CƠ ĐỐC NHÂN tin rằng những lời của Chúa Giê-su là hoàn toàn có thẩm quyền và đáng tin cậy. Trong khi Ngài còn ở trên đất, Ngài tuyên bố chỉ nói những lời của Đức Chúa Cha, Đấng đã sai Ngài đến thế gian. “Đạo lý của ta chẳng phải bởi ta, nhưng bởi Đấng đã sai ta đến.” (Giăng 7:16; xem thêm 8:28; 12:49). Các sách Phúc âm ghi lại rằng “đoàn dân lấy đạo Ngài làm lạ; vì Ngài dạy như là có quyền” (Ma-thi-ơ 7:28-29). Chính Ngài đánh giá về những lời dạy của Ngài, khi phán rằng: “Trời đất sẽ qua đi, song lời ta không bao giờ qua đâu.” (Mác 13:31). Những lời phán của Ngài sẽ phán xét loài người nơi ngày sau cùng (Giăng 12:48). Chỉ những ai nghe lời Ngài và đem ra thực hành mới vượt qua thử thách cuối cùng của cuộc đời (Ma-thi-ơ 7:24–25).
Một số người có tư tưởng rằng những lời dạy của Chúa Giê-su, được in bằng màu đỏ trong một số phiên bản Kinh Thánh, bằng cách nào đó thì có thẩm quyền hơn phần còn lại của Kinh Thánh. Tất cả Kinh Thánh đều có thẩm quyền, bởi vì như đã thảo luận trong chương trước, Đức Chúa Trời chính là Tác giả của Kinh Thánh. Tuy nhiên, những lời dạy của Chúa Giê-su vẫn đặc biệt quan trọng vì Ngài là chính là — Con Đức Chúa Trời. Vì Ngài là Chúa của chúng ta, nên điều quan trọng là chúng ta phải đặc biệt chú ý đến những gì Ngài đã nói về Kinh Thánh. Thái độ của Ngài đối với Lời của Đức Chúa Trời cũng phải là thái độ của chúng ta.
SỰ NỔI BẬT CỦA KINH THÁNH TRONG CUỘC ĐỜI CỦA CHÚA GIÊ-SU
Chúa Giê-su Thường Xuyên Sử Dụng Kinh Thánh
Cho dù Ngài đang chiến đấu với Sa-tan trong khi chịu cám dỗ, khi giảng dạy cho đám đông bên bờ biển, hay khi chỉ dẫn các môn đồ của Ngài, những lời của Chúa Giê-su đều nhấn mạnh đến việc trích dẫn từ Kinh Thánh Cựu Ước. Những lời đó luôn ở trên môi Ngài trong lời cầu nguyện, ngay cả trong sự thương khó của Ngài trên thập tự giá. Tâm trí của Ngài ngập tràn những lời Kinh Thánh đến nỗi Ngài dùng những lời đó để bày tỏ cảm xúc của chính Ngài. Nỗi thống khổ của Đa-vít nhiều thế kỷ trước đó đã trở thành biểu hiện cho nỗi đau đớn tột cùng của chính Ngài khi Ngài kêu lên từ thập tự giá, “Đức Chúa Trời tôi ơi! Đức Chúa Trời tôi ơi! Sao Ngài lìa bỏ tôi?” (Ma-thi-ơ 27:46). Và khi Ngài chết, Ngài đã nói theo lời của trước giả Thi thiên: “Tôi phó thác thần linh tôi vào tay Chúa” (Thi thiên 31:5; Lu-ca 23:46). Ngay cả sau khi Ngài sống lại, Ngài cũng đã giải thích Kinh Thánh (24: 44–45).
Trong bản dịch King James, bốn sách Phúc âm bao gồm 3.779 câu. Theo Graham Scroggie, thì trong đó có 1.934 câu hầu hết hoặc một phần là chứa những lời phán của Đấng Christ. Trong số 1.934 câu này có khoảng 180 câu, hoặc khoảng một phần mười là trích dẫn hoặc ám chỉ đến Kinh Thánh Cựu Ước. Ngay cả điều này cũng không cung cấp cho chúng ta một bức tranh đầy đủ, vì như John W. Wenham lưu ý rằng, “Trong nhiều đoạn văn, đơn giản là không có cách nào để phân biệt giữa sự ám chỉ có ý thức của Chúa Giê-su đối với Cựu Ước và cách sử dụng bình thường theo thói quen của Ngài đối với các lời trong Cựu Ước. Lời Kinh Thánh đã xuyên thấu qua tâm trí của Đấng Christ.”
