Thưa Mục Sư!
-Tại sao Tin Lành truyền đến Việt Nam đã 100 năm, vậy mà nhiều người Việt Nam vẫn chưa tin thờ Chúa?
Đây là vấn đề đang làm nhiều người yêu Chúa và yêu dân tộc Việt quan tâm. Tôi cũng quan tâm đến vấn đề nầy và suy nghĩ đến nhiều lý do. Ở Việt Nam hiện nay, số người tin Chúa theo tỉ lệ rất cao đang xảy ra ở những vùng các dân tộc ít người. Đây là những dân tộc vốn không chịu ảnh hưởng nặng nề bởi các tôn giáo Á Đông như Phật giáo, Khổng Giáo và Lão giáo. Khi nghe giảng về Tin Lành cứu rỗi của Chúa Cứu Thế Giê-su, là Con Một của Đức Chúa Trời giáng thế chịu chết đền tội cho nhân loại để ai tin nhận Ngài đều được tha tội và hưởng sự sống đời đời, thì các dân tộc ít người nầy đã mở lòng tiếp nhận dễ dàng. Họ thật lòng sung sướng về ơn cứu rỗi Chúa ban và trung tín tin thờ Chúa cách yên tâm mặc dầu đang gặp rất nhiều thử thách khó khăn.
Còn đối với người Kinh thì việc tin Chúa không dễ dàng, có nhiều người bằng lòng với truyền thống tôn giáo theo “ông bà để lại.” Cũng có không ít người có thành kiến dẫn đến thái độ chống đối đạo Chúa, không chịu nghe, không chịu tìm hiểu. Tuy nhiên, giống như những dân tộc Á Đông khác, tôi thấy có ba lý do chính đưa đến tình trạng nhiều người Việt Nam vẫn chưa chịu tin thờ Chúa.
Thứ nhất, đạo Chúa cống hiến sự sống đời đời cho loài người như một món quà miễn phí. Kinh Thánh chép: “Thật vậy, nhờ ân sủng, bởi đức tin mà anh chị em được cứu rỗi, đây không phải tự sức anh chị em, nhưng là một tặng phẩm Đức Chúa Trời ban, cũng không phải do công đức anh chị em làm, để không ai có thể khoe mình” (Ê-phê-sô 2:8-9 BDM). Giống như nhiều dân tộc Á Đông khác, nhiều người Việt hay tự hào về dân tộc mình, và hay tự tôn tự đại về công đức của mình nên quyết không muốn nhận một tặng phẩm cho không. Người có lòng tự tôn như vậy thường muốn làm bất cứ việc gì để tạo ra sự cứu rỗi cho mình hay ít ra cũng đóng góp công sức mình vào đó mới được. Nhiều người hiểu lầm cho rằng cái gì miễn phí là không giá trị. Họ quên rằng miễn phí vì đã có người đã trả đủ chi phí rồi. Đạo Chúa rao giảng rằng sự cứu rỗi là tặng phẩm do Đức Chúa Trời tặng không cho người tin nhận Ngài. Đây là thông điệp không thay đổi vì đây là giải pháp của Đức Chúa Trời dành cho loài người tội lỗi. Ngài biết loài người không làm được nên Ngài làm thay. Nhưng lẽ thật nầy đã làm tổn thương lòng tự hào và tự ái của nhiều người, nhất là những người đã và đang cố tạo sự cứu rỗi cho mình bằng sức riêng. Khiêm nhường nhận lãnh món quà cứu rỗi Chúa ban có nghĩa là không còn vấn đề tự cứu, không còn tu luyện, không còn gì để khoe khoang. Đây là điều nhiều người cho “uổng công” hoặc là xấu hổ không chịu nỗi, không chấp nhận được.
Thứ hai, đạo Chúa tuyên bố rằng Chúa Giê-su Cơ-đốc là Chúa Cứu Thế duy nhất của toàn thể nhân loại. Ngài là đấng duy nhất có khả năng cứu rỗi nhân loại thoát vòng tội lỗi vì Ngài đã giáng sinh, đã chịu chết đền tội và đã từ kẻ chết sống lại, đã thăng thiên và sẽ tái lâm. Không một người nào hay giáo chủ nào có được những phẩm chất và công đức nầy. Kinh Thánh chép: “Không có sự cứu rỗi trong một ai khác cả, vì dưới trời không có Danh nào khác được ban cho loài người để chúng ta phải nhờ Danh ấy mà được cứu rỗi” (Công Vụ 4:12 BDM). Chính Chúa Giê-su cũng tuyên bố, “Ta chính là Con Đường, Chân Lý và Nguồn Sống, chẳng bởi Ta thì không ai đến cùng Cha được” (Giăng 14:6 BDM). Những lời tuyên bố có tính cách duy nhất nầy đã làm cho người đương thời, nhất là những người có tôn giáo, đã điên tiết lên và chống đối đến cùng. Nhưng đây là sự lựa chọn mà ai cũng phải đối diện. Sự lựa chọn nầy là kết quả của một nhận định đúng hoặc nhận định sai. Một người phải chọn giữa niềm tin “Có nhiều con đường đến cùng Đức Chúa Trời và con đường nào cũng đúng, cũng tốt, tôi có thể tự cứu, không cần Chúa cưú…” hoặc chọn lẽ thật, “Chỉ có một con đường duy nhất là Chúa Giê-su, tôi phải tin cậy Ngài.” Sự lựa chọn nầy đã phân biệt nhân loại thành hai hạng người, người tin Chúa và người không tin Chúa, người theo đạo Trời và người theo đạo Người. Nhiều người Việt thích theo đạo Người hơn là theo đạo Trời.
