Thứ Năm , 14 Tháng Mười Một 2024
Home / Giới thiệu sách / EVANGELIZING HINDUS AND BUDDHISTS

EVANGELIZING HINDUS AND BUDDHISTS

hin 2

TRUYỀN GIÁO CHO NGƯỜI THEO ẤN ĐỘ GIÁO VÀ PHẬT GIÁO
Tác giả: Ian E. Benson

MỤC LỤC:
1. Lời giới thiệu
2. Những luận điểm Triết học
3. Lịch sử truyền giáo tại Ấn Độ
4. Kiên nhẫn làm chứng…
5. Nếu họ không bước theo Chúa…
6. Thượng Đế toàn năng có một thân vị
7. Những từ ngữ bị hiểu theo một ý nghĩa khác:
– Đức Chúa Trời
– Tội lỗi
– Đời sống
– Kinh Thánh
– Thánh thiện, thiêng liêng
– Con người
– Sự cứu rỗi
– Tái sinh

8. Quyền năng Phúc Âm đụng chạm…
9. Góp ý thêm về công tác truyền giáo
1. LỜI GIỚI THIỆU VÀ CẢM ƠN

Ấn Độ giáo (đạo Hindu) và Phật giáo rất khác nhau. Tuy nhiên, cả hai tôn giáo được nghiên cứu chung trong quyển sách nhỏ này vì Phật giáo đã xuất hiện trong bối cảnh của Ấn Độ giáo và chia sẻ với nhau một số niềm tin chung – đặc biệt là “nghiệp” (tổng cộng kết quả của hành động con người – tốt hay xấu – trong đời sống hiện tại và tương lai).
Mục đích của tập tài liệu này là cung cấp sự giúp đỡ thiết thực trong công tác môn đồ hóa những người theo Ấn giáo và Phật giáo, đặc biệt là ở khu vực châu Á. Chúng tôi chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của Tiến sĩ John Davis thuộc Trường Cao đẳng Kinh Thánh Moorlands trong việc chuẩn bị tập tài liệu này.
Nguyện xin Đức Chúa Trời hằng sống và chân thật, là Cha Đức Chúa Giê-su Christ chúng ta soi sáng và làm cho chúng ta trở thành những chứng nhân hiệu quả cho người theo Ấn Độ giáo và Phật giáo.

hin

NGƯỜI THEO ĐẠO HINDU
Ấn độ giáo bắt đầu ở Ấn Độ, mà ngày nay có gần 900.000.000 tín đồ trên thế giới (nhiều hơn tổng số người sống ở hai khu vực Bắc và Nam Mỹ). Nhiều tín đồ Ấn giáo cũng sống ở các nước khác. Tại Ấn độ có khoảng chừng 700.000.000 người trưởng thành tự gọi mình là người theo Ấn độ giáo trong khi Cơ đốc giáo, Phật giáo và Hồi giáo chỉ là thiểu số. Những người còn lại theo Thuyết Duy linh thờ phượng các thần: thực vật, động vật, các con sông và những đám mây.
Đã có hàng ngàn người theo Ấn giáo cải đạo quay về với Đấng Christ, đặc biệt là trong các bộ lạc thiểu số. Tuy nhiên, 3.000 bộ lạc và các nhóm ngôn ngữ khác tại Ấn độ vẫn không có một nhà thờ Cơ đốc nào. Nhiều người thậm chí còn chưa bao giờ nghe đến Danh của Chúa Giê-su. Đạo Hindu rất bao la, nhưng chúng ta chỉ trình bày một phần nhỏ về nó trong bài viết này. Để có thêm thông tin chúng ta cần những nghiên cứu sâu hơn. Những người theo Ấn giáo tự hào gọi tôn giáo Hindu của họ có “sự dạy dỗ bất diệt”.

2. NHỮNG LUẬN ĐIỂM TRIẾT HỌC ĐÁNG GIÁ
Chúng ta hãy chỉ cho người theo Ấn giáo tình yêu và quyền năng của Chúa Giê-su Christ hơn là tập trung vào các lập luận triết học. Hãy nghe một Cơ đốc nhân trò chuyện với một người theo đạo Hindu:
– Bạn có tin vào hàng ngàn vị thần linh? Chỉ có đức tin Cơ đốc giáo mới là tôn giáo đích thực.
– Các Cơ đốc nhân rất giáo điều! Người văn minh nên có thái độ khoan dung. Tôi tôn trọng niềm tin của bạn, nhưng xin lỗi tôi không thể tranh luận với những người không có văn hóa.
– Gượm đã! Chúng tôi chỉ có thể tìm thấy hạnh phúc thật trong Chúa Giê-su. Không phải là bạn quan tâm đến những điều thuộc linh?
– Tất nhiên rồi. Chúng tôi thực hành tôn giáo nhiều hơn bạn! Bạn không kiêng ăn mỗi tuần, và bạn cũng không từ chối những ham muốn của cơ thể như nhiều người trong chúng tôi đang thực hiện. Những điều đó là rất quan trọng đối với tôi.
Người theo đạo Hindu cố gắng làm cho mình hoàn hảo thông qua: các việc lành (karma), lòng sùng kính một vị thần hay nữ thần (Bhakti), thiền định (yoga) và kiến thức tâm linh cập nhật (Jnana).
Đối với những người theo đạo Hindu, điều nào là quan trọng? (hãy đánh dấu):
– Tranh luận về học thuyết tôn giáo ( )
– Từ chối ham muốn của cơ thể ( )
Người theo đạo Hindu quan tâm nhiều đến việc từ chối những ham muốn vật chất và xác thịt của họ. Hầu hết trong số họ không quan tâm đến việc thảo luận về học thuyết. Mục đích họ nhắm tới là để giải phóng chính mình khỏi sự kiểm soát của cải vật chất. Thông thường, người theo đạo Hindu không trở thành Cơ đốc nhân thông qua các cuộc tranh luận. Đức tin tiềm ẩn được đánh thức trong họ chỉ thông qua một cuộc gặp gỡ cá nhân với Chúa Giê-su trong quyền năng của Đức Thánh Linh. Đời sống trong sạch của chúng ta với niềm vui và sự hòa bình có thể làm chứng mạnh hơn những gì chúng ta nói.
Những lời của một cuộc tranh luận về tâm trí thông thường không thuyết phục tấm lòng của người Hindu. Tranh luận là đối kháng với văn hóa và đạo đức của họ. Khi chúng ta rao giảng Tin Mừng cho họ, tốt nhất hãy nhấn mạnh Chúa Giê-su Christ sống lại từ cõi chết, là nguồn hy vọng duy nhất của đời sống. Chỉ Có Ngài mới có thể thay đổi tấm lòng của người Hindu. Không có cách nào khác (ngoài Chúa Giê-su) để cứu họ thoát khỏi sự cầm tù của Satan.

hin 3
Người Hindu cho rằng chỉ những người không biết xấu hổ mới nói rằng tôn giáo của người khác là sai lầm. Vì vậy, đừng làm mất lòng họ, chúng ta không nên đối kháng công khai với những gì họ nói. Thay vào đó, chúng ta giúp họ hiểu rằng Chúa Giê-su Christ đã mở ra một con đường hòa giải đến với Đấng tối cao. Và giải thích rằng chúng ta đã có kinh nghiệm kỳ diệu này. Một Cơ đốc nhân đã nói:
– Tôi chỉ có thể thuyết phục người theo đạo Hindu nhờ vào quyền năng và tình yêu của Chúa Thánh Linh. Họ sẽ thấy được quyền năng, sự thánh khiết và sự chữa lành trong Chúa Giê-su Christ. Chỉ Ngài mới có thể giải phóng chúng ta khỏi ma quỷ. Họ không thể nhận được điều này từ các thần linh của họ. Tôi sẽ giúp đỡ họ tin vào Chúa Giê-su bằng các lập luận hiển nhiên. Họ sẽ tôn trọng Lời Chúa khi họ nhìn thấy điều này trong cách sống đạo của tôi.
Để rao giảng Phúc âm cho một người Hindu, Đức Chúa Trời sử dụng điều nào?
– Tình yêu và quyền năng của Chúa Giê-su để biến đổi cuộc sống và chữa lành con người. ( )
– Lập luận về tôn giáo và các chỉ ra các lỗi của Ấn Độ giáo. ( )
Chúa Thánh Linh cáo trách người theo đạo Hindu khi chúng ta bày tỏ tình yêu và sự biến đổi trong quyền năng của Chúa Giê-su, khi đó Tin Mừng được xác nhận qua sự chữa lành và giải thoát khỏi ma quỷ trong Danh Ngài.

3. LỊCH SỬ TRUYỀN GIÁO TẠI ẤN ĐỘ
Người môn đồ Đấng Christ đầu tiên đến Ấn Độ khoảng năm 50 sau Công nguyên có thể là Sứ đồ Thô-ma. Ông bắt đầu làm chứng về Phúc Âm trên bờ biển tại thành phố Cranganore. Kết quả là 17.000 người đã được báp-tem và trở thành môn đệ của Chúa Giê-su. Các hội thánh mà Thô-ma thành lập đã kiên trì chịu đựng sự bách hại gần hai ngàn năm ở miền Nam Ấn Độ. Hôm nay họ được gọi là Giáo Hội của Mar Toma.
Trong mười thế kỷ đầu tiên, các nhà truyền giáo Cơ đốc đã gieo trồng hàng trăm hội thánh ở Ấn Độ. Tuy nhiên đến thế kỷ 12, những người Hồi giáo đã giết chết hầu hết các Cơ đốc nhân. Sau năm 1500, các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha thành lập Giáo hội Công giáo La Mã ở miền duyên hải phía Tây của Ấn Độ thuộc tiểu bang Goa. Các giáo đoàn này còn tồn tại đến hôm nay. Từ 1700 trở đi, các nhà truyền giáo Tin lành đã gieo trồng nhiều hội thánh ở Ấn Độ, nhưng chỉ trong những khu vực nhất định. Năm 1857, cộng đồng Ấn Độ giáo được Nana Saheb – một người cuồng tín dẫn dắt đã giết chết hơn 1.500 Cơ đốc nhân và các nhà truyền giáo. Tuy nhiên, các hội thánh Tin lành vẫn tiếp tục phát triển tại đây. Kinh Thánh đã được dịch sang 36 ngôn ngữ ở Ấn Độ. Tân ước được dịch sang 25 ngôn ngữ khác. Còn lại 289 ngôn ngữ không có Kinh Thánh toàn tập hoặc Tân Ước.
Giáo hội ở Ấn Độ đã bắt đầu bằng: (Hãy đánh dấu vào câu đúng)
• Sứ đồ Phao-lô. ( )
• Sứ đồ Thô-ma ( )
Nhiều Cơ đốc nhân ở Ấn Độ theo gương của sứ đồ Thô-ma. Họ truyền giáo cho người dân của họ với sự can đảm và sẵn sàng hy sinh. Tuy nhiên, vẫn còn hàng triệu người Ấn Độ không có hội thánh hay bất kỳ sự hiểu biết nào về Chúa Giê-su. Ấn độ không ngừng tăng dân số. Chẳng bao lâu nữa nó sẽ vượt qua Trung Quốc về tổng số dân.
Các nhà chức trách Ấn Độ thường không cấp thị thực cho những người đến từ nước ngoài trong tư cách là “nhà truyền giáo”. Tuy nhiên chúng ta có thể gieo trồng các hội thánh nếu chúng ta đến làm việc tại Ấn độ với những nghề nghiệp khác. Một số người thiết lập một doanh nghiệp, một số khác đi vào Ấn độ như là sinh viên trong các trường đại học, hoặc làm việc như những người bán hàng. Một visa du lịch chỉ được kéo dài trong sáu tháng.
Một nhà truyền giáo đến Ấn Độ thường phải: (Hãy chọn câu đúng)
• Tận hiến chính mình trọn thời gian chỉ để rao giảng Phúc Âm. ( )
• Đến với người bản xứ qua một công việc thế tục. ()
Chỉ có các nhà truyền giáo “ẩn danh”, tức là người làm việc trong một nghề nghiệp mà chính phủ sở tại muốn giới thiệu vào nước của họ (chẳng hạn như một người kinh doanh hay kỹ sư) có thể cư trú tại Ấn Độ.
Chúng ta hãy nghe một Cơ đốc nhân trò chuyện với một người Ấn độ.
– Với tất cả sự tôn trọng dành cho bạn, tôi nghĩ rằng có nhiều sự tha thứ trong tôn giáo của bạn là nguy hiểm. Bây giờ đây chúng ta là bạn của nhau, hãy cho phép tôi nói tại sao như thế. Chúng tôi được cứu bởi đức tin trong Đức Chúa Giê-su Christ, và không phải thông qua các việc làm như nhiều người nghĩ. Chúa Giê-su mang các tội lỗi của chúng ta trên thập tự giá khi Ngài chịu chết. Bạn có tin điều này?
– Tất nhiên! Chúa Giê-su là một trong những bậc thầy siêu việt. Ngài rất thánh. Ngài khám phá một phương cách tốt khác để đến với Thượng đế toàn năng.

