Thứ Năm , 21 Tháng Mười Một 2024
Home / Tổng hợp / TUYỂN DÂN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI

TUYỂN DÂN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI

Bài trước:

MỘT DÂN TỘC KỲ DIỆU

is

 

Số báo này đặc biệt dành một vài trang cho đất nước và dân tộc Do Thái, một đất nước và dân tộc có một lịch sử và một hoàn cảnh, một thân phận đặc biệt. Do Thái sở hữu nhiều cái “nhất” trên thế giới: nhỏ nhất, khô hạn nhất, nhiều người giàu có nhất, thông minh nhất, nhiều nhà bác học nhất, tinh thần chiến đấu “lì” lợm nhất, sống lọt thỏm giữa các quốc gia Ả-rập thù địch lớn hơn gấp nhiều lần nhưng không ai dám động tới. Trải qua hai ngàn năm bị xóa sổ, mất tên trên bản đồ thế giới đã trở lại lập quốc vào năm 1948, vẫn giữ được ban chất và ngôn ngữ quốc gia. Tại đây giới thiệu hai thế yếu của họ đã trở thành mạnh nhất, khiến cho các quốc gia to lớn khác phải kiêng nể.

Họ sở hữu nhiều cái nhất như vậy chẳng có gì đáng ngạc nhiên, vì Kinh Thánh cho biết rằng họ vốn là dân “tuyển” của Đức Chúa Trời, từ nơi họ đã cho ra một Chúa Jesus, Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cách đây hơn 2000 năm, người đặt nền tảng cho niên lịch, sống trong vòng dân Do Thái trong 33 năm, trước khi bị bắt và bị đóng đinh trên thập tự giá để cứu rỗi nhân loại, như có chép: “Nhưng Đức Chúa Trời tỏ lòng yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là người có tội, thì Đấng Christ vì chúng ta chịu chết.” Rô-ma 5:8.

HUONGDI  MAGAZINE

Đó là một đất nước nhỏ bé nằm ở khu vực Trung Đông, nơi quanh năm chịu đựng khí hậu vô cùng khắc nghiệt, sa mạc trải dài mênh mông và xung đột thường xuyên xảy ra – đó chính là Isarel.

Theo đánh giá trong các tài liệu nghiên cứu của các tổ chức quốc tế, điều kiện tự nhiên của Isarel vô cùng khắc nghiệt, diện tích lãnh thổ tới 70% là sa mạc bao phủ, phần còn lại cũng chỉ là đồi núi, đá trọc cằn cỗi. Chưa kể khí hậu nơi đây quanh năm khô hạn và cực kỳ khắc nghiệt.

Nhìn  chung,  Isarel  là  một  đất  nước  hoàn  toàn không có “rừng vàng, biển bạc”, mọi điều kiện để phát triển về nông nghiệp như chăn nuôi, trồng trọt dường như chỉ là một con số 0 tròn trĩnh.

Thế nhưng, Isarel lại đang là một trong những đất nước có nền kinh tế phát triển mạnh nhất trên thế giới, đặc biệt là sự tiến bộ và phát triển trong nền nông nghiệp của họ đang phải khiến cho hàng nhiều quốc gia khác “ngã mũ” bái phục.

Nhận  thức  về  nông  nghiệp  của  những người Do Thái

Isarel được hình thành vào năm 1948, bởi hàng vạn người Do Thái sống lưu vong trên khắp thế giới tập hợp lại. Dù vốn bị coi là kẻ thù của nhiều nước Ả rập khác do những bất đồng về chính trị và những thù oán từ xa xưa, đến nơi đâu cũng bị hắt hủi, tước đoạt, thậm chí bị tàn sát dã man, nhưng người Do Thái vẫn luôn đoàn kết, và nhất là họ biết vận dụng trí tuệ siêu phàm của dân tộc mình để biến những thứ không thể thành có thể.

Ngay từ những ngày đầu thành lập đất nước nhỏ bé này, những người Do Thái đã nhận thức được sự quan trọng của nông nghiệp và những điều kiện hết sức thiếu thốn để phát triển, do đó, cả Chính phủ cũng như người dân đã chủ động tăng cường khai hoang, làm ruộng bậc thang, tháo nước vùng đầm lầy, tái trồng rừng và bảo vệ đất, chống lại sự xói mòn, xâm nhập mặn.

