác nhau, có danh xưng khác nhau, có tâm tánh khác nhau.
Nhưng đều hay là ai cũng công nhận là vũ trụ có một Đấng Tối Cao hay Đấng Chí Cao, Đấng Tối Thượng. Điều quan trọng là dù bạn có đầy đủ tôn giáo mà không biết và không lập được mối liên hệ với chính Đấng Tối Thượng thì vô ích.
Vậy Đấng Tối Thượng là ai? Mời bạn xem Kinh Thánh thì biết Đấng Tối Thượng là ai. Có rất nhiều câu Kinh Thánh nói về Đấng Tối Thượng rất gần, chúng ta ai nấy đều có thể tiếp xúc, trò chuyện với Ngài. Không có thẩm quyền nào khác ngoài Kinh Thánh có thể giúp chúng ta biết Đấng Tối Thượng một cách đầy đủ.
Kinh Thánh chép:
“Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất.” (Sáng thế 1:1).
Tiên tri Ê-sai chép:
“21 Vậy hãy truyền rao; hãy bảo chúng nó đến gần, và nghị luận cùng nhau! Từ đời xưa ai đã rao ra sự nầy? ai đã tỏ ra từ lúc thượng cổ? Há chẳng phải ta, là Đức Giê-hô-va, sao? Ngoài ta chẳng có Đức Chúa Trời nào khác! chẳng có Đức Chúa Trời nào khác là công bình và là Cứu Chúa ngoài ta. 22 Hỡi các ngươi hết thảy ở các nơi đầu cùng đất, hãy nhìn xem ta và được cứu! Vì ta là Đức Chúa Trời, chẳng có Chúa nào khác.” (Ê-sai 45:21-22)
Chúa Cứu Thế Giê-su tuyên bố sau khi Ngài đã từ kẻ chết sống lại:
“Hết cả quyền phép trên trời, dưới đất đã giao cho Ta…”
Sứ đồ Phao-lô giảng cho người dân thành phố A-thên, Hy Lạp:
“Bấy giờ, Phao-lô đứng giữa A-rê-ô-ba, nói rằng: Hỡi người A-thên, phàm việc gì ta cũng thấy các ngươi sốt sắng quá chừng. 23 Vì khi ta trải khắp thành các ngươi, xem xét khí vật các ngươi dùng thờ phượng, thì thấy một bàn thờ có chạm chữ rằng: THỜ CHÚA KHÔNG BIẾT. Vậy, Đấng các ngươi thờ mà không biết đó, là Đấng ta đương rao truyền cho. 24 Đức Chúa Trời đã dựng nên thế giới và mọi vật trong đó, là Chúa của trời đất, chẳng ngự tại đền thờ bởi tay người ta dựng nên đâu. 25 Ngài cũng chẳng dùng tay người ta hầu việc Ngài dường như có cần đến sự gì, vì Ngài là Đấng ban sự sống, hơi sống, muôn vật cho mọi loài. 26 Ngài đã làm cho muôn dân sanh ra bởi chỉ một người và khiến ở khắp trên mặt đất, định trước thì giờ đời người ta cùng giới hạn chỗ ở, 27 hầu cho tìm kiếm Đức Chúa Trời, và hết sức rờ tìm cho được, dẫu Ngài chẳng ở xa mỗi một người trong chúng ta. 28 Vì tại trong Ngài, chúng ta được sống, động, và có, y như xưa một vài thi nhân của các ngươi có nói rằng: Chúng ta cũng là dòng dõi của Ngài. 29 Vậy, bởi chúng ta là dòng dõi Đức Chúa Trời, thì chớ nên ngờ rằng Chúa giống như vàng, bạc, hay là đá, bởi công nghệ và tài xảo của người ta chạm trổ nên. 30 Vậy thì, Đức Chúa Trời đã bỏ qua các đời ngu muội đó, mà nay biểu hết thảy các người trong mọi nơi đều phải ăn năn, 31 vì Ngài đã chỉ định một ngày, khi Ngài sẽ lấy sự công bình đoán xét thế gian, bởi Người Ngài đã lập, và Đức Chúa Trời đã khiến Người từ kẻ chết sống lại, để làm chứng chắc về điều đó cho thiên hạ… (Công Vụ Sứ Đồ 17:22-31).
Sứ đồ Phao-lô chép:
“Trước mặt Đức Chúa Trời là Đấng ban sự sống cho mọi vật, và trước mặt Đức Chúa Jêsus Christ là Đấng làm chứng tốt nơi Bôn-xơ Phi-lát, ta khuyên con 14 phải giữ điều răn, ở cho không vết tích và không chỗ trách được, cho đến kỳ sự hiện ra của Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, 15 là sự mà Đấng Chủ tể hạnh phước và có một đến kỳ sẽ tỏ ra, là Vua của mọi vua, Chúa của mọi chúa, 16 một mình Ngài có sự không hề chết, ở nơi sự sáng không thể đến gần được, chẳng người nào từng thấy Ngài và cũng không thấy được, danh vọng quyền năng thuộc về Ngài đời đời! A-men.” (1 Ti-mô-thê 6:13-16).