t voi

4. KIÊN NHẪN LÀM CHỨNG CHO NGƯỜI THEO ĐẠO HINDU
Chúng ta hãy nghe một Cơ đốc nhân trò chuyện với một người theo Ấn độ giáo.
– Với tất cả sự tôn trọng dành cho bạn, tôi nghĩ rằng có nhiều sự tha thứ trong tôn giáo của bạn là nguy hiểm. Bây giờ đây chúng ta là bạn của nhau, hãy cho phép tôi nói tại sao như thế. Chúng tôi được cứu bởi đức tin trong Đức Chúa Giê-su Christ, và không phải thông qua các việc làm như nhiều người nghĩ. Chúa Giê-su mang các tội lỗi của chúng ta trên thập tự giá khi Ngài chịu chết. Bạn có tin điều này?
– Tất nhiên! Chúa Giê-su là một trong những bậc thầy siêu việt. Ngài rất thánh. Ngài khám phá một phương cách tốt khác để đến với Đấng tối cao.
• Nhưng chỉ có một cách duy nhất: Chúa Giê-su đã gánh thay tội lỗi chúng ta. Ngài hủy bỏ chúng vĩnh viễn qua sự hy sinh chính mạng sống Ngài.
• Đó là một câu chuyện đáng yêu. Nhưng tội lỗi của người này không thể được chuyển giao cho người khác. Điều đó là không công bằng. Mỗi người sẽ được đầu thai trong kiếp sau xứng đáng với những gì anh ta đã làm trong kiếp này. Nếu anh ta làm điều tốt (hoặc xấu) trong kiếp này thì kiếp sau anh ta sẽ hiện thân ra y theo những gì anh ta đã làm.
• Bạn không tin vào tình yêu của Thiên Chúa? Bạn không đánh giá cao sự hy sinh của Chúa Giê-su đã làm cho chúng ta?
• Tất nhiên, nhưng theo cái nhìn của riêng tôi. Tôi phải đi ngay bây giờ để dâng một của lễ lên cho Ganesha là thần voi của chúng tôi. Tôi không thể quá bảo thủ như bạn. Xin tha lỗi cho tôi.
Lời cầu nguyện: Ôi Chúa ơi, xin giúp con. Làm thế nào con có thể truyền đạt ơn cứu rỗi của Chúa Giê-su cho người theo đạo Hindu. Ngài đã chết, sống lại và ban cho chúng con sự tha tội và sự sống đời đời. Con sẽ kiên nhẫn lắng nghe những người Hindu hơn nữa. Nhờ vậy họ cũng sẽ lắng nghe con. Ôi Chúa, xin giúp con kiên nhẫn và tin cậy vào sự hướng dẫn của Đức Thánh Linh.
Quan điểm của Ấn Độ giáo là (đánh dấu vào một trong hai câu sau):

• Khoan dung với những tôn giáo khác. ( )
• Nghiêm cấm các tôn giáo khác. ( )

Một số người theo đạo Hindu sẽ dễ dàng chấp nhận Chúa Giê-su là một vị thần trong số nhiều thần linh khác, và họ cho rằng Chúa Giê-su không phải là Đấng Cứu Thế duy nhất. Người Hindu khoan dung với các tín đồ của những tôn giáo khác trong một thời gian dài, cho dù những tín đồ này không chuyển đổi để theo đạo Hindu.

Kiên Nhẫn Khi Làm Chứng
Chúng ta kiên nhẫn nuôi dưỡng một tình bạn với người theo đạo Hindu. Họ thường không chấp nhận những gì chúng ta nói ngày đầu tiên. Chúng ta nên lắng nghe với sự quan tâm khi họ nói về các con sông thần thánh và những ngọn núi thiêng liêng của họ. Chúng ta cầu nguyện xin Chúa Thánh Linh sẽ mở lòng họ ra cho Chúa Giê-su Christ. Theo thời gian, một số người theo đạo Hindu sẽ thấy rằng Đức Chúa Giê-su Christ mang lại sự tha tội, niềm vui, sự thánh thiện, sự chữa lành, sự giải cứu khỏi quỷ dữ, và ban sự sống đời đời cho những ai tiếp nhận Ngài.
Vì vậy, đừng bao giờ xúc phạm người Hindu. Một số nhà truyền giáo kiêng ăn thịt bò (những con bò là thánh đối với người theo đạo Hindu). Họ sử dụng phong cách theo văn hóa Ấn Độ trong các cuộc họp với người Hindu. Họ cũng cẩn thận không tổ chức các cuộc họp tập trung nam và nữ thanh niên chưa lập gia đình.
Những hình thức hiệu quả khi làm chứng bao gồm: sử dụng âm thanh – hình ảnh, kịch, thơ, thảo luận, và các hình thức văn hóa khác của người Hindu.
Cách tốt nhất để làm chứng cho người theo đạo Hindu? (đánh dấu vào câu đúng)
• Vội vã, buộc họ phải đối mặt với thực tế. ( )
• Từ từ, có một vài cuộc trò chuyện dài. ( )

5. NẾU HỌ KHÔNG BƯỚC THEO CHÚA, HÃY TÌM KIẾM NGƯỜI KHÁC
Khi bạn làm chứng về Chúa Giê-su Christ cho một người Hindu, hãy phân biệt xem người đó có quan tâm thực sự trong sự công bình và sự tha thứ hay không. Nếu người đó đói khát về một Đấng tối cao, hãy tiếp tục với sự kiên nhẫn. Tuy nhiên, chúng ta sẽ lãng phí thời gian nếu anh ta có những động cơ tiềm ẩn khác.
Chúng ta sẽ dừng lại công tác chứng đạo với những người theo đạo Hindu mà chỉ muốn:
• Có được một số lợi ích vật chất từ chúng ta.
• Nói về tôn giáo nhưng không có bất cứ quan tâm nào về đời sống tâm linh.
• Tìm hiểu về các nước khác chỉ vì hiếu kỳ, có thể họ muốn đi ra nước ngoài với sự giúp đỡ của chúng ta
Thông qua sự vận hành của Chúa Thánh Linh, có nhiều người Hindu chân thành tìm kiếm Đức Chúa Trời. Chúng ta tiếp tục rao giảng Tin Mừng cho những người này.

6. THƯỢNG ĐẾ TOÀN NĂNG CÓ MỘT THÂN VỊ
Chúng ta hãy giúp đỡ người Hindu tin vào một Thượng đế toàn năng có một thân vị.
Đức Chúa Trời chân thật là một thân vị (người) có suy nghĩ, cảm xúc, yêu thương, giận dữ vì tội lỗi, và là Người quyết định đưa ra những lựa chọn. Ngài đã tạo ra tất cả mọi vật trong hoàn vũ. Ngài hiện hữu độc lập với sự sáng tạo của Ngài. Tuy nhiên, một số người theo đạo Hindu có một ý tưởng khác về Đức Chúa Trời. Họ có quan điểm sau:
Tất cả mọi điều là Thượng đế và Thượng đế là tất cả mọi điều. Thượng đế là một ánh lửa bùng cháy của thần tính trong mỗi con người và động vật. Ngài là một tâm trí phổ quát tuôn chảy trong mỗi sinh vật hiện hữu. Tôi thực hành thiền để hoàn thiện sự hiệp nhất của tôi với sức mạnh thần thánh này.
Niềm tin cho rằng tất cả mọi vật hiện hữu là Chúa, và Chúa là tất cả vạn vật, được gọi là “thuyết phiếm thần”. Một số người theo đạo Hindu không cầu nguyện như chúng ta nói chuyện với Cha thiên thượng, nhưng họ cầu nguyện với chính họ. Nhiều người không nói chuyện với một “người” khi họ cầu nguyện, mà là suy niệm về “sức mạnh vũ trụ” nằm ở mỗi người, mỗi sinh vật và ở khắp mọi nơi. Họ ngồi thiền để hoàn thiện sự hiệp một của họ với sức mạnh thần thánh này. Bằng cách kiêng ăn, từ bỏ các ham muốn vật chất, người Hindu cố gắng kiểm soát tâm trí của họ để cho phù hợp với “năng lượng vũ trụ”.
Hãy đánh dấu vào câu đúng. Người Hindu thường thực hành sự cầu nguyện giống như Cơ đốc nhân?
Vâng ( )
Không ( )

prayer-hands-mother-teresa
Trong “cầu nguyện”, một số người theo đạo Hindu ngồi thiền và làm trống rỗng tâm trí của mình. Họ không suy nghĩ về “Đấng Tối Cao” của họ như thể Ngài là một người khác, nhưng một sức mạnh nào đó bên trong họ. Họ cố gắng để làm sạch tâm trí, loại bỏ tất cả những ham muốn, niềm đam mê và lo lắng. Họ tìm kiếm một sự trống rỗng tinh khiết. (Tuy nhiên, cũng có những người Hindu khác nói ra lời cầu nguyện với các thần linh của họ.) Khi làm chứng, chúng ta cẩn thận giải thích mối quan hệ cá nhân của chúng ta với Chúa Giê-su Christ. Ngài là một thân vị sống – Ngài hiện hữu bất chấp chúng ta có cảm nhận điều này hay không, nhưng Ngài ngự vào tấm lòng của chúng ta với sự bình an, sự tha thứ, tình yêu và sự thánh khiết. Chúng ta giúp người Hindu đi đến chỗ nhận biết Đấng chí cao và là Đức Chúa Trời Toàn Năng. Chúng ta có thể kể những câu chuyện từ Cựu Ước nhằm giải thích những gì Đức Chúa Trời làm như:
• Câu chuyện về sự sáng tạo
• Trận đại hồng thủy
• Các hành động đức tin của Abraham, Isaac và Jacob
• Các bệnh dịch và sự giải phóng dân Israel khỏi ách nô lệ ở Ai Cập.

