Sự Kêu Gọi Cao Cả Của Chúa Dành Cho Người Nữ
Nguyên tác: God’s high calling for women
Tác giả: John MacArthur
MỤC LỤC
1. Sự Kêu Gọi Cao Cả Của Chúa Dành Cho Người Nữ
1 Tim. 2:9
2. Sự Kêu Gọi Cao Cả Của Chúa Dành Cho Người Nữ
1 Tim. 2:10-11
3. Sự Kêu Gọi Cao Cả Của Chúa Dành Cho Người Nữ
1 Tim. 2:11
4. Sự Kêu Gọi Cao Cả Của Chúa Dành Cho Người Nữ
1 Tim. 2:12-15
1. Sự Kêu Gọi Cao Cả Của Chúa Dành Cho Người Nữ.
1 Ti-mô-thê 2:9
Ta cũng muốn rằng những người đàn bà ăn mặc một cách gọn ghẽ, lấy nết na và đức hạnh giồi mình, không dùng những tóc gióc, vàng, châu ngọc và áo quần quí giá.
Tranh luận về vai trò của người nữ trong Hội Thánh đã gia tăng trong những năm gần đây. Triết lý về quyền của người nữ thâm nhập hầu hết mọi khía cạnh xã hội của chúng ta và đã tạo ra những điều khác biệt trong Hội Thánh. Tôi ngạc nhiên khi càng ngày càng có nhiều Hội Thánh Tin Lành, trường học và học viện đã từ bỏ những lẽ thật Kinh Thánh mà trước đây họ từng đã nắm giữ. Người ta đã viết sách khẳng định “lẽ thật” mới về vai trò của người nữ trong Hội Thánh. Những học giả thì tái phân tích các phân đoạn Kinh Thánh dạy về vai trò truyền thống của người nam và nữ. Một số người nói rằng không nên lưu ý đến những phân đoạn này vì chúng bày tỏ thành kiến chống người nữ của sứ đồ Phao-lô. Một số khác thì công bố rằng những phân đoạn này đã được những nhà biên soạn sau này thêm vào và không phản ánh ý định của tác giả lúc ban đầu. Hội Thánh – nền tảng lẽ thật của Đức Chúa Trời, đã nhanh chóng ngã vào cuộc diễu hành của đạo quân binh vực quyền của người nữ.
Nỗ lực lật đổ thiết kế của Đức Chúa Trời dành cho nam giới và nữ giới nói cho cùng cũng không phải là nỗ lực của con người. Đó là nỗ lực của kẻ thù lớn nhất của Đức Chúa Trời – Satan, nó là kẻ sử dụng những con người tội lỗi để đạt được mục đích của mình. Đó là lý do vì sao cuộc tranh cãi về vai trò của người nữ trong Hội Thánh thật là bi thảm: Hội Thánh bị những lời nói dối của Satan lừa dối và vô hình trung trở thành mục tiêu của sự tấn công từ ma quỷ. Đức Chúa Trời có những vai trò cụ thể cho người nam và người nữ trong xã hội, gia đình và Hội Thánh. Những điều này được nói rõ trong Kinh Thánh. Chúng ta cần tái khẳng định những điều đó.
Nói đến vấn đề này, tôi có thể dành rất nhiều thì giờ để chứng minh chủ nghĩa nữ quyền tiến xa đến mức nào. Tôi có thể đem ra rất nhiều câu khẩu hiệu, và chúng ta có thể xem xét đủ loại vấn đề. Chúng ta có thể thảo luận nhiều về những trường học, học viện dạy về quyền của người nữ, và những quyển sách minh họa sự ảnh hưởng của phong trào nữ quyền trên Hội Thánh đã trở nên phổ biến như thế nào. Tuy nhiên tất cả chúng ta đều cảnh giác trước những ảnh hưởng đó. Đối với tôi thì cách hữu ích nhất là hãy đơn giản xem Lời Chúa. Nếu chúng ta hiểu những gì Kinh Thánh nói, chúng ta có thể xử lý với bất cứ ý kiến sai lầm nào gặp phải. Không có phân đoạn nào nói thẳng và dễ hiểu hơn 1 Ti-mô-thê 2:9-15 trong việc đề cập đến vai trò phụ nữ trong Hội Thánh:
9 Ta cũng muốn rằng những người đàn bà ăn mặc một cách gọn ghẽ, lấy nết na và đức hạnh giồi mình, không dùng những tóc gióc, vàng, châu ngọc và áo quần quí giá, 10 nhưng dùng việc lành, theo lẽ đương nhiên của người đàn bà tin kính Chúa. 11 Đàn bà phải yên lặng mà nghe dạy, lại phải vâng phục mọi đàng. 12 Ta không cho phép đàn bà dạy dỗ, cũng không được cầm quyền trên đàn ông; nhưng phải ở yên lặng. 13 Vì A-đam được dựng nên trước nhứt, rồi mới tới Ê-va. 14 Lại không phải A-đam bị dỗ dành, bèn là người đàn bà bị dỗ dành mà sa vào tội lỗi. 15 Dầu vậy, nếu đàn bà lấy đức hạnh mà bền đỗ trong đức tin, trong sự yêu thương, và trong sự nên thánh, thì sẽ nhân đẻ con mà được cứu rỗi.
Sách Ti-mô-thê thứ nhất là một bức thư mà Phao-lô gửi đến người con trai thuộc linh, người bạn, và người đồng công của mình là Ti-mô-thê. Phao-lô và Ti-mô-thê đã gặp nhau một vài năm trước khi Phao-lô viết thư tín này (Công-vụ 16:1-5). Khi thư tín được viết, Phao-lô đã kết thúc hành trình truyền giáo thứ ba của mình và vừa được tha bổng trong lần bị bỏ tù đầu tiên tại La-mã. Sau khi rời khỏi ngục, Phao-lô đã gặp Ti-mô-thê tại thành Ê-phê-sô.
Ti-mô-thê là mục sư của Hội Thánh Ê-phê-sô. Rõ ràng là lời đồn đã đến tai Phao-lô rằng mọi việc tại Ê-phê-sô không tốt như đáng phải có. Phao-lô đã trải qua ba năm chức vụ tại Ê-phê-sô và ông đã trải lòng ra vì Hội Thánh tại đó. Trong Công vụ 20, Phao-lô nói với các trưởng lão trong Hội Thánh Ê-phê-sô rằng ông đã không trễ nãi trong việc truyền ra toàn bộ Lời Chúa đến Hội Thánh, nhưng cả ngày và đêm ông cảnh báo họ trong ba năm rằng sự gian ác sẽ dấy lên giữa vòng họ ( câu 27-31). Thật không may, điều ông lo sợ nhất đã xảy ra: Hội Thánh tại Ê-phê-sô đã ngã vào những tín lý sai lầm và lối sống không tin kính. Điều đáng nói hơn đó là các lãnh đạo đã bị tha hóa và cần phải được thay thế bởi những lãnh đạo tin kính.
Phao-lô gặp Ti-mô-thê tại Ê-phê-sô và đã xử lý với hai lãnh đạo tha hóa là Hy-mê-nê và A-léc-xan-đơ (1 Tim. 1:20). Khi Phao-lô rời khỏi Ê-phê-sô để đi thi hành chức vụ ở nơi xa hơn về hướng Tây, ông cử Ti-mô-thê ở lại để giải quyết những vấn đề còn tồn đọng. Sau khi Phao-lô ra đi một vài tuần, ông viết bức thư này để khích lệ và hướng dẫn Ti-mô-thê trong mục vụ. Trong 1 Ti-mô-thê 3:14-15 Phao-lô đưa ra ý định tổng thể của bức thư: “Ta mong mau mau đến thăm con, nhưng viết thơ nầy, phòng ta có chậm đến, thì con biết làm thể nào trong nhà Đức Chúa Trời, tức là Hội thánh của Đức Chúa Trời hằng sống, trụ và nền của lẽ thật vậy.” Thư tín 1 Ti-mô-thê đã được viết để sắp xếp Hội Thánh theo đúng trật tự mà Chúa muốn.
Một trong những nan đề của Hội Thánh tại Ê-phê-sô đó là vai trò của người nữ. Vì những lãnh đạo của Hội Thánh đã ngã vào những giáo lý sai trật. Không có gì đáng ngạc nhiên khi điều này phát sinh ra những ảnh hưởng tiêu cực trên những người nam cũng như nữ trong Hội Thánh. 1 Ti-mô-thê 5:6 cho chúng ta biết rằng có một số phụ nữ đã từ bỏ sự thanh sạch và chỉ sống để vui chơi. Một số phụ nữ góa bụa trẻ hơn đã hứa với Chúa ở vậy, nhưng họ đang trong mối nguy bội lời thề ước của mình vì dục vọng tự chuốc lấy điều quở trách vào mình (câu 11-12). Một số trở thành những kẻ ở không đi từ nhà này sang nhà khác. Một số khác nữa trở thành những người thày lay thóc mách hay nói những việc không đáng nói (câu 13). Một số thì đã rẽ sang một bên, đi theo Sa-tan (câu 15). Trong 2 Ti-mô-thê 3:6, Phao-lô có nhắc đến những người phụ nữ này như những người đàn bà mang tội lỗi, bị bao nhiêu tình dục xui khiến, khiến họ trở thành những con mồi dễ dụ cho những giáo sư giả.
Thư tín 1 Ti-mô-thê 2 tập trung vào một vấn đề khác liên quan đến phụ nữ. Giả vờ đến thờ phượng Chúa, một số phụ nữ đã phô trương vẻ đẹp của mình và làm ô uế sự thờ phượng. Cách ăn mặc và lối sống của họ phơi bày một ý định gian ác hơn là một tấm lòng thờ phượng.
Sự thờ phượng là trọng tâm của Hội Thánh. Không có gì đáng ngạc nhiên khi Phao-lô đã thảo luận về điều đó trong phần đầu của lá thư. Thực ra đó là chủ đề thứ hai mà ông xử lý trong đoạn 2 khi ông bắt đầu luận bàn về những nan đề trong Hội Thánh. Buổi thờ phượng trong Hội Thánh tại Ê-phê-sô bị ảnh hưởng tiêu cực bởi những phụ nữ cho đó là cơ hội để phô trương sự giàu có và vẻ đẹp của mình. Sức quyến rũ tình dục của họ khiến mọi người mất tập trung vào buổi lễ thờ phượng. Từ những phân tích của Phao-lô về những vấn đề phụ nữ gây ra trong buổi thờ phượng, ông mở rộng ra các ý tưởng về vai trò của phụ nữ. Trong câu 9, chúng ta gặp khía cạnh đầu tiên trong 6 khía cạnh thiết yếu trong sự kêu gọi cao cả của Chúa dành cho người nữ.
BỀ NGOÀI CỦA NGƯỜI NỮ
“Cũng vậy, phụ nữ ăn mặc một cách gọn ghẽ … không dùng những tóc gióc, vàng, châu ngọc và áo quần quí giá.”
Cụm từ “cũng vậy” chỉ hướng ngược lại với câu 8. Cụm từ này giới thiệu về một đối tượng mới, nhưng là đối tượng có liên quan đến chủ đề trước. Giờ đây Phao-lô chuyển sang một chủ đề mới trong vấn đề bao quát về cách cư xử nên có của người nam và nữ trong sự nhóm lại thờ phượng. “Cũng vậy” đóng vai trò một từ chuyển tiếp giữa những chủ đề khác nhau trong một vấn đề rộng lớn. Cụm từ này được dùng trong 1 Ti-mô-thê 3:8 để tạo một chuyển biến từ chủ đề về các trưởng lão qua chấp sự, và trong câu 11 thì chuyển từ nam chấp sự qua nữ chấp sự, tất cả trong một vấn đề chung về lãnh đạo Hội Thánh. Giờ đây, Phao-lô chuyển từ việc luận bàn thái độ của những người nam trong buổi nhóm thờ phượng (câu 8) qua những người nữ (câu 9-15).
KIỂU MẪU CHUNG
Từ Hi Lạp dịch từ “sẽ” trong câu 8 (Bản dịch King James) (boulomai) chỉ về ý định, mục đích,
hay mệnh lệnh, ngược lại với “thelo” chỉ về một ước muốn. Từ đó có thể được dịch là “tôi ra lệnh”. Nó bao hàm ý muốn và thẩm quyền thiên thượng của vị sứ đồ. Phao-lô đang ra lệnh cho những người nam hãy cầu nguyện và những người nữ hãy giồi mình trong cách cư xử đúng đắn.
Từ khóa tiếp theo là “giồi” bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp kosmeo, có nghĩa là “sắp xếp”, hoặc “sắp đặt ngăn nắp”. Phao-lô đang có ý nói phụ nữ nên chuẩn bị chính mình cho sự thờ phượng. Từ Hi Lạp kismios được dịch là “giản dị”, thể tính từ của từ kosmeo, có nghĩa là “được sắp đặt có thứ tự” hay “được sắp đặt đàng hoàng.”
Thứ ba, từ Hi Lạp được dịch là “áo quần” trong bản New King James không chỉ nói về quần áo nhưng có thể mang nghĩa “cách ăn ở” hay “thái độ.” Nó bao gồm tất cả những sự chuẩn bị của một người nữ cho sự thờ phượng, bao gồm cả thái độ của tấm lòng và sự trang sức đúng mực của vẻ bên ngoài. Trang phục của người đó nên phản ánh một tấm lòng hướng về Chúa.
VẤN ĐỀ CỤ THỂ
Phao-lô không chỉ đưa ra một lời khen chung chung về vẻ bề ngoài của phụ nữ, mà ông còn xử lý với một số vấn đề cụ thể là nan đề trong Hội Thánh Ê-phê-sô.
Một nan đề cụ thể đó là việc một số phụ nữ thử bắt chước những giá trị của nền văn hóa xung quanh. Một số tác giả thời đó đã mô tả cách phụ nữ ăn mặc theo văn hóa La-mã vào thời của Phao-lô chắc chắn có ảnh hưởng trên Hội Thánh tạị Ê-phê-sô.
Bài viết của Juvenal, một nhà thơ châm biếm trong thế kỷ thứ nhất của La-mã, ông mô tả về đời sống hằng ngày trong đế quốc La-mã. Trong tác phẩm châm biếm thứ sáu ông mô tả những phụ nữ với vẻ bề ngoài của họ đã gây sốc cho mọi người: “Không có gì mà một phụ nữ không cho phép mình làm, không có gì mà cô ta xem là đáng xấu hổ cả, và khi cô quấn quanh cổ mình với dây chuyền xanh ngọc lục bảo và đeo những viên ngọc trai khổng lồ vào đôi tai thon dài mới thấy việc làm đẹp là quan trong đến vậy; rất nhiều lớp nữ trang chất chồng nhau trên đầu cô ta! Trong khi đó cô chẳng để ý gì tới chồng mình cả!”
Pliny, sử gia La-mã trong thế kỷ thứ nhất, nói về Lollia Paulina, có thời từng là vợ Vua La-mã. Bà sở hữu một chiếc đầm trị giá hơn một triệu đô la theo tiêu chuẩn ngày nay. Chiếc đầm được đính đầy những viên ngọc bích và ngọc trai, và bà Lollia cầm theo hóa đơn bên mình để chứng minh giá trị của nó. (Lịch Sử tự nhiên 9.58).
Tuy nhiên trái ngược với xã hội La-mã, các tôn giáo huyền bí của Hi-lạp lại có những luật định nghiêm khắc về vẻ ngoài của phụ nữ. Một dòng chữ khắc minh họa quan điểm của họ: “Một người nữ thánh không nên có trang sức bằng vàng, không má hồng, không phấn mặt, không buộc tóc, không bện tóc, không giày, ngoại trừ những đôi giày làm bằng nỉ hoặc da thú sinh tế” (trích trong Những lá thư gửi Ti-mô-thê, Tít, và Phi-lê-môn, của William Barclay [Philadelphia: Wesminster, 1975], 67-68).
Cả Phao-lô và Ti-mô-thê đều đồng ý rằng Hội Thánh Ê-phê-sô sẽ là một lời chứng tin kính đến cộng đồng. Thế nhưng chúng ta thấy gì ở đó? Vì phụ nữ ở Hội Thánh bắt chước cách ăn mặc lòe loẹt của những người nữ ngoại giáo, để kêu gọi sự chú ý cho chính mình, hoặc ăn mặc để dụ dỗ đàn ông vào những mối quan hệ tình dục bất chánh là xúc phạm đến mục đích của buổi thờ phượng.