Theo thống kê của Chính phủ Isarel, chỉ có khoảng 20% diện tích đất là đủ điều kiện để làm nông nghiệp, và cũng chỉ có 3,7% tổng lực lượng lao động tham gia vào ngành này.

Thế nhưng, điều vi diệu là họ vẫn đảm bảo cung cấp được tới 95% nhu cầu lương thực trong nước, cả ngành nông nghiệp vẫn chiếm 2,5% GDP và thậm chí còn xuất khẩu đạt kim ngạch là 3,6%.

is 2

Tình từ thời điểm thành lập đất nước đến nay, sản lượng nông nghiệp của Isarel đã tăng trưởng gấp 15 lần, cao gấp 3 lần so với tốc độ tăng trưởng dân số.

Số đất làm nông nghiệp cũng tăng trưởng mạnh từ 30.000 ha (năm 1948) lên 190.000 ha (thời điểm hiện tại). Sự phát triển mạnh mẽ về nông nghiệp của Isarel trong quãng thời gian đó được xem như một kỳ tích, khi nơi đây vốn đã nghèo nàn về đất canh tác, mà lượng mưa lại còn rất thấp.

Chưa  kể  theo  những  báo  cáo  nông  nghiệp  của Isarel, sản lượng nông nghiệp tăng 26% từ năm 1999 tới năm 2009, trong khi số lượng nông dân giảm từ 23.500 xuống 17.000 người, lượng nước tưới tiêu cũng giảm khoảng 12%.

Vậy bằng cách nào mà quốc gia nhỏ bé, non trẻ và thiếu thốn đủ mọi đường này lại có thể phát triển một cách mạnh mẽ và đáng nể đến như vậy?

Mô hình hợp tác xã trong nông nghiệp thành công nhất thế giới

Trước hết, Isarel đã thành công trong việc xây dựng ngành nông nghiệp theo 2 mô hình là hợp tác xã (kibbutz) và làng nông nghiệp (moshav). Kibbutz là một cộng đồng nông thôn, một hệ thống kinh tế xã hội dựa trên nguyên tắc sở hữu chung tài sản, bình đẳng và hợp tác trong mọi mặt của đời sống, thực hiện lý tưởng một xã hội công bằng.

Có thể hiểu một cách ngắn gọn rằng Kibbutz là một mô hình nông trang gần giống với hợp tác xã. Tại nông trang không có cảnh sát và tòa án. Trẻ em không sống tại nhà mà ở các nhà trẻ, được cả nông trang nuôi dưỡng, một ngày chỉ gặp cha mẹ vài tiếng.

Ngày nay, tuy chiếm chưa đến 2% dân số Israel, nhưng những nông trang như Kibbutz sản xuất đến 12% lượng hàng hóa xuất khẩu của cả nước. Kibbutz là mô hình kinh doanh hợp tác xã có sở hữu chung về phương tiện sản xuất cũng như sản phẩm, trong khi đó, mô hình làng nông nghiệp Moshav hoạt động sản xuất riêng từng hộ nhưng lại hợp tác chung về thương hiệu và các hoạt động thu mua nguyên liệu.

images

Nhờ vào thành công của những mô hình nông trang này, Israel đã trở thành quốc gia sản xuất nông nghiệp hàng đầu thế giới, dù phần lớn diện tích đất là sa mạc hay khô cằn, chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm có thể lên đến 10-20 độ.

Người Israel luôn bày tỏ sự tự hào khi nói về đất nước mình rằng: Tuy có khí hậu và địa lý vô cùng khắc nghiệt, nhưng chúng tôi vẫn có nền nông nghiệp tiên tiến nhất thế giới.

Trong một lần phỏng vấn và được đặt câu hỏi rằng: “Điều gì đã giúp cho Isarel làm nên được những kỳ tích như vậy?”, ông Ali Yhia – một quan chức của Bộ Ngoại giao Israel đã trả lời rằng: “Bí quyết để Israel phát triển là trí tuệ cộng với sự đoàn kết. Israel thật sự coi trọng đầu tư phát triển giáo dục đào tạo và phát triển nghiên cứu khoa học công nghệ”.