7. NHỮNG TỪ NGỮ BỊ HIỂU THEO MỘT Ý NGHĨA KHÁC
Hãy cẩn thận với những từ ngữ mà người Hindu hiểu theo một ý nghĩa khác. Họ hiểu theo cách suy nghĩ của họ khi chúng ta nói: “Đức Chúa Trời”, “tội lỗi”, “sự nên thánh”, vv .. Satan đã làm cho họ có những ý nghĩ sai trật về những từ ngữ này:

SỰ HIỂU LẦM ĐẦU TIÊN VỀ DANH TỪ: “ĐỨC CHÚA TRỜI”
Một người Hindu phát biểu:
“Đức Chúa Trời không phải là một người như chúng ta. Ngài không hạ thấp chính Ngài trong một cơ thể vật lý của con người! Ngài cũng không suy nghĩ, yêu thương hay tha thứ giống như con người yếu đuối chúng ta.”
Đối với nhiều người Hindu, Đức Chúa Trời là một tiến trình bất tận gây ra những nguyên nhân khiến người ta nhận được trong đời sau của họ những hình phạt hay phần thưởng mà họ xứng đáng, căn cứ vào những việc tốt hay xấu của họ trong đời này. Họ nghĩ rằng bản chất tinh thần của họ có liên quan đến các thần linh, họ là thần linh giống như Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, cùng lúc đó họ cũng cho rằng Đức Chúa Trời ở rất xa và họ không thể nhận biết Ngài.
Đánh dấu vào câu đúng. Đối với nhiều người Hindu, “Đức Chúa Trời” xác thực có nghĩa là:
• Một Thân vị thực hiện các lựa chọn, yêu thương, và phán xét điều ác. ( )
• Một tiến trình khách quan mà không có cảm xúc hay ý chí. ( )
• Nhiều người Hindu nghĩ rằng Đức Chúa Trời xác thực không phải là một người nhưng là một tiến trình của vũ trụ mà tất cả mọi thứ chạy theo sau. Con người phải làm nhiều việc cho sự cứu rỗi của mình. Tuy nhiên, có lẽ vì tất cả mọi người cảm thấy sự cần thiết của một Đức Chúa Trời chân thật, nhiều người Hindu vẫn có một ý tưởng về lòng thương xót của Chúa và xin Ngài giúp đỡ khi gặp khó khăn. Một người Hindu điển hình nói:
• “Thần linh bảo vệ của tôi là thần voi Ganesha. Ông ấy chính là vị thần của cha và ông nội tôi. Và để được thánh thiện hơn, tôi còn thờ các vị thần khác. Họ là những thần linh. Tôi sợ họ. Chúng tôi chịu trách nhiệm về các bệnh tật, thu hoạch mùa màng, những tai nạn và sự thành công. Tôi dâng hiến các của lễ mỗi ngày cho thần linh để các vị không tức giận với tôi.”
• Người Hindu tôn thờ nhiều thần linh, họ đi theo truyền thống của tổ tiên. Họ cho rằng những thần linh giống như là nhiều biểu hiện của một Đức Chúa Trời xác thực. Các đối tượng thờ phượng của họ bao gồm cây cối, động vật, hoặc những “người thánh” theo nhãn quan của họ.
• Các thần linh cấp dưới của người Hindu là một phần của “Đức Chúa Trời” xác thực. Người Hindu dâng của lễ cho hàng triệu vị thần, bao gồm các thần về: động vật, thực vật, sông hồ, rừng và đồi núi. Đối với một số người Hindu, con bò là một nữ thần đáng tôn thờ. Nước tiểu và sữa (kể cả bơ được làm từ sữa) của bò có quyền năng của sự thanh tẩy. Họ nghĩ rằng bất kỳ hình thức thờ phượng nào cũng là tốt, miễn là nó đi theo truyền thống của tổ tiên. Mỗi gia đình Ấn độ đều thuộc về một tầng lớp nào đó trong xã hội, và gia đình đó nên đi theo truyền thống của tổ tiên thuộc tầng lớp đó. Điều này không thể thay đổi. Họ nói rằng mọi tôn giáo là tốt khi nó được thực hành từ những người được sinh ra trong tôn giáo đó. Suy luận của họ: Cơ đốc giáo sẽ là tôn giáo đúng đắn cho những ai có tổ tiên là Cơ đốc nhân.

SỰ HIỂU LẦM THỨ HAI: “TỘI LỖI”
Một sự hiểu biết chính xác về tội lỗi là trọng tâm trong sứ điệp của chúng ta. Kinh Thánh dạy rằng con người sa ngã là do bản chất của tội lỗi ở bên trong (nguyên tội), và không có khả năng để làm điều tốt (Thi. 51: 5; Rôm. 3: 9-20; Rôm 7: 14-19; Êph. 2: 1-2), trong khi Ấn Độ giáo dạy rằng con người có tiềm năng để làm điều tốt nếu anh ta thực hành các sự luyện tập tâm linh theo nguyên tắc của tôn giáo. Từng nhóm người (cùng chung đẳng cấp) trong Ấn Độ giáo đã thiết lập các quy tắc riêng của mình để tuân theo. Họ cho rằng tội lỗi chỉ là không tuân theo các quy tắc đó. Ấn Độ giáo dạy rằng những hành vi tốt sẽ chữa lành những hành vi xấu. Trong khi đó, Cơ đốc giáo dạy rằng một người không thể làm điều tốt vì bản chất của anh ta là hư hoại. Đó là lý do tại sao chúng ta phải được “sinh ra lần nữa” – để nhận được một tấm lòng mới thông qua đức tin vào Chúa Giê-su Christ. Điều này chúng ta không thể dựa vào những việc công bình riêng.

SỰ HIỂU LẦM THỨ BA: “ĐỜI SỐNG”
Một người Hindu nói:
Đời sống là đau đớn, sầu khổ, buồn bã và tội ác. Tất cả mọi dữ kiện chúng tôi thấy trên thế giới là một ảo tưởng lừa dối. Điều duy nhất tốt không nằm trong cá nhân con người, nó là những điều thuộc thế giới thần linh. Nghèo khó và giàu có chỉ là ảo tưởng. Cách tốt nhất của đời sống là phải từ bỏ thế giới và trở thành một tu sĩ khổ hạnh, bỏ lại đằng sau tất cả của cải vật chất và các mối bận tâm.
Những người theo Ấn Độ giáo truyền thống có quan điểm vô cùng bi quan. Họ cho rằng đời sống không phải là một cái gì đó làm con người thích thú nhưng phải tìm cách thoát khỏi nó.
Đánh dấu vào câu đúng. Người Hindu nghĩ rằng thế giới vật chất là:
• Tốt ( )
• Xấu ( )
Nhiều người Hindu nghĩ rằng tất cả mọi thứ vật chất là xấu, và mỗi ngày nó càng tệ hại hơn. Thế giới vật chất là một ảo tưởng (“Maya”). Nó sẽ trở nên tồi tệ hơn, cho đến khi nó hoàn toàn bị phá hủy. Con người không thể làm bất cứ điều gì để làm cho nó tốt hơn, thậm chí chỉ là tạm thời. Ngược lại với sự bi quan này, chúng ta làm chứng về niềm vui mà Đức Thánh Linh tuôn chảy trong lòng chúng ta. Chúng ta nhấn mạnh những lời hứa của Đức Chúa Trời yêu thương về một tương lai vinh hiển trên trời.

images (3)

SỰ HIỂU LẦM THỨ TƯ: “KINH THÁNH”
Người theo đạo Hindu:
– Tất cả các chân lý đã được tìm thấy trong các sách thánh cổ xưa. Chúng được gọi là kinh Vệ Đà. Mỗi phát minh hiện đại của bất kỳ giá trị nào chỉ là tái khám phá những điều mà đã có từ rất lâu trong các kinh sách Ấn Độ trước đây.
Cơ đốc nhân:
– Hãy để tôi chia sẻ với bạn một niềm hy vọng lớn: Kinh Thánh của Cơ đốc nhân đề cập đến sự tha thứ, sự sống mới trong Chúa Giê-su Christ, và một nơi định cư chắc chắn vĩnh cửu ở trên trời.

TỪ THỨ NĂM BỊ HIỂU LẦM: “THÁNH”
Ấn Độ giáo có một quan niệm biến thái về sự thánh thiện. Đối với họ, tâm linh là một trạng thái trống rỗng: sự biến mất tất cả mọi thứ vật chất và ước muốn của con người. Những gì thuộc tinh thần là tốt, nhưng vật chất là ác. Họ hy vọng sẽ thoát khỏi ràng buộc của vật chất, không phải thông qua sự hy sinh của Chúa Jesus Christ, nhưng bằng những việc làm tốt và thực hành thiền.
Trong thực hành thiền, một số người tự hành hạ cơ thể mình. Một số khác nằm trên giường có đinh, đi chân trần trên than đỏ hoặc kiêng ăn. Những “người thánh” của họ (gurus) trở nên nổi tiếng thông qua các phương pháp quyết liệt nhằm thoát khỏi những dục vọng và ước muốn của thân thể. Họ kiêng quan hệ tình dục trong hôn nhân, không phải vì động cơ đạo đức, nhưng để chứng minh là thoát khỏi sự ham muốn tình dục.
Đánh dấu vào câu đúng. Đối với người Hindu, đời sống thiêng liêng (thánh thiện) là:
• Yêu thương và vâng lời Chúa, có sự bình an và niềm vui của Chúa Thánh Linh. ( )
• Tự giải thoát khỏi tâm trí tất cả các ước muốn và cảm xúc. ( )
Hãy lắng nghe cuộc trò chuyện sau đây.
Cơ đốc nhân: Làm thế nào mà bạn học được những điều này?
Người Hindu: Tôi đọc kinh Vệ Đà. Và lắng nghe thầy dạy đạo của tôi giảng dạy. Ông ấy là một người thánh thiện, người đã thành lập giáo phái riêng của mình. Một số thầy dạy đạo Hindu đi từ nơi này đến nơi khác truyền giảng; những người khác sống trong một cộng đồng. Một số ông tận hiến chính mình cho một vị thần hay nữ thần nhất định. Các thầy dạy đạo của chúng tôi tôn thờ mặt trời. Những ông thầy dạy đạo khác thờ khỉ hoặc một thần linh nào đó.
Những người thiêng liêng trong đạo Hindu tránh xa tất cả những cảm xúc hay ước muốn của con người, cho dù đó là “tốt” hay “xấu”. Họ không muốn bị chi phối bằng những điều thuộc về vật chất. Họ coi đó như một ảo ảnh lừa dối.
Đánh dấu vào câu đúng. Các chức vụ tôn giáo của người Hindu được gọi là:
• Thầy dạy đạo Hindu ( )
• Mục sư ( )
Một số thầy dạy đạo Hindu đòi hỏi những người theo họ phải chứng minh thiện chí của lòng mộ đạo – ngay cả bày tỏ những việc đáng xấu hổ. Thỉnh thoảng các ông thầy dạy đạo Hindu cũng được thờ phượng như những thần linh. Một số thầy dạy đạo Hindu cuốc bộ du hành trong tình trạng khỏa thân; nhiều người trong vòng họ không bao giờ tắm – họ cho họ đây là sự thánh thiện.
Một người Hindu điển hình nói:
Sự thánh thiện và công bình có nghĩa là thực hiện những công việc tương ứng với đẳng cấp của mình. Mỗi đẳng cấp có nghề nghiệp và công việc riêng. Một người Hindu làm công việc tương ứng với đẳng cấp của mình, giống như cha và ông nội của anh ta đã làm trước đây. Nếu làm tốt, anh ta sẽ được sinh ra trong kiếp sau ở một đẳng cấp cao hơn. Nếu đi theo những ham muốn xác thịt, anh ta sẽ được sinh ra trong đời sau với một đẳng cấp thấp hơn – có lẽ là một con rắn hay một côn trùng nào đó. Khi chết, linh hồn anh ta được di chuyển đến một cơ thể vật lý tương ứng với sự phát triển thuộc linh mà anh ta đã đạt được trong đời này.
Đánh dấu vào câu đúng. Các nhóm xã hội thiết lập chuẩn mực đạo đức của người Hindu là:
• Những người lân cận ( )
• Chế độ đẳng cấp ( )