Một nan đề cụ thể thứ hai là mong muốn của một số phụ nữ thích phô trương sự giàu có của mình. Trong thế kỷ thứ nhất, người nghèo đầy dẫy mọi nơi. Người giàu sang có thể ăn mặc theo phong cách mà những người nghèo không thể nào sánh kịp. Ngày nay, để có quần áo đẹp cũng khá dễ dàng trong xã hội phương Tây. Nhưng trong thời kỳ Tân Ước, một chiếc đầm của một người giàu có thể lên đến 7,000 đơ-ni-ê (vì 1 đơ-ni-ê bằng một ngày công cho một người làm thuê, số tiền đó tương đương với hơn 19 năm tiền lương của một người lao động bình thường). Khi một phụ nữ giàu có bước vào trong buổi nhóm mà mặc một chiếc đầm đắt giá, cô ta sẽ gây ra mối kích động làm gián đoạn buổi nhóm.
Ngoài áo quần đắt tiền, những phụ nữ giàu có còn trưng bày sự giàu có của mình qua những kiểu tóc trau chuốt với những trang sức đắt giá (ý của “tóc gióc” trong câu 9). Họ cũng đeo nhiều vòng và hoa tai bằng vàng và đính vàng vào giày dép và áo quần nữa.
Trong tác phẩm “Của Tế Lễ Của Ca-In Và A-Bên”, Philo – nhà triết học Do Thái của thế kỷ thứ nhất mô tả về một kỵ nữ: “Cô đeo nhiều dây chuyền và vòng vàng, tóc thì búi cao với những bím tóc cầu kỳ. Mắt kẻ chì, lông mày vẽ láng mượt. Cô mặc quần áo đắt tiền thêu hoa lộng lẫy.”
Hãy lưu ý rằng Kinh Thánh không cấm phụ nữ búi tóc hay sở hữu vàng, ngọc trai, và quần áo đẹp. Cả cô dâu của Sa-lô-môn (trong Nhã Ca 1:10) và người nữ được mô tả trong Châm ngôn 31:22 đều có quần áo đắt tiền. Sẽ có những thời điểm và nơi chốn phù hợp cho những cái đó, như đã được khẳng định trong Ê-sai 61:10: “Ta sẽ rất vui vẻ trong Đức Giê-hô-va, linh hồn ta mừng rỡ trong Đức Chúa Trời ta; vì Ngài đã mặc áo cứu rỗi cho ta; khoác áo choàng công bình cho ta, như chàng rể mới diện mão hoa trên đầu mình, như cô dâu mới giồi mình bằng châu báu.”
Nhưng vấn đề là trang sức đã và đang được phụ nữ sử dụng như một cách phô trương sự giàu có của người đó và kêu gọi sự chú ý cho chính mình theo một phong cách không lành mạnh. Chính vì vậy đó là điều mà Phao-lô cấm đoán trong nơi thờ phượng. Khi một người nữ ăn diện trong buổi thờ phượng để thu hút sự chú ý cho chính mình thì người đó đã vi phạm mục tiêu của buổi thờ phượng (1 Phi-e-rơ 3:3-4).
Nhiều năm trước sau khi giảng, tôi bước ra cửa thánh đường và một phụ nữ ăn mặc không phù hợp để đi nhóm đã tiếp cận tôi. Bà trao cho tôi một món trang sức quý giá – một dây chuyền vàng và một lời mời. Đó là một cám dỗ công khai, nhưng còn nhiều lời mời khôn khéo hơn nữa tiếp diễn trong các Hội Thánh. Bất cứ ai không nhận thấy điều này thì giống như chôn đầu mình dưới cát vậy. Hãy nhìn vào rất nhiều mục sư đã làm mồi cho tội dâm dục và rất nhiều Hội Thánh phải xử lý với đồi phong bại tục và hậu quả của tranh ảnh khiêu dâm. Đó là một trong những nguyên do Phao-lô dùng những từ ngữ rất mạnh mẽ trong 1 Ti-mô-thê 2:9-10.
John Chrysostom, một thánh phụ trong thế kỷ thứ tư đã viết điều này trong bài giảng của ông về tầm quan trọng của việc phụ nữ ăn mặc giản dị trong buổi nhóm: “’ăn mặc đơn giản’ nghĩa là gì? Đó là che phủ hoàn toàn và lịch sự, và không có quá nhiều những phụ trang dư thừa đối với người này mà không phải đối với người kia. Cái gì? Vậy bạn tiếp cận Đức Chúa Trời để cầu nguyện với tóc búi và trang sức bằng vàng ư? Có phải bạn đi khiêu vũ không? Đi dự một lễ cưới ư? Đến một buổi tấu hài ư? Ở đó thì quần áo đắt tiền là hợp lý; còn ở đây thì không cần đến. Bạn đến đây để cầu nguyện, để cầu xin cho tội lỗi mình, để nài xin cho những sự xúc phạm của bạn, van xin Đức Chúa Trời và hi vọng Ngài ban lại cho bạn sự thuận lợi…Hãy tránh xa sự giả tạo như thế!
Hội Thánh là nơi để thờ phượng, không phải nơi để biểu diễn. Tôi cảm thấy khó chịu khi thấy những người tự xưng là Cơ Đốc Nhân nhưng vẻ bề ngoài của họ làm cho người ta choáng ngợp. Bất cứ khi nào con người muốn dùng buổi nhóm để tìm kiếm sự chú ý cho chính mình thì đó thực sự là một tai họa cho Hội Thánh.
Động Cơ Thích Đáng
Một người vợ Cơ Đốc nên thu hút sự chú ý từ người khác bằng đời sống tin kính của mình chứ không phải bằng quần áo. Cô ta nên bày tỏ tình yêu, sự quan tâm của mình với chồng bằng cách ăn mặc và lối sống. Cô ta nên chứng tỏ một tấm lòng khiêm nhường được tận hiến để thờ phượng Chúa.
Cũng vậy, những phụ nữ độc thân nên nhận biết rằng buổi nhóm thờ phượng không phải nơi để thu hút người nam. Họ cũng nên hiểu rằng một người nên được thu hút bởi tánh hạnh tin kính của họ là quan trọng hơn vẻ bề ngoài.
Làm sao những phụ nữ độc thân và phụ nữ lập gia đình nhận biết mình ăn mặc phù hợp trong buổi nhóm thờ phượng? Bằng cách suy xét động cơ của mình. Một người nữ nên tự hỏi: “Tại sao tôi lại ăn mặc như vậy? Mục đích của tôi là gì? Tôi đang cố lôi kéo sự chú ý của người khác về Chúa hay về chính tôi? Những gì tôi mặc có nổi bật không, hay có được xem là phù hợp trong chỗ này không?”
1 Phi-e-rơ 3:3-4 là một phân đoạn song song với 1 Ti-mô-thê 2:9-10. Phi-e-rơ viết: “Chớ tìm kiếm sự trang sức bề ngoài, như gióc tóc, đeo đồ vàng, mặc áo quần lòa loẹt; nhưng hãy tìm kiếm sự trang sức bề trong giấu ở trong lòng, tức là sự tinh sạch chẳng hư nát của tâm thần dịu dàng im lặng, ấy là giá quí trước mặt Đức Chúa Trời.” Cũng giống như Phao-lô, Phi-e-rơ nhấn mạnh rằng một người nữ không nên gây ấn tượng cho người khác bởi những gì mình mặc nhưng bởi chính con người bề trong của mình.
THÁI ĐỘ CỦA PHỤ NỮ (C. 9b)
“Lấy nết na và đức hạnh giồi mình”
Đức Hạnh
Từ Hi Lạp được dịch là “đức hạnh” (aidos) chỉ về sự khiêm nhu và hạ mình. Nó bao hàm một cảm giác hổ thẹn – không phải sự hổ thẹn vì là phụ nữ nhưng hổ thẹn vì đã kích động tình dục hay chi phối người khác không thể thờ phượng Chúa một cách đúng đắn. Một người nữ với cảm giác hổ thẹn đúng mực sẽ không ăn mặc để trở thành một nguồn cám dỗ. Aidos nghĩa là từ chối bất cứ điều gì về mặt đạo đức bị cho là hèn hạ đối với Chúa. Một người nữ đau buồn vì khả năng xúc phạm đến Chúa sẽ không làm bất cứ điều gì khiến để khiến ai đó vấp phạm.
Một người nữ tin kính ghét tội lỗi đến nỗi cô sẽ không làm bất cứ điều gì để gây nên tội lỗi trong một ai đó.
Điều này chắc chắn phù hợp với Lời Chúa phán rằng:
Song, nếu ai làm cho một đứa trong những đứa nhỏ nầy đã tin ta sa vào tội lỗi, thì thà buộc cối đá vào cổ, mà quăng nó xuống đáy biển còn hơn. Khốn nạn cho thế gian vì sự gây nên phạm tội! Vì sự gây nên phạm tội phải có; song khốn nạn thay cho ai là kẻ gây nên phạm tội! Hãy giữ mình đừng khinh dể một đứa nào trong những đứa trẻ nầy; vì ta bảo các ngươi, các thiên sứ của chúng nó trên trời thường thấy mặt Cha ta, là Đấng ở trên trời.
Tự Chủ
“Nết na” (Hi-lạp: sophrosune) được dịch đúng hơn là “tự chủ”. Trong văn chương ngoài Kinh Thánh, sophrosune được dùng để nói về khao khát và ham muốn tình dục của một ai đó. Người Hi-lạp đánh giá cao tánh hạnh nết na – tự chủ này. Euripides gọi đó là “món quà công bằng nhất của các thần” (Marvin R. Vincent, Nghiên cứu từ ngữ trong Tân Ước [Grand Rapids: Eardmans, 1946], 4:224). Trong Republic, Plato nói đó là một trong bốn đức hạnh chủ yếu.
Thất bại trong việc tự chủ có những nguy hiểm đối với những lãnh đạo của Hội Thánh và cả hội chúng mà Phao-lô đã gửi thư. Trong 1 Ti-mô-thê 3 Phao-lô nói rằng cả trưởng lão và chấp sự trong Hội Thánh phải là “chồng của một vợ” (c.2, 12). Cụm từ đó rõ ràng có thể được dịch là “người đàn ông là của một người đàn bà”. Một người nam ở vị trí lãnh đạo trong Hội Thánh phải hoàn toàn hết lòng với vợ mình. Tôi tin là một trong những nan đề lớn tại Ê-phê-sô chính là những người nam không trung thành với vợ mình. Sa-tan tấn công Hội Thánh bằng cách đem những người nữ quyến rũ vào trong Hội Thánh để dụ dỗ những người nam. Nó vẫn tiếp tục làm như vậy ngày nay.
Các hội chúng đều bị ảnh hưởng tương tự trong việc không thể tự chủ. Ví dụ, trong tình huống của Hội Thánh Ê-phê-sô trong 1 Ti-mô-thê 5:14, Phao-lô nhấn mạnh tầm quan trọng của những người góa bụa trẻ nên tái hôn. Phao-lô biết phụ nữ trẻ tuổi có khát khao mãnh liệt lập gia đình là những hiểm họa tiềm tàng đối với sự thánh khiết của Hội Thánh. Và điều đó cũng đúng trong thời kỳ của chúng ta nữa.
Vấn đề ở đây rất rõ ràng. Hội Thánh có thể là một nơi thờ phượng, hoặc là chỗ cho người ta dùng làm nơi biểu diễn. Đây là điều làm tôi phiền lòng khi tôi thấy các chương trình truyền hình Cơ Đốc phát hình những người nhận mình là đại diện cho Cơ Đốc Giáo, những người công bố là người đầy tớ của Chúa lại là những người đi ngược với Lời Chúa và rất bận tâm về ngoại hình của mình. Đó là sự phản đề đối với tất cả những gì họ tuyên bố, và chắc chắn là họ không nên mang danh Hội Thánh. Nhưng có một số phụ nữ ích kỷ, là những người lợi dụng Hội Thánh nhóm lại để kêu gọi sự chú ý cho chính mình, phô trương cái đẹp của mình, phô trương sự thịnh vượng của mình, và sự hấp dẫn của họ trước đàn ông. Vì họ thiếu hạ mình, mềm mại, khiêm tốn và tự chủ trên những khát vọng của riêng mình, chính điều này đem đến thảm họa cho Hội Thánh.
Trong Tít 2:4-5, Phao-lô hướng dẫn Tít quản trị Hội chúng tại Cơ-rết rằng những người nữ lớn tuổi phải dạy những người nữ trẻ “yêu chồng con mình, có nết na, trinh chánh, trông nom việc nhà; lại biết ở lành, vâng phục chồng mình, hầu cho đạo Đức Chúa Trời khỏi bị một lời chê bai nào”. Thế nhưng, thay vì làm việc lành, một số phụ nữ đã đem đến những nan đề trong Hội chúng.
Một ví dụ khác có thể được tìm thấy trong Hội chúng tại Cô-rinh-tô. Trong 1 Cô-rinh-tô 5, Phao-lô quở trách người Cô-rinh-tô vì đã chứa chấp một trường hợp liên quan đến tội tình dục. Tội tình dục này là một hình thức của sự loạn luân: một người nam có quan hệ tình dục với vợ của cha mình (mẹ kế). Thay vì than khóc cho tội lỗi đó thì người Cô-rinh-tô đã tự hào về nó (c.2). Theo 1 Cô-rinh tô 6:13, họ cố xưng công chính tội lỗi đó bằng cách trích dẫn một câu châm ngôn phổ biến có lẽ là của người Hi-lạp: “Đồ ăn vì bụng, bụng vì đồ ăn”. Có nghĩa là tình dục cũng như thức ăn, chỉ đơn giản là một chức năng sinh học! Nhưng Phao-lô cảnh báo người Cô-rinh-tô hãy lánh xa khỏi tội tình dục (c.18). Tôi tin rằng nan đề liên quan đến phụ nữ với những động cơ không thích đáng đã gây tai họa cho Hội Thánh tại Cô-rinh-tô cũng như Hội Thánh tại Ê-phê-sô và Cơ-rết.
Thất bại trong sự tự chủ có những hậu quả của nó và dẫn đến sự đoán phạt. Trong Ê-sai 3: 16-26, Đức Chúa Trời tuyên cáo sự đoán phạt trên phụ nữ ăn mặc để thu hút sự chú ý cho chính mình:
Đức Giê-hô-va lại phán rằng:
Vì những con gái Si-ôn kiêu ngạo,
Ngóng cổ bước tới,
Liếc mắt trêu ngươi,
Vừa đi õng ẹo, vừa khua động tiếng dưới chân,
Nên Chúa sẽ làm cho đỉnh đầu con gái Si-ôn đóng vảy.
Và Đức Giê-hô-va sẽ lột truồng chúng nó.
Trong ngày đó, Chúa sẽ cất những vòng mắt cá họ trang sức đi,
Cái lưới và cái cài; hoa tai, xuyến và lúp;
Mão, chuyền mắt cá, nịt lưng, hợp hương và bùa đeo;
Cà rá và khoen đeo mũi; áo lễ, áo lá rộng, áo choàng, túi nhỏ;
Gương tay, vải mỏng, khăn bịt đầu và màn che mặt.
Sẽ có mùi hôi hám thay vì thơm tho; dây tói thay vì nịt lưng;
Đầu sói thay vì tóc quăn; bao gai quấn mình thay vì áo dài phấp phới;
Dấu phỏng thay vì sắc đẹp. Lính chiến ngươi sẽ ngã dưới gươm,
Những kẻ anh hùng ngươi sẽ bị tử trận.
Các cửa nó sẽ than khóc và thảm sầu; nó vắng vẻ ngồi trên đất.
Đeo trang sức và mặc đồ đắt tiền không phải là tội, nhưng đeo chúng với mục đích xấu thì là tội. Quần áo bày tỏ những động cơ không trong sáng sẽ không có chỗ đứng trong Hội Thánh thuần khiết.
Ôn lại:
1. Ai là kẻ đứng phía sau sự tấn công vào vai trò của nam và nữ theo thiết kế của Đức Chúa Trời?
2. Hãy mô tả tình huống thúc đẩy Phao-lô viết thư tín 1 Ti-mô-thê.
3. Mục đích chính của Phao-lô trong việc viết thư tín 1 Ti-mô-thê (3:14-15)?
4. Một số nan đề liên quan đến phụ nữ trong Hội Thánh Ê-phê-sô là gì?
5. Ý nghĩa của cụm từ “cũng vậy” trong câu 9?
6. Hãy mô tả nền văn hóa mà Hội Thánh Ê-phê-sô hội nhập về trang phục phụ nữ.
7. Đúng hay sai: Theo Kinh Thánh, phụ nữ mặc quần áo và đeo trang sức đắt giá luôn luôn là sai.
8. Làm sao một phụ nữ nhận biết mình có ăn mặc phù hợp để tham gia thờ phượng hay không?
9. Một người nữ không nên bị choáng ngợp bởi _____ _________ _______ mà bởi _______ __________ __________ .
10. Đâu là thái độ nên có của một người phụ nữ đối với việc gây xao lãng người khác thờ phượng Chúa?