Việc coi trọng sự cải thiện và phát triển ngành nông nghiệp một cách mạnh mẽ nhất của Isarel cho thấy ngay ở trong những chính sách đồng bộ, gắn kết chặt chẽ nghiên cứu khoa học với triển khai ứng dụng trong thực tế.

Từ cấp lãnh đạo đến doanh nghiệp đều có tầm nhìn và tư duy chiến lược toàn cầu về nông nghiệp, và ngay cả các chủ trang trại – những người nông dân cũng chính là những nhà khoa học số một. Tất cả cùng bắt tay vào tìm tòi, nghiên cứu và triển khai ứng dụng công nghệ ngay trên thực tế, dựa trên những chính sách hỗ trợ nông nghiệp hết sức thiết thực từ phía Chính phủ.

Chưa hết, với một đất nước có điều kiện khí hậu khắc nghiệt, quanh năm khô hạn nên với họ, nước ngọt được xem như “vàng trắng” – một thứ vật chất quý giá và hiếm hoi đến mức độ Chính phủ Isarel còn phải xây dựng riêng một bộ luật để đo lường mức tiêu thụ nước, kiểm soát việc khai thác nước ngầm, ngăn chặn ô nhiễm nước.

Có thể nói, không một nơi nào trên thế giới quản lý nguồn nước một cách chặt chẽ như Isarel, dù ở những thành phố lớn hay những vùng nông thôn, hoang mạc, hệ thống tưới nước hoàn hảo đến mức gần như không để lãng phí bất kỳ một giọt nước nào.

Tất cả các loại cây trồng trong nông nghiệp cho tới các vườn hoa, thảm cỏ tại Isarel cũng hoàn toàn được tưới nước theo công nghệ nhỏ giọt. Theo đó, một hệ thống đường ống nước sẽ được kiểm soát để tưới nhỏ giọt cho từng gốc cây trồng với liều lượng nhất định. Hệ thống này chắc chắn không chỉ tiết kiệm nước hơn so với việc phun nước tưới thông thường, mà còn đảm bảo lượng nước cần thiết cung cấp cho tất cả các loại cây trồng.

Cùng với chính sách khắt khe trong việc tiết kiệm nguồn nước ngọt, công nghệ xử lý tái chế nước thải của Isarel cũng thuộc tầm cỡ hiện đại hàng đầu thế giới. Trẻ em Israel còn được dạy tiết kiệm nước từ bé, dù 75% nước thải sinh hoạt hàng ngày vẫn được tái tạo sử dụng lại, và nước qua hệ thống lọc là có thể thành nước tinh khiết uống được ngay.

Có thể nói, mô hình nông nghiệp và những chính sách của Chính phủ chỉ là hai yếu tố rất nhỏ để có thể tạo dựng nên một nền nông nghiệp “khủng” như của Isarel hiện nay, bởi theo rất nhiều các nghiên cứu cũng như thực tế đã chứng minh, 95% sự thành công trong việc biến những thứ “không thể” thành “có thể” của quốc gia này chỉ là hai từ duy nhất, đó là “công nghệ”. Ngoài việc nghiên cứu và áp dụng thành công hệ thống tưới nước nhỏ giọt, Isarel còn sử dụng kỹ thuật có chi phí khá thấp là xây các hộp nhựa được thiết kế bao quanh gốc cây, qua đó hấp thụ những giọt sương ban đêm, lấy nước từ trong không khí và làm giảm 50% nhu cầu nước của cây trồng.

Người nông dân Isarel còn biết trồng cây xen kẽ với cây lương thực, giúp các rễ cây giữ được nước cho các hạt giống và những lá cây sẽ trở thành nguồn dinh dưỡng cho hạt giống cây lương thực. Do điều kiện nước là vô cùng thiếu thốn, người dân Isarel còn phải tự nghiên cứu cho ra những giống cây trồng chỉ cần ít nước và có thể trồng tại những vùng đất khắc nghiệt dưới ánh mặt trời, mà thành công nhất có thể kể tới giống cây cà chua, khoai tây có thể chịu được thời tiết nóng và khô hạn.