Chúa Giê-su đề cập đến Kinh Thánh bao gồm toàn bộ phạm vi lịch sử Cựu Ước. Trong số đó rất nhiều người và sự kiện mà Ngài đề cập đến là việc tạo dựng A-đam và Ê-va và định chế hôn nhân (Ma-thi-ơ 19:4-6), cái chết của A-bên (23:35), thời kỳ Nô-ê và cơn Đại hồng thủy (24:37-38), sự hủy diệt Sô-đôm (Lu-ca 17:29), Áp-ra-ham (Giăng 8:56). Y-sác và Gia-cốp (Ma-thi-ơ 8:11), sự xuất hiện của Đức Chúa Trời trong bụi gai cháy (Mác 12:26), cuộc đời của Đa-vít (Ma-thi-ơ 12:3), Sa-lô-môn (12:42), chức vụ của Ê-li (Lu-ca 4:25), và sự tử đạo của tiên tri Xa-cha-ri (Ma-thi-ơ 23:35). Ngài cũng đề cập đến sự cung ứng kỳ diệu của Đức Chúa Trời về ma-na (Giăng 6:49), cái chết của vợ Lót (Lu-ca 17:31-32), con rắn đồng (Giăng 3:14), Giô-na và con cá lớn (Ma-thi-ơ 12:40).
Việc Chúa Giê-su đề cập đến những sự kiện này và những nhân vật trong Cựu Ước không chỉ đơn giản là những giải thích phụ thêm vào sự dạy dỗ của Ngài. Nhiều người trong số những nhân vật và sự kiện này đã báo trước về chức vụ thiên sai của Ngài và các sự kiện tương lai trong những ngày sau rốt. Đa-vít, Sa-lô-môn, Giô-na và những người khác, là những hình ảnh của chính Ngài, và con rắn bằng đồng là tượng trưng cho sự cứu rỗi của Ngài thông qua thập tự giá. Thời kỳ của Nô-ê là tượng trưng cho sự phán xét chung cuộc hầu đến.
Một số người nói rằng việc Chúa Giê-su đề cập đến những sự kiện này không có nghĩa là Ngài coi chúng là lịch sử. Sau hết, điều này được lập luận rằng, người ta có thể sử dụng truyền thuyết làm minh họa cho lẽ thật thuộc linh. Tuy nhiên, cách Chúa Giê-su trích dẫn những sự kiện này trong sự dạy dỗ của Ngài để xác nhận tính thực tế lịch sử của chúng. Việc Chúa Giê-su đề cập đến chế độ một vợ một chồng (Ma-thi-ơ 19:4-5; Mác 10:6-8) chắc chắn ngụ ý tính lịch sử của câu chuyện buổi đầu sáng thế về A-đam và Ê-va. Chúa Giê-su tuyên bố rằng “Ðến ngày phán xét, dân thành Ni-ni-ve sẽ đứng dậy với dòng dõi nầy mà lên án nó, vì dân ấy đã nghe lời Giô-na giảng và ăn năn” (Ma-thi-ơ 12:41) sẽ là vô nghĩa, trừ khi có “người dân của Ni-ni-ve” thực sự đã từng nghe một nhân vật lịch sử tên là Giô-na. Lời tuyên bố tương tự rằng trong ngày phán xét thì dân thành Sô-đôm sẽ bị nhẹ hơn đối với dân thành Ca-bê-na-um, là những người đã thấy những công việc kỳ diệu của Ngài nhưng không chịu ăn năn (11: 23–24), cho thấy rõ ràng tính chất lịch sử của biến cố tại Sô-đôm. Điều tương tự cũng phải nói là về việc Ngài đề cập đến cơn Đại hồng thủy như một bức tranh về sự phán xét hầu đến. Việc so sánh sự chết và sự sống lại của chính Ngài với “ba ngày ba đêm trong bụng cá lớn” của Giô-na (12:40) liên hệ đến kinh nghiệm thực tế của Giô-na.