11. Tại sao Phao-lô bao gồm “chồng của một vợ” như là một trong những phẩm chất của các lãnh đạo Hội Thánh?
12. Người Cô-rinh-tô bào chữa việc chứa chấp tội tình dục của họ như thế nào (1 Cô 6:18)?
13. Lời khuyên của Phao-lô cho việc tránh các tội tình dục là gì (1 Cô 6:18)?
Suy Ngẫm
1. 1 Ti-mô-thê 2:9 nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chuẩn bị cho buổi thờ phượng. Khi bạn đi đến Hội Thánh, vấn đề không phải là người giảng và các nhạc công được chuẩn bị tốt đến đâu, mà là bạn được chuẩn bị tốt đến đâu để thờ phượng Chúa. Khi bạn chuẩn bị để thờ phượng, hãy tự hỏi: Tôi có thành tâm không? Sự quan tâm của tôi có phải tập trung vào Chúa không? Tôi có đến thờ phượng Chúa với sự hiểu biết rằng sự chấp nhận của Ngài dành cho tôi là chỉ dựa vào những gì Đấng Christ đã làm cho tôi? Tôi có đến với một tấm lòng trong sáng, đã giải quyết bất cứ tội lỗi nào trong cuộc sống? Tôi đến như một khán giả hay người dự phần?
2. Dù 1 Ti-mô-thê 2:9 dạy dỗ tầm quan trọng của thái độ người nữ và cách ăn mặc ngăn ngừa tội tình dục, nam giới cũng phải có trách nhiệm. Trong 2 Ti-mô-thê 2:22, Phao-lô hướng dẫn Ti-mô-thê lánh khỏi dục vọng. Hỡi những người nam, khi bạn thấy một phụ nữ ăn mặc khiêu khích (trong hay ngoài buổi nhóm thờ phượng), phản ứng của bạn là gì? Bạn có nhìn chằm chằm không? Hay bạn có nói như Gióp: “Tôi đã có lập ước với mắt tôi; Vậy, làm sao tôi còn dám nhìn người nữ đồng trinh” (Gióp 31:1)? Bạn có đang vâng theo mạng lệnh của Phao-lô xa lánh tội tình dục, hay bạn đang quanh quẩn với nó bằng cách đọc sách, xem tạp chí, các chương trình truyền hình và phim ảnh hoặc xem những trang mạng xã hội mà bạn biết là sai? Hãy học thuộc lòng Gióp 31:1, 1 Cô 6:18, và 2 Ti 2:22. Sau đó thực hành những sự dạy dỗ trong đó bằng cách đặt bạn vào sự khai trình với một anh em trưởng thành thuộc linh trong Đấng Christ về những suy nghĩ của bạn và những thói quen đọc và xem của bạn.
2. Sự Kêu Gọi Cao Cả Của Chúa Dành Cho Người Nữ
1 Ti-mô-thê 2:10-11
Một trong những nan đề mà Ti-mô-thê đối diện tại Hội thánh Ê-phê-sô là một số phụ nữ đã chiếm đoạt vai trò của người nam, họ mong muốn trở thành giáo sư chính thức. Một số phụ nữ khác thì làm ô uế buổi nhóm thờ phượng bằng việc đến đó với thái độ và cách ăn mặc không thích hợp. Cách cư xử của họ ngược lại với sự tuyên bố rằng họ biết và thờ phượng Chúa. Trong 1 Ti-mô-thê 2:9-15, Phao-lô đưa ra hướng dẫn về vai trò của người phụ nữ trong Hội Thánh – một chủ đề vẫn còn phù hợp đến ngày nay.
Sự phá hủy mục đích của Đức Chúa Trời trong việc tạo dựng người nữ lúc bấy giờ là rất nghiêm trọng. Vai trò và chức năng của phụ nữ ngày nay đang tiếp tục bị tấn công và làm cho sai trật, mà hậu quả là thiết kế thiên thượng của Đức Chúa Trời dành cho người nữ bị phá hỏng. Hạnh phúc cuối cùng trong cuộc sống, ý nghĩa của nó và cảm giác thỏa mãn của người nữ nằm ở đâu? Điều đáng buồn là phụ nữ không phải là người thắng cuộc mà là những nạn nhân của những cuộc tấn công này. Phụ nữ được dạy là hãy can đảm, quả quyết, độc lập, cạnh tranh, nhận lấy vai trò lãnh đạo, sử dụng quyền hành, trở thành người gia trưởng, trỗi dậy đến ngang tầm với người nam, và không ngồi đằng sau trong bất cứ điều gì liên quan. Đáng buồn thay, có những Hội Thánh, học viện Tin Lành, trường Cao đẳng, và Chủng viện đã thâu nhập triết lý này từ văn hóa bên ngoài, mặc dù lời Chúa hoàn toàn rõ ràng về vấn đề này.
Ngày hôm nay chúng ta thấy một số người đã sẵn sàng chối bỏ những dạy dỗ của Kinh Thánh, hay vặn vẹo hoặc biến đổi để phù hợp với tư tưởng mới, hoặc đơn thuần là từ bỏ niềm tin Cơ Đốc trải qua nhiều thế kỷ. Đây là một thảm họa bởi vì phụ nữ không phải là người được lợi nhất từ việc này. Họ nhận lãnh những hậu quả tồi tệ vì bị đẩy vào nắm giữ những vai trò mà Đức Chúa Trời không bao giờ có ý muốn họ phải tham gia vào.
Mới đây tôi suy nghĩ rằng nếu tôi có thể nhận thấy một ý tưởng nào là ý tưởng chính trong tất cả các ý tưởng của Kinh Thánh – là ý tưởng được yêu thích nhất theo quan điểm của Chúa sẽ làkhiêm nhường. Nếu tôi nhận biết một hành động được yêu thích nhất, đó sẽ là phục vụ.
Kết hợp cả hai, tôi cho rằng Kinh Thánh dạy rằng nỗ lực tối cao của tín hữu là phục vụ trong tinh thần khiêm nhường. Vậy thì đối với phụ nữ phục vụ một cách khiêm nhường chính là có cái đầu suy nghĩ làm thế nào con người có thể đạt được cấp độ cao nhất trong ý định của Đức Chúa Trời dành cho tạo vật xinh đẹp của Ngài. Những mục tiêu cao nhất của người nữ được tìm thấy trong những công tác khiêm nhường mà Chúa đã tạo nên người nữ để làm, dưới sự dẫn dắt và che chở của người nam. Nhưng khi điều đó bị đảo lộn, thì sẽ đem đến những hỗn loạn trong xã hội và gia đình.
Đây là điều chúng ta đang phải xử lý trong xã hội của chúng ta, nhưng không phải là điều mà chỉ có xã hội chúng ta phải đương đầu. Chúng ta trở lại ngay với 1 Ti-mô-thê và thấy họ cũng đang có cùng một vấn đề tương tự. Một số phụ nữ trong Hội Thánh đó đang sống một đời sống không trong sạch hoặc không đúng đắn. Điều đó được tìm thấy trong đoạn năm.
Nhưng không chỉ có những người nữ có lối sống không tin kính và không trong sạch thôi, có một số phụ nữ khác còn chiếm đoạt vai trò của những người nam trong Hội Thánh nữa. Họ thèm muốn vai trò lãnh đạo. Có những người nữ khoe khoang ngoại hình và vẻ đẹp của mình trong buổi thờ phượng của Hội Thánh và điều này gây nên sự phân tâm nghiêm trọng giữa vòng hội chúng. Họ cố gắng thu hút đàn ông ngoại tình bằng các giác quan, và Hội Thánh cần phải xử lý một số vấn đề nghiêm trọng liên quan đến việc này.
Trong 1 Ti-mô-thê 2:9-15, Phao-lô xử lý hai vấn đề: vấn đề phụ nữ lãnh đạo trong Hội Thánh và vấn đề phụ nữ xuất hiện một cách khiếm nhã trong Hội Thánh. Họ đến thờ phượng Đức Chúa Trời nhưng trong thực tế mong muốn cuối cùng của họ lại là để phô trương chính mình theo những phong cách khiếm nhã vì tư lợi và dâm dục. Nên Phao-lô hướng dẫn Ti-mô-thê có những sự dạy dỗ thích hợp dành cho Hội Thánh liên quan đến phong cách sinh hoạt không đúng đắn và như thế.
Khi chúng ta xem câu 9 đến câu 15, ở đây có các yếu tố phác thảo mẫu thiết kế mà Lời Chúa dành cho phụ nữ và nói lên vai trò của phụ nữ trong Hội Thánh. Phao-lô nhắc đến vẻ bề ngoài, thái độ, lời chứng, vai trò, mẫu thiết kế mà Lời Chúa dành cho người nữ và đóng góp của họ.
Trong chương trước chúng ta đã thảo luận về vẻ ngoài và thái độ của phụ nữ trong 1 Ti-mô-thê 2:9. Trong chương này, chúng ta sẽ xem lời chứng và vai trò của người nữ.
LỜI CHỨNG CỦA NGƯỜI NỮ (C. 10)
“Nhưng dùng việc lành, theo lẽ đương nhiên của người đàn bà tin kính Chúa.”
Tầm Quan Trọng Về Lời Chứng Của Người Nữ
Phao-lô quan tâm rằng lời chứng của người nữ phải trước sau như một. “Đương nhiên” (agathon) muốn nói đến những công việc thật sự là tốt, không chỉ có vẻ ngoài là tốt. Từ Hi-lạp được dịch là “theo lẽ” (epangello) có nghĩa là “thông báo công khai.” Bất cứ người nữ nào công khai tuyên bố kết ước của mình với Đức Chúa Trời nên cư xử theo cách trước sau như một với lời công bố của mình.
“Tin kính” (Tiếng Hi-lạp: theosebeia) có nghĩa căn bản là kính sợ Chúa. Khi một người xưng nhận là Cơ Đốc Nhân, người đó đang xưng nhận thờ phượng và phục vụ Chúa. Bất cứ người nữ nào xưng nhận là thờ phượng và phục vụ Chúa thì nên hành xử theo sự tin kính. Còn làm ngược lại sẽ đem đến sự sỉ nhục cho danh Đấng Christ. Một người nữ không thể nói mình kính sợ Chúa mà lại bất chấp những gì Lời Ngài phán về thái độ của chính mình. Cô ấy không thể đảo lộn thiết kế của Chúa dành cho cô trong Hội Thánh mà lại tuyên bố rằng mình yêu Chúa.
Sự Phạm Thượng Trong Lời Chứng Của Người Nữ
Câu 10 chỉ ra một nan đề lớn đối với phong trào nữ quyền trong Hội Thánh. Một người nữ muốn phục vụ và tôn thờ Chúa không thể bất chấp lời dạy của Ngài về vai trò của phụ nữ.
Nội Dung Của Lời Chứng
Lời chứng của một người nữ theo lẽ tin kính là một đời sống làm việc lành. Những hành động tin kính chứng minh tính chân thật của đức tin người đó. Đối với người nam cũng vậy.
Nội dung lời chứng của người nữ là quan trọng. Tuy nhiên, trong đoạn này, Phao-lô chỉ nhắc đến điều này cách ngắn gọn. Sau đó ông tiếp tục trong câu 11-12 với sự thảo luận về mối quan tâm tiếp theo, mối quan tâm kéo dài suốt chương này qua tiếp chương sau.
Vai Trò Của Người Nữ (câu 11-12)
“Đàn bà phải yên lặng mà nghe dạy, lại phải vâng phục mọi đàng. Ta không cho phép đàn bà dạy dỗ, cũng không được cầm quyền trên đàn ông; nhưng phải ở yên lặng.”
Phao-lô tiếp tục nói về trách nhiệm của người nữ bằng cách định nghĩa vai trò của họ là một người nghe hơn là người dạy trong buổi thờ phượng chung. Dù là họ không được là người dạy công khai theo ý nghĩa đó, phụ nữ cũng không được làm gián đoạn quá trình học như thường xảy ra trong thế kỷ đầu tiên.
Từ Hi-lạp dịch là “nghe dạy” (manthano) là trong trạng thái bắt buộc, ám chỉ đó là một mạng lịnh. Phao-lô yêu cầu phụ nữ phải được dạy dỗ. Vì phần này trong 1 Ti-mô-thê đang nói về việc Hội Thánh phải sinh hoạt như thế nào (xem 3:15), việc học tập phải có khi Hội Thánh nhóm lại. Chúng ta thấy trong Công vụ 2:42 rằng việc học tập là một ưu tiên lớn khi Hội Thánh đầu tiên nhóm lại. Phao-lô ra lệnh người nữ phải là một phần của quá trình học tập này.
Dạy dỗ và thờ phượng không loại trừ nhau. Hơn thế nữa, hiểu biết về Chúa và Lời của Ngài giúp kích thích sự thờ phượng. Thờ phượng đúng nghĩa là thờ phượng bằng tâm linh và theo lẽ thật (Giăng 4:20-24).
Một trong những nan đề của Hội Thánh Ê-phê-sô đó là những tín hữu Do Thái vẫn còn nắm lấy Do Thái Giáo. Họ vẫn còn bị phân tâm vì gia phả (1 Tim. 1:4), trong khi một số người muốn được xem là thầy dạy luật (1 Tim. 1:7). Truyền thống Do Thái thời kỳ đó rất xem thường phụ nữ. Thường thì họ không được học hành. Họ không bị cấm đi đến nhà hội nhưng cũng không được khuyến khích để đến đó. Hầu hết các giáo sư không muốn chào hỏi họ nơi công cộng và nghĩ rằng việc dạy dỗ họ là lãng phí thời gian. Thế nên dù người nữ không hoàn toàn bị cấm học hành nhưng họ cũng không được khuyến khích đi học.
Không nghi ngờ gì nữa, quan điểm về việc dạy dỗ phụ nữ của người Do Thái đã dẫn đến mức độ đàn áp nào đó trên họ trong Hội Thánh Ê-phê-sô. Phản ứng lại với vị thế cùng cực đó, một số phụ nữ quyết định dấy lên nắm quyền lãnh đạo. Trong 1 Ti-mô-thê 2:12, Phao-lô nói rằng ông không cho phép phụ nữ dạy dỗ và thi hành quyền lực trên người nam. Nhưng trước khi Phao-lô xử lý vấn đề phụ nữ chiếm đoạt vai trò của người nam thì ông phải giải quyết câu hỏi liệu phụ nữ có quyền học tập hay không? Câu nói ngắn gọn của Phao-lô: “đàn bà phải yên lặng mà nghe dạy” cho thấy quan điểm của ông.
Vai Trò Của Phụ Nữ Trong Cựu Ước
Bất chấp truyền thống Do Thái, Cựu Ước không dạy rằng phụ nữ là hạ cấp. Cựu Ước dạy rằng phụ nữ bình đẳng về thuộc linh so với nam giới. Họ có cùng trách nhiệm như nam giới bao gồm mạng lịnh vâng giữ luật pháp. Trong Xuất Ê-díp-tô ký 20, mười điều răn được ban cho cả nam lẫn nữ. Ngay buổi ban đầu, Đức Chúa Trời đã đặt ra nguyên tắc rằng cả hai giới đều có trách nhiệm vâng giữ luật lệ của Ngài.
Phục Truyền 6:6-7 nói rằng cả người nam và nữ đều có trách nhiệm dạy dỗ con cái vâng giữ luật lệ của Chúa và yêu mến Ngài. Châm ngôn 6:20 nói rằng: “Hỡi con, hãy giữ lời răn bảo của cha, chớ lìa bỏ các phép tắc của mẹ con.” Giả định ở đây là cả hai giới đều có trách nhiệm dạy dỗ con mình luật lệ của Chúa, có nghĩa là cả hai đều phải biết luật lệ đó.
Cả người nam và nữ trong Cựu Ước được truyền lịnh phải dự phần vào các kỳ lễ. Trong Xuất Ê-díp-tô kí 12 cả hai giới đều tham gia vào Lễ Vượt Qua, một trong những lễ kỉ niệm lớn nhất trong lịch Do Thái.
Cả người nam và nữ đều được ban cho sự bảo vệ như nhau đối với sự rủi ro. Hình phạt dành cho một con bò báng nhằm người nam hoặc nữ là giống nhau (Xuất 21: 28-32). Chúa đánh giá sự sống của một người nam ngang bằng với sự sống của một người nữ.
Phụ nữ cũng có những lời hứa nguyện giống như nam giới. Lời hứa nguyện lớn nhất mà một người Y-sơ-ra-ên có đó là lời hứa nguyện Na-xi-rê. Đó là lời hứa nguyện tách khỏi thế gian và tận hiến cho Chúa. Cả người nam và nữ đều có thể thực hiện lời hứa nguyện này (Dân số 6:2).