Bên cạnh việc phát triển những giống cây trồng mới, Israel cũng nghiên cứu các công nghệ thích hợp để tăng năng suất cho cây trồng, như đảm bảo điều kiện ánh sáng, thời điểm thụ phấn… Ngoài ra họ luôn bảo quản các giống cây của mình ở điều kiện tốt nhất, tránh xa không khí bẩn và ẩm mốc.

images (2)

Với những công nghệ tiên tiến nhất được áp dụng vào nông nghiệp mà “người tiên phong” Isarel đã nghiên cứu và thực hiện, mỗi năm đất nước này xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp đạt 3,5 tỷ USD với giá trị gia tăng rất lớn, theo số liệu của Chính phủ Isarel năm 2014.

Tại những vùng đất khô cằn, những “nông trại cá “được xây dựng lên theo những điều kiện lý tưởng do con người tạo ra nhằm có thể tự cung tự cấp. Giải pháp đó nghe chừng có vẻ hểt sức hợp lí trong điều kiện ngắn hạn. Việc đánh bắt cá đóng một vai trò to lớn tới cuộc sống và an ninh lương thực cho khoảng 200 triệu người trên toàn thế giới. Trong đó, cứ 5 người thì lại có 1 người phụ thuộc chủ yếu vào nguồn protein từ cá.

Nhưng theo ước tính của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc (FAO) thì có đến hơn 80% lượng cá trên thế giới đang có nguy cơ bị khai thác cạn kiệt. Do đó, một giải pháp cho vấn đề trên là hết sức cấp bách.

Nhưng về mặt dài hạn, khó khăn do thiếu nước và sự ô nhiễm môi trường từ chất thải của cá lại hiện hữu và ngày một tăng lên. Thật may thay, người Do Thái hay Israel đã tạo nên một điều thực sự kì diệu: “Nuôi cá trên sa mạc“. Dựa trên nghiên cứu của nhà khoa học người Israel Tiến sĩ Yossi và Giáo sư trường Hebrew, Jaap Van Rijn, Công ty GFA (Grow Fish Anywhere – tạm dịch Nuôi cá ở mọi nơi) đã cho ra đời một môi trường sống cho cá mang tính đột phá.

Với một hệ thống công nghệ khép kín, 99% lượng nước nuôi cá hoàn toàn có thể tái sử dụng. Hơn nữa, những chất thải của cá, từ một mối đe dọa đến môi trường lại trở thành phân bón cực kì hữu ích cho cây trồng.

Tại bất kì nơi nào trên Trái đất, miễn là có nguồn nước khởi điểm, một hệ thống như thế hoàn toàn có thể được tạo nên. Còn điều gì tuyệt vời hơn thế? Một ưu điểm nữa của hệ thống đó chính là giảm thiểu được tỉ lệ lây bệnh từ những yếu tố thiên nhiên. Chỉ cần kiếm soát tốt nguồn cá giống, mọi chuyện sẽ được kiểm soát một cách dễ dàng.

Với một nguồn nước hạn chế và ít ỏi trên những sa mạc đầy khắc nghiệt, việc kiểm soát tốt nguồn nước là một điều vô cùng quan trọng, nó có thể ảnh hưởng trực tiếp đến toàn bộ hệ thống chăn nuôi.

images (1)

Và nền tảng cho hệ thống hoàn hảo mà người Israel tạo ra chính là việc xác định nguồn nước ngầm cũng như việc tối ưu được đến từng giọt nước. Theo quy trình, họ sẽ tích trữ nước vào mùa Đông, thời điểm mà lượng nước bốc hơi ít để sử dụng cho mùa Hè. Ngoài ra, việc có thể tái sử dụng được nguồn nước, người Israel dễ dàng tăng gia sản xuất thêm được từ việc nuôi trồng thủy sản mà không phải lo lắng về nguồn nước phải dùng vào mùa hè.

Với một công nghệ tuyệt vời như vậy, quả thực, người Do Thái xứng danh là dân tộc giàu có nhất về chất xám phải không nào?