Những ví dụ này và những ví dụ khác, chẳng hạn như các liên quan đến Áp-ra-ham (Giăng 8:56-58), Ê-li và Ê-li-sê (Lu-ca 4:25-27), cho thấy rằng Chúa Giê-su, trái với nhiều người chỉ trích Kinh Thánh, đã chấp nhận tính lịch sử của toàn bộ Cựu Ước. Theo lời dạy của Chúa Giê-su, thì Đức Chúa Trời đã tạo ra hai con người đầu tiên là A-đam và Ê-va (Ma-thi-ơ 19:4). Từ đó có Ca-in và A-bên (Lu-ca 11:51), và có một trận lụt vào thời kỳ Nô-ê. Sô-đôm và Gô-mô-rơ đã bị lửa thiêu hủy, và sự kiện của vợ Lót hóa thành tượng muối là biến cố có thật trong lịch sử (17:29–32). Tương tự, các phép lạ của Ê-li (4:25–26), câu chuyện Giô-na và con cá lớn (Ma-thi-ơ 12:40–41) là các sự kiện lịch sử đáng tin cậy.
Trái ngược với quan điểm của nhiều học giả hiện đại, Chúa Giê-su khẳng định quyền tác giả của Môi-se đối với năm sách đầu tiên của Kinh Thánh (ngũ kinh), thường được gọi là Luật pháp. Chúa Giê-su đề cập đến Môi-se là người viết Luật pháp khoảng hai mươi lần, và Ngài đã trích dẫn Môi-se mười sáu lần. Ngài đã hỏi các môn đồ, “Môi-se há chẳng ban luật pháp cho các ngươi sao?” (Giăng 7:19). Ngoài ra, một số người cho rằng Sách Ê-sai được viết bởi hai hoặc nhiều tác giả là trái với sự dạy dỗ của Chúa Giê-su. Theo các học giả tự do, Ê-sai 1–39 được viết bởi một người và các chương 40-66 được viết bởi một Ê-sai thứ hai (và một số gán cho các chương từ 56-66 là “Ê-sai” thứ ba). Tuy nhiên, Chúa Giê-su đã đưa ra những tuyên bố từ tất cả các phần của sách cho Ê-sai.
Khái niệm về Kinh Thánh của Chúa Giê-su bao gồm toàn bộ Cựu Ước, như được thấy khi Ngài đề cập đến “Luật pháp Môi-se, các sách Tiên tri và Thi thiên” (Lu-ca 24:44). Vào thời điểm đó, một cách đề cập đến Cựu Ước là nói đến sự phân chia ba phần của sách gồm: Luật pháp, Các Lời tiên tri và các sách Văn thơ. Thi thiên là cuốn sách đầu tiên trong bộ sách Văn thơ. Do đó, Chúa Giê-su đã nói về toàn bộ Cựu Ước, coi tất cả ba phần đó là “Kinh Thánh” (24:45). Toàn bộ Kinh Thánh cũng được mô tả là Luật pháp và các lời tiên tri (Ma-thi-ơ 5:17), hoặc đơn giản là “Luật pháp” (5:18; Giăng 10:34).
Sự hiểu biết rộng rãi của Chúa Giê-su đối với Kinh Thánh và đặc biệt là vị trí trung tâm của nó trong tất cả sự dạy dỗ và chức vụ của Ngài dẫn đến kết luận rằng Ngài hoàn toàn tin tưởng và thực hành Kinh Thánh trong cuộc sống của chính mình. Trích dẫn Kinh Thánh được ghi lại đầu tiên của Ngài, “Người ta sống chẳng phải chỉ nhờ bánh mà thôi, song nhờ mọi lời nói ra từ miệng Ðức Chúa Trời.” (Ma-thi-ơ 4:4; xem Phục truyền Luật lệ Ký 8:3). Charles Haddon Spurgeon từng nói với giáo đoàn của mình, “Thật là diễm phúc khi được ăn sâu vào chính linh hồn của Kinh Thánh cho đến tận cuối cùng, bạn nói chuyện bằng ngôn ngữ Kinh Thánh, và tâm linh bạn được thấm nhuần những lời của Chúa, đến nổi máu của bạn là sự sống của Kinh Thánh và chính linh hồn của Kinh Thánh chảy ra từ bạn.” Không ai làm gương mẫu tốt hơn cho điều này như Chúa Giê-su.