Cả người nam và nữ đều có thể tiếp cận Đức Chúa Trời như nhau. Đức Chúa Trời thiết lập mối tương giao với người nữ một cách trực tiếp trong Cựu Ước, Ngài không cần thông qua người nam mỗi khi muốn truyền thông với họ. Ví dụ, thiên sứ của Chúa hiện ra với A-ga (Sáng 16:8-13) và mẹ của Sam-sôn (Các quan xét 13:2-5).
Phụ nữ cũng có những đặc ân như nam giới trong Cựu Ước. Cả người nam và nữ đều phục vụ Chúa theo những cách đặc biệt. Nê-hê-mi 7:67 nói về một ban hát gồm 245 người cả nam lẫn nữ. Họ hướng dẫn dân sự ngợi khen thờ phượng Chúa qua âm nhạc. Theo Xuất 38:8, phụ nữ phục vụ tại cửa đền tạm, có thể là để hướng dẫn những phụ nữ khác đến để thờ phượng hoặc để vệ sinh sân đền tạm. Từ những phân đoạn như Phục Truyền 12:10-12, 1 Sa-mu-ên 1, 2, 6, chúng ta học được rằng phụ nữ cũng tham gia vào những lễ hội toàn quốc của Y-sơ-ra-ên.
Vậy nên, phụ nữ cũng có cùng trách nhiệm vâng phục mạng lịnh Chúa và dạy cho con cái mình như nam giới vậy. Họ tham dự vào đời sống tôn giáo của Y-sơ-ra-ên và phục vụ Chúa. Khác với việc dành cho phụ nữ vị trí thứ hai, Cựu Ước nhìn nhận họ bình đẳng thuộc linh đối với nam giới.
Tuy phụ nữ cùng bình đẳng thuộc linh với nam giới trong Cựu Ước, nhưng họ không có cùng vai trò. Tuy nhiên điều này không làm hạ thấp giá trị thuộc linh của họ.
Phụ nữ trong thời Cựu Ước không phục vụ trong vai trò lãnh đạo. Không có lãnh đạo nữ trong lịch sử của cả Y-sơ-ra-ên và xứ Giu-đa. Đê–bô-ra là một thẩm phán làm việc chủ yếu trong cương vị người trung gian, chứ không phải một lãnh đạo đương nhiệm. Điều đó giải thích tại sao bà cho mời Ba-rác khi cần có một lãnh đạo quân đội chống lại người Ca-na-an (Các quan xét 4-5). Hoàng hậu A-tha-lia là một kẻ chiếm quyền và không phải là một lãnh đạo hợp pháp (2 Các Vua 11). Không có chỗ nào nhắc đến người nữ giữ vai trò thầy tế lễ trong Cựu Ước. Như chúng ta biết, không có người nữ nào viết bất cứ phần nào trong Kinh Thánh Cựu Ước cả.
Thêm vào đó, phụ nữ cũng không thi hành chức vụ tiên tri. Không có người nữ nào trong Cựu Ước thi hành chức vụ tiên tri như Ê-li và Ê-li-sê, mặc dù có năm người nữ trong Cựu Ước được nhắc đến như là những người nữ nói tiên tri.
1. Mi-ri-am: Mi-ri-am là chị gái của Môi-se và được gọi là nữ tiên tri trong Xuất 15:20. Có lẽ bà được gọi là nữ tiên tri vì bà đã đưa ra một khải thị ngắn gọn trong câu 21. Chúng ta cũng không thấy những lần nào khác bà thi hành chức vụ của một tiên tri.
2. Đê-bô-ra: Đê-bô-ra được mô tả là một nữ tiên tri trong Các quan xét 4:4 bởi vì Chúa dùng bà để đem đến cho Ba-rác một khải thị trực tiếp. Ngoài ra chúng ta cũng không thấy chỗ nào khác bà tham gia trong công tác của một tiên tri.
3. Hun-đa: Hun-đa đem khải thị của Chúa đến cho thầy tế lễ Hinh-kia và những người nam khác về sự đoán phạt sắp đến trên Giê-ru-sa-lem và Giu-đa (2 Các Vua 22:14-22; 2 Sử Ký 34:22-28). Không còn ghi chép nào khác về việc bà nói tiên tri.
4. Nô-a-đia: Nô-a-đia là một tiên tri giả chống đối công việc xây lại tường thành Giê-ru-sa-lem của Nê-hê-mi (Nê-hê-mi 6:14).
5. Vợ của Ê-sai: Vợ của Ê-sai được gọi là một tiên tri trong Ê-sai 8:3 vì bà sinh ra một đứa con mà tên của nó có ý nghĩa tiên tri. Không có ghi chép nào khác về việc bà nói tiên tri. Đoạn này cho thấy danh từ nữ tiên tri được sử dụng một cách chung chung, không hàm ý là một chức vụ.
Kết luận gì ở đây? Người nữ có thể có ân tứ nói tiên tri, nhưng điều này không có nghĩa là thi hành chức vụ tiên tri.
Cựu Ước phân biệt vai trò của người nữ và người nam. Phụ nữ không phải là thấp kém hơn nam giới nhưng có một vai trò khác.
Vai Trò Của Người Nữ Trong Tân Ước
Tân Ước cũng dạy điều tương tự về bình đẳng thuộc linh giữa nam và nữ, nhưng giao cho mỗi giới những vai trò riêng biệt. Ga-la-ti 3:28 công bố sự bình đẳng thuộc linh giữa nam và nữ: “Tại đây không còn chia ra người Giu-đa hoặc người Gờ-réc; không còn người tôi mọi hoặc người tự chủ; không còn đàn ông hoặc đàn bà; vì trong Đức Chúa Jêsus Christ, anh em thảy đều làm một.” Trong mạch văn của Galati 3, “thảy đều làm một” nói ở đây chính là một trong sự cứu rỗi. Điều đó là rõ ràng trong các câu 13-27. Điểm chính mà Phao-lô nhấn mạnh đó là tất cả mọi người – người Giu-đa hoặc người Gờ-réc; không còn người tôi mọi hoặc người tự chủ; không còn đàn ông hoặc đàn bà đều có cùng có cơ hội đến với sự cứu rỗi trong Đấng Christ. Phân đoạn này không liên quan gì đến vai trò của phụ nữ trong Hội Thánh, cũng không dạy rằng mọi sự khác biệt đã được loại bỏ giữa vòng Cơ Đốc Nhân. Một người Do Thái vẫn là người Do Thái khi người đó trở thành Cơ Đốc Nhân, và nô lệ thì không tự động được tự do. Một số khác biệt vẫn được giữ lại.
Trong khi một số người dùng câu đó để biện hộ cho quan điểm phụ nữ giữ vai trò lãnh đạo trong Hội Thánh, nội dung của câu cho thấy Phao-lô đang nói về sự cứu rỗi (Galati 3: 22, 24, 26, 27). Robert Saucy viết:
“Câu hỏi giải thích trong Ga-la-ti 3:28 là: sự khác biệt nào giữa nam và nữ đã vượt qua được trong Đấng Christ? Nói cách khác trong ánh sáng lời dạy của vị sứ đồ “vì trong Đức Chúa Jêsus Christ, anh em thảy đều làm một”, “sự làm một” mà nam và nữ cùng chia sẻ trong Đấng Christ ở đây là gì? Chúng tôi muốn gợi ý rằng … câu trả lời cho những câu hỏi này không hề liên quan gì đến trật tự chức năng giữa nam và nữ. Thay vào đó, giống như hai vế câu khác nói [người Giu-đa hoặc người Gờ-réc; không còn người tôi mọi hoặc người tự chủ], nói về tình trạng thuộc linh trước mặt Đức Chúa Trời… Đặt để vấn đề trật tự chức năng của xã hội con người vào trong phân đoạn này là gán cho một ý nghĩa mà không giải thích Thánh Kinh theo ngữ cảnh hợp lệ. Thế nên không có cơ sở nào để bãi bỏ trật tự giữa nam và nữ trong Hội Thánh trong Galati 3:28 hơn là bãi bỏ trật tự giữa cha mẹ tin Chúa và con cái, công dân tin Chúa và người lãnh đạo. Vì tất cả họ đều là một trong Đấng Christ dù là trong hay ngoài tổ chức Hội Thánh.” (Tham khảo: “Trường Hợp Tiêu Cực Chống Lại Sự Tấn Phong Của Phụ Nữ”, trong Kenneth S. Kantzer và Stanley N. Gundry, Quan điểm về thần học Tin Lành Grand Rapids: Baker 1979, 281-82)
Nam giới và nữ giới cũng cùng chia sẻ những trách nhiệm thuộc linh như nhau. Tất cả những mạng lịnh, lời hứa, và phước hạnh của Tân Ước được ban cho nam và nữ một cách bình đẳng. Chúng ta đều có những nguồn lực thuộc linh và trách nhiệm thuộc linh như nhau.
Thật thú vị khi Chúa Giê-su bày tỏ Ngài là Đấng Mê-si cho một phụ nữ (Giăng 4). Chúa chữa lành phụ nữ (Ma-thi-ơ 8:14-15), Ngài bày tỏ lòng thương xót đối với họ cũng nhiều như Ngài dành cho nam giới. Ngài dạy phụ nữ (Lu-ca 10:38-42) và cho phép họ giúp đỡ Ngài (Lu-ca 8:3). Tại thập tự giá, phụ nữ ở lại sau khi những người nam trốn chạy hết (Ma-thi-ơ 27: 55-56). Một phụ nữ là người đầu tiên thấy Đấng Christ phục sinh (Mác 16:9; Giăng 20:11-18).
Tuy nhiên, cũng như trong Cựu Ước, nam và nữ chia sẻ những vai trò khác nhau. Phụ nữ không phục vụ trong vị trí lãnh đạo. Không có ghi chép nào trong Tân Ước viết về nữ sứ đồ, mục sư, giáo sư, truyền đạo, hoặc trưởng lão. Tân Ước không ghi lại một bài giảng hay dạy dỗ nào của người nữ.
Thứ hai, phụ nữ không thi hành chức vụ tiên tri. Một số người tranh luận rằng các con gái của Phi-líp nói tiên tri (Công vụ 21:9). Tuy nhiên, họ không được đề cập đến như là những nữ tiên tri, cũng không nhắc đến họ nói tiên tri thường xuyên như thế nào. Có lẽ họ đã nói tiên tri trong một dịp nào đó, giống như Đê-bô-ra và Mi-ri-am đã làm rõ ràng trong Cựu Ước. Tân Ước ghi lại những lần khác khi phụ nữ nói lời của Đức Chúa Trời. Mary, mẹ của Chúa Giê-su, nói lời Chúa trong Lu-ca 1:46-55. 1 Cô-rinh-tô 11:5 nói rằng phụ nữ nói tiên tri thì phải che đầu mình. Công vụ 2:17 nói rằng phụ nữ nói tiên tri. Từ Hi-lạp được dịch là “tiên tri” có nghĩa đơn giản là “nói ra” hoặc “công bố”. Có những lần và những nơi khi phụ nữ nói ra lời Chúa, nhưng đó là sự khác biệt rõ ràng với việc được nhận biết như là một mục sư, giáo sư, trưởng lão, truyền đạo, hay sứ đồ.
Phụ nữ có một vị trí quan trọng trong kế hoạch của Chúa, và họ là bình đẳng với nam giới về mặt thuộc linh. Tuy nhiên, họ không thi hành chức năng trong vai trò như của nam giới. Bởi vì nữ giới và nam giới là bình đẳng về thuộc linh, nên Phao-lô nhấn mạnh là họ phải được cơ hội học tập như nam giới. Phụ nữ không thể dạy lẽ thật thuộc linh cho con cái mình (như mẹ và bà ngoại của Ti-mô-thê đã làm), dẫn người khác đến với Đấng Christ, hoặc vâng lời Chúa nếu họ không được ban cho cơ hội học tập. Phao-lô muốn dạy dỗ một cách rõ ràng rằng những khác biệt trong vai trò giữa nam và nữ không hề ám chỉ sự thấp kém hơn về thuộc linh của nữ giới. Ông nói: “Đàn bà phải yên lặng mà nghe dạy” (c.11 nhấn mạnh thêm ý này).
Tôi muốn chia sẻ một điều rất cá nhân. Tôi cảm ơn Chúa về mục vụ phi thường mà phụ nữ có được hơn 40 năm qua tại Hội Thánh nơi tôi quản nhiệm. Tôi muốn bạn biết về Hội Thánh Grace Community sẽ không được như ngày nay – quá được phước từ Chúa – nếu không nhờ phụ nữ trong Hội Thánh. Tôi chưa bao giờ thấy một Hội Thánh nào có nhiều phụ nữ chủ động về mặt thuộc linh, tin kính và tôn cao Đấng Christ đến như vậy. Tôi chưa thấy một Hội Thánh nào mà phụ nữ cảm thấy nhiều tự do, thoải mái, vui mừng, và hăng hái trong việc thi hành mục vụ như vậy.
Tuy từ bên ngoài, Hội Thánh chúng tôi đôi khi bị buộc tội là bá quyền, hẹp hòi, lỗi thời, và truyền thống. Chúng tôi bị buộc tội là quá cũ kỷ giống như thuộc về thời đại khủng long. Nhưng thực ra tôi ngợi khen Chúa vì tất cả những năm tôi phục vụ tại đó, một ưu tiên lớn đó là để phụ nữ học tập. Tôi vui vì phụ nữ học tập tại Hội Thánh Grace từ những ngày đầu vào những buổi sáng thứ Ba khi tôi dạy một lớp học Kinh Thánh dành cho phụ nữ, cho đến ngày nay khi chúng tôi có nhiều buổi học, ở nhiều nơi, số lượng khác nhau, thậm chí trong nhiều ngôn ngữ. Chúng tôi có lớp học Kinh Thánh phụ nữ, lớp Ân Điển Của Mỗi Phụ Nữ trong tiếng Tây Ban Nha, tiếng Hàn, và tiếng Phi-líp-pin (dĩ nhiên trong tiếng Anh nữa). Phụ nữ từ mọi nền văn hóa đều đang học lời Chúa.
Điều đó làm cho vững mạnh mỗi khía cạnh sinh động của Hội Thánh. Chúa có thể ban phước trên rất nhiều người nam trong Hội thánh tôi, và họ có thể biết ơn Ngài vì vợ của họ tăng trưởng và học tập từ lời Chúa để làm cho đời sống của chính họ và gia đình trở nên phong phú.
Tôi ngợi khen Chúa về điều đó. Tôi không tin vào điều mà người ngoài cũng như các phương tiện truyền thông cố gắng tô vẽ rằng chúng tôi có nhiều phụ nữ bị tước đoạt là những người bị cột trói trong một chủ nghĩa truyền thống không đúng với văn hóa đương đại.
Tôi tin rằng phụ nữ tại Hội Thánh Grace Community đã kinh nghiệm sự tự do thật để trở thành người Chúa muốn trong vai trò mà Chúa đã lập ra cho họ. Tôi cảm ơn Chúa vì kết ước của những người nữ trong Hội Thánh và toàn Hội Thánh đối với sự cần thiết của việc học tập của phụ nữ. Thông điệp của Phao-lô: “Đàn bà phải yên lặng mà nghe dạy.”
Ôn lại:
1. Một số vấn đề liên quan đến phụ nữ tại Hội Thánh Ê-phê-sô là gì?
2. Tại sao lời chứng của người nữ tương xứng với sự tuyên xưng đức tin của người đó là quan trọng?
3. Lời chứng của người nữ tin kính là một đời sống __________ __________.
4. Theo Công Vụ 2:42, ___________ là một ưu tiên lớn khi Hội Thánh đầu tiên nhóm lại với nhau.
5. Bằng ngôn từ riêng của bạn, hãy tóm tắt vị trí của phụ nữ trong Do Thái Giáo của thế kỷ đầu tiên.
6. Đúng hay sai: Quan điểm của người Do Thái đương thời đối với phụ nữ ảnh hưởng đến cách phụ nữ được đối xử trong Hội Thánh Ê-phê-sô.
7. Đúng hay sai: Cựu Ước đồng ý với truyền thống Do Thái, dạy rằng phụ nữ thấp kém hơn về thuộc linh.