 

Theo Tri Thức Trẻ

 

—————-

HỌC CÁCH GIÁO DỤC CỦA NGƯỜI DO THÁI

Thông minh như người Do Thái
Hãy nhớ câu khen “Thông minh như Do Thái”. Quả là dân tộc Do Thái, dân tộc có chỉ số thông minh (IQ) trung bình 110 – đặc biệt là dòng Do Thái từng sinh sống vùng sông Rhin (Đức) sau đó di cư sang các nước châu Âu rồi Bắc Mỹ – là hết sức nổi bật về trí tuệ. Nếu IQ trung bình trên thế giới là 100, nhưng dân tộc Do Thái có IQ trung bình là 110 thì điều này có ý nghĩa gì ?Một dân tộc A có chỉ số IQ trung bình là 100 thì tỉ lệ người có khả năng thành thiên tài sẽ là 0,4%, nhưng với mức 110 như người Do Thái thì tỉ lệ những người có khả năng thành thiên tài này sẽ lên tới 2,3%, nghĩa là cứ 1.000 người sẽ có 23 thiên tài, cao gấp 6 lần mức của dân tộc A kia. Vậy cho nên chỉ với 13 triệu người – chỉ bằng 0,2% dân số thế giới, số người Do Thái hay người có gốc Do Thái thành danh lại nhiều hơn bất kỳ dân tộc nào trên thế giới. Đầu thế kỷ 20, ngành khoa học hạt nhân non trẻ còn được biết đến dưới cái tên là “khoa học Do Thái”. Albert Einstein, nhà vật lý học lớn nhất thế kỷ 20 – cha đẻ của thuyết tương đối – là người gốc Do Thái. Giải Nobel vật lý được “cha truyền con nối” bởi hai cha con nhà vật lý học Niels Bohr (Henrik David và Aage) là người gốc Do Thái. Trong nửa cuối thế kỷ 20, người gốc Do Thái giành được 29% số giải Nobel văn chương, y học, vật lý và hóa học. Tính chung trong cả thế kỷ 20, tỉ lệ này là 32%. Riêng tại Mỹ trong thế kỷ 20, nơi cộng đồng Do Thái chỉ chiếm 3% dân số thì 27% giải Nobel và 25% số giải Turing – được xem là giải Nobel dành cho những người có đóng góp xuất chúng cho ngành điện toán – đã rơi vào tay người Do Thái. Trong cả 6 lĩnh vực được xét giải Nobel là văn chương, y sinh học, vật lý học, hóa học, kinh tế và hòa bình, chưa hề có một chủng tộc nào trên thế giới có thể sánh được với Do Thái bởi họ thành danh trên cả 6 lĩnh vực này. Đến năm 2011, chỉ riêng các nhà khoa học Israel (người Do Thái mang quốc tịch Israel – một quốc gia vỏn vẹn 7,8 triệu dân, xấp xỉ dân số TP. Hồ Chí Minh) đã giành đến… 10 giải Nobel.

Người Do Thái còn nổi tiếng khắp thế giới với tài buôn bán từ nhiều thiên niên kỷ nay. Ngân hàng Thế giới có các cựu chủ tịch và chủ tịch đương nhiệm như James Wolfensohn, Paul Wolfowitz, Robert Zoellick đều là người gốc Do Thái. Các lĩnh vực kinh doanh nổi bật như mỹ phẩm, thời trang, thực phẩm, vũ khí, khách sạn, công nghiệp phim ảnh (kể cả Hollywood và các trung tâm điện ảnh khác) do người Do Thái nắm.
Nhà phân tâm học Sigmund Freud cũng là người Do Thái. Những người chế ra vắc xin ngừa bại liệt Jonas Salk và Albert Sabin cũng có gốc Do Thái. Đến cả nhạc sĩ thiên tài như Johan Strauss – người được mệnh danh là vua nhạc valse, tác giả bản nhạc bất hủ Sông Danube xanh, hay diễn viên nổi tiếng như Natalie Portman vừa theo học Đại học Havard vừa tham gia bộ phim siêu phẩm Chiến tranh giữa các vì sao… cũng có gốc Do Thái. Karl Marx – nhà tư tưởng để lại tên của mình cho một học thuyết có sức ảnh hưởng lan tỏa tai hại trong thế kỷ 20 cũng là người có gốc Do Thái! Quá nửa số nhà vô địch thế giới về cờ vua là người gốc Do Thái. Và còn vô số ví dụ khác.
Người Do Thái tài giỏi, điều này không ai phủ nhận nổi, nhưng nguyên nhân là gì?