SỰ CÔNG NHẬN CỦA CHÚA GIÊ-SU VỀ THẨM QUYỀN CỦA KINH THÁNH
Chính Chúa Giê-su Vâng Phục Kinh Thánh
Sự tôn trọng của Chúa Giê-su đối với Kinh Thánh không chỉ thể hiện qua số lần được tìm thấy khi Ngài đề cập đến. Nó cũng được thấy trong sự vâng phục của Ngài đối với thẩm quyền của Kinh Thánh. Trong câu chuyện Sa-tan cám dỗ Chúa, Ngài sử dụng Kinh Thánh đưa ra những mệnh lệnh trái ngược với những gì ma quỷ yêu cầu, và Ngài quyết tâm vâng theo Lời của Đức Chúa Trời (Ma-thi-ơ 4:4, 6-7,10). Ngài biết rằng ý muốn của Đức Chúa Trời dành cho Đấng Mê-si đã được báo trước trong Cựu Ước là để Ngài phải chịu đau khổ và chết. Vì vậy, Ngài đã chống lại thái độ của Phi-e-rơ khi ông từ chối lẽ thật này. Phi-e-rơ bị quở trách, “Ngài xây mặt lại mà phán cùng Phi-e-rơ rằng: Ớ Sa-tan, hãy lui ra đằng sau ta! Ngươi làm gương xấu cho ta; vì ngươi chẳng nghĩ đến việc Đức Chúa Trời, song nghĩ đến việc người ta” (16:23).
Các hành động của Ngài thường bị các nhà lãnh đạo tôn giáo buộc tội Ngài đã vi phạm các điều răn của Luật pháp (Mác 2:24-28; 3:4; Lu-ca 13:14-17). Nhưng câu trả lời của Chúa Giê-su luôn luôn giống nhau. Nếu họ hiểu ý nghĩa thực sự của luật pháp, họ sẽ nhận ra rằng Ngài không vi phạm các điều luật theo bất kỳ cách nào (Giăng 7:21-24). Theo Chúa Giê-su, những vấn đề này nảy sinh vì các thầy dạy luật đã phát triển những truyền thống của con người làm sai lệch Lời của Đức Chúa Trời (Mat 15:6). Ví dụ, Chúa Giê-su thấy rằng những giới hạn của Bộ luật Do Thái, là những quy tắc do các giáo sư Do Thái đặt ra để tuân giữ các điều răn, nhưng lại ngăn cản tuyển dân yêu thương người lân cận (chữa lành người bệnh) vào ngày Sa-bát (Mác 3:1-6). Bởi vì Ngài hoàn toàn vâng phục Lời của Đức Chúa Trời, Chúa Giê-su có thể nói với các kẻ đối kháng Ngài, “Ai trong các ngươi kết tội được Ta [chứng minh Ta có tội]?” nhưng không ai có thể làm như vậy (Giăng 8:46; xem thêm 18:23). Học giả Tân Ước Adolph Schlatter đã ghi nhận một cách chính xác, “Chúa Giê-su nhìn thấy toàn bộ sự kêu gọi đời sống của Ngài trong Kinh Thánh—đó không phải là điều không liên quan mà hoàn toàn là trọng tâm trong đời sống của Ngài…. Toàn bộ ý chí của Ngài bị tiêu hao với điều này: để làm theo những gì mà từng điều răn đã truyền. Đây là Một Người—đầu tiên trong lịch sử—không chỉ hiểu biết Lời mà còn thực hiện Lời.”
Có lẽ còn hơn cả việc Ngài tuân theo các mệnh lệnh công chính của Luật pháp Đức Chúa Trời dành cho dân Ngài, sự phục tùng của Chúa Giê-su đối với Kinh Thánh được thể hiện rõ ràng qua cách Ngài xem chính Ngài là sự ứng nghiệm của Lời Kinh Thánh. Ngài phán, “Các ngươi dò xem Kinh thánh, vì tưởng bởi đó được sự sống đời đời: Ấy là Kinh thánh làm chứng về ta vậy trong Kinh Thánh” (Giăng 5:39). Và với hai môn đồ trên đường về làng Em-ma-út, Ngài phán: “Ấy đó là điều mà khi ta còn ở với các ngươi, ta bảo các ngươi rằng mọi sự đã chép về ta trong luật pháp Môi-se, các sách tiên tri, cùng các Thi thiên phải được ứng nghiệm” (Lu-ca 24:44).