8. Nêu một số trách nhiệm thuộc linh mà nữ giới cùng chia xẻ với nam giới trong Cựu Ước.
9. Vai trò của phụ nữ trong Cựu Ước khác với nam giới như thế nào?
10. Ga-la-ti 3:28 dạy rằng tất cả những khác biệt giữa nam và nữ đã bị loại trừ? Giải thích.
11. Chúa Giê-su có đối xử với phụ nữ thấp kém hơn nam giới không? Hãy củng cố câu trả lời của bạn bằng Kinh Thánh.
12. Tại sao học về lẽ thật thuộc linh lại quan trọng đối với phụ nữ?
Suy ngẫm
1. Hội Thánh tại Ê-phê-sô bị ảnh hưởng bởi quan điểm phổ biến của xã hội đối với phụ nữ. Chúng ta cũng có thể nói điều tương tự với Hội Thánh ngày nay. Hội Thánh thường bị ảnh hưởng bởi thế gian thay vì là sự ảnh hưởng đối với thế gian. Quan điểm của bạn được hình thành bởi quan điểm của xã hội hay Lời Chúa? Hãy suy nghĩ về quan điểm của bạn về các vấn đề như vai trò của phụ nữ, nạo phá thai, đồng tính luyến ái, sự sáng tạo và thuyết tiến hóa, trách nhiệm của Cơ Đốc Nhân đối với chính quyền, việc kiện tụng, li dị và tái hôn. Hãy dành thời gian cầu nguyện và xin Chúa ban cho bạn sự can đảm để có quan điểm trong các vấn đề này dựa trên lời Ngài – cho dù xã hội có lan truyền quan điểm như thế nào đi nữa. Sau đó hãy cầu nguyện để toàn thể Hội Thánh sẽ đứng vững theo lẽ thật của Chúa.
2. Chúa Giê-su thi hành chức vụ trên mọi loại người thậm chí với những người mà nền văn hóa Do Thái cho là thấp kém. Ngài phục vụ những người nghèo, những người bị bịnh phong hủi, và những kẻ thâu thuế. Bạn có chọn lựa người mà bạn sẽ phục vụ không? Bạn có đến với những người khó khăn và xa lạ trong Hội Thánh bạn, trong nhóm học Kinh Thánh, hay bạn giữ an toàn bằng cách lúc nào cũng ở với những người bạn cần mình? Lần sau khi thấy một người có nhu cầu và bị cám dỗ để quay mặt đi bởi vì người đó không phải là một phần trong nhóm của bạn, hãy nhớ tấm gương của Chúa Giê-su cũng như sự dạy dỗ trong Gia-cơ 2:1-9.
3. Sự Kêu Gọi Cao Cả Của Chúa Dành Cho Người Nữ
1 Ti-mô-thê 2:11
Catharine Beecher là con cả trong gia đình. Một trong những người em gái của bà là Harriet Beecher Stowe, một nhà tiểu thuyết, tác giả sách “Túp lều của chú Tom”. Catharine lớn lên với một tình yêu vĩ đại dành cho con trẻ, bà tìm thấy niềm vui trong việc nuôi và chăm sóc chúng. Mẹ của bà là một nội trợ giỏi và đã dạy bà cách chăm sóc nhà cửa.
Khi Catharine được 16 tuổi thì mẹ mất, một người dì chuyển về sống chung. Người dì này nổi bật với sự gọn gàng và khả năng quán xuyến nhà cửa ngăn nắp và tiết kiệm. Cha của Catharine cuối cùng cũng tái hôn, và người mẹ kế cũng là một chuyên gia nội trợ.
Catharine dưới sự giáo huấn của những người nữ gương mẫu này đã quyết định huấn luyện lại những người phụ nữ khác về công việc nội trợ. Ở tuổi 23, cô thành lập Học Viện Phụ Nữ Hartford, để huấn luyện phụ nữ thành người được chồng con yêu mến và là quản gia tốt trong nhà.
Năm 1869, Catharine và Harriet viết một quyển sách có tựa là “Mái Ấm Phụ Nữ Mỹ” (New York: J. B. Ford). Họ viết:
“Chuyên môn của phụ nữ chú trọng vào việc chăm sóc và nuôi dưỡng thân thể các thành viên trong gia đình trong những giai đoạn trọng yếu khi thơ ấu và bịnh hoạn, rèn luyện tâm trí con cái trong giai đoạn có thể gây dấu ấn nhất của tuổi thơ…và hầu hết nhiệm vụ chính trị, kinh tế của gia đình. Những bổn phận này của phụ nữ cũng thánh và quan trọng như bất cứ bổn phận nào được giao cho nam giới. Tuy nhiên những điều này chưa được thừa nhận, cũng chưa có một qui chuẩn nào để chứng thực với công chúng rằng một phụ nữ được trang bị thích đáng để đem lại sự hướng dẫn phù hợp trong chuyên môn của mình. (trang 14)
Huấn luyện phụ nữ là mong muốn của các tác giả trên. Họ muốn người nữ “không chỉ để trình diễn theo cách thức được công nhận nhất trong tất cả những việc làm thủ công của cuộc sống gia đình, nhưng là tôn cao và vui hưởng những bổn phận này.” (trang 14-15)
Nếu ngày nay một phụ nữ thành lập một học viện để huấn luyện phụ nữ trong những trách nhiệm trong gia đình, người đó chắc sẽ trở thành trò cười cho thế giới phương Tây. Thực ra, huấn luyện phụ nữ giữ gìn mái ấm nghịch lại với những gì của văn hóa chung thế giới hiện nay là quan trọng cho Cơ đốc nhân.
Chúng ta đang sống trong thời kỳ mà sự đảo ngược vai trò đang là tâm điểm của Satan. Nếu Satan chỉ nhắm chiến lược đó vào thế gian thôi thì là một chuyện khác, nhưng thật tai hại khi điều này ngấm vào trong Hội Thánh. Hội Thánh ngày nay thật sự đã đánh mất đi nhận thức về quan điểm và sự cân bằng đối với vai trò của phụ nữ. Tôi kinh ngạc khi thời gian trôi qua, tôi thấy một sự gia tăng những thành viên trong các nhà thờ không còn đi theo Kinh Thánh, dưới sức ép của xã hội họ đã bắt đầu thay đổi quan điểm của mình về vai trò của phụ nữ. Phần đáng buồn là sau đó họ lại chỉ dẫn cho phụ nữ khước từ một lối sống mà Đức Chúa Trời đã quy định, một lối sống sẽ đem lại vui mừng lớn nhất cho người nữ.
Đó là nan đề trong thời kỳ của Catharine Beecher, đó cũng là nan đề ngày nay, và đó cũng là nan đề trong thời kỳ khi Phao-lô viết thư tín đầu tiên cho Ti-mô-thê. Trong 1 Ti-mô-thê 2:9-15, vị sứ đồ đã đưa ra một cách xử lý toàn diện về vai trò phụ nữ trong Hội Thánh. Trong câu 9, chúng ta nói về vẻ bề ngoài và thái độ của phụ nữ. Trong chương trước, chúng ta xem xét về lời chứng của phụ nữ và bắt đầu thảo luận về vai trò phụ nữ, bao gồm sự bình đẳng thuộc linh của nam và nữ bất chấp những vị trí khác nhau. Trong chương này, chúng ta sẽ tiếp tục nghiên cứu trong câu 11 khi chúng ta tìm hiểu Lời Chúa dạy gì trong vấn đề quan trọng này về sự kêu gọi cao cả của Ngài dành cho nữ giới.
VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ (c. 11-12)
“Đàn bà phải yên lặng mà nghe dạy, lại phải vâng phục mọi đàng. Ta không cho phép đàn bà dạy dỗ, cũng không được cầm quyền trên đàn ông; nhưng phải ở yên lặng.”
Hội Thánh tại Ê-phê-sô ở trong một thành phố bị ảnh hưởng bởi văn hóa và tôn giáo của Hi-Lạp. William Barclay viết:
“Ví trí của phụ nữ trong tôn giáo Hi-lạp là rất thấp. Đền thờ của Aphrodite tại thành Cô-rinh-tô có một ngàn nữ tu là những gái mại dâm và mỗi tối họ hành nghề trên các con đường trong thành phố. Đền thờ của nữ thần Diana trong thành Ê-phê-sô có hàng trăm nữ tu được gọi là Melissae có nghĩa là những con ong, cũng hành nghề tương tự. Người phụ nữ Hi-lạp đứng đắn sống một cuộc sống rất hạn chế. Họ phải sống trong phần không gian riêng của mình là nơi chỉ có chồng họ mới được vào. Thậm chí họ còn không được xuất hiện trong các bữa ăn. Không bao giờ xuất hiện ngoài đường một mình, không bao giờ đi đến những nơi hội họp công cộng. Sự thật là nếu trong thành phố của người Hi-lạp, mà phụ nữ Cơ Đốc lãnh đạo một hoạt động và giảng, thì Hội Thánh chắc chắn sẽ bị mang tiếng là nơi của những người đàn bà phóng túng.” (Thư tín gửi Ti-mô-thê, Tít, và Phi-lê-môn. [Philadelphia: Wesminster, 1975], 67)
Trong câu 11, Phao-lô trình bày hai điểm về phụ nữ trong Hội Thánh: họ phải yên lặng mà nghe dạy, và họ phải học trong sự vâng phục. Từ Hi-lạp được dịch là “yên lặng” (hesuchia) có nghĩa đơn thuần là sự nín thinh. Chúng ta sẽ phải xác định chính xác nghĩa của nó trong văn mạch. Từ Hi-lạp được dịch là “vâng phục” là từ hupotasso, có nghĩa là “xếp sau”. Phụ nữ không được phản loạn; họ phải phục vụ trong vai trò đúng đắn của mình.
Lời dạy về sự yên lặng của phụ nữ đã bị giải thích nhầm theo hai cách. Những người tin rằng phụ nữ được tự do giảng dạy trong Hội Thánh thì giải thích “yên lặng” ám chỉ một tinh thần mềm mại và dịu dàng. Họ khẳng định rằng phân đoạn này dạy rằng những diễn giả hoặc giáo sư nữ phải có một thái độ mềm mại và dịu dàng. Những người khác thì quay về thái cực trái ngược và khăng khăng rằng phụ nữ không bao giờ nên mở miệng trong Hội Thánh dưới bất cứ tình huống nào, thậm chí là không nói chuyện với cả người ngồi bên cạnh. Tuy nhiên trong câu 12, Phao-lô nói rằng phụ nữ yên lặng bằng cách không dạy dỗ hay thi hành uy quyền trên người nam trong Hội Thánh.
Họ Phải Yên Lặng Mà Nghe Dạy
(câu 11a, xem 1Cô 14:34)
“Phụ nữ phải yên lặng mà nghe dạy.”
1 Cô-rinh-tô 14:34 lặp lại tư tưởng của 1 Ti-mô-thê 2:11. Phao-lô viết: “đàn bà phải nín lặng trong đám hội của anh em: họ không có phép nói tại nơi đó, nhưng phải phục tùng cũng như luật pháp dạy.”
“Hãy” (epitrepo) luôn được dùng trong Tân Ước để nói đến việc cho phép ai đó làm điều họ muốn. Sự lựa chọn từ ngữ của Phao-lô có thể hàm ý rằng một số phụ nữ tại Ê-phê-sô mong muốn trở thành diễn giả công khai-và vì vậy mà có quyền trên hội chúng – như trong Hội Thánh ngày nay. Tuy nhiên, Phao-lô đang nói trên cương vị một sứ đồ chính thức của Chúa Giê-su Christ, không cho phép điều đó. Vai trò trưởng lão, truyền đạo, hay mục sư, giáo sư chỉ dành cho nam giới mà thôi.
Lý do phụ nữ không được phép giảng trong hội thánh không có liên quan gì đến kết cấu tâm lý hay khả năng tư duy của họ. Những người khẳng định rằng sự lệ thuộc và sự bình đẳng khai trừ nhau nên nhận biết tốt hơn về mối quan hệ của Đấng Christ đối với Đức Chúa Cha. Trong khi còn trên đất, Chúa Giê-su đóng vai trò lệ thuộc, nhưng Ngài không hề thấp kém hơn. 1 Cô-rinh-tô 11:3 viết: “Dầu vậy, tôi muốn anh em biết Đấng Christ là đầu mọi người; người đàn ông là đầu người đàn bà; và Đức Chúa Trời là đầu của Đấng Christ.”
Câu cuối trong 1 Cô-rinh-tô 14 ý nói sự yên lặng mà Phao-lô ra lệnh hoàn toàn không có ý ngăn ngừa không cho phụ nữ nói chuyện, mà là ngăn họ nói tiếng lạ và tiên tri trong Hội Thánh. Bối cảnh văn hóa của khu vực giúp ích trong việc soi sáng cho sự dạy dỗ này.
Thành Delphi nằm trong ngang vịnh Cô-rinh-tô, là nơi cư ngự của một tôn giáo hàng đầu bởi một người nữ được biết đến với cái tên Pythia, hoặc tiên tri của Delphi. Để được chính thức công nhận là nữ tu trong tôn giáo này, một phụ nữ phải là một gái đồng trinh trẻ tuổi. Sau này, phụ nữ có chồng trên 50 tuổi cũng được chọn lựa, nhưng họ phải ăn mặc như những người hầu. Mỗi nữ tu là một đồng bóng liên hệ với các tà linh.
Một người nam muốn cầu vấn tiên tri (không có người nữ nào được phép cầu vấn) thì dâng một con thú trong khi một vài nữ tu chấm điểm. Nếu họ được chọn, người nam sẽ được vào nơi điện thờ bên trong. Sau khi vào, người này sẽ viết xuống nhu cầu của mình trên một tấm bảng (các nhà khảo cổ đã khai quật được khu vực điện thờ và tìm thấy một số bảng đó vẫn còn nguyên vẹn), có lẽ sau đó sẽ được đọc cho Pythia. Thần Pythia ngồi trên một tháp ba chân, nghe nói là nằm trên một vực sâu có hơi bốc lên một cách huyền bí từ dưới đất. Trước khi ngồi xuống, bà uống nước từ dòng nước được gọi là Kassotis và ăn lá cây nguyệt quế thánh. Để đáp lại những gì được viết trong tấm bảng, bà thốt ra những tiếng rời rạc được dịch lại (thường trong những câu thơ sáu âm trọn vẹn) bởi một tiên tri nam đang đứng cạnh bên. Lời dịch, thường là mơ hồ và đa dạng, thường khiến người cầu vấn hoang mang hơn trước khi ông ta đến hỏi.
Những sinh hoạt của người ngoại có ảnh hưởng tiêu cực đến Hội Thánh tại thành Cô-rinh-tô. Một số người đến trong một buổi nhóm của người Cô-rinh-tô và thốt ra những câu nói huyền bí tương tự, cho là từ năng quyền Đức Thánh Linh. Điều đó dẫn đến sự hỗn độn trong Hội Thánh Cô-rinh-tô. Ân tứ thật về nói tiếng mới và tiên tri trở nên rối ren vì những hình thức giả dạng quỉ quái.
Tại Cô-rinh-tô cũng như tại thành Ê-phê-sô, phụ nữ khoe khoang bản năng tình dục của họ. Có lẽ bị ảnh hưởng bởi tôn giáo Delphic, họ tìm kiếm địa vị cao trong Hội Thánh Cô-rinh-tô bằng cách lạm dụng những ân tứ nói tiếng mới và nói tiên tri.
Phản ứng lại với nan đề trên, Phao-lô viết: “Hỡi anh em, nên nói thể nào? Khi anh em nhóm lại với nhau, trong anh em, ai có bài ca, hoặc bài giảng dạy, hoặc lời tỏ sự kín nhiệm, hoặc nói tiếng lạ, hoặc giải tiếng lạ chăng? Hãy làm hết thảy cho được gây dựng”(1 Cô-rinh-tô 14:26). Phao-lô tiếp tục nói rằng không quá hai hoặc ba người nói tiếng mới và không bao giờ không có người diễn giải ở đó. Chỉ có hai hoặc ba tiên tri nói tiên tri, và những người khác thì đánh giá xem đó có phải là lẽ thật hay không (c. 27-29). Quan điểm của Phao-lô rằng Chúa không phải là Đấng tạo ra sự rối loạn (c.33). Cuối cùng ông hướng dẫn phụ nữ giữ im lặng (c.34). Họ không được nói tiếng mới hay tiên tri trong buổi nhóm chung của Hội Thánh.
Trước hết, 1 Ti-mô-thê 2:11-12 và 1 Cô-rinh-tô 14: 34-35 cho chúng ta biết rằng khi Hội Thánh nhóm lại phụ nữ không được nói tiếng mới, nói tiên tri, hay dạy lời Chúa. Khi nhóm nhau lại thì người nam được chỉ định sẽ dạy lời Chúa.
Tuy nhiên, đó không có nghĩa là phụ nữ không bao giờ được chia sẻ lời Chúa. Chúa dùng những người nữ như Mi-ri-am (Xuất 15:20-21), Đê-bô-ra (Các quan xét 4:4), Hun-đai (2 Các Vua 22:14-22) và An-ne (Lu-ca 2:36-38) để phát ngôn cho Ngài. Phao-lô nói với nhiều Hội Thánh và nhà hội suốt các hành trình truyền giáo của ông, trả lời thắc mắc cho cà nam lẫn nữ (Công 17:2-4). Tôi tin có thời điểm và nơi chốn cho phụ nữ để công khai dâng lời ngợi khen Chúa. Tôi không tin rằng Phao-lô có ý rằng phụ nữ không bao giờ được hầu việc trong khả năng này. Nhưng ông cấm phụ nữ nắm vai trò lãnh đạo trong Hội Thánh.