Hindu-Caste-System-and-Islam-3

BỐN ĐẲNG CẤP TRONG ẤN ĐỘ GIÁO
Đẳng cấp có những tiêu chuẩn riêng theo từng tầng lớp xã hội và chi phối mọi khía cạnh của cuộc sống con người.
Đẳng cấp Trí thức (còn gọi là đẳng cấp Bà-la-môn) là một đẳng cấp cao nhất. Hiện nay có hàng ngàn đẳng cấp khác nhau tại Ấn Độ nhưng tất cả tương ứng với một trong bốn đẳng cấp lớn sau:
• “Trí thức” (tầng lớp trên, đẳng cấp Bà-la-môn – các thầy tư tế)
• “Võ sĩ” (đứng thứ hai trong sự thánh thiện – đẳng cấp chiến binh),
• “Trung lưu” (thứ ba, đẳng cấp thương mại), và
• “Bình dân” (kém nhất, đẳng cấp công nhân lao động)
Tính chất thiêng liêng được hiểu theo cách khác nhau cho từng đẳng cấp. Nó được định nghĩa theo hướng này hay hướng kia tùy theo đẳng cấp của mỗi tầng lớp trong xã hội Ấn Độ.
Đối với đẳng cấp Bà-la-môn, tính chất thiêng liêng có nghĩa là trở thành một thầy tư tế, tách mình khỏi thế giới và chuyên tâm nghiên cứu kinh Vệ Đà. Những người khác có thể nhận được công đức bằng cách phục vụ đẳng cấp Bà-la-môn. Ai làm hại hoặc không tuân theo đẳng cấp Bà-la-môn là một tội trọng. Các đẳng cấp Võ sĩ cho rằng tính chất thiêng liêng đích thực là trở thành một người lính cao quý, dũng cảm, chiến đấu chống kẻ thù và hào phóng. Đối với đẳng cấp Trung lưu thì xem tính chất thiêng liêng là sản xuất hàng hóa, kinh doanh, làm nông nghiệp hiệu quả. Các đẳng cấp Bình dân xem tính chất thiêng liêng là phục vụ các đẳng cấp cao hơn như một người làm công bình thường.
Đánh dấu vào câu đúng. Tính chất thiêng liêng đối với người Hindu là:
• Giống nhau cho tất cả mọi người Hindu. ( )
• Khác nhau tùy theo đẳng cấp của từng người ( )
Đối với người Hindu tính chất thiêng liêng được hiểu theo từng đẳng cấp của mỗi gia đình. Tuy nhiên vẫn tồn tại một số nguyên tắc chung: người Hindu tuân phục cha mẹ, kết hôn với người được cha mẹ chọn, không giết người hoặc gây tổn hại cho đồng loại.
Những người Hindu có thể biết đến đời sống nên thánh đích thực từ các bông trái Đức Thánh Linh bên trong chúng ta: tình yêu, niềm vui, bình an, nhẫn nhục, nhân từ, hiền lành, đức tin, sự khiêm tốn và tự kiểm soát. Họ tôn trọng những Cơ đốc nhân biết kỷ luật bản thân, từ bỏ những ước muốn xác thịt, từ bỏ sự yêu mến vật chất (ví dụ những Cơ đốc nhân ban phát một bữa ăn cho người thiếu thốn, hoặc đi qua những trải nghiệm khó khăn để làm chứng, cầu nguyện, phục vụ người nghèo…)

TỪ THỨ SÁU BỊ HIỂU SAI: “CON NGƯỜI”
Đối với người Hindu, con người không phải là một tạo vật được dựng nên theo hình ảnh của Đức Chúa Trời. Con người là một linh hồn bị giam cầm trong các cơ thể khác nhau. Hãy lắng nghe cuộc trò chuyện sau:
Người Hindu: Cá nhân không là gì so với các đẳng cấp. Phụ nữ có giá trị ít hơn nam giới. Con trai có giá trị nhiều hơn con gái. Tuy nhiên có một vinh dự cho người phụ nữ khi được trở thành mẹ, và chúng tôi có cùng một sự tôn trọng đối với cả cha và mẹ của chúng tôi.
Cơ đốc nhân: Vì vậy, bạn tin rằng con người cần được tái sinh?
Người Hindu: Tất nhiên, linh hồn của một người đi từ thân thể này đến một thân thể khác. Nhưng linh hồn không phải là một thân vị có ý chí, trí nhớ hay mục đích. Đó là một giọt nước của Thượng Đế, một phần của cái tuyệt đối. Số phận con người phụ thuộc vào hành động của chính mình trong thế giới này. Những hành động và hậu quả của con người tạo thành “nghiệp” của mình. “Nghiệp” này thì tốt hơn so với: các nghi lễ tôn giáo, những việc lành, thiền định giải thoát chúng tôi thoát khỏi những ham muốn của cơ thể.
Đánh dấu vào câu đúng. Theo quan điểm của người Hindu:
“Nghiệp chướng” có nghĩa là một tình trạng thuộc linh mà:
• Được xác định bởi đẳng cấp của một người và không bao giờ thay đổi. ( )
• Thay đổi theo những lỗi lầm và việc tốt của từng người . ( )
Người Hindu cho rằng: địa vị của “nghiệp chướng” thay đổi. Cụ thể là khi một người chết đi thì sẽ xác định hạng loại của thân thể mà người đó sẽ nhận được trong đời kế tiếp. Điều này có nghĩa là linh hồn của người đó được di chuyển sang một thân thể khác. Một người Hindu điển hình nói:
– Tất cả các tôn giáo đều tốt. Tất cả các giáo lý là đúng nếu con người tin vào nó. Những giá trị thực tế chỉ tồn tại trong tâm trí. Đó là lý do tại sao chúng tôi thờ phượng hàng ngàn vị thần và hình tượng của họ. Hiện có hàng ngàn giáo phái trong tôn giáo của chúng tôi.
Đánh dấu vào câu đúng. Quan điểm của Ấn Độ giáo là:
• Một niềm tin duy nhất trong một giáo phái. ( )
• Một chuỗi vô số các giáo phái với những nghi lễ và niềm tin khác nhau. ( )
Hiện có hàng ngàn giáo phái Hindu. Mỗi giáo phái có những phong tục riêng, nghi lễ tẩy rửa và các của lễ dâng khác nhau. Một số giáo phái thực hành nghi lễ của họ rất bạo lực và đẫm máu. Có những nghi lễ kỳ cục đi ngược lại giá trị văn hóa phổ quát như sử dụng ma thuật, bùa hộ mệnh… Chúng chứa đựng một phần nào đó của tất cả mọi thứ huyễn hoặc. Những nghi lễ này đều từ chối mối quan hệ cá nhân với Đức Chúa Trời chân thật.

sal

TỪ THỨ BẢY BỊ HIỂU LẦM: “CỨU RỖI”
Hãy nghe phần đối thoại giữa một Cơ đốc nhân và một người Hindu:
– Bạn tin rằng có một thiên đàng vĩnh cửu và địa ngục đời đời?
– Có – trong một ý nghĩa. Nhưng không giống như niềm tin của các Cơ đốc nhân. Các vị thần của chúng tôi đến trong thế giới này để thưởng cho người công bình và phạt kẻ dữ. Có thể có địa ngục và thiên đàng, nhưng mọi người không ở lại đó mãi mãi. Họ chỉ tạm ở lại trong một thời gian, khi đó linh hồn của họ bị trừng phạt hay khen thưởng tùy theo công đức tích lũy. Rồi sau đó linh hồn trở về trái đất giống như được sinh ra lần nữa trong một thân thể khác. Các Cơ đốc nhân nghĩ gì về điều này?
– Tôi thực sự nghĩ rằng Satan đã làm mù đôi mắt của bạn, do đó bạn chưa nhận được tình yêu của Chúa. Bạn chưa nhận được: sự cứu rỗi trong Chúa Jesus mà chỉ thông qua ân sủng thuần khiết của Ngài. Bạn phủ nhận tội lỗi con người đã bị hủy bỏ bởi sự hy sinh của Chúa Jesus Christ. Sách kinh Vệ Đà của bạn, nói về tình yêu hy sinh như của một người mẹ dành cho con cái. Nhưng nó chỉ dừng lại ở đó và khuyến khích bạn đạt được nhiều công đức qua các việc lành là điều bất khả thi. Tuy nhiên, Kinh Thánh của chúng tôi thực sự cung cấp hy vọng chắc chắn và tin tức tốt lành cho tất cả mọi người. Chúng tôi tin rằng Kinh Thánh là những lời hứa của Chúa cho bạn và tôi.
– Tôi sẽ suy nghĩ về những điều bạn nói. Cảm ơn vì bạn đã kiên nhẫn giải thích cho tôi.
Người Hindu sẵn sàng chấp nhận Galati 6:7, “vì ai gieo giống chi, lại gặt giống ấy”. Họ cho rằng con người thu hoạch những gì họ gieo ra. Họ cũng nói rằng mỗi tội lỗi mà một người dính líu vào, người đó sẽ đau khổ trong cuộc sống tiếp theo trên trái đất này (không phải trong sự phán xét đời đời).
Hãy nghe cuộc đối thoại sau đây giữa một Cơ đốc nhân và một người Hindu điển hình:
– Theo thầy dạy đạo của tôi, mỗi sự kiện xảy ra trong cuộc sống hiện tại là hậu quả của các hành động của chúng tôi trong cuộc sống trước đây (kiếp trước). Sự giàu có, đẳng cấp, tiền bạc và sức khỏe hiện tại phụ thuộc vào hành động của chúng tôi đối với người khác trong kiếp trước. Nếu chúng tôi đã rất xấu, chúng tôi sẽ được sinh ra một lần nữa trong hình dạng một con rắn hay một phụ nữ có đẳng cấp thấp.
– Tại sao bạn tin rằng chúng ta được tái sinh nhiều lần trong những thân xác khác nhau?
– Đầu thai vào trong một cơ thể khác là một định luật thuộc linh đối với chúng tôi. Chúng tôi đạt được sự cứu rỗi bởi gia tăng tiệm tiến qua hàng ngàn lần đầu thai khác nhau để trở thành người có đời sống thuộc linh trong sạch. Và chỉ như vậy chúng tôi mới thoát khỏi chu kỳ bất tận của kiếp luân hồi.
– Nhưng tôi đã giải thích cho bạn phương cách mà Chúa Giê-su chịu khổ và chết cho loài người trên thập tự giá để tha thứ tội lỗi chúng ta vĩnh viễn!
– Theo tôi Chúa Giê-su có lẽ đã rất xấu xa trong kiếp trước nên phải chịu nhiều đau khổ trong cuộc đời của Ngài.
– Ồ không! Chúa Giê-su Christ luôn luôn là Đức Chúa Trời. Ngài chịu đau khổ vì chúng ta, không phải vì “nghiệp chướng” của Ngài. Ngài là Người hoàn hảo và không bao giờ phạm tội. Ngài đã chết vì “nghiệp chướng” của chúng ta để giải thoát chúng ta khỏi sự kiểm soát của nó. Hãy nhìn vào 1 Phi. 3:18 viết, “Đấng Christ cũng vì tội lỗi chịu chết một lần, là Đấng công bình thay cho kẻ không công bình, để dẫn chúng ta đến cùng Đức Chúa Trời”.
Chúng ta nên kiên trì giải thích với người Hindu sự tha thứ đầy trọn của Đức Chúa Trời trên vấn đề tội lỗi và sự cứu chuộc hoàn hảo của Đấng Christ dành cho con người.