Sự phục tùng của Ngài đối với Kinh Thánh cũng được nhìn thấy qua cách mà những lời tiên tri đã dự báo Ngài phải đi trên con đường đau khổ cho đến chết. Tại lễ báp têm của Ngài, Ngài truyền bảo Giăng Báp-tít, “vì chúng ta nên làm cho trọn mọi việc công bình như vậy.” (Ma-thi-ơ 3:15), nghĩa là, việc làm báp têm cho Ta là điều cần thiết để Ta có thể hoàn thành công việc của Ta trong sự vâng lời với tư cách là Tôi tớ của Đức Giê-hô-va. Vào cuối cuộc đời trên đất, Chúa Giê-su phán dạy các môn đồ rằng: “Nầy, chúng ta lên thành Giê-ru-sa-lem, mọi điều mà các đấng tiên tri đã chép về Con người sẽ ứng nghiệm. Vì Ngài sẽ bị nộp cho dân ngoại… sau khi đánh đòn rồi, thì giết Ngài đi; đến ngày thứ ba, Ngài sẽ sống lại” (Lu-ca 18:31-33). “Ngài đã bị kể vào hàng kẻ dữ” – Lời này phải ứng nghiệm về chính mình ta. Thật vậy, sự đã chỉ về ta hầu được trọn (22:37). Sự phục tùng mà Cựu Ước đã tiên tri về sự thương khó của Ngài được thấy khi Ngài bị bắt tại Ghết-sê-ma-nê. Khi một trong những môn đồ cố gắng bảo vệ Ngài bằng một thanh gươm, nhưng Chúa Giê-su bảo môn đồ đó hãy đặt thanh gươm trở lại vị trí cũ, và nói rằng Ngài có thể cầu xin Cha mình ban cho mười hai đội thiên sứ để bảo vệ Ngài. Ngài từ chối sự trợ giúp như vậy, và giải thích, “Nếu vậy, thế nào cho ứng nghiệm lời Kinh Thánh đã chép rằng việc nầy tất phải xảy đến?” (Ma-thi-ơ 26:54). Như vậy có thể thấy rằng Chúa Giê-su biết trước và Ngài chấp nhận chương trình của Cha thiên thượng.
Có thể thấy sự lệ thuộc của Chúa Giê-su vào một kế hoạch cứu chuộc vĩ đại mà sự mặc khải trước đó ban cho Y-sơ-ra-ên, đã hình thành nên tâm thái chuẩn bị của Ngài.
Chúa Giê-su sử dụng Kinh Thánh trong sự giảng dạy của Ngài
Bên cạnh việc thể hiện niềm tin của Ngài vào thẩm quyền của Kinh Thánh bằng cách phục tùng Kinh Thánh, Chúa Giê-su đã sử dụng Kinh Thánh là thẩm quyền tối hậu trong sự dạy dỗ của Ngài. Mặc dù chính Ngài là Lời mặc khải tối hậu của Đức Chúa Trời (Hê-bơ-rơ 1:3) và mặc dù Ngài đã nhận được sự mặc khải từ Cha (Ma-thi-ơ 11:27), phần lớn sự dạy dỗ của Ngài dựa trên những lời trong Kinh Thánh Cựu Ước. Điều này đặc biệt rõ ràng trong các phần Kinh Thánh sau:
Các ngươi chưa đọc những gì Đa-vít đã làm phải không? (Ma-thi-ơ 12:3)
Hay là các ngươi không đọc? (12:5)
Các ngươi há chưa đọc sao? (19:4)
Các ngươi chưa hề đọc lời này sao? (21:16)
Các ngươi há chưa hề đọc lời trong Kinh Thánh sao? (21:42)
Các ngươi há không đọc lời Đức Chúa Trời phán sao? (22:31)
Môi-se đã dạy các ngươi điều gì? (Mác 10:3)
Trong luật pháp có chép điều gì? Ngươi đọc gì trong đó? (Lu-ca 10:26)
Vậy thì điều đó nói gì? (20:17)
Trong luật pháp của các ngươi chép điều gì? (Giăng 8:17)
Điều đó không được chép trong Luật pháp của các ngươi sao? (10:34)
Nhiều lời dạy khác của Chúa Giê-su được giới thiệu bằng những lời tuyên bố tương tự, trong đó Ngài kêu gọi sự chú ý đến Cựu Ước một cách rõ ràng. Nhưng những điều này không có nghĩa là kể tất cả câu chuyện, vì phần lớn Cựu Ước thiết lập nền tảng cho sự dạy dỗ của Ngài.