Họ Phải Vâng Phục Mọi Đàng
(C 11b, 1 Cô-rinh-tô 11:3)
“Đàn bà phải yên lặng mà nghe dạy,… lại phải vâng phục mọi đàng.”
Trong 1 Cô-rinh-tô 11:3 Phao-lô viết: “Dầu vậy, tôi muốn anh em biết Đấng Christ là đầu mọi người; người đàn ông là đầu người đàn bà; và Đức Chúa Trời là đầu của Đấng Christ.” Câu đó dạy rằng người nữ phải phục người nam trong vai trò lãnh đạo trong Hội Thánh, là vai trò chỉ dành riêng cho những người nam đủ phẩm chất.
Không có tín hữu nào nghi ngờ rằng Đấng Christ không phải là đầu của người nam. Và tín hữu cũng hiểu rằng Đức Chúa Cha là đầu của Đấng Christ. Phi-líp 2:5-8 dạy rằng Đấng Christ đã mặc lấy hình hài của một đầy tớ trọn thời gian nhập thể. Vì Đấng Christ là đầu người nam, và Đức Chúa Cha là đầu Đấng Christ, vậy tại sao chúng ta tranh cãi xem người nam có phải là đầu người nữ hay không?
Tại Cô-rinh-tô, có một thông tục dành cho người nữ có chồng phải trùm đầu để thể hiện sự kín đáo. Đó là dấu hiệu họ kết ước với chồng và không thể có gì với những người nam khác. Mặt khác, đàn ông thì không trùm đầu như một dấu chỉ về nam tính của họ. Trong Hội Thánh Cô-rinh-tô, những dấu hiệu mang tính văn hóa đó đã được đảo ngược: phụ nữ cầu nguyện và nói tiên tri mà không trùm đầu – như vậy là định dạng mình giống với những người nữ tự do trong thành Cô-rinh-tô – và những người nam – có lẽ do ảnh hưởng của Do Thái Giáo– trùm đầu mình trong khi cầu nguyện. Phao-lô khiển trách những người nam trong câu 4: “Phàm người đàn ông cầu nguyện hoặc giảng đạo mà trùm đầu lại, thì làm nhục đầu mình.” Điều đó có phải là tội khi người nam có trùm gì đó trên đầu khi cầu nguyện không? Không, trừ phi văn hóa của bạn nhìn nhận điều đó là nữ tính. Trong câu 5 Phao-lô trách những người nữ: “Nhưng phàm người đàn bà cầu nguyện hoặc giảng đạo mà không trùm đầu lại, thì làm nhục đầu mình: thật chẳng khác gì đã cạo đầu vậy” (một cái đầu bị cạo là biểu tượng cho sự xấu hổ).
Chúng ta nên định dạng với những biểu tượng của xã hội về nam tính hay nữ tính trừ phi chúng nghịch lại với lời Chúa hay quy định của Chúa về đạo đức. Những biểu tượng này trong xã hội chúng ta có thể dễ nhận ra. Chúng ta có thể nêu ra sự khác biệt giữa một phụ nữ có nữ tính và một phụ nữ trông như cô ta đang nghịch lại với nữ tính. Chúng ta có thể nhìn vào một người nam và bởi cách ăn mặc và đi đứng, mà nói rằng người đó có khước từ những biểu tượng văn hóa của nam tính hay không.
Thế còn 1 Cô-rinh-tô 11:5 thì sao? Câu này có cho phép diễn giả nữ giảng luận không? Một số người dạy rằng việc phụ nữ cầu nguyện và nói tiên tri trong đoạn 11:5 diễn ra trong buổi thờ phượng. Tuy nhiên đoạn văn không nói như vậy. Có lẽ Phao-lô đang nói về việc cầu nguyện và nói tiên tri một cách chung chung. Cho đến đoạn 11:18 Phao-lô mới lần đầu tiên nói về buổi nhóm chính thức của Hội Thánh: “Trước hết, tôi nghe rằng khi anh em có sự nhóm họp Hội thánh, thì sanh ra sự phân rẽ; tôi cũng hơi tin điều đó.” Trước câu 18 rõ ràng là ông không nói về buổi nhóm thờ phượng.
Có lẽ Phao-lô nói trong câu 5 về việc phụ nữ cầu nguyện và công bố lời Chúa trong một buổi học Kinh Thánh tại nhà hay trong giờ cầu nguyện của gia đình. Điểm chính của ông là bất cứ khi nào Cơ Đốc Nhân nhóm nhau lại, phụ nữ phải ở trong tư thế vâng phục, nam giới phải ở trong vai trò lãnh đạo. Nếu một phụ nữ trùm đầu khi cầu nguyện, cô ta đang chứng minh nữ tính của mình và khẳng định sự vâng phục đối với chồng. Cô ấy nhận biết rằng người nam là ảnh tượng và vinh hiển của Chúa và cô là sự vinh hiển của chồng (c.7). Nam giới là biểu tượng cho sự tể trị vinh quang của Chúa, và phụ nữ là biểu tượng của người nam đi theo sau.
Đức Chúa Trời tạo dựng con người để thực hiện các mối quan hệ. Và trong các mối quan hệ đó, là những vai trò khác nhau. Tuy nhiên, trong xã hội chúng ta, chúng ta nhấn mạnh cá nhân trên mối quan hệ. Các cá nhân tập trung vào quyền của họ, và tìm kiếm sự thỏa mãn cho chính mình. Trong một xã hội như thế, có một xu hướng xem mọi người đều có cùng một vai trò. Nhưng khi phụ nữ khước từ vai trò Chúa ban trong Hội Thánh và gia đình, họ xem nhẹ thiết kế nền tảng của Chúa trong những điều này và vì thế sự ổn định của xã hội bị đe dọa.
MỘT SỐ NHẬN BIẾT THỰC TIỄN
1. Khi nào thì phụ nữ có thể công bố lời Chúa?
Phụ nữ có thể công bố lời Chúa bất cứ lúc nào tại bất cứ nơi đâu, ngoại trừ khi Hội Thánh nhóm nhau lại để thờ phượng. Tân Ước cho một số ví dụ về Mary và An-ne công bố lẽ thật (Lu-ca 1:46-55; 2:36-38).
2. Trong buổi học Kinh Thánh, một phụ nữ có thể chia sẻ những gì họ học được không?
Có, trong bối cảnh thích hợp thì không có gì sai khi phụ nữ chia sẻ những gì Đức Thánh Linh đã dạy từ lời Chúa.
3. Phụ nữ có thể cầu nguyện nơi công cộng không?
Có, phụ nữ có thể cầu nguyện nơi công cộng. Công Vụ 1:13-14 mô tả một buổi nhóm cầu nguyện nơi các môn đồ của Chúa Giê-su cũng như một số phụ nữ có mặt. Có một thời điểm và nơi chốn hoàn toàn thích hợp để phụ nữ cầu nguyện nơi công cộng.
Khi Phao-lô viết trong 1 Ti-mô-thê 2:11, “Phụ nữ phải yên lặng mà nghe dạy”, ông có ý rằng phụ nữ không được dạy dỗ trong suốt buổi nhóm chính thức của Hội Thánh. Trách nhiệm của người giảng đạo, giáo sư, hay người hướng dẫn cầu nguyện trong buổi nhóm là vai trò dành cho nam giới.
Phụ nữ phải ngưng tin vào lời nói dối của ma quỷ rằng vai trò duy nhất có ý nghĩa là vai trò lãnh đạo. Người ta thường khao khát những địa vị cao – chứ không phải phục vụ người khác cách khiêm nhường, nhưng để tôn lên bản ngã của mình và đạt uy quyền kiểm soát. Tuy nhiên, lãnh đạo mang một gánh nặng và trách nhiệm, và vai trò phụ tá thường có sự bình an và hạnh phúc lớn hơn. Phụ tá không phải là một sự trừng phạt, mà là một đặc ân.
Ôn lại:
1. Thành Ê-phê-sô chịu ảnh hưởng bởi văn hóa và tín ngưỡng ______________________ .
2. Đúng hoặc sai: Phụ nữ vui hưởng một sự tự do cá nhân lớn trong xã hội Hi-lạp, thường đóng vai trò tích cực trong những buổi hội họp công cộng.
3. Hai điểm mà Phao-lô nêu trong 1 Ti-mô-thê 2:11 về vai trò của phụ nữ trong Hội Thánh?
4. Đúng hoặc sai: Phao-lô bảo rằng phụ nữ phải giữ im lặng trong Hội Thánh có nghĩa là một phụ nữ không được nói chuyện trong bất cứ tình huống nào.
5. Lý do phụ nữ không được giảng dạy trong Hội Thánh là gì?
6. Hãy mô tả sự ảnh hưởng của tôn giáo Delphic đối với Hội Thánh tại Cô-rinh-tô.
7. Phao-lô đã hướng dẫn người Cô-rinh-tô sửa chữa những nan đề trong Hội Thánh như thế nào?
8. Tại sao người nam trong hội thánh Cô-rinh-tô cầu nguyện mà trùm đầu là sai?
9. 1 cô-rinh-tô 11:5 có dạy rằng phụ nữ có thể công bố lời Chúa trong buổi nhóm của Hội Thánh không? Hãy chứng minh.
10. Tại sao việc phụ nữ khước từ vai trò Chúa ban cho trong gia đình và xã hội lại là vấn đề nghiêm trọng như vậy?
Suy ngẫm
1. Một số phụ nữ trong Hội Thánh Ê-phê-sô và Cô-rinh-tô đã quan tâm nhiều đến quyền lợi của họ hơn là trách nhiệm với Chúa và Hội Thánh. Còn bạn thì sao? Bạn tập trung vào nhận hay cho? Bạn thường đòi hỏi quyền lợi cho mình hay hoàn thành nhiệm vụ của bạn? Hãy nhớ rằng Chúa Giê-su đến không phải để “được phục vụ, nhưng để phục vụ” (Mat. 25:28). Nếu sự tập trung của bạn từ từ thay đổi từ việc phục vụ nhu cầu người khác qua việc tìm kiếm quyền lợi riêng của mình thì bạn có thể trở lại tình trạng ban đầu bằng việc ghi nhớ Phi-líp 2:3-4.
2. Chúng ta đã học trong chương này rằng cả nam lẫn nữ đều có thể (dưới mọi tình huống) chia sẻ lẽ thật của Chúa. Bạn có thường tìm dịp để chia sẻ lẽ thật Kinh Thánh với bạn bè, hàng xóm, vợ hoặc chồng hay con cái bạn không? Để truyền thông những lẽ thật của Kinh Thánh thì bản thân chúng ta phải học những lẽ thật đó trước. Điều đó đòi hỏi sự học tập liên tục. Nếu bạn không đang học lời Chúa cách thường xuyên, hãy thực hiện một cam kết với Chúa để bắt đầu ngay hôm nay.
4. Sự Kêu Gọi Cao cả Của Chúa Dành Cho Người Nữ
1Ti-mô-thê 2:12-15
Khi Phao-lô tập họp những trưởng lão Ê-phê-sô tại Mi-lê trong Công-vụ 20:17, và sau đó thảo luận với họ những ưu tiên của mục vụ, ông kết thúc buổi thảo luận với một phần cảnh báo. Phần đó bày tỏ những nỗi sợ sâu xa nhất của ông đối với hội chúng đó. Bắt đầu câu 29 Phao-lô nói rằng:
“Còn tôi biết rằng sau khi tôi đi sẽ có muông sói dữ tợn xen vào trong vòng anh em, chẳng tiếc bầy đâu; lại giữa anh em cũng sẽ có những người nói lời hung ác dấy lên, ráng sức dỗ môn đồ theo họ. Vậy, hãy tỉnh thức nhớ lại rằng trong ba năm hằng đêm và ngày, tôi hằng chảy nước mắt ra mà khuyên bảo cho mọi người luôn. Bây giờ tôi giao phó anh em cho Đức Chúa Trời và cho đạo của ơn Ngài, là giao phó cho Đấng có thể gây dựng và ban gia tài cho anh em chung với hết thảy những người được nên thánh.” (c. 29-32)
Phao-lô bày tỏ mối lo sợ lớn rằng các giáo sư giả sẽ dấy lên giữa vòng Hội thánh và bên ngoài Hội Thánh. Hội thánh tại Ê-phê-sô có một khởi đầu thật lớn lao và tuyệt vời. Hội Thánh ra đời bởi một cơn phấn hưng lớn. Hội Thánh thoát ra khỏi chủ nghĩa ngoại giáo với sự rõ ràng về mục đích và ý định trong sách Công Vụ Các Sứ Đồ. Tuy vậy Phao-lô biết chắc chắn rằng dù khởi đầu có tốt đi nữa, dù là chức vụ ba năm của bản thân ông ở đó có ảnh hưởng tốt mấy đi nữa, thì rõ ràng là kẻ thù sẽ bắt đầu tấn công Hội Thánh bằng cách đưa vào những giáo sư giả và những lãnh đạo không tin kính để làm yếu đi sự ảnh hưởng của Hội Thánh. Chắc chắn, nỗi sợ tồi tệ nhất của Phao-lô đã thành hiện thực. Vào thời điểm ông kết thúc lần ở tù đầu tiên tại La-mã, ông gặp Ti-mô-thê tại Ê-phê-sô, và được biết rằng Hội Thánh trong trái tim ông – Hội Thánh mà đã lấy đi rất nhiều năm trong mục vụ khá ngắn ngủi của ông, Hội Thánh mà ông yêu cách sâu sắc, và cầu thay thường xuyên đó đã trở thành mồi cho những giáo sư giả ủng hộ lối sống không tin kính.
Nên khi ông và Ti-mô-thê gặp nhau tại đó, Phao-lô loại ra khỏi Hội Thánh hai lãnh đạo chủ chốt nhất được nêu tên trong 1 Ti-mô-thê 1:20 – Hy-mê-nê và A-léc-xan-đờ-ri-a. Họ bị “phó cho ma quỷ”. Ý nói rằng chính bản thân Phao-lô đã xử lý với họ. Sau đó ông phải tiếp tục di chuyển về phía tây Hi-lạp, để lại Ti-mô-thê tại Ê-phê-sô để dàn xếp mọi sự còn lại cho ổn thỏa. Bạn sẽ lưu ý trong chương 3:15 một chìa khóa cho cả thư tín. Phao-lô nói: “nhưng viết thơ nầy, phòng ta có chậm đến, thì con biết làm thể nào trong nhà Đức Chúa Trời, tức là Hội thánh của Đức Chúa Trời hằng sống, trụ và nền của lẽ thật vậy.” Nói cách khác, “Ta viết thư này để con biết cách ứng xử trong Hội Thánh và con có thể làm bất cứ điều gì cần thiết và truyền lại cho dân sự những gì họ cần nghe.”
Nan đề chính trong Hội Thánh Ê-phê-sô là lãnh đạo giả mạo. Bắt đầu chương 3 và xuyên suốt đến cuối thư tín, luôn nhắc đến những lãnh đạo giả mạo này. Một số đoạn viết về vấn đề này nhiều hơn phân đoạn khác, nhưng chủ đề đan xen suốt đoạn 1 Ti-mô-thê 3-6 chủ yếu nói về các lãnh đạo không tin kính. Cả sách là một cuộc bút chiến chống lại lãnh đạo giả mạo đã dấy lên giữa Hội Thánh tại Ê-phê-sô.
Những lãnh đạo giả mạo này đem vào trong Hội Thánh rất nhiều hành trang. Sự không tin kính của họ lộ ra theo nhiều cách, gồm cả vấn đề về vai trò của phụ nữ trong Hội Thánh. Rõ ràng rằng tại Ê-phê-sô có một số phụ nữ khao khát nắm lấy vị trí của một giáo sư chính thức và chiếm lấy quyền lãnh đạo từ những người nam.
Có thể lắm dù chúng ta không biết chắc chắn rằng một số giáo sư giả không chỉ binh vực một vai trò không phù hợp Kinh Thánh của phụ nữ mà chính họ cũng là nữ. Đó là lý do vì sao Phao-lô trong chương 3 đưa ra những phẩm chất của một trưởng lão là những phẩm chất đặc trưng của nam giới, như là chồng của một vợ và người nam biết cách cai quản nhà riêng mình. Nên Phao-lô phải xử lý đặc biệt đối với vai trò phụ nữ trong Hội Thánh trước khi ông nêu ra vấn đề lãnh đạo giả trong đoạn 3. Từ câu 9-15, Phao-lô đã cho chúng ta 6 yếu tố của sự hướng dẫn rất quan trọng này.