Theo bạn ai là Đấng Tối Thượng? Bạn đã liên lạc được Đấng Tối Thượng chưa?
Các tôn giáo giúp bạn có cảm tưởng đến gần Đấng Tối Cao nhưng bạn biết không giữa bạn và Ngài có một khảong cách vô cùng to lớn mà bạn không biết. Đó là hàng rào ngăn cách bạn với Ngài. Kinh Thánh gọi đó là tội lỗi. Là Chúa đang giận bạn. Bạn đang phân cách với Ngài. Đấng Tối Cao nầy đã từng hạ mình đến với loài người và Ngài bằng lòng nhận bạn trở về làm con của Ngài nhưng bạn lại chưa biết. Bạn vẫn là đứa trẻ mồ côi, bơ vơ, tuyệt vọng nếu bạn chưa tin nhận Chúa Cứu Thế và chưa làm hòa với Đấng Tối Thượng. Bạn thích làm theo cách của mình để đến gần Chúa và bạn coi thường giải pháp đến gần nhau của Chúa.
Bạn sẽ được nhận làm con của Chúa khi bạn chọn giải pháp phục hòa với Ngài qua Chúa Giê-su là Đấng duy nhất đã chết thế đền tội cho bạn. Hãy đến với Chúa Cứu Thế Giê-su và tiếp nhận Ngài, ngay lập tức mối quan hệ của bạn với Đấng Tối Thượng sẽ hòan toàn thay đổi ngay.
Thành người tốt hơn.
“Tôn-giáo tốt nhất là tôn-giáo… biến anh thành con người tốt hơn”.
Đây là mục tiêu của các tôn giáo, cố gắng chỉ dẫn giúp con người sống tốt hơn. Con người thường lấy người khác làm tiêu chuẩn để so sánh. Vì thế họ chủ trương sống tốt hơn người khác là đủ rồi. Tôi tin rằng đây là cố gắng tốt nhất của các tôn giáo do loài người sáng lập để nối lại mối liên hệ vốn đứt đoạn với Đấng Tối Thượng. Phương pháp của con người là cố gắng, là ép mình, là tu luyện để mỗi ngày sống tốt hơn. Nhiều người theo tôn giáo đã hãnh diện về cố gắng tu hành của mình vì thấy mình đã sống tốt hơn người khác. Đó là lý do tôn giáo vẫn tồn tại ở khắp nơi trên thế giới.
Bạn biết không, trước mắt Chúa dù bạn sống tốt hơn nhiều người khác, bạn vẫn chưa đạt tiêu chuẩn trọn lành thánh khiết của Đức Chúa Trời, bạn còn thiếu hụt. Vì bạn là tội nhân. Hy vọng duy nhất của bạn để thoát khỏi địa vị tội nhân hư mất và bạn có thể trở thành thánh nhân trước Đấng Tối Thượng là hoàn toàn nhờ cậy Chúa Cứu Thế Giê-su. Hãy đọc Kinh Thánh bạn sẽ thấy. Hãy rờ lòng tự hỏi các cố gắng của mình đã đạt chưa, bạn sẽ thấy. Tin mừng cho bạn và cho gia đình bạn cũng như cho mọi người là bạn chỉ cần tin nhận Chúa. Tin cậy và vâng lời Chúa là bí quyết của sự biến đổi tâm linh.
Kinh Thánh chép:
“Vậy, nếu ai ở trong Đấng Christ, thì nấy là người dựng nên mới; những sự cũ đã qua đi, nầy mọi sự đều trở nên mới. 18 Mọi điều đó đến bởi Đức Chúa Trời, Ngài đã làm cho chúng ta nhờ Đấng Christ mà được hòa thuận lại cùng Ngài, và đã giao chức vụ giảng hòa cho chúng ta. 19 Vì chưng Đức Chúa Trời vốn ở trong Đấng Christ, làm cho thế gian lại hòa với Ngài, chẳng kể tội lỗi cho loài người, và đã phó đạo giảng hòa cho chúng tôi.” (2 Cô-rinh-tô 5:17-19).