Tính hiếu học đặc biệt
Có nhiều tài liệu, công trình khoa học lý giải việc này bằng các yếu tố về gien, về hoàn cảnh lịch sử – xã hội của cộng đồng Do Thái, về tính hiếu học đặc biệt của người Do Thái. Nếu hai yếu tố đầu là các yếu tố đặc thù, không thể bắt chước được thì tính hiếu học của người Do Thái hoàn toàn có thể là tấm gương để người Việt Nam tự soi mình và noi theo. Tính hiếu học này được rèn luyện, hình thành và phát triển trong cả ba môi trường gia đình, nhà trường và xã hội.

Gia đình
Cha mẹ Do Thái vô cùng chăm lo đến việc phát triển trí tuệ của con. Bà mẹ Do Thái dạy con từ thuở còn… thai: khi mang thai, bà mẹ thường nghe nhạc, chơi đàn, hát và còn làm toán nữa cho đến khi sinh con ra. Các thai phụ làm vậy vì tin rằng cách đó sẽ làm đứa bé sau này trở nên thông minh. Người mẹ chọn ăn hạnh nhân, chà là, uống dầu cá và ăn cá nhưng tránh ăn đầu cá – thật khác với thói quen thích ăn đầu cá của nhiều người Viêt Nam, cũng vì tin rằng tất cả điều đó sẽ giúp cho con trở nên thông thái. Từ lúc còn ẵm ngửa đứa bé, bà mẹ đã tạo cho con thói quen thích sách bằng cách dùng cái mẹo là nhỏ vài giọt mật lên cuốn sách và cho bé liếm. Khi đó, trong nhận thức non nớt của đứa trẻ, sách là cái gì đó rất ngọt ngào, hấp dẫn. Ủy ban công nghiệp thành phố New York (Mỹ) có cuộc điều tra nguồn nhân lực vào năm 1950 và nhận thấy có sự khác biệt lớn về việc đi làm công nhân giữa phụ nữ Ý với phụ nữ Do Thái. Phụ nữ Ý thường phải đi làm và thường còn bắt con nghỉ học để đi làm phụ cha mẹ, các bà mẹ Do Thái thì không. Dù kinh tế khó khăn, họ vẫn ở nhà để nuôi dạy con, dồn hết trách nhiệm kiếm sống cho chồng, người ban ngày đi làm nhưng tối về có nghĩa vụ học và dạy cho con học. Cha mẹ Việt Nam, nhất là các gia đình ở nông thôn nên học theo các gia đình Do Thái ở điểm này. Có thể thấy ở một vài vùng miền là vùng trũng về giáo dục của nước ta, cứ gia đình gặp hoàn cảnh khó khăn về kinh tế là cha mẹ bắt con bỏ học để đi làm phụ giúp mình.
Nhờ sự chăm sóc, động viên của cha mẹ mà học sinh Do Thái nổi tiếng trong trường về thành tích học tập và tính chuyên cần, khác hẳn với học sinh nhiều dân tộc khác học kiểu được chăng hay chớ và dễ dàng bỏ học để đi làm với lý do phụ giúp cha mẹ. Vào năm 1954, hệ thống trường công của thành phố New York phát hiện ra 28 học sinh có chỉ số IQ cực cao – 170 điểm, thì trong đó 24 là học sinh Do Thái. Ở Việt Nam, một đứa trẻ đi học về mà được cha mẹ quan tâm thường sẽ được hỏi “Hôm nay con được mấy điểm?”, trong khi trẻ Do Thái nhận được câu hỏi “Hôm nay con có hỏi gì thầy cô không?”. Họ quan niệm điểm không quan trọng bằng cách học, mà đã học thì phải hỏi. Người Việt mình hay ghép học với hỏi thành từ học hỏi. Điều này là rất hay, mọi gia đình nên khuyến khích con em mình đặt câu hỏi.