karma
Đánh dấu vào câu đúng. Đối với người Hindu, sự cứu rỗi có nghĩa là:
• Linh hồn được giải thoát khỏi chu kỳ “kiếp luân hồi”. ( )
• Đức Chúa Trời tha thứ tội lỗi chúng ta mãi mãi. ( )
Người Hindu tin rằng được cứu có nghĩa là được giải phóng ra khỏi những điều vật chất. Họ tin có thể thoát khỏi chu kỳ luân hồi của nhiều kiếp sống liên tục trong các thân thể khác nhau. Nếu họ thực hành Ấn giáo một cách nghiêm túc, tìm kiếm những điều thiêng liêng, họ sẽ được sinh ra trong chu kỳ luân hồi với một đẳng cấp cao hơn, và rồi đến cuối cùng họ sẽ được giải thoát hoàn toàn, trở thành một thần linh thuần khiết.

TỪTHỨ TÁM BỊ HIỂU LẦM: “TÁI SINH”
Mục đích của người Hindu là thoát khỏi chu kỳ của kiếp luân hồi. Họ không muốn được sinh ra một lần nữa: Tất cả họ muốn dừng lại việc này. Tốt hơn là chúng ta không sử dụng cụm từ “tái sinh”, nhưng thay vào đó bằng cụm từ tương đương: “được tha thứ và trở thành con của Chúa”. Chúng ta có thể sử dụng Ê-xê-chi-ên 36: 25-27 mô tả những gì trở thành một con người mới trong Đức Chúa Giê-su có nghĩa là: chúng ta được rửa sạch tội lỗi (c.25); Đức Chúa Trời ban cho chúng ta một tấm lòng mới – chúng ta trở thành một con người mới (c.26); chúng ta được đầy dẫy Đức Thánh Linh để làm đẹp lòng Chúa và giữ các điều răn của Ngài (c.27). Một đoạn Kinh Thánh hữu ích khác là Tít 3: 3-7 trong đó nhấn mạnh tính chất đồi bại của tấm lòng con người và làm thế nào chúng ta trở nên con cái của Chúa. Một người Hindu điển hình nói:
– Nếu tôi không thực hành tôn giáo của tôi một cách phù hợp, tôi sẽ được sinh ra một lần nữa trong thân xác một con kiến, một con cóc hay một con rắn. Tôi sẽ phải gia tăng dần từng bước một trong vòng tròn nghiệp chướng, tôi có thể được sinh ra trong hình dạng một con mèo hay một con cừu. Những con khỉ và chuột là thiêng liêng nhất; chúng tôi xây dựng đền thờ cho những linh vật này. Chó là thấp kém và tồi tệ hơn so với các loài côn trùng. Tôi không giết côn trùng hoặc ăn thịt chúng. Vì làm như vậy, tôi có thể giết chết người thân của tôi. Một con bướm hay một con gà rất có thể là bà ngoại của tôi trong chu kỳ luân hồi.
Hãy cẩn thận khi sử dụng từ “sự cứu rỗi” khi nói chuyện với người theo Ấn giáo. Đánh dấu vào câu đúng:
Đối với người theo đạo Hindu, sự cứu rỗi có nghĩa là được thoát khỏi:
• Thân thể của con người và được tiếp nhận hay hóa thân vào trong một phạm trù tinh thần tuyệt đối. ( )
• Sự phán xét của Thiên Chúa. ( )
Được cứu theo Ấn giáo, có nghĩa là thoát khỏi những ràng buộc của thế giới vật chất để trở thành người thuộc linh thuần túy. Sau đó, con người không tiếp tục được sinh ra hàng ngàn lần trong các thân thể khác nhau (thoát khỏi chu kỳ luân hồi). Theo họ, linh hồn giống như một giọt nước rơi trên biển: nó kết hợp với tất cả mọi thứ liên kết với nó. Nó không còn phải trải qua sự di chuyển đến các thân thể khác. Nếu chúng ta nói về sự cứu rỗi trong Chúa Giê-su, họ nghĩ rằng Chúa sẽ giúp chúng ta, nếu chúng ta có những công đức tốt, khi đó Ngài có thể phá vỡ chu kỳ luân hồi của việc phải chết và được “tái sinh” trong những cơ thể khác. Rõ ràng là người Hindu cần được giải thích nhiều hơn về sự cứu rỗi bằng tất cả sự kiên nhẫn của chúng ta.

PrayerWeb

8. QUYỀN NĂNG PHÚC ÂM ĐỤNG CHẠM TẤM LÒNG CỦA ANH TA
Để xây dựng một tình bạn, chúng ta phải trói buộc Satan và bất cứ điều gì chống nghịch Chúa Thánh Linh bằng lời cầu nguyện, và kiên nhẫn giải thích Tin Mừng cho người Hindu. Hãy lắng nghe phần đàm thoại sau:
– Bạn đã đọc Tân Ước mà tôi cho bạn mượn?
– Vâng. Tôi thực sự thích những gì quyển sách viết về kiêng ăn, và hành động vác thập tự giá. Nhưng tôi không thể đọc nó bây giờ vì con trai cả của tôi đang bị bệnh rất nặng.
Người tín hữu Cơ đốc đi với bạn của mình đến nhà anh ta để cầu nguyện cho đứa con trai bị bệnh…
– Lạy Cha thiên thượng, nhơn danh Chúa Giê-su Christ. Con xin Chúa chữa lành cậu bé này.
Và phép lạ đã xảy ra….
Sau đó, người bạn Ấn Độ giáo đến nhà của Cơ đốc nhân:
– Chúa Giê-su đã chữa lành con trai của tôi! Bây giờ tôi biết rằng Ngài thực sự tha thứ tội lỗi và chữa lành bệnh tật cho con người. Ngài có nhiều quyền năng hơn so với các vị thần của tôi. Bây giờ tôi bỏ rơi các thần linh trước đây, và sẵn sàng bước theo Chúa Giê-su Christ của anh.
Nhiều người Hindu biết rất ít về tôn giáo của họ. Tất cả họ tin là họ đang ở đây bởi vì những hành động tốt hay xấu của họ trong kiếp trước; và họ thực hành tôn giáo theo hệ thống đẳng cấp. Vấn đề truyền thống là rất quan trọng đối với họ, họ tin rằng họ phải rập khuôn theo các nghi thức tôn giáo của tổ tiên.
Ấn Độ giáo là thuộc về ma quỷ. Nhiều vị thần của nó giao tiếp với tà linh và giam cầm những người tôn thờ chúng. Các chứng nhân Tin Lành cần đủ kiên nhẫn và tình yêu để rao giảng Chúa Giê-su cho họ. Chúng ta có thể cầu nguyện, kiêng ăn, dâng những người bạn Hindu lên cho Chúa để phá vỡ quyền lực của các tà linh trói buộc họ. Chỉ có Đức Chúa Trời toàn năng có thể làm được điều này thông qua sự sống lại của Chúa Giê-su Christ. Hàng ngàn người theo đạo Hindu đã được thuyết phục và chuyển đổi qua thờ phượng Chúa. Họ biết rằng Chúa Giê-su là Con độc sanh của Đức Chúa Trời, và Ngài có quyền năng trỗi hơn ma quỷ. Sau khi nhìn thấy sự chữa lành của một người hàng xóm hoặc người thân qua lời cầu nguyện trong danh Chúa Giê-su, nhiều người Hindu tin vào Ngài, sự chết cứu chuộc của Ngài, và sự sống lại của Ngài để ban cho chúng ta sự sống đời đời.

9. GÓP Ý THÊM VỀ CÔNG TÁC TRUYỀN GIÁO

• Cầu nguyện hàng ngày cho những người bạn Hindu và gia đình của họ.
• Biết và sử dụng Kinh Thánh để làm chứng. Nghiên cứu các câu then chốt.
• Xây dựng tình bạn chân thành với người Hindu (cùng giới) và thể hiện sự quan tâm thực sự trong cách sống với họ. Chấp nhận văn hóa hiếu khách và thực phẩm của họ. Quay trở lại vấn đề tiếp khách của họ – nhiều người Hindu thích ăn chay – đặc biệt là không ăn thịt bò. Hãy tìm hiểu và tôn trọng những suy nghĩ và cảm giác của họ. Như vậy các thầy giảng Tin Lành phải rất sành tâm lý và văn hóa của người đối diện. Thông qua tình bạn, cuộc sống giống Chúa Giê-su, tinh thần yêu chuộng hòa bình và niềm vui trong Chúa của chúng ta sẽ tỏa sáng. Người Hindu đặc biệt đánh giá cao sự khiêm nhường, theo đuổi đời sống thiêng liêng, cách sống đơn giản và từ bỏ những thú vui trần tục. Người Hindu cũng ngưỡng mộ những người mà có một đời sống sâu nhiệm với Thiên Chúa.
 Tập trung vào Chúa Giê-su chứ không phải là “Cơ đốc giáo”. Danh từ “Cơ đốc nhân” có thể gây vấp phạm vì những thông tin xấu về nó. Chúng ta trình bày lẽ thật của Tin Mừng hơn là bảo vệ truyền thống giáo hội hoặc đề cao một giáo phái Cơ đốc nào.
 Người Hindu tôn trọng các kinh sách của họ theo một cách nhìn bảo thủ. Nếu chúng ta đặt cuốn Kinh Thánh của chúng ta trên sàn nhà rồi gạch chân các câu, họ sẽ nghĩ rằng chúng ta không tôn trọng quyển Kinh Thánh của chúng ta như là Lời của Đức Chúa Trời.
 Nghiên cứu Ấn Độ giáo để xem phạm vi rộng lớn của nó với các niềm tin và sự thực hành khác nhau. Các thánh của người Hindu phổ biến nhất được gọi là Bhagavad-Gita. Lắng nghe cẩn thận từng người Hindu nói để hiểu vị trí mà anh ta đang đứng. Biết rõ về Ấn Độ giáo sẽ cho phép bạn liên hệ với người Hindu đi từ truyền thống của anh ta đến với Lời của Đức Chúa Trời. Đây là phương pháp mà sứ đồ Phao-lô đã sử dụng trong Công vụ 17. Tuy nhiên, không khiên cưỡng ép buộc ý nghĩa của Cơ đốc giáo vào trong bản văn kinh sách của người Hindu. Một số hiểu biết về ngôn ngữ tiếng Phạn cũng sẽ có ích cho các chứng nhân rao giảng Tin Mừng.
 Một số phần Kinh Thánh hữu ích:
 Toàn bộ Tin Mừng Giăng. Bạn có thể đọc nó mỗi khi thăm viếng người Hindu hoặc sau khi hướng dẫn người đó đã đọc một vài câu trong sách Giăng.
 Giăng 1:18; 1 Tim.1:17; 06:16 – sự mặc khải của Đức Chúa Trời qua Chúa Giê-su Christ.
 1 Phi. 1:19; Sự thánh khiết trong cuộc đời Chúa Giê-su.
 John 14: 6: Chúa Giê-su là con đường duy nhất để đến với Thiên Chúa.
 Rô-ma 12: 1: cuộc sống của chúng ta như của lễ dâng lên cho Thiên Chúa – không phải là quà tặng trao về cho Ngài.
 Rôma 3:23: mọi người về cơ bản là phạm tội.
 Êphêsô 2: 8-9: được chấp nhận bởi ân sủng, không phải việc làm tốt.
 1 Timothy 3:16: Kinh Thánh được hà hơi bởi Thiên Chúa.
 Hêbơrơ 9:27: chỉ có một cuộc sống trên trái đất.
 John 14: 16-17: Chúa Thánh Linh ban cho chúng ta quyền năng để sống như Chúa đòi hỏi: chúng ta không cần phải tranh đấu bằng sức riêng.