Bạn biết không, Đức Chúa Trời nhìn đến bản chất của con người, không giống như loài người hãnh diện về mình, vì người ta nhìn bề ngoài nhưng Chúa nhìn thấy trong lòng. Lòng người hư hoại, xấu xa. Mỗi người là một tội nhân hư hoại, xa cách, hư mất. Chúa Giê-su đã chỉ rõ:
“Hễ sự gì từ người ra, đó là sự làm dơ dáy người! 21 Vì thật là tự trong, tự lòng người mà ra những ác tưởng, sự dâm dục, trộm cướp, giết người, 22 tà dâm, tham lam, hung ác, gian dối, hoang đàng, con mắt ganh đố, lộng ngôn, kiêu ngạo, điên cuồng. 23 Hết thảy những điều xấu ấy ra từ trong lòng thì làm cho dơ dáy người” (Mác 7:20-23).
Bạn có thể nhờ tôn giáo và sự tu luyện để thay đổi lòng mình không?
Tiên tri Giê-rê-mi đã chép về cái nhìn của Đấng Tối Thượng:
“Người Ê-thi-ô-bi có thể đổi được da mình, hay là con beo đổi được vằn nó chăng? Nếu được thì các ngươi là kẻ đã làm dữ quen rồi, sẽ làm lành được.” (Giê-rê-mi 13:23).
Sự thật cao trọng.
– “Không có tôn-giáo nào cao-trọng hơn Sự-Thật.”
Đây là sự khôn ngoan của Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma và điều nầy làm ông nổi tiếng trên thế giới. Ông làm cho người ta có cảm tưởng ông đã đến gần sự thật. Sự thật muôn đời vẫn là sự thật. Sự thật sẽ giải phóng chúng ta. Loài người ở nhiều nơi vẫn còn ở trong xích xiềng nô lệ, thậm chí là xích xiềng của tôn giáo mà không biết.
– Nếu tôi ở hiền, thì tôi gặp lành.
– Nếu tôi gieo gió, thì tôi gặt bão.
Đây là những sự thật mà con người kinh nghiệm. Nhưng ít người hỏi ai là người điều khiển các quy luật luân lý nầy. Tại sao ở hiền thì lại gặp lành, tại sao gieo gió thì lại gặt bão? Ai điều khiển quy luật giao gặt để báo trả việc mỗi người làm? Ai giúp mình ở hiền?
Nếu bạn biết lẽ thật mà bạn không chịu làm theo lẽ thật thì có ích gì? Chẳng hạn bạn đang đi đường xuống hỏa ngục và có người chỉ đường cho bạn để đi lên thiên đàng thì bạn làm gì với sự thật đó? Nếu bạn không chịu thay đổi và từ bỏ con đường đi xuống để trở lại đi con đường dẫn bạn lên thì sự thật đó không ích gì cho bạn.
Vấn đề bây giờ không phải là bạn không biết lẽ thật nhưng là vấn đề bạn không chọn để làm theo lẽ thật.
Chúa Giê-su phán,
“Ta là đường đi, lẽ thật, và sự sống; chẳng bởi ta thì không ai được đến cùng Cha. 7 Ví bằng các ngươi biết ta, thì cũng biết Cha ta; và từ bây giờ các ngươi biết và đã thấy Ngài.” (Giăng 14:6).
Trong lịch sử có câu chuyện về Tổng Đốc Phi-lát, người đã hỏi: “Lẽ thật là gì?” Câu chuyện được chính nhân chứng Giăng ghi lại trong Kinh Thánh Tân Ước.
“Phi-lát bèn vào trường án, truyền đem Đức Chúa Jêsus đến, mà hỏi rằng: Chính ngươi là Vua dân Giu-đa, phải chăng? 34 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Ngươi nói điều đó tự ý mình, hay là có người đã nói điều đó với ngươi về ta? 35 Phi-lát trả lời rằng: Nào có phải ta là người Giu-đa đâu? Dân ngươi cùng mấy thầy tế lễ cả đã nộp ngươi cho ta; vậy ngươi đã làm điều gì? 36 Đức Chúa Jêsus đáp lại rằng: Nước của ta chẳng phải thuộc về thế gian nầy. Ví bằng nước ta thuộc về thế gian nầy, thì tôi tớ của ta sẽ đánh trận, đặng ta khỏi phải nộp cho dân Giu-đa; nhưng hiện nay nước ta chẳng thuộc về hạ giới. 37 Phi-lát bèn nói rằng: Thế thì ngươi là vua sao? Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Thật như lời, ta là vua. Nầy, vì sao ta đã sanh và vì sao ta đã giáng thế: Ấy là để làm chứng cho lẽ thật. Hễ ai thuộc về lẽ thật thì nghe lấy tiếng ta. 38 Phi-lát hỏi rằng: Lẽ thật là cái gì?