Các chủ đề cơ bản về sự dạy dỗ của Chúa Giê-su cũng như những chủ đề có tính chất ngẫu nhiên hơn được xây dựng dựa trên Cựu Ước. Lời tuyên bố của Ngài về vương quốc thiên đàng bắt nguồn từ lời tiên tri của Đa-ni-ên rằng “Đức Chúa Trời trên trời sẽ thiết lập một vương quốc” (Đa-ni-ên 2:44). Trong cuộc trò chuyện của Ngài với Ni-cô-đem, Chúa Giê-su ám chỉ rằng lẽ ra Ni-cô-đêm là một người cai trị trong Y-sơ-ra-ên phải biết lẽ thật về sự tái sanh bởi Đức Thánh Linh (Giăng 3:3-8), bởi vì Ê-xê-chi-ên và những người khác đã nói về điều đó (Ê-xê-chi-ên 36:25-27). Chúa Giê-su đề cập đến cơn đại nạn trong tương lai (Mác 13:14) mà Đa-ni-ên đã viết về nó (Đa-ni-ên 9:27; 11:31; 12:11). Và sự mô tả của Chúa Giê-su về hình phạt đời đời, “đó là nơi sâu bọ chúng nó chẳng hề chết, và là nơi lửa chẳng hề tắt” (Mác 9:48) trích từ Ê-sai 66:24.
Để trả lời câu hỏi của những người Pha-ri-si về việc ly hôn, Chúa Giê-su đã căn cứ thần học về hôn nhân dựa trên lời giải trình của sách Sáng thế ký về sự Sáng tạo. Đức Chúa Trời đã tạo ra người nam và người nữ và cả hai trở nên một thịt. Đây là sự dạy dỗ của Kinh Thánh, và vì vậy đây là ý muốn của Đức Chúa Trời (Mat 19: 4-6). Vào một dịp khác, Chúa Giê-su đã tóm tắt sự hiểu biết của Ngài về bổn phận tối thượng của con người trước mặt Đức Chúa Trời trong những lời dạy của Phục truyền luật lệ ký 6:5: “Ngươi hãy hết lòng, hết linh hồn, hết ý mà yêu mến CHÚA, là Ðức Chúa Trời ngươi.” (Ma-thi-ơ 22:37). Ngay cả điều gọi là Luật Vàng— hễ điều chi mà các ngươi muốn người ta làm cho mình, thì cũng hãy làm điều đó cho họ, “vì ấy là luật pháp và lời tiên tri.” (7:12).
Những lời đã được tiên tri Ê-sai nói nhiều thế kỷ trước cho dân sự vào thời của Ngài cũng được áp dụng cho các thầy thông giáo và người Pha-ri-si vào thế kỷ thứ nhất: “Dân nầy lấy môi miếng thờ kính ta; Nhưng lòng chúng nó xa ta lắm. Sự chúng nó thờ lạy ta là vô ích, Vì chúng nó dạy theo những điều răn mà chỉ bởi người ta đặt ra.” (Mat 15:8-9; trích Ê-sai 29:13). Sự phán xét thiên thượng về sự mù quáng thuộc linh vì đã khước từ lẽ thật được tiên tri Ê-sai tuyên bố (Ê-sai 6:9-10) vẫn được áp dụng cho thế hệ từ chối sự dạy dỗ của Ngài (Mác 3:12).
Đôi khi đó chỉ là một cụm từ hoặc ý nghĩ ngắn gọn có thể áp dụng cho một tình huống nhất định. Chúa Giê-su nói đến cụm từ “chiên không có người chăn” (được dùng nhiều lần trong Cựu Ước) là một mô tả rất thích hợp về đoàn dân đông trong thời của Ngài (Dân số ký 27:17; Ê-xê-chi-ên 34:5; Ma-thi-ơ 9:36). Ngài cảnh báo đừng chiếm chỗ ngồi danh dự trong bàn tiệc kẻo có người xứng đáng hơn (Lu-ca 14:7-11), lẽ thật này đã được tìm thấy trong Châm ngôn 25:6-7. Câu nói nổi tiếng của Ngài, “Các ngươi thường có kẻ nghèo ở cùng mình” (Ma-thi-ơ 26:11) dựa trên một tuyên bố có hiệu lực trong Phục truyền luật lệ ký 15:11. Những lời dạy của Chúa Giê-su về việc một hòn đá bị những thợ xây dựng từ chối và những ai vấp phải nó sẽ bị dập nát và nó sẽ nghiền nát những người mà nó rơi xuống là được lấy từ Cựu Ước (Ma-thi-ơ 21:42,44; Ê-sai 8:14-15; Đa-ni-ên 2:34,44). Những trích dẫn và lời ám chỉ như vậy về Cựu Ước có thể được tìm thấy ở nhiều chỗ trong Tân Ước.