 Chia sẻ kinh nghiệm cá nhân của mình: về sự tha thứ và phục hòa thông qua Chúa Giê-su Christ; Chúa trả lời sự cầu nguyện và thay đổi lối sống. Giải thích về cách làm như thế nào mà bạn có mối quan hệ cá nhân vĩnh cửu với Đức Chúa Trời: sau sự chết Chúa sẽ tiếp đón chúng ta trong sự hiện diện của Ngài; chúng ta sẽ không hòa hợp vào đại dương như một giọt nước.
 Bày tỏ tình cảm với người phối ngẫu của mình trước công chúng sẽ gây vấp phạm cho người theo đạo Hindu.
 Trợ giúp các môn đệ mới đến từ nền văn hóa Hindu để bày tỏ ra đức tin của họ. Dạy họ những gì được chỉ dạy bởi Chúa Giê-su nhưng không áp đặt bất kỳ truyền thống thờ phượng nào. Ví dụ, nếu họ cảm thấy hạnh phúc hơn khi không mang giày bước vào trong sự thờ phượng, thì cứ để họ tự nhiên. Không khuyến khích họ áp dụng thực hành thờ phượng Đức Chúa Trời theo phong cách phương Tây.
 Đừng tách người cải đạo ra khỏi gia đình của họ. Một người Hindu không cần phải rời khỏi nhà và từ bỏ phong cách sống để rập khuôn theo nhóm “Cơ đốc nhân”. Hãy giúp các tín hữu mới nên duy trì mối quan hệ tốt với gia đình của họ. Giúp họ không ngừng khẳng định với gia đình là ủng hộ tất cả những tinh hoa trong văn hóa Ấn Độ, và theo Chúa Giê-su Christ không làm mất đi văn hóa Ấn Độ. Giúp họ từng bước chia sẻ đức tin trong Đấng Christ với gia đình của họ. Bằng cách này, không có cú sốc đột ngột nào có thể gây ra đau đớn và hiểu lầm trong nội bộ gia đình. Sẽ không phải là một ý tưởng tốt để khuyến khích người cải đạo có một cái tên thánh theo “Cơ đốc giáo”, nhưng nên giữ tên của họ đã được cha mẹ đặt cho.

in 2

EVANGELIZING BUDDHISTS

Tín đồ Phật Giáo
Trên thế giới hiện nay có khoảng 350.000.000 Phật tử, chủ yếu ở các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam, Bhutan, Myanmar, Campuchia, Lào, Sri Lanka, Thái Lan, Tây Tạng và Mông Cổ.
Có nhiều loại Phật tử với những niềm tin rất khác nhau. Tuy nhiên, nguồn gốc của họ chung một điểm xuất phát với người sáng lập là Siddharta Gautama. Ông được sinh ra vào khoảng 560 trước Công nguyên ở Nepal, phía bắc Ấn Độ. Ông từ giã người vợ và đứa con của mình đi lang thang tìm kiếm “sự giác ngộ”. Sau khi nhận thấy rằng ăn chay và đối đãi khắc nghiệt với cơ thể không mang đến lối thoát cho cuộc đời. Ông đã ngồi thiền trong một đêm. Suốt đêm đó ông tin rằng ông đã đạt được sự giác ngộ. Ông được biết đến như là “một người đã giác ngộ” (ý nghĩa của “Phật”), và bắt đầu giảng dạy học thuyết của mình cho người khác.
Siddharta tin rằng con người, và tất cả các sinh vật sống kể cả côn trùng trải qua hàng ngàn lần tái sinh đều chịu đựng tất cả mọi sự đau khổ. Một cách để thoát ra khỏi chu kỳ: sinh ra, chịu đau khổ và chết, là phải tích lũy công đức tôn giáo qua hàng ngàn kiếp nạn. Điều này hầu như là không thể được. Vì mong muốn của con người cho sự tồn tại vĩnh cửu, ông đã tìm kiếm một lối thoát khác thông qua thiền định, ở đó ông cho rằng thế giới và sự tồn tại cá nhân của con người chỉ là những ảo ảnh. Quan niệm của Siddharta là: khi một người nhận ra vấn đề hay “giác ngộ” thông qua ngồi thiền, người đó bước vào cõi “niết bàn”, anh ta không còn tồn tại trong thế giới đau khổ này. Sự giải phóng đầy trọn dành cho người giác ngộ đi đến cuối cùng của sự chết là được nhập vào niết bàn.
Siddharta từ chối tất cả sự mê tín và thờ hình tượng. Ông nhấn mạnh các mặt đạo đức của tôn giáo. Phật giáo cổ điển là một con đường “khai trí” cho trí tuệ và tinh thần của con người, không phải là một phương cách để được tha thứ và nhận sự cứu rỗi.
Tín đồ đạo Phật duy trì một số yếu tố sau đây của Ấn Độ giáo:

• Nghiệp chướng: hành động của một người trong cuộc sống trước đây sẽ ảnh hưởng đến tình trạng người đó tốt hay xấu trong hiện tại. Sự cân bằng công đức (việc tốt) hoặc những lầm lỗi (hành động xấu) sẽ xác định một người sẽ được tái sinh như thế nào. Một người tốt có thể được tái sinh làm người giàu hay thậm chí trở nên thần linh, nhưng một người xấu có thể được tái sinh như một người ăn xin hoặc tệ hơn.
• Lòng khoan dung đối với các tôn giáo khác (nhưng không nhiều như Ấn Độ giáo).
• Những gì thuộc linh là những thứ có thật, và vật chất chỉ như một giấc mơ (không thực tế và kém hơn tinh thần).
• Tội lỗi chỉ là nô lệ cho: thân thể, vật chất và ham muốn trần tục (không phải là một sự bất tuân chống lại Đức Chúa Trời chí thánh).
• Những việc làm tốt để tích lũy công đức là điều cần thiết hầu thoát khỏi ách nô lệ của thân thể và tiến trình vô tận của sự tái sinh (vòng luân hồi)
• Hết sức tôn trọng sinh vật sống (bao gồm không giết người hoặc động vật).
• Thiền là một phương pháp đem đến sự tự do, thoát khỏi ham muốn xác thịt và thế giới vật chất.
• Hết sức tôn trọng người già và tổ tiên là những người đã qua đời (thậm chí cầu nguyện cho họ).
Tuy nhiên, Siddharta phủ nhận rằng con người có một linh hồn bất tử. Điều gì đã được tái sinh không phải là linh hồn (như trong Ấn Độ giáo) nhưng nó là “hiện thân” của một người. Nhân cách chỉ là một ảo ảnh. Cách duy nhất để thoát khỏi luân hồi là nhận ra nhân cách là điều không có thực.

MAGELANG, JAVA, INDONESIA - JUNE 1: Buddhist monks meditate at the yard of ancient Borobudur temple on Vesak Day, Friday, June 1, 2007, in Magelang, Central Java province, Indonesia. Buddhists in Indonesia celebrate Vesak Day or "the day of Buddha's birth, his enlightenment and his reaching of nirvana", on Friday. Buddhism is one among five official religions of the world largest Muslim populated nation. Borobudur Temple was built between 750 and 842 AD; 300 years before Cambodia???s Angkor Wat, 400 years before work had begun on the great European cathedrals. (Photo by Dimas Ardian/Getty Images)

Bát Chánh Đạo Của Phật Giáo.
Siddharta giải thích bốn “chân lý ưu việt” của Phật Giáo:
1. Cuộc đời là bể khổ. Hiện hữu trong thế giới này có nghĩa là phải chịu đựng sự đau khổ.
2. Nguồn gốc của đau khổ là khát vọng: ham muốn cho sự tồn tại độc lập của cá nhân; sự gắn kết cá nhân hoặc tình yêu dành cho người khác hay sự vật nào đó; và thậm chí ham muốn dừng lại sự tồn tại. Những ham muốn này giam cầm con người trong vòng luân hồi đau khổ. Ham muốn cũng có thể dẫn đến các cuộc tranh cãi và phấn đấu riêng để hình thành nên chướng nghiệp xấu. Sức nặng của nghiệp chướng giống như một vật thể nặng, đâm sầm vào thế giới và thể hiện bản thân một lần nữa trong thân thể mới qua sự tái sinh.
3. Đau khổ bị phá hủy bằng cách loại bỏ những ham muốn. Khi một người không ham muốn gì cả, và không có gắn kết với bất kỳ người hay vật chất nào, và sau đó thông qua thiền định nhận ra rằng anh ta hoặc bất cứ điều gì khác không có linh hồn, người đó sẽ không còn được tái sinh và sẽ bước vào cõi “niết bàn” – trạng thái của sự chấm dứt những ham muốn và tự do khỏi vòng luân hồi.
4. Các cách để chấm dứt đau khổ và đi vào Niết bàn là Bát Chánh Đạo (Theo quan điểm của Phật Giáo: Bát chánh đạo là tám phương tiện vi diệu đưa chúng sanh đến đời sống an lạc, giải thoát, tiến đến địa vị giác ngộ. Những bậc hiền triết theo tám phương tiện này để đi đến Niết bàn). Siddharta dạy rằng mọi người có thể vào được niết bàn bằng cách làm theo đường lối này qua nhiều kiếp sống. Tám phần của đường lối này được ghi lại dưới đây thông qua các tiêu đề của: Sự khôn ngoan, đạo đức, và sự tập trung.
Sự khôn ngoan:
1. Quan điểm đúng: Có một sự hiểu biết về các nguyên tắc cơ bản của Phật giáo là tính tạm thời, sự đau khổ và phi nhân cách của tất cả mọi thứ.
2. Quyết tâm đúng: Có động cơ thuần khiết.
Đạo đức:
3. Lời nói đúng đắn: Phát biểu một cách trung thực, hữu ích và có cân nhắc.
4. Hành động đúng: Tuân thủ theo năm điều răn của Phật giáo:
a. Không giết bất kỳ người, động vật, hoặc côn trùng
b. Không ăn cắp
c. Không tham gia vào sự dâm dục
d. Không nói dối
e. Không sử dụng rượu hoặc ma túy
5. Phương cách sinh kế đúng đắn: Làm một nghề phù hợp với các giáo huấn ở trên (ví dụ như không hành nghề bán thịt).