images

Nhà trường
Nhà trường Do Thái không chỉ chăm bẵm lo truyền thụ thật nhiều kiến thức lý thuyết mà còn chú ý trau dồi nhân cách học sinh. Học sinh Do Thái nào cũng phải chơi nhạc cụ piano hay violon, nhờ đó mà khả năng cảm thụ cái đẹp và sự nhạy cảm được bồi bổ. Qua học bắn cung, bắn súng hay chạy bộ, trẻ em luyện được khả năng tập trung và tính kiên trì. Học sinh Israel dùng hai ngôn ngữ chính thức là tiếng Do Thái và tiếng Arập. Tiếng Do Thái là ngôn ngữ chính và thứ nhất của quốc gia, được đa số dân cư sử dụng. Tiếng Arập là của thiểu số người Arập và một số thành viên cộng đồng Do Thái. Tiếng Anh được dạy trong các trường học và đa phần dân cư coi đó là ngôn ngữ thứ hai. Do đặc điểm dân cư tụ về quốc gia này vốn sinh sống từ nhiều nước nên các ngôn ngữ khác được dùng ở Israel còn có tiếng Nga, tiếng Pháp và một số ngôn ngữ khác. Thông thường, học sinh Israel có thể nói được ba thứ tiếng. Nếu thành ngữ Pháp “Một người biết thêm ngôn ngữ thứ hai thì bằng hai người” là đúng thì một trẻ em Israel sẽ có thể bằng… ba người. Tính dạn dĩ của học sinh luôn được khuyến khích bởi người Do Thái quan niệm hỏi cũng quan trọng như trả lời. Hỏi quan trọng không kém đáp bởi đòi hỏi khả năng quan sát và suy nghĩ, công cụ quan trọng để chiếm lĩnh tri thức. Chẳng lạ gì mà người Do Thái luôn nổi bật về tính độc lập suy nghĩ và tài lập luận.
Nhà trường Do Thái rất coi trọng tính thực hành. Trong thời khóa biểu, ngoài các môn học thường gặp ở mọi nhà trường, cấp tiểu học Do Thái còn có môn kinh doanh. Từ trung học, học sinh học giảm dần các môn lý thuyết mà chuyển dần qua học cách tạo ra “sản phẩm” với các bài tập thực tế. Tất cả “sản phẩm” của học sinh dù còn ngây ngô nhưng đều là những thử thách thật sự nghiêm túc với người tạo ra chúng và những sản phẩm có ý tưởng tốt có thể được giới thiệu lên các viện hay trường đại học để khai thác. Trong khi đó thì cách dạy – cách học và nội dung học nhà trường của Việt Nam từ phổ thông đến đại học đều chỉ biết nhồi nhét cho học sinh lý thuyết suông, song người học khi ra đời thì lóng ngóng không biết áp dụng thế nào hoặc có khi lại còn không muốn áp dụng.