Trên hết, Chúa Giê-su dùng Kinh Thánh để giải thích con người và sứ mệnh của Ngài ở thế gian. Chúng ta đã được nhắc nhớ rằng, sau khi Phục sinh, Ngài đã sử dụng toàn bộ Cựu Ước để chỉ dẫn các môn đồ của Ngài về những điều liên quan đến chính Ngài. Nhưng trước đó rất lâu, Ngài đã nói đến sự ứng nghiệm của Kinh Thánh về chính Ngài. Ngài đã đến, “không phải… phá Luật pháp hay là Lời tiên tri,” song để làm ứng nghiệm” (Ma-thi-ơ 5:17). Chức vụ của Giăng Báp-tít đã ứng nghiệm lời tiên tri của Ê-sai rằng một sứ giả sẽ được sai đến để dọn đường trước mặt Chúa (Ma-thi-ơ 11:10; Ê-sai 40:3). Và Chúa Giê-su đã giới thiệu chức vụ của Ngài tại Na-xa-rét bằng cách lấy cuộn sách trong nhà hội và đọc từ Ê-sai 61:1, “Thần của Chúa ngự trên ta: Vì CHÚA đã xức dầu cho ta đặng truyền Tin Lành cho kẻ nghèo” (Lu-ca 4:18). Sau đó, Ngài nói những lời này đã được ứng nghiệm trong chính Ngài (4:21). Vào một dịp khác, khi các môn đồ của Giăng đặt câu hỏi liệu Ngài có thực sự là “Đấng Sẽ Đến” hay không, Chúa Giê-su đã xác thực danh tính của Ngài bằng cách chỉ vào các phép lạ của Ngài, điều này làm ứng nghiệm lời tiên tri mà Ê-sai đã nói tiên tri về Đấng Mê-si và thời gian của Ngài trên đất (Ma-thi-ơ 11:1-6; Ê-sai 35:5-6).
Không chỗ nào trong Kinh Thánh mà sự giải thích của Chúa Giê-su về các hành động của Ngài là sự ứng nghiệm của Kinh Thánh rõ ràng hơn là trong các sự kiện xung quanh sự đóng đinh. Ngài bị các nhà lãnh đạo Do Thái từ chối (Ma-thi-ơ 21:42; Thi thiên 118:22); Ngài bị phản bội bởi một trong các môn đồ của Ngài (Giăng 13:18; Thi thiên 41:9); các môn đồ của Ngài bị phân tán khi Ngài bị bắt (Ma-thi-ơ 26:31; Xa-cha-ri 13:7); Sự chết thế của Ngài (Mác 10:45; Ê-sai 53:10-11)—tất cả những gì mà Chúa Giê-su nói đều được ứng nghiệm Lời tiên tri của Đức Chúa Trời về chính Ngài.
Chỉ một thời gian ngắn trước khi chết, “Ðức Chúa Giê-su biết mọi việc đã được trọn rồi, hầu cho lời Kinh Thánh được ứng nghiệm, thì phán rằng: “Ta khát’” (Giăng 19:28). Ngay cả lời tuyên bố khá ngẫu nhiên của người viết thi thiên về nước uống khó chịu mà Người Đầy tớ Thống khổ của Đức Chúa Trời sẽ nhận được từ những kẻ bắt bớ Ngài cũng đã được ứng nghiệm trong Ngài (Thi thiên 69:21).
Khi Ðức Chúa Giê-su chịu lấy giấm ấy rồi, “bèn phán rằng: ‘Mọi việc đã được trọn’; rồi Ngài gục đầu mà trút linh hồn” (Giăng 19:30). Tất cả những lời tiên tri trong Kinh Thánh nói về sự sống và cái chết của Ngài đã được ứng nghiệm. Là Tôi tớ vâng lời, Ngài phải làm trọn những lời chỉ về Ngài trong Kinh Thánh.
còn nữa
admin
sách tham khảo UNDERSTANDING CHRISTIAN THEOLOGY