OLD TESTAMENT WORDS FOR TODAY
Warren W. Wiersbe
Bài 10
“Nguyện Đức Giê-hô-va báo đáp điều nàng đã làm; nàng đã đến núp dưới cánh Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên; cầu xin Ngài thưởng cho nàng cách trọn vẹn.”
Ru-tơ 2:12
Chúa đã ban câu trả lời cho công việc của Ru-tơ, nhưng cô sẽ chẳng có việc gì làm nếu như trước hết không đặt đức tin nơi Chúa, vì “đức tin không có việc làm thì chết” (Gia-cơ 2:26). Lời làm chứng của cô trong Ru-tơ 1:16-17 là một trong những lời làm chứng lớn nhất từ Kinh thánh và cuộc đời cô là một trong những cuộc đời tinh sạch và ngọt ngào nhất. Vì Ru-tơ tin cậy Chúa, Chúa đã trả lời cô để mang đến những thay đổi lạ lùng trong đời sống của cô.
Người bên ngoài bước vào. “Dân Am-môn và dân Mô-áp sẽ không được phép vào hội Đức Giê-hô-va” (Phục 23:3), nhưng Ru-tơ đã từ chối hình tượng của truyền thống gia đình và tiếp nhận Chúa. Cô là người cải đạo và trở nên một thành viên của dân tộc Israel. Nhưng hơn nữa, nói theo cách thuộc linh, cô đã tiến vào nơi chí thánh trong đền tạm, dưới cánh của chê-ru-bin che phủ Hòm giao ước (Thi 36:7; 61:4; 91:1-4). Tôi cũng có kinh nghiệm tương tự khi tôi tin cậy Đấng Christ. “Nhưng trong Đức Chúa Jêsus Christ, anh em là kẻ ngày trước cách xa, hiện nay đã nhờ huyết Đấng Christ mà được gần rồi” (Êph. 2:13).
Người than khóc tìm thấy bình an. Chương mở đầu của sách Ru-tơ là một câu chuyện bi thương đầy nước mắt. Ê-li-mê-léc cùng với vợ là Na-ô-mi và hai con trai lìa bỏ Bết-lê-hem đến kiều ngụ trong xứ Mô-áp. Sau đó chồng của Na-ô-mi chết và các con trai cũng chết, để lại ba góa phụ. Thời đó góa phụ và những người phung bị xã hội coi thường. Na-ô-mi quyết định trở về Bết-lê-hem và Ru-tơ khăng khăng được tháp tùng mẹ chồng. Khi họ trở về, Na-ô-mi nói với các bạn mình, “Chớ gọi tôi là Na-ô-mi, hãy gọi là Ma-ra”. Ma-ra trong tiếng Hê-bơ-rơ có nghĩa là cay đắng (Ru-tơ 1:20). Nhưng Ru-tơ có sự bình an của Đức Chúa Trời trong lòng và ngay lập tức bắt đầu phục vụ mẹ chồng của mình. Chị dâu của Ru-tơ ở lại Mô-áp để có thể tái hôn và tìm sự may mắn theo cách loài người (1:9), nhưng phước hạnh mà Ru-tơ kinh nghiệm tại Bết-lê-hem thì lớn hơn rất nhiều.
Người lao tác kinh nghiệm sự thỏa lòng. Ru-tơ học biết rằng theo luật của người Hê-bơ-rơ cho phép người nghèo mót lúa giữa các bó lúa trong mùa gặt, và cô muốn phụng dưỡng Na-ô-mi trong khả năng của cô theo cách tốt nhất. Ở đây chúng ta thấy có sự sắp xếp của Đức Chúa Trời, vì “chỉ tình cờ” cô mót lúa trong đồng ruộng của Bô-ô, một người họ hàng của Na-ô-mi, và “chỉ tình cờ” Bô-ô xuất hiện đúng lúc khi cô đang mót lúa. Tình yêu đến “từ cái nhìn đầu tiên” và ông bảo cô chỉ cần mót lúa ở trong đồng ruộng của ông mà thôi. Ông truyền lịnh cho những người làm công phải bảo vệ và cung ứng cho cô một cách chủ ý qua việc thả các gié lúa tốt để cô lượm lấy. Bô-ô bảo đảm rằng Ru-tơ có chỗ nghỉ ngơi và đồ ăn thức uống, dù cô là một người xa lạ! Ru-tơ đã tìm được ân huệ (ân điển) trong mắt của Bô-ô (2:2, 10, 13). Đây chính là phương cách mà sự cứu rỗi bắt đầu.
“Không có người nào” được tôn trọng như thế. Ru-tơ không chỉ trở nên người tin và là thành viên của cộng đồng Israel, nhưng cô còn kết hôn với Bô-ô và sinh ra ông nội của Vua Đa-vít! Hơn nữa, tên của cô được tìm thấy trong gia phả của Chúa Jesus Christ (Math. 1:5). Khởi đầu, Ru-tơ là một góa phụ nghèo (chương 1) sống bằng những bông lúa sót (chương 2). Cô nhận được món quà từ Bô-ô (chương 3) và cuối cùng kết hôn với ông, chia sẻ mọi sự giàu có của ông (chương 4). Đây là ân điển của Đức Chúa Trời! Những điều này là “sự đền đáp” của Đức Chúa Trời cho đến ngày cô về thiên đàng và nhận lãnh “phần thưởng đầy đủ.”
Sự đền đáp được ban xuống ở đây và phần thưởng đầy đủ thì ở trên trời. Đó là cách của Chúa – Chủ nhân đáng kính mà chúng ta đang phụng sự! Hãy chắc rằng chúng ta là những đầy tớ mà phần thưởng đã được dành sẵn.
“Chính các ngươi hãy giữ, hầu cho khỏi mất kết quả của công việc mình, nhưng cho được phần thưởng đầy đủ.”
2 Giăng 8
Translated by Tuong Vi
Bài trước:
Bài viết cùng chủ đề: https://huongdionline.com/2015/07/28/ru-to/