Sự tập trung:
6. Nỗ lực đúng: Nỗ lực để loại bỏ tất cả điều ác khỏi tâm trí, và phát triển những phẩm chất tốt.
7. Tập chú đúng: Kiểm soát tâm trí
8. Sự tập trung vào tiêu điểm: Một trạng thái thần bí trong đó người ta nhận ra sự hư không của mọi vật, và trong đó phát triển năng lực tâm linh để có thể kiểm soát vận hành quy luật tự nhiên theo ý muốn của chính mình.
Phật Giáo phủ nhận Đức Chúa Trời có một thân vị, thánh khiết là một Đấng có cảm xúc, yêu thương, ra lệnh, hướng dẫn và trừng phạt. Những Phật tử nghiêm túc không cầu nguyện giống như các Cơ-đốc nhân vốn thiết lập quan hệ cá nhân với Đức Chúa Trời là Cha. Những lời cầu nguyện của tín đồ Phật giáo là đi vào thiền định – một quá trình điều chỉnh tâm trí để tinh thần chìm vào cõi không không. Trong một phương diện họ đạt được khả năng không suy nghĩ về bất cứ điều gì, và không có bất cứ một ham muốn nào, lúc đó họ cho là đã đạt đến hạnh phúc thật. Họ cho rằng khi không còn ham muốn, sẽ không phải lo lắng hay đau yếu.
Tín đồ Phật giáo quan niệm rằng rằng sự vui thú, trách nhiệm xã hội và lo lắng là những trở ngại cho sự tập trung tinh thần. Những Phật tử đầu tiên theo gương Siddharta và trở thành các tu sĩ độc thân. Các nhà sư này không được phép làm việc để kiếm sống hoặc trồng cây lương thực: họ phải xin những thứ này từ người khác.

Đối với những người theo Phật giáo nguyên thủy (Theravada), sự cứu rỗi không có nghĩa là được cứu khỏi tội lỗi, điều ác, địa ngục và sự chết. Thay vào đó, nó là lối thoát cho các tiến trình được tái sinh lần nữa. Họ hy vọng một ngày đó họ sẽ vào “niết bàn” – không phải thiên đàng. Một số người khác nhận ra rằng họ không có khả năng vào được niết bàn, họ hy vọng sẽ tới một nơi gọi là “Sawan” – một loại thiên đàng nào đó theo cảm nhận của cá nhân.

Hầu hết các Phật tử nhìn thấy ơn cứu rỗi là một quá trình chậm chạp giải phóng con người ra khỏi thế giới vật chất. Họ cho rằng họ có thể đạt được ơn cứu rỗi thông qua những nỗ lực của chính mình. Họ có thể tìm kiếm những điều thuộc linh thông qua nhiều phương pháp. Phương pháp phổ biến nhất là đi sâu vào thiền định. Theo phương pháp này, họ không suy gẫm Lời Chúa, nhưng cố gắng với những cảm giác bí ẩn – giống như họ không tồn tại. Họ cố gắng để làm trống rỗng tâm trí thoát khỏi những lo lắng, cảm giác và mục đích cuộc sống. Họ loại bỏ khỏi tâm trí tất cả các phân tâm, ham muốn, tình cảm, cảm xúc, và tất cả các suy nghĩ. Họ đi vào trong một trạng thái xuất thần. Đáng buồn thay, ma quỷ có thể tận dụng lợi thế của những căn nhà trống (tâm trí trống rỗng) để vào cư trú trong đó. Các trường hợp bị quỉ ám được xem là phổ biến giữa vòng các Phật tử.

thailand-buddist-mediation-pix

Các môn phái Phật giáo
Phật tử đã hình thành nhiều môn phái với những niềm tin khác biệt nhau. Dưới đây là một vài môn phái phổ biến nhất.
Phật giáo Nguyên Thủy (còn gọi là Phái Tiểu Thừa)
Trong những thế kỷ đầu tiên, bất cứ ai theo Phật giáo Nguyên thủy đều trở thành một tu sĩ hay một nữ tu, rời khỏi nhà và gia đình của họ. Khuynh hướng của Phật giáo Nguyên Thủy là cố gắng thực hành theo theo giáo lý ban đầu của Đức Phật và chỉ có các nhà sư và ni cô tận hiến trọn thời gian mới có thể tham gia vào. Họ tin rằng sự giác ngộ phải đi qua hàng ngàn kiếp nạn. Họ tin rằng niết bàn có thể đạt được chỉ bằng các công đức cá nhân – không phải bằng sự khen ngợi, tán dương của bất cứ ai khác.
Phật Giáo Nguyên Thủy được thực hành chủ yếu ở Thái Lan, Sri Lanka, Campuchia và Myanmar.

Phái Đại Thừa
Một trường phái của Phật giáo xuất hiện vào khoảng thời gian Chúa Giê-su Christ nhập thế, được gọi là Đại thừa. Phiên bản của Phật giáo Đại thừa đã trở nên phổ biến hơn: họ xem Đức Phật như một vị cứu tinh và là người đã phát hiện ra nhiều vị thần khác mà họ tin rằng có thể giúp con người, và đó là những đối tượng mà họ có thể cầu nguyện. Truyền thống Đại thừa tin rằng sự giác ngộ có thể đạt được trong một đời chứ không cần phải hàng ngàn đời. Những người giác ngộ có thể trì hoãn nhập cảnh vào niết bàn để giúp giải phóng những người khác đạt được sự cứu rỗi. Những ai đã làm điều này đã được gọi là boddhisattvas. Giáo huấn này là trái với giáo lý của Siddharta tin rằng sự cứu rỗi có thể đạt được chỉ bằng nỗ lực của cá nhân. Đại Thừa đã trở nên phổ biến nhiều hơn so với Phật giáo Nguyên Thủy. Nó được thực hành tại Nhật Bản, Hàn Quốc, và Trung Quốc – nơi đây nó được hòa lẫn với các tôn giáo của Trung Quốc.

Phật giáo Tây Tạng
Phật giáo Tây Tạng được thực hành không chỉ ở Tây Tạng, nhưng ở các vùng đất xung quanh của Mông Cổ, Bhutan, và một số dân tộc Tây Tạng của miền Nam nước Nga, Nepal, và miền Tây Trung Quốc.
Phật giáo Tây Tạng phát sinh giữa những năm 700 và 1000 sau Công Nguyên. Giống như Phật Giáo Nguyên thủy, nó dạy rằng vấn đề cơ bản của con người đó là con người không nhận ra rằng thế giới chỉ là một ảo ảnh. Phái này chủ trương rằng để thoát khỏi ảo ảnh và đạt được Phật quả là thông qua các nghi lễ huyền bí sử dụng các từ ngữ và biểu đồ ma thuật. Họ cũng tôn thờ nhiều vị thần. Một số tín đồ của giáo phái này thực tế là thờ phượng ma quỉ. Phật giáo Tây Tạng có nhiều nghi thức huyền bí từ một phong trào gọi là “Mật tông” và cũng chịu ảnh hưởng của Ấn Độ giáo, đặc biệt là ở Nepal.

Phái Thiền Phật giáo
Phong trào này phát triển ở Trung Quốc và Nhật Bản. Nó không có học thuyết đặc biệt nào mà các học viên phải tin vào. Thay vào đó, nó nhấn mạnh các kỹ thuật thiền định tập trung nhằm mục đích để đạt được sự giác ngộ. Một bài tập quan trọng là thiền định bí ẩn được gọi là công án (bài tập này từ bỏ lý lẽ, dùng trực giác để đạt đến thông tuệ) mà dường như vô nghĩa với những người bên ngoài Phật giáo.
Một số Phật tử được dạy rằng một ngày kia “một người được tôn cao” sẽ đến, người đó là một Đức Phật, và thậm chí còn uy quyền hơn Đức Phật trước đây. Đức “Phật Tôn Cao” này sẽ loan báo chân lý. Ông sẽ có nhiều môn đệ hơn Đức Phật trước đây, và có đầy đủ sự khôn ngoan và tốt lành. Ông sẽ đến để khôi phục đạo đức con người khi trái đất đầy dẫy những điều ác, và khi tất cả mọi người đã từ bỏ luật pháp. Những tiên tri này xuất hiện trong các kinh sách Phật giáo như “Mahavastu” và “Kinh Pháp Hoa”. Họ được biết đến như là “Phật Di Lặc” ở Ấn Độ, “Mi Lo-Fu” của Trung Quốc, và “Miroku” tại Nhật Bản. Nhiều Phật tử đang trông đợi một ông khác nữa sẽ xuất hiện. Tại Thái Lan và Campuchia, một số nhà truyền giảng Phúc Âm đã viện dẫn những tiên tri này như một cầu nối dẫn dắt một số Phật tử tin vào Chúa Giê-su Christ. Điều này không phải là Chúa linh cảm cho những tiên tri này. Họ có thể được lấy cảm hứng từ các hội truyền giáo Cơ đốc Nestorian cổ đại (một giáo phái Cơ đốc – được gọi là Cảnh giáo của người Ba-tư truyền vào Trung Quốc). Tuy nhiên những điều họ làm đã thể hiện niềm hy vọng về một Đấng cứu chuộc mà chỉ có thể được thành tựu trong Chúa Giê-su.