Bạn sẽ nhớ rằng điều đầu tiên Phao-lô nói đến là vẻ bề ngoài của phụ nữ – vẻ bề ngoài nào họ nên có trong Hội Thánh? Câu 9 nói rằng phụ nữ phải che mình, ăn mặc gọn gang. Nói cách khác, họ phải xuất hiện theo cách bày tỏ tình yêu dành cho Chúa, tôn kính sự thánh khiết của Ngài, và với thái độ nghiêm túc khi thờ phượng. Phần sau của câu ý nói rằng họ không được bị choáng ngợp bởi trang sức bề ngoài. Họ không được phô trương sự giàu có của mình. Ông nhắc đến “tóc gióc” (hay tết bện) với vàng và châu báu, một văn hóa phổ biến của thời đó khi mà phụ nữ đeo đầy từ cổ tới đất để khoe khoang sự giàu có bằng kiểu tóc của mình. Họ sẽ đeo vàng và châu ngọc và cài lược mai rùa lên tóc mình.
Điều Phao-lô nói ở đây đó là những thói quen này không nên có trong Hội Thánh. Phụ nữ có xu hướng bị choáng ngợp bởi trang sức bề ngoài chỉ bày tỏ nhục dục trong lòng họ – ăn mặc để phô trương sự giàu có mình, để quyến rũ người nam và khao khát tình dục, và biểu lộ một tinh thần ngỗ nghịch đối với chồng. Những điều này là cấm kỵ đối với phụ nữ đến để thờ phượng Chúa.
Thứ hai, như chúng ta đã thấy trước đó, Phao-lô nói về thái độ người nữ. Ở giữa câu 9, chúng ta được biết rằng thái độ của họ là phải nết na và đức hạnh. “Đức hạnh” đến từ một từ gốc có nghĩa là họ có cảm giác hổ thẹn. Nói cách khác, phụ nữ nên xấu hổ vì khiến ai đó phân tâm khỏi sự thờ phượng và vinh hiển của Chúa. Họ phải có một nhận thức đúng đắn về sự xấu hổ dẫn đến sự khiêm tốn. “Nết na” nói đến việc có khả năng kiểm soát khát khao và ham muốn. Phụ nữ phải bày tỏ mình có lòng khiêm nhượng và hạ mình, chứng tỏ sự tự chủ hoàn toàn trên khát khao của mình và xuất hiện theo cách thu hút sự chú ý đến với sự tin kính và đức hạnh của họ.
Thứ ba, trong câu 10, chúng ta thảo luận về lời chứng của người nữ. Nếu họ công bố sự tin kính thì họ nên củng cố lời công bố đó với những việc lành. Để công việc lành của họ có thể chứng minh cho lời tuyên xưng tin kính mà họ có.
Điều đó dẫn chúng ta đến với điều thứ tư, đến với vai trò người nữ trong câu 11 và 12. Đây thật sự là trọng tâm điều chúng ta đang xem xét – chức năng của họ trong Hội Thánh. Điều đầu tiên chúng ta chú ý đến trong câu 11 đó là điều vị sứ đồ nói “Đàn bà phải yên lặng mà nghe…” Chúng ta nhận thấy rằng từ văn hóa Do Thái đương thời và ngoại bang, phụ nữ bị đặt trong tầng lớp thứ hai và thân phận của họ có lẽ là ở thân phận của một người đầy tớ, trong một số trường hợp thậm chí là thân phận của thú vật. Trong tâm trí người Do Thái lúc bấy giờ thì rất ít quan tâm rằng phụ nữ có học hành gì hay không vì họ thật sự không phải là một phần của phần đông người có học. Đó là phần của nam giới, và nam giới có trách nhiệm truyền lại lẽ thật. Không can hệ gì tới họ nếu phụ nữ có đến nhà hội hay những buổi tiệc hay lễ hội hay không.
Thái độ đối với việc giáo dục của phụ nữ trong văn hóa Hi-lạp cũng tương tự. Nên tương phản với tất cả những nền văn hóa đó, Phao-lô nói rằng: “Đàn bà phải yên lặng mà nghe dạy”, khẳng định với chúng ta về: sự bình đẳng, đặc ân thuộc linh, quyền lợi thuộc linh, các phước hạnh, và những lời hứa cho nam và nữ. Và như Ga-la-ti 3:28 nói, trong Đấng Christ, “không còn đàn ông hoặc đàn bà.” Nhưng nói về vai trò, Phao-lô xác định tính chất việc học của họ mà nói rằng: “yên lặng mà vâng phục mọi đàng”, và điều đó định nghĩa vai trò của người nữ.
Trong chương này, chúng ta tiếp tục với câu 12 trong việc nghiên cứu về vai trò của phụ nữ trong việc dạy dỗ trong Hội Thánh.
Họ Không Được Dạy Dỗ (C. 12a)
“Ta không cho phép đàn bà dạy dỗ.”
“Cho phép” có nghĩa là để cho ai đó làm điều mà người đó muốn. Bằng việc đặt vấn đề, Phao-lô hàm ý rằng một số phụ nữ tại Ê-phê-sô khát khao lãnh đạo Hội Thánh. Luôn luôn có phụ nữ tìm kiếm vai trò lãnh đạo. Sáng thế ký 3:15-16 gợi ý rằng một phần lý do của sự sa ngã là vì người nữ “thèm” muốn kiểm soát người nam. Từ Hê-bơ-rơ được dịch là “thèm” trong Sáng thế ký 3:16 chỉ được dùng một lần khác nữa trong các sách Ngũ Kinh (5 sách đầu của Kinh Thánh Cựu Ước) khi nói về tội lỗi “thèm” khống chế Ca-in (Sáng 4:7). Từ cách dùng từ đó, chúng ta có thể kết luận rằng Sáng Thế ký 3:16 đang nói về phụ nữ thèm kiểm soát người nam.
Có những người nữ trong Hội Thánh không thỏa lòng với vai trò Chúa ban cho họ. Họ tìm kiếm một chỗ cao trọng bằng cách thực thi quyền hành trên người nam. Phao-lô cấm phụ nữ nắm lấy vị trí có quyền hành của mục sư, giáo sư trong Hội Thánh. Không có người nữ nào được nêu lên với địa vị đó trong Tân Ước.
Họ Không Được Có Quyền Hành (c. 12b)
“Cũng không được cầm quyền trên đàn ông; nhưng phải ở yên lặng.”
“Cầm quyền” (authentein) chỉ được dùng ở đây trong Tân Ước. Một nghiên cứu về từ đó bởi George Knight kết luận rằng nghĩa thông thường của authentein ngoài văn chương Kinh Thánh là “có quyền trên” (“Authenteo nói về phụ nữ trong 1 Ti-mô-thê 2:12,” Nghiên Cứu Tân Ước, vol.30 [1984]: 143-57). Ông không phát hiện ra hàm ý tiêu cực nào như là “lạm quyền.”
Nhưng nó không có nghĩa gì? Trước hết, nó biểu thị rằng phụ nữ không được lạm dụng quyền hành. Một số người giải nghĩa lại authenteo trong 1 Ti-mô-thê 2:12 nghĩa là “lạm quyền.” Họ tin rằng phụ nữ dạy dỗ hoặc thi hành quyền trên nam giới là chấp nhận được miễn là quyền hành của họ không bị lạm dụng. Tuy nhiên, không có sự biện minh nào cho việc thêm vào mạch văn như thế. Nếu Phao-lô đang nói về quyền hành bị lạm dụng thì ông sẽ không giới hạn lời cảnh báo chỉ trên nữ giới mà thôi.
Dạy dỗ và có quyền trái ngược với yên lặng và vâng phục. Phụ nữ trong Hội Thánh không được ở trong địa vị mà nam giới phải ở dưới họ.
Một ngộ nhận thứ hai mà một số người lấy ra từ câu này là phụ nữ không được phép cầu nguyện. Tuy nhiên cụm từ “yên lặng” trong câu 12 không có ý cấm phụ nữ cầu nguyện. Cụm từ đó dạy rằng cũng như phụ nữ không được thi hành chức năng trong vai trò giáo sư hay lãnh đạo trong Hội Thánh, thì họ cũng không hướng dẫn buổi cầu nguyện chung của Hội Thánh.
Hơn nữa, câu này không dạy rằng phụ nữ không bao giờ được dạy. Dưới một số tình huống một phụ nữ cùng với chồng mình có thể hướng dẫn người nam khác. Ví dụ, Bê-rít-sin và A-qui-la hướng dẫn A-bô-lô (Công-vụ 18:26). Tuy nhiên sự hướng dẫn như thế sẽ không diễn ra trong buổi nhóm chung của Hội Thánh.
Thứ tư, câu này không dạy rằng phụ nữ không có những ân tứ thuộc linh. Phụ nữ có thể có cùng những ân tứ thuộc linh như nam có, bao gồm ân tứ dạy dỗ và lãnh đạo. Chúa ban cho phụ nữ nhiều cơ hội để sử dụng những ân tứ này trong bối cảnh không vi phạm vai trò dự định của Ngài dành cho họ. Phụ nữ có thể dùng những ân tứ đó trong những bối cảnh ngoài buổi nhóm thờ phượng của Hội Thánh. Phụ nữ giới hạn mình trong vai trò Chúa ban trong Hội Thánh và không được phép chiếm lấy vai trò của người nam thì không có gì là sai cả. Có rất nhiều cơ hội để một người nữ thi hành ân tứ của mình trong cách phù hợp với hoạch định của Chúa.
Thứ năm, câu này không dạy rằng phụ nữ không thể phục vụ như những nhà truyền giáo. Tôi cảm tạ Chúa về rất nhiều những phụ nữ trung tín phục vụ trên cánh đồng truyền giáo. Tuy nhiên tôi không tin phụ nữ trên cánh đồng truyền giáo có quyền vi phạm vai trò Chúa ban. Bản thân Phao-lô là một nhà truyền giáo. Nếu có khi nào có nhu cầu về lãnh đạo trên cánh đồng truyền giáo, thì chính là vào thời của ông. Phao-lô đã có thể thỏa hiệp bằng cách dùng phụ nữ trong những vai trò lãnh đạo nhưng ông đã không làm như thế. Khi bị thiếu người nam trên cánh đồng truyền giáo, câu trả lời không phải là vi phạm nguyên tắc Kinh Thánh mà cầu nguyện với Chủ mùa gặt sai thêm con gặt đến (Ma-thi-ơ 9:38).
Sau khi Jim là chồng của Elisabeth Elliot cùng với một số nhà truyền giáo bị giết chết tại Ecuador, cô nhà truyền giáo duy nhất còn lại có thể nói tiếng của người Auca Indians. Cô dạy một trong những người nam Auca bài giảng mỗi tuần, và người này giảng lại cho Hội Thánh. Chúng ta thấy trong câu chuyện của cô một tấm gương tuyệt vời của một lãnh đạo nữ tin kính về việc để cho người nam lãnh đạo trong buổi nhóm của Hội Thánh.
Thứ sáu, câu này không dạy rằng phụ nữ là thấp kém hơn nam; họ chỉ đơn giản là có vai trò khác nhau. Nhiều người tin rằng nơi duy nhất của quyền lực và ảnh hưởng là trong vai trò lãnh đạo. Họ tin rằng lãnh đạo sẽ như ý hơn là đi theo sau. Tuy nhiên những người không ở trong vai trò lãnh đạo cũng có thể ảnh hưởng lớn hơn nữa.
Vai trò phụ tá và vâng phục thường đem đến sự bình an, hạnh phúc và thỏa lòng lớn nhất. Ý tưởng rằng kinh nghiệm tuyệt vời nhất trong đời là ở trên đỉnh và kiểm soát mọi thứ chỉ là ảo tưởng. Tôi khuyên mỗi người nữ thèm muốn làm lãnh đạo trong Hội Thánh hãy ở dưới sự chăm sóc yêu thương và che chở của chồng và vị lãnh đạo hiện thời của Hội Thánh. Đó là nơi hạnh phúc hơn; gánh nặng chắc chắn nhẹ hơn nhiều.
Vâng phục không phải là sự trừng phạt; đó là một đặc ân.
THIẾT KẾ DÀNH CHO NGƯỜI NỮ (c. 13-14)
Câu 13-14 tạo ra một chuyển tiếp cho một tư tưởng thêm vào quan trọng đối với sự nghiên cứu của chúng ta – thiết kế dành cho người nữ. Chúng ta thấy ở đây sự dạy dỗ của Phao-lô được dựa trên thiết kế của Chúa trong sự sáng tạo và được xác định bởi công việc của ma quỷ.
Được Thiết Lập Trong Sự Sáng Tạo (c. 13)
“Vì A-đam được dựng nên trước nhất, rồi mới tới Ê-va.”
Chúa định người nữ có vai trò thấp hơn trong thứ tự sáng tạo. Ngài tạo ra A-đam trước, sau đó là Ê-va. Trong 1 Cô-rinh-tô 11:8-9 Phao-lô viết: “Bởi chưng không phải đàn ông ra từ đàn bà, bèn là đàn bà ra từ đàn ông; không phải đàn ông vì cớ đàn bà mà được dựng nên, bèn là đàn bà vì cớ đàn ông vậy.” Bà được tạo ra để làm người giúp đỡ của ông (Sáng 2:18). Bà phải theo sự lãnh đạo của ông, sống trong sự chu cấp của ông, tìm được sự an toàn trong sức lực của ông và sự che chở qua lòng can đảm của ông. Xu hướng đi theo sau đã được đặt để trong Ê-va, nhưng vì sự sa ngã dẫn đến xung đột.
Vai trò phụ của nữ giới không phải là vấn đề văn hóa. Điều này không thể được giải thích rằng chỉ là qun điểm riêng của Phao-lô, bởi vì nó dựa vào thứ tự trong sự sáng tạo. A-đam được tạo dựng trước, sau mới đến Ê-va.
Sự dạy dỗ của Phao-lô cũng không phải được thúc đẩy bởi một số tình huống thuộc văn hóa tại Ê-phê-sô và vì thế không thể áp dụng được trong ngày nay, như một số người tranh luận. Ông không chỉ đề cập ở đây về câu chuyện sáng tạo trong Sáng thế ký 2, nhưng cũng dạy lẽ thật tương tự này cho người Cô-rinh-tô (1 Cô 11:8-9).
Được Xác Nhận Bởi Sự Sa Ngã (c. 14)
“Lại không phải A-đam bị dỗ dành, bèn là người đàn bà bị dỗ dành mà sa vào tội lỗi.”
Sáng thế ký 3:1-7 ghi lại câu chuyện bi thảm về những gì đã xảy ra trong vườn Ê-đen khi Ê-va chiếm lấy vai trò dẫn đầu:
“Vả, trong các loài thú đồng mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã làm nên, có con rắn là giống quỉ quyệt hơn hết. Rắn nói cùng người nữ rằng: Mà chi! Đức Chúa Trời há có phán dặn các ngươi không được phép ăn trái các cây trong vườn sao? Người nữ đáp rằng: Chúng ta được ăn trái các cây trong vườn, song về phần trái của cây mọc giữa vườn, Đức Chúa Trời có phán rằng: Hai ngươi chẳng nên ăn đến và cũng chẳng nên đá-động đến, e khi hai ngươi phải chết chăng. Rắn bèn nói với người nữ rằng: Hai ngươi chẳng chết đâu; nhưng Đức Chúa Trời biết rằng hễ ngày nào hai ngươi ăn trái cây đó, mắt mình mở ra, sẽ như Đức Chúa Trời, biết điều thiện và điều ác. Người nữ thấy trái của cây đó bộ ăn ngon, lại đẹp mắt và quí vì để mở trí khôn, bèn hái ăn, rồi trao cho chồng đứng gần mình, chồng cũng ăn nữa. Đoạn, mắt hai người đều mở ra, biết rằng mình lõa lồ, bèn lấy lá cây vả đóng khố che thân.”
Cả nhân loại sau đó rơi vào sự đồi bại và đoán phạt. Bản chất Ê-va không phù hợp để đảm đương vị trí có trách nhiệm tối cao. Khi bà bước ra khỏi dưới sự che chở và lãnh đạo của A-đam, bà đã bị công kích dữ dội và đã bị đánh ngã. Và dĩ nhiên khi A-đam vi phạm vai trò lãnh đạo của mình và theo sau Ê-va (dù không phải ông là người bị dụ dỗ), sự sai trật về trật tự của Chúa đã chọn. Vậy, sự sa ngã không chỉ đơn thuần đến bởi sự không vâng lời đối với mạng lịnh Chúa mà còn từ việc vi phạm vai trò mà Chúa bổ nhiệm cho cả hai giới.