Xã hội
Xã hội Do Thái là một xã hội đặt trí tuệ vào bậc cao nhất trong thang giá trị. Do vậy mà cứ điều gì có hại cho trí tuệ là người Do Thái cố tránh, có lợi cho trí tuệ thì họ cố làm, từ chuyện “vặt” như hút thuốc lá đến chuyện trọng đại như lập gia đình. Người Do Thái rất bài trừ thuốc lá, cho nên dù là khách quý vào nhà mà hút thuốc cũng sẽ bị chủ nhà lịch sự mời ra ngoài. Đơn giản bởi các nhà khoa học Do Thái chứng minh rằng nicotine trong thuốc lá làm thoái hóa tế bào não. Hãy nhìn ra xã hội Việt Nam, thuốc lá bán khắp nơi và số người hút không hề giảm sau bao lời cảnh báo về tác hại của thuốc lá; ở nhà thì đàn ông tự do hút thuốc, tự do đầu độc não con em mình bằng nicotine. Người Do Thái có uống rượu nhưng rất chừng mực vì sợ uống nhiều sẽ bị dư luận xã hội chỉ trích, sợ bị nhà thờ trừng phạt, sợ hại trí tuệ bởi lượng rượu uống kiểu người nghiện sẽ làm chết các tế bào não. Rượu cồn là thứ thuốc độc thực sự, vậy mà ở Việt Nam, các nhà máy bia cứ đua nhau mọc lên và mở rộng sản xuất, nên người Việt Nam thuộc loại có thứ hạng cao trên thế giới về số lít bia rượu tiêu thụ theo đầu người; trong nhà, ngoài quán, người Việt ta cứ ép nhau, thách nhau uống, xem có tửu lượng cao là thành tích, không hề cân nhắc hậu quả mà mình cùng vợ con, cháu chắt và xã hội sẽ phải gánh.
Xã hội Do Thái từ rất sớm đã rất coi trọng việc xóa mù chữ, coi trọng sách và người có học thức. Dân tộc Do Thái là dân tộc đầu tiên trên thế giới – từ năm 64 đầu Công nguyên – mà nhà thờ quy định tất cả nam giới phải biết đọc viết và tính toán; sang thế kỷ thứ 2 thì bắt buộc mọi đàn ông phải có nghĩa vụ dạy con trai mình đọc, viết, tính toán. Như vậy họ đã thực hiện phổ cập giáo dục cho nam giới trước các dân tộc khác hàng mười mấy thế kỷ. Israel là nước đứng đầu thế giới về dân số từ 14 tuổi đọc sách, đứng đầu về số đầu sách xuất bản theo đầu dân. Không một người Do Thái thành đạt nào lại không tranh thủ thời gian để đọc, để học, để làm giàu hiểu biết. Ngay cả tại nghĩa trang, người ta cũng để sẵn sách vì tin rằng những đêm có trăng, các linh hồn sẽ ra đọc sách. Thì ra trong lúc người Viêt Nam ta đang kêu gọi hãy đọc sách và học suốt đời thì người Do Thái đã thực hiện học… quá đời! Dân tộc Do Thái coi trọng học giả, coi trọng người thầy. Họ phản ánh sự tôn trọng trong câu đố cho trẻ con là “Nếu thầy và cha con bị bắt mà con chỉ có thể cứu được một người thì con cứu ai?” và đáp án đúng là cứu thầy – vì thầy truyền đạt tri thức cho xã hội. Tri thức được trọng vọng hơn của cải, hơn cả chức tước, là điều khác hẳn với quan niệm của số đông người Việt Nam hiện nay. Do vậy người Do Thái sẵn sàng hy sinh cả gia tài để được làm thông gia với gia đình trí thức. Theo truyền thống, hôn nhân giữa người thuộc gia đình người có học thức cao với thành viên gia đình thương gia là một cuộc hôn nhân lý tưởng, làm cho việc kinh doanh càng trở nên có trí tuệ hơn. Từ ngàn xưa, người Do Thái đã xem tri thức là loại vốn đặc biệt vì có thể sinh ra vốn và của cải, lại không bị cướp đoạt được.
Người Do Thái đã tự khai sáng mình ngay từ buổi bình minh của lịch sử loài người như vậy đấy và thành quả mà con cháu họ đạt được ngày nay trong nhiều lĩnh vực đời sống là kết quả tất yếu, là sự tưởng thưởng xứng đáng. Người Việt Nam phải phục họ thì không có gì phải xấu hổ. Người Việt Nam cần quyết tâm tự khai sáng noi theo dân tộc Do Thái, cùng đồng tâm nhất trí loại trừ những thói quen gây hại cho việc phát triển trí tuệ trong cả ba môi trường giáo dục là gia đình, nhà trường và xã hội, cùng nhau hình thành thang giá trị mới, trở nên thật sự hiếu học và có thói quen học suốt đời.
* Năm 2011, chỉ riêng các nhà khoa học Israel đã giành đến… 10 giải Nobel.
* Từ ngàn xưa, người Do Thái đã xem tri thức là loại vốn đặc biệt vì có thể sinh ra vốn và của cải, lại không bị cướp đoạt được.

THEO TS. HỒ THIỆU HÙNG
(https://www.facebook.com/notes/học-viện-do-thái/học-cách-giáo-dục-của-người-do-thái)

    

Trả lời

Hướng Đi Ministries Hướng Đi Ministries
9/10 1521 bình chọn