Phúc Âm hóa các Phật tử
Các yếu tố sau đây rất quan trọng cho công tác này:
• Sự chuẩn bị thuộc linh thông qua đời sống thánh khiết và cầu nguyện (thường là kiêng ăn) để cầm buộc các tà linh và tạo ra những bước đột phá trong công tác chứng đạo. Sự ăn năn và nghiên cứu Kinh Thánh giúp chúng ta đến gần Đức Chúa Trời. Chúng ta phải: “mang lấy mọi khí giới của Đức Chúa Trời, để được đứng vững mà địch cùng mưu kế của ma quỉ…” (Êph. 6: 10-18). Trong sự cầu nguyện, ca ngợi thờ phượng Đức Chúa Trời, chúng ta là những Cơ đốc nhân sẽ công bố sự chiến thắng của Chúa Giê-su trên Satan và hủy phá mọi đồn lũy ngăn trở con người tiếp nhận Tin Mừng (Côl. 2: 14-15). Hãy cầu nguyện cho sự mặc khải của Đức Chúa Trời để các Phật tử nhận ra rằng tôn giáo của họ là sai lầm, khi đó họ tiếp nhận lẽ thật về Đức Chúa Trời và tin Chúa Giê-su (Êph. 1: 17-18). Bởi vì có các yếu tố tà linh trong sinh hoạt của các môn phái Phật giáo, những Phật tử phải được dạy cẩn thận để ăn năn từ bỏ mọi tội lỗi, đặc biệt là bất cứ hoạt động huyền bí nào trước đó họ đã từng tham gia.
• Một lối sống nhạy cảm về văn hóa – bao gồm cả các lề thói của người bản địa như: tử tế với các động vật, không nói nhiều hoặc quá to, tôn trọng người lớn tuổi, thận trọng khi cầm giữ các kinh sách thánh, tư thế tôn kính trong lời cầu nguyện, một lối sống đơn giản, kiểm soát các cảm xúc, v.v…
• Học tiếng mẹ đẻ của người bản xứ. Thông thường sẽ có một ngôn ngữ chung cho toàn quốc và tiếng địa phương. Các ngôn ngữ địa phương được học tốt nhất ngay tại chỗ chúng ta đến (Trong loạt bài tiếp theo cũng có sách hướng dẫn về chủ đề này). Biết những ngôn ngữ của người bản địa và các thuật ngữ Phật giáo sẽ giúp bạn giải thích chính xác Tin Mừng.
• Kết bạn, làm quen với mọi người, tìm hiểu cách sống, các nghi lễ, và niềm tin của họ. Càng nhiều càng tốt, làm theo phong cách địa phương trong việc dùng thực phẩm và quần áo. Hãy thử suy nghĩ như người dân địa phương. Tập trung vào một nhóm người tại một thời điểm nhất định và tìm cách để bắt đầu một phong trào hướng họ tập chú vào Chúa Giê-su Christ.

vietmonk

HIỂU BIẾT CHƯƠNG TRÌNH CỨU RỖI
Kiên trì giải thích lẽ thật của Đức Chúa Trời đối với nhiều người, nhưng tập trung vào những gia đình tìm kiếm chân lý. Khi họ nhận ra rằng Đức Chúa Trời là một Đấng có thân vị, mà họ phải chịu trách nhiệm về mặt đạo đức, họ có thể xoay bỏ thần tượng của mình và tìm kiếm sự tha thứ tội lỗi thông qua Chúa Giê-su Christ. Trước khi họ có thể hiểu thấu kế hoạch cứu rỗi qua Chúa Giê-su, họ phải hiểu những điều sau:
• Đức Chúa Trời yêu thương là một Đấng có thân vị (đã trở thành người). Ngài là Đấng tạo dựng nên muôn vật. Ngài cũng là Đấng thánh khiết, công bình và hằng có đời đời (các Phật tử có thể sẽ không có những ý tưởng đúng đắn về Chúa; họ nghĩ rằng Chúa không tồn tại. Họ tin vào nhiều thần linh, họ cho rằng từ “God” dùng để chỉ về Đức Phật hoặc sự giảng dạy của Đức Phật).
• Người nam và nữ đã được tạo dựng theo hình ảnh của Đức Chúa Trời để có một mối quan hệ đặc biệt với Ngài.
• Loài người chúng ta đã phá vỡ mối quan hệ này qua sự bất tuân của chúng ta – tội lỗi là một hành động xúc phạm đến Đức Chúa Trời thánh khiết và yêu thương. (Đối với các Phật tử tội lỗi của tổ tiên không ảnh hưởng đến những người khác – nó không liên quan đến sự phạm lỗi với Chúa. Họ cho rằng tội lỗi là một hành động xấu sẽ tích lũy thành nghiệp chướng xấu; việc tốt mang lại công đức tốt sẽ dẫn đến một tình trạng tái sinh tốt hơn ở kiếp nạn tiếp theo. Đối với một số Phật tử thì tội lỗi là giết hại các loài vật). Chúng ta phải cầu nguyện để Chúa Thánh Linh bày tỏ cho họ về bản chất thực sự của tội lỗi.
• Sự phán xét tối hậu của Chúa cho tất cả loài người chắc chắn sẽ xảy ra. Chúa Giê-su thường cảnh báo mọi người về sự phán xét cuối cùng của Đức Chúa Trời – nhiều câu chuyện ngụ ngôn cho thấy những người khước từ hay bất tuân các mạng lệnh của Ngài sẽ bị kết án (các Phật tử cho rằng có một chu kỳ bất tận của cái chết và sự tái sinh đối với họ).
• Tình yêu và lòng thương xót có nghĩa là quan tâm đến các nhu cầu của những người kém may mắn trong thế giới – như tổ chức “Người Sa-ma-ri nhơn lành” (Lu-ca 10) (các Phật tử nghĩ đến lòng thương xót như một quan niệm sẽ chấm dứt khổ đau của người khác thông qua thiền. Họ cho rằng Chúa Giê-su bày tỏ tình yêu trong việc hy sinh chính mình Ngài cho chúng ta là một điểm yếu).
• Cầu nguyện là sự hiệp thông giữa Chúa là Cha chúng ta và con cái của Ngài (các Phật tử có thể nghĩ về điều này như là một sự lặp lại của những cụm từ đánh đố khó hiểu).
• Chúa Giê-su Christ đã trở thành một người có thực xuất hiện trong lịch sử (Phật tử có thể nghĩ rằng sự hiện thân thành người của Chúa Giê-su giống như sự xuất hiện của một thần linh nào đó).
• Sự cứu rỗi là phục hòa mối quan hệ giữa Thiên Chúa và loài người qua Chúa Giê-su đã chết cho chúng ta trên thập tự giá. (Phật tử dựa trên những nỗ lực riêng của họ để đạt được sự cứu rỗi.) Sự cứu chuộc của Chúa Giê-su dành cho tất cả mọi người, đặc biệt là cho những ai tiếp nhận Ngài.
• Chúng ta phải luôn luôn giải thích những từ ngữ trong tôn giáo của chúng ta có một ý nghĩa rõ ràng. Nếu không các Phật tử sẽ hoàn toàn hiểu lầm.
• Sử dụng những câu chuyện trong Kinh Thánh để xây dựng một sự hiểu biết thực sự về Đức Chúa Trời và Tin Mừng của Chúa Giê-su Christ. Các câu chuyện sau đây rất hữu ích để giúp các Phật tử hiểu được lẽ thật:
– Sự sáng tạo
– A-đam bất tuân mạng lệnh của Chúa
– Trận Đại hồng thủy
– Sự kêu gọi của Đức Chúa Trời dành cho Áp-ra-ham
– Các bệnh dịch tại Ai-cập
– Lễ Vượt Qua và tuyển dân được giải phóng ra khỏi Ai Cập
– Tuyển dân Y-sơ-ra-ên nhận lãnh luật pháp
– Ê-li và các tiên tri của Ba-anh trên núi Cạc-mên
– Bộ sưu tập của bạn cũng sẽ bao gồm một số các phép lạ và những câu chuyện ngụ ngôn của Chúa Giê-su (nhiều Phật tử thích những câu chuyện), sự chết, sự phục sinh và những thử thách Chúa đã trải qua.

i2
NHỮNG PHƯỚC HẠNH CỦA TIN MỪNG
Bạn có thể thêm các sự kiện khác về Chúa Giê-su như: sự giáng sinh, báp-tem, sự cám dỗ, các ví dụ trong lời dạy dỗ của Chúa, sự chữa lành người bị quỉ ám, dụ ngôn người con trai hoang đàng, sự hóa hình, sự thăng thiên của Chúa Giê-su; sự giáng lâm của Chúa Thánh Linh trong Lễ Ngũ Tuần; việc cải đạo và báp-tem của Sau-lơ….
• Tập trung vào những phước hạnh thực tế của Tin Mừng mà nhiều Phật tử sẽ đánh giá cao:
– Sự tha thứ tội lỗi và tự do khỏi những gánh nặng của áp lực tội lỗi. Đức Chúa Trời đưa chúng ta vào một mối quan hệ với chính Ngài mà không có một nghiệp chướng nào có thể phá hủy – không gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa. “Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng ta, ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ.” (Mat. 11:28)
– Tự do khỏi nỗi ám ảnh, đeo bám của ma quỷ và những linh hồn của tổ tiên.
– Được bảo vệ khỏi ma thuật và ma quỷ.
– Kinh nghiệm được chữa lành các loại bệnh tật qua lời cầu nguyện trong danh Chúa Giê-su Christ (điều này thường mang lại những bước đột phá đáng kể). Luôn luôn sẵn sàng để cầu nguyện cho người bệnh.
– Hy vọng và an ninh chắc chắn thay vì tin vào thuyết định mệnh và sống với những bất an.
– Cách duy nhất để tránh địa ngục.
– Trong công cuộc sáng tạo mới, các động vật sẽ không làm hại nhau (Ê-sai 11: 6-9).
– Mạnh mẽ và yêu thương trong các mối quan hệ của gia đình.

• Sử dụng các câu chuyện, âm nhạc, phim, bài hát dân tộc và các hình thức khác quen thuộc với các Phật tử trong khu vực của họ để truyền đạt thông điệp Phúc âm.
• Cầu nguyện xin Chúa Thánh Linh và tình yêu của Đức Chúa Trời đổ đầy trên những tân tín hữu để họ được: giải thoát khỏi tất cả xích xiềng của Satan trong tâm trí; đọc Lời Chúa với sự hiểu biết; khiêm tốn nhóm họp với các Cơ đốc nhân khác; tâm giao gắn bó với Thiên Chúa trong sự ăn năn mỗi ngày; mạnh mẽ để chống lại sự cám dỗ của sự không trung thực, sự bất khiết và thờ hình tượng; từ bỏ mình và mạnh dạn làm chứng cho Chúa.
• Nếu có thể kêu gọi những người cải đạo từ Phật giáo vào trong công tác Phúc âm hóa. Giúp đỡ những người cải đạo mới này làm chứng về các trải nghiệm đức tin mới – tin vào Đấng Christ của họ. Không nên có nhiều sự tham gia của người nước ngoài vào công tác chứng đạo này.
• Tiếp diễn liên tục với hai nhiệm vụ song hành: chứng đạo và nuôi dưỡng tân tín hữu. Không bao giờ ngừng truyền giáo chỉ vì thỏa mãn khi có người cải đạo. Thông qua những người này hãy tiếp cận với người thân và bạn bè của họ.
• Kiểm tra trình độ hiểu biết của người nghe về tôn giáo, nhấn mạnh Phật giáo là rất khác biệt với Cơ đốc giáo. Hầu hết các Phật tử cảm thấy khó khăn để hiểu được Tin Mừng. Khi làm chứng, yêu cầu họ cho bạn biết về những gì họ đã hiểu. Có thể bạn được “nghe” một cái gì đó hoàn toàn khác với những gì bạn mong đợi.
• Hãy nhớ rằng thông điệp của chúng ta là Chúa Giê-su Christ – không phải là một tôn giáo. Đừng bỏ qua những thông điệp căn bản so sánh các thực hành tôn giáo và những trải nghiệm giữa Cơ đốc giáo và Phật giáo.

The end.

IAN E. BENSON

Translated by Tuong Vi

   

Trả lời

Hướng Đi Ministries Hướng Đi Ministries
9/10 1521 bình chọn