Khi người đã nói vậy, rồi lại đi ra đến cùng dân Giu-đa, mà rằng: Ta chẳng thấy người có tội lỗi gì cả. 39 Nhưng các ngươi có lệ thường, hễ đến ngày lễ Vượt Qua, thì ta tha cho các ngươi một tên tù, vậy các ngươi có muốn ta tha Vua dân Giu-đa cho chăng? 40 Chúng bèn kêu lên nữa rằng: Đừng tha nó, nhưng tha Ba-ra-ba! Vả, Ba-ra-ba là một kẻ trộm cướp.” (Giăng 18:31-40).
“Bấy giờ, Phi-lát bắt Đức Chúa Jêsus và sai đánh đòn Ngài. 2 Bọn lính đan một cái mão triều bằng gai, đội trên đầu Ngài, và mặc cho Ngài một cái áo điều. 3 Đoạn, họ đến gần, nói với Ngài rằng: Lạy Vua dân Giu-đa! Họ lại cho Ngài mấy cái vả.
4 Phi-lát lại ra một lần nữa, mà nói với chúng rằng: Đây nầy, ta dẫn người ra ngoài, để các ngươi biết rằng ta không tìm thấy người có tội lỗi chi. 5 Vậy, Đức Chúa Jêsus đi ra, đầu đội mão triều gai, mình mặc áo điều; và Phi-lát nói cùng chúng rằng: Kìa, xem người nầy! 6 Nhưng khi các thầy tế lễ cả và các kẻ sai thấy Ngài, thì kêu lên rằng: Hãy đóng đinh hắn trên cây thập tự, hãy đóng đinh hắn trên cây thập tự! Phi-lát nói cùng chúng rằng: Chính mình các ngươi hãy bắt mà đóng đinh người; bởi vì về phần ta không thấy người có tội lỗi chi hết. 7 Dân Giu-đa lại nói rằng: Chúng tôi có luật, chiếu luật đó hắn phải chết; vì hắn tự xưng là Con Đức Chúa Trời. 8 Khi Phi-lát đã nghe lời đó, lại càng thêm sợ hãi nữa.
9 Người lại trở vào nơi trường án mà nói với Đức Chúa Jêsus rằng: Ngươi từ đâu? Nhưng Đức Chúa Jêsus không đáp gì hết. 10 Phi-lát hỏi Ngài rằng: Ngươi chẳng nói chi với ta hết sao? Ngươi há chẳng biết rằng ta có quyền buông tha ngươi và quyền đóng đinh ngươi sao? 11 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Nếu chẳng phải từ trên cao đã ban cho ngươi, thì ngươi không có quyền gì trên ta; vậy nên, kẻ nộp ta cho ngươi là có tội trọng hơn nữa. 12 Từ lúc đó, Phi-lát kiếm cách để tha Ngài; nhưng dân Giu-đa kêu lên rằng: Ví bằng quan tha người nầy, thì quan không phải là trung thần của Sê-sa; vì hễ ai tự xưng là vua, ấy là xướng lên nghịch cùng Sê-sa vậy! 13 Phi-lát nghe lời đó, bèn dẫn Đức Chúa Jêsus ra ngoài, rồi ngồi trên tòa án, tại nơi gọi là Ba-vê, mà tiếng Hê-bơ-rơ gọi là Ga-ba-tha. 14 Vả, bấy giờ là ngày sắm sửa về lễ Vượt Qua, độ chừng giờ thứ sáu.
Phi-lát nói cùng dân Giu-đa rằng: Vua các ngươi kia kìa! 15 Những người đó bèn kêu lên rằng: Hãy trừ hắn đi, trừ hắn đi! Đóng đinh hắn trên cây thập tự đi! Phi lát nói với chúng rằng: Ta sẽ đóng đinh Vua các ngươi lên thập tự giá hay sao? Các thầy tế lễ cả thưa rằng: Chúng tôi không có vua khác, chỉ Sê-sa mà thôi. 16 Người bèn giao Ngài cho chúng đặng đóng đinh trên thập tự giá. Vậy, chúng bắt Ngài và dẫn đi.” (Giăng 19:1-16).”
Bạn thấy không? Tổng Đốc Phi-lát biết sự thật nhưng đã không làm theo lẽ thật. Sự thật chỉ có giá trị khi chúng ta làm theo lẽ thật.
Sự thật sẽ giải phóng chúng ta và trả tự do chúng ta. Vấn đề ở đây chính là sự lựa chọn của mỗi người chúng ta. Chúng ta chọn sự thật khách quan hay sự thật chủ quan. Người Mỹ đã nói một câu gọn gàng: “Not religion but relationship.” Tôi hoàn toàn đồng ý câu nầy. Đừng tìm kiếm các cố gắng của tôn giáo, nhưng hãy tìm kiếm ngay sự liên hệ tốt với Đức Chúa Trời.
Mục Sư Nguyễn Văn Huệ
(Tổng Hợp)