Nói vậy không phải để nói rằng A-đam ít tội hơn Ê-va, hay bà có nhiều khuyết điểm hơn. Dù ông không bị Sa-tan dụ dỗ như Ê-va, A-đam vẫn chọn không vâng lời Chúa. Vì là đầu trong mối quan hệ của hai người nên ông có trách nhiệm cao nhất. Đó là lý do vì sao Tân Ước quy sự sa ngã là tội của A-đam, không phải của Ê-va (Rô-ma 5:12-21; 1 Cô 15:21-22). Vậy, người nam lãnh đạo là một phần trong thiết kế của Chúa ngay từ ban đầu, và người nam mang lấy trách nhiệm cho sự thành công cũng như thất bại. Kinh nghiệm thất bại thảm hại trong cuộc chạm trán với con rắn xác định sự khôn ngoan của thiết kế đó.
Khi chúng ta nghĩ về sự sa ngã, chúng ta thường nghĩ về nó trong mối liên hệ với A-đam. Rô-ma 5:12-21 nhắc lại liên tục về một người nam (A-đam) là người mang tội lỗi và sự chết vào trong thế gian. A-đam phải gánh trách nhiệm về sự sa ngã, vì ông là đầu của cả nhân loại. Nhưng chúng ta phải nhớ rằng ông không phải là người ngã trước mà là Ê-va. Khi Ê-va ra khỏi sự che chở trong sự lãnh đạo của A-đam và gắng sức để giải quyết với kẻ thù một cách độc lập, thì bà đã bị lừa. Điều đó củng cố lẽ thật rằng Chúa thiết kế phụ nữ với nhu cầu có một người lãnh đạo.
Ê-va đã bày tỏ bà không thể lãnh đạo một cách hiệu quả. Bà đã gặp đối thủ Sa-tan. Từ Hi-lạp được dịch là “bị dụ dỗ” (exapatao) trong câu 14 là một từ ngữ mạnh mẽ. Nó mạnh mẽ hơn từ Hi-lạp thông thường cho “bị dụ dỗ” (apatao). Nó ám chỉ việc bị dụ dỗ cách triệt để. Và vì vậy chúng ta kết luận rằng khi một phụ nữ rời khỏi nơi che chở của người bảo vệ, thì người đó sẽ dễ bị tổn thương theo một mức độ nào đó.
Sự sa ngã không chỉ là kết quả của sự không vâng phục mạng lịnh Chúa mà còn vi phạm vai trò Chúa chỉ định cho hai giới. Ê-va hành động độc lập, và chiếm lấy vai trò lãnh đạo. A-đam vi phạm vai trò của mình bằng cách từ bỏ vai trò lãnh đạo và đi theo sự lãnh đạo của Ê-va. Dầu vậy, cần lưu ý rằng nữ giới không phải nhiều khiếm khuyết hơn nam giới. Cũng như nữ giới cần nam giới, nam giới cũng cần nữ giới. Tất cả chúng ta đều dễ tổn bị thương theo nhiều cách khác nhau.
Chúng ta khẳng định quyền lãnh đạo của nam giới vì nó được thiết lập bởi sự sáng tạo và xác định bởi sự sa ngã. Và không nên có bất cứ con gái nào của Ê-va theo con đường của bà và thâm nhập vào lãnh địa vốn bị cấm của vai trò lãnh đạo đã được định cho người nam.
SỰ GÓP PHẦN CỦA PHỤ NỮ (c. 15)
“Dầu vậy, nếu đàn bà lấy đức hạnh mà bền đỗ trong đức tin, trong sự yêu thương, và trong sự nên thánh, thì sẽ nhân đẻ con mà được cứu rỗi.”
Trong câu 14 chúng ta đọc về việc phụ nữ phạm tội. Ngược lại, câu 15 nói về việc phụ nữ được cứu qua việc sinh con cái. Phao-lô đang nói gì? Tất cả phụ nữ được cứu qua việc sinh con. Nhưng cứu theo cách nào? Câu nói chung chung này nghĩa là gì?
Sự cứu rỗi đang được đề cập không phải là sự cứu rỗi khỏi tội lỗi. Và không có ý nói về Ê-va, vì thì tương lai được dùng ở đây – “sẽ được cứu rỗi”. Hơn nữa, cách dùng đại từ số nhiều “đàn bà” ý nói nhiều hơn một người. Rõ ràng là nói về tất cả phụ nữ.
Sự Cứu Rỗi Của Phụ Nữ Được Định Nghĩa
Từ Hi-lạp được dịch “cứu rỗi” (sozo) có thể chỉ về việc được cứu khỏi một sự việc hơn là tội lỗi. Từ đó cũng có nghĩa là “cứu hộ,” “giữ gìn được an toàn và không bị hại,” “chữa lành,” “giải phóng,” hay “giải cứu khỏi.” Từ này xuất hiện một số lần trong Tân Ước mà không ám chỉ về sự cứu rỗi thuộc linh (Mat. 8:25; 9:21-22; 10:22; 24:22; 27:40, 42, 49; 2 Tim 4:18). Phao-lô rõ ràng không có ý định dạy rằng phụ nữ là được cứu vĩnh viễn khỏi tiền công của tội lỗi qua việc sinh con cái. Điều đó sẽ ngược lại với sự dạy dỗ trong Tân Ước rằng sự cứu rỗi chỉ là bởi ân điển nhờ đức tin mà thôi (Rô-ma 3:19-20). Thì tương lai và cách dùng đại từ số nhiều “đàn bà” cho thấy ông không nói tới Ê-va. Đại từ số nhiều và việc không có mối liên hệ nào với mạch văn còn cho thấy ông không có ý nói đến Ma-ri, mẹ phần xác của Chúa Giê-xu như một số người gợi ý.
Câu này có ý nói rằng qua việc sinh con tất cả phụ nữ được giải cứu khỏi sự kỳ thị của một người nữ trong sự sa ngã. Một người nữ đầu tiên dẫn cả nhân loại vào tội lỗi, nhưng phụ nữ trong những thế hệ tiếp theo làm lợi cho loài người bằng cách bổ sung cho chủng tộc. Họ cũng có cơ hội để dẫn dắt dòng giống mình đến với sự tin kính qua ảnh hưởng của họ trên con cái.
Ý Nghĩa Của Phụ Nữ Được Mô Tả
Đức hạnh và sự tin kính của một người mẹ có thể có ảnh hưởng sâu sắc trên đời sống con cái. Nuôi dạy con cái đem lại cho phụ nữ phẩm cách. Sự đóng góp vĩ đại của người là việc làm mẹ. Tuy nhiên, người phải tiếp tục trong đức tin, tình yêu thương và sự nên thánh. Chỉ có một người mẹ tin kính mới có thể nuôi dạy những đứa con tin kính.
Phao-lô dạy rằng tuy người nữ gây ra sự sa ngã và phải chịu trách nhiệm, nhưng họ có thể được giữ khỏi sự sỉ nhục đó qua việc sinh con cái. Sự giải cứu, giải phóng, ban sự tự do cho phụ nữ khỏi sự kỳ thị của việc dẫn cả loài người vào tội lỗi được diễn ra khi họ nuôi lớn một hạt giống công bình. Thật là một sự tính toán hoàn hảo trong việc Ê-va bị dụ dỗ! Phụ nữ còn lâu là công dân hạng thứ bởi vì họ có một trách nhiệm tối cao trong vệc nuôi dạy con cái tin kính. Mẹ dành nhiều thời gian cho con hơn cha nhiều lắm và vì thế mà có sự ảnh hưởng lớn hơn. Cha thì không thể biết được mối quan hệ gần gũi với con mà người mẹ thiết lập khi mang thai, sinh con, thời kỳ con đỏ và con trẻ. Ý của Phao-lô là trong khi phụ nữ đã dẫn cả nhân loại vào tội lỗi, phụ nữ cũng có đặc ân dẫn cả nhân loại ra khỏi tội lỗi để đến với sự nên thánh.
Rõ ràng là, Chúa có chương trình cho những phụ nữ không trở thành mẹ. Đối với một số người theo 1 Cô-rinh-tô 7, họ có ân tứ độc thân. Một số khác Ngài cho phép vô sinh vì mục đích của Ngài. Nhưng theo lẽ thường thì thiên chức làm mẹ là sự đóng góp vĩ đại nhất mà phụ nữ góp cho nhân loại. Sự đau đớn trong sinh nở là sự trừng phạt tội lỗi, nhưng việc sinh và nuôi con giải phóng một phụ nữ khỏi sự sỉ nhục của tội đó.
Để phụ nữ đảo ngược ảnh hưởng xấu ở trên họ trong sự sa ngã và hoàn tất sự kêu gọi của họ, thì họ cần nuôi dạy hạt giống tin kính. Để làm được điều đó, họ phải tiếp tục trong đức tin, tình yêu thương, là nơi thật sự có sự cứu rỗi của họ. Và họ phải tiếp tục trong “sự nên thánh, với nết na” (cũng cùng một từ được dịch “đức hạnh” trong câu 9). Đó chính là vẻ ngoài, cách ăn ở, và cách cư xử bắt buộc ở một người nữ tin kính trong Hội Thánh mà trở thành sự giải thoát họ khỏi bất cứ địa vị thấp kém nào, khi họ sống tin kính và nuôi con lớn lên trong sự tin kính.
Trong phân đoạn này chúng ta thấy cách Chúa cân bằng vai trò của hai giới một cách hoàn hảo như thế nào. Nam giới phải làm lãnh đạo trong gia đình và Hội thánh. Phụ nữ được bảo vệ khỏi mọi cáo buộc về sự thấp kém qua sự ảnh hưởng tin kính mà họ có trên đời sống của các con yêu dấu của mình. Nếu Hội Thánh lìa bỏ trật tự thiên thượng này là kéo dài thảm họa của sự sa ngã.
Phao-lô dưới sự hà hơi của Đức Thánh Linh, nói rằng phụ nữ phải nhận lấy vai trò Chúa ban. Họ không được tìm kiếm vai trò lãnh đạo trong Hội Thánh. Trên hết, họ phải nuôi dạy con cái tin kính. Thật thảm hại khi rất nhiều phụ nữ cảm thấy cuộc đời mình không trọn vẹn bởi vì họ không thể thi hành chức năng như vai trò của nam giới. Nhưng Chúa đã ban cho họ đặc ân độc nhất là nuôi dạy một thế hệ con cái tin kính – và có mối quan hệ gần gũi với chúng mà người cha khó lòng kinh nghiệm được.
Susanna Wesley là một trong những người mẹ Cơ Đốc vĩ đại nhất trong lịch sử. Bà là vợ của một mục sư, và là mẹ của 19 đứa con. Chỉ có một nửa số con ấy sống qua thời kỳ sơ sinh. Hai trong số con của bà là John và Charles Wesley, là những người đem lại sự phấn hưng trên nước Anh trong khi nước Pháp tắm mình trong cuộc cách mạng đầy máu. Susanna dành một giờ mỗi ngày riêng tư với Chúa trong phòng, bà cầu nguyện cho mỗi đứa con của mình.
G. Campell Morgan, vị diễn giả vĩ đại nói rằng: “Sự tận hiến của tôi trong việc giảng lời Chúa thuộc về mẹ. Mẹ không bao giờ nói khi tôi còn là em bé hay một thằng bé con nhưng mẹ cứ chờ đợi. Khi lên tám tuổi, tôi giảng cho em gái tôi và những con búp bê của em xếp hàng thứ tự trước mặt tôi, bài giảng của tôi là những câu chuyện Kinh Thánh mà tôi đã nghe từ mẹ.”
G. Campell Morgan có bốn người con đều trở thành những diễn giả Cơ đốc. Và vào một dịp khi Morgan đang giải thích tại sao mọi người trong gia đình ông đều là diễn giả thì ai đó hỏi ông: “Ai là vị diễn giả vĩ đại nhất trong gia đình ông?”
Ông trả lời mà không hề lưỡng lự: “Mẹ tôi.”
Cha của Charles Spurgeon một lần kia đã kể cho một mục sư người Mỹ về việc khi ông thường phải xa nhà để gieo trồng Hội Thánh, thì ông đã bị cáo trách rằng mình đã lơ là việc giáo dục tín ngưỡng cho chính con mình như thế nào. Nên ông quyết định sẽ giảng ít lại. Khi trở về nhà ông mở cửa và ngạc nhiên khi không thấy đứa con nào ở đó. Khi lên lầu, ông nghe tiếng vợ và biết bà đang cầu nguyện. Bà nêu tên từng đứa con một. Khi bà xong lời cầu thay và giáo huấn của mình thì ông nói: “Tôi có thể tiếp tục công việc của mình vì các con tôi được chăm sóc tốt.”
Đó chính là vai trò của một người nữ tin kính trong Hội Thánh. Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta những người nữ tin kính như thế.
Ôn lại:
1. Một trong những lý do Phao-lô viết thư tín 1 Ti-mô-thê là gì?
2. Một trong những sự dạy dỗ mà giáo sư giả ủng hộ là gì?
3. Xung đột giữa hai giới là hậu quả của __________________.
4. Đúng hay sai: Không có phụ nhữ nào được biết đến với cương vị của mục sư hay giáo sư trong Tân Ước.
5. Đúng hay sai: Từ Hi-lạp authentein được dùng thường xuyên trong Tân Ước để nói về việc lạm quyền.
6. Những hạn chế nào được đặt ra đối với việc một phụ nữ sử dụng những ân tứ thuộc linh của mình?
7. Cần phải làm gì khi trên cánh đồng truyền giáo bị thiếu người nam làm lãnh đạo?
8. Đúng hay sai: Phụ nữ không thi hành chức năng trong vai trò lãnh đạo vì họ thấp kém hơn nam.
9. Sự vâng phục không phải là một ___________; đó là ___________.
10. Tại sao sự dạy dỗ của Phao-lô về sự phụ thuộc của phụ nữ không bị loại bỏ như là một thành kiến văn hóa?
11. Phụ nữ được cứu từ việc sinh con cái được hiểu như thế nào?
12. Tại sao 1 Ti-mô-thê 2: 15 không thể ám chỉ về Ê-va hay Ma-ri? Câu đó ám chỉ về ai?
13. Đúng hay sai: Chúa muốn mọi phụ nữ trở thành người mẹ.
Suy ngẫm:
1. Cơ Đốc Nhân ngày nay có xu hướng thỏa hiệp về tiêu chuẩn và sự dạy dỗ theo Kinh Thánh. Dưới áp lực của phong trào nữ quyền, một số Cơ Đốc Nhân đã giải thích lại một số dạy dỗ của Kinh Thánh về vai trò của phụ nữ. Một số khác thì giải nghĩa lại vài chương đầu của Sáng Thế Ký trong sự cố gắng vô ích để hài hòa câu chuyện sáng tạo với khoa học giả tạo của thuyết tiến hóa. Một số khăng khăng rằng Kinh Thánh không dạy tất cả những nguyên tắc cần thiết nói về các vấn đề trong cuộc sống. Đức tin “đã truyền cho các thánh một lần đủ rồi” (Giu-đe 3) thường trở nên như cánh máy xay gió – thay đổi theo từng làn gió thổi qua. Đâu là nguồn thẩm quyền tối cao cho cuộc đời bạn? Khi đối mặt với một mâu thuẫn giữa sự dạy dỗ của Kinh Thánh và một ý tưởng nhất thời, bạn sẽ làm gì? Bạn sẽ tái giải nghĩa Kinh Thánh hay bác bỏ ý tưởng đó? Bạn có sẵn lòng binh vực lời Chúa? Hãy nghiên cứu Thi Thiên 19: 7-11 để xem Chúa mô tả lời Ngài như thế nào, và quyết định duy trì nó.
2. Hỡi những người chồng, bạn đã thực hiện tốt vai trò của mình như người bảo vệ vợ bạn như thế nào? Bạn có bảo vệ vợ khỏi những tổn thương về thể xác lẫn tinh thần, hoặc bạn có hành hạ thể xác lẫn tinh thần của vợ – hay để các con mình làm vậy không? Hay bạn đã làm hết sức mình để bảo vệ sự thánh khiết và trong sạch của vợ, hay bạn cho phép vợ mình tiếp xúc với những tình huống dễ thỏa hiệp? Bạn có lãnh đạo bằng cách trở nên một người phục vụ đầy hi sinh, hay một nhà độc tài chuyên chế? Bạn có khiến sự vâng phục của vợ đối với bạn là một gánh nặng mà bà khó mang nổi? Hãy tra xét chất lượng tình yêu của bạn dành cho vợ bằng cách so sánh tình yêu đó với cách Đấng Christ yêu Hội Thánh. Có lẽ bạn sẽ muốn bắt đầu bằng việc suy ngẫm Ê-phê-sô 5:25-29.
THE END
John MacArthur
Translated by Van Pham
Edited by Tuong Vi