Thứ ba, đạo Chúa đòi hỏi đời sống thánh khiết như là bằng chứng của sự cứu rỗi. Nếu Chúa hạ thấp tiêu chuẫn đạo đức xuống một chút cho vừa tầm nhân loại thì có lẽ sẽ có nhiều người theo Ngài hơn. Nhưng bản tính Chúa, kế hoạch của Chúa, ý muốn Chúa và lời hứa của Chúa xưa nay vẫn không thay đổi. Tin cậy và vâng lời Chúa là bí quyết sống đời sống thánh khiết. Kinh Thánh dạy, “Nhưng như Đấng gọi anh em là thánh, thì anh em cũng phải thánh trong mọi cách ăn ở của mình, bởi có chép rằng: Hãy nên thánh vì Ta là thánh” (I Phi-e-rơ 1:15-16). Bài Giảng Trên Núi của Chúa Giê-su đã nêu lên tiêu chuẫn đạo đức cao cả mà không người nào lấy sức riêng có thể làm nỗi. “Thế thì, các ngươi hãy nên trọn vẹn, như Cha các ngươi ở trên trời là trọn vẹn” (Ma-thi-ơ 5:48). Với sức người không ai làm nỗi, nhưng như Phao-lô tuyên bố, “Tôi làm được mọi sự nhờ Chúa ban thêm sức cho tôi,” người tin Chúa có thể đạt được tiêu chuẫn Chúa nhờ sức Chúa. Đây là một tiến trình xảy ra hằng ngày trong đời sống người theo Chúa. Kinh Thánh gọi đây là tiến trình nên thánh dưới tác động của quyền phép Chúa Thánh Linh để người theo Chúa, với sự tin cậy vâng lời, càng ngày càng trở nên giống Chúa Giê-su hơn. Tiến trình nầy bắt đầu bằng sự tái sanh dẫn đến sự xưng công chính, và sự vinh hiển là những việc Đức Chúa Trời thực hiện trong lòng những người tin cậy Ngài từ lúc người đó mời Chúa ngự vào lòng mình cho đến ngày người bước vào Thiên đàng để ở cùng Chúa luôn luôn.
Một nhà thần học Tin Lành đã tuyên bố, “Chỉ người tin mới vâng lời và chỉ người vâng lời mới tin.”
Tôi luôn cầu nguyện để đồng bào Việt Nam dù bận rộn sinh kế hằng ngày vẫn dành thì giờ suy nghĩ về sự cứu rỗi linh hồn của chính mình và thân nhân của mình. Suy nghĩ sẽ dẫn đến lựa chọn: Bạn muốn chọn đạo Trời hay tiếp tục giữ đạo Người; bạn tiếp tục chọn phương pháp tự cứu rỗi theo sáng kiến của loài người hay bạn muốn nhờ cậy công đức đã làm xong của Chúa Cứu Thế ban tặng dư dật cho tất cả mọi người? Sự lựa chọn nầy rất quan trọng và cấp bách vì quyết định số phận đời sống của bạn trong đời nầy và cả đời sau.
Mục Sư Nguyễn Văn Huệ
Ba lý do tại sao Người Việt chưa tin Chúa: một là họ không được cảm động về món quà của ĐCT do sự chết đền tội của Chúa Jesu; từ lý do một tất yếu họ không đồng ý Jesu là giải pháp cứu rỗi duy nhất, vì họ thường quan niệm có nhiều pháp môn, tức là nhiều con đường dẫn đến sự giải thoát. Tại đây có một khoảng cách giữa hai ý niệm: sự giải thoát và sự cứu rỗi, tương ứng với khoảng cách giữa quyền phép của Đức Chúa Trời và sự nổ lực chân chính của con người.
Lý do thứ ba, vì đời sống thánh khiết của người tin theo Chúa, theo tôi chưa thật thuyết phục. Lập luận này dễ dẫn đến hoài nghi, chỉ có tín hữu Cơ-đốc mới có đời sống thánh khiết chăng? Quả thật, sự bình an của Đức Chúa Trời sẽ gìn giữ lòng và ý tưởng của Cơ-đốc nhân hướng đến sự thánh khiết trọn vẹn ( Philip 4:7) Tuy nhiên nên đưa ý giải thích thành ý chính của lý do thứ ba, đó là người ta thiếu ý thức vâng lời Chúa, bởi họ không tin vào món quà và Đấng làm quà là một.
Lý do thứ tư không thể thiếu là Cơ-đốc nhân chưa thật sự thể hiện đời sống thánh khiết bằng tình yêu thương với kẻ lân cận mình. Chúa Jesu đã nhấn mạnh điều này qua sự kiện người Sa-ma-ri nhân lành. Thầy tế lễ , người Lê-vi trung thành với tín lý nhưng vô cảm với đồng loại. Bóng dáng Pha-ri-si đang thịnh hành trong giáo hội Cơ-đốc toàn cầu…( Mat 23:23)
Hy vọng không hề tàn lụi khi dân Chúa thực sự là người-của-Jesu, người có thần của Chúa Cứu Thế (Rôma 8:9)./.