Thứ Sáu , 15 Tháng Mười Một 2024
Home / Trang Chủ / Suy Ngẫm Cựu Ước Với Warren W. Wiersbe

Suy Ngẫm Cựu Ước Với Warren W. Wiersbe

Suy Ngẫm Cựu Ước Với Warren W. Wiersbe

Nguyên tác: Old Testament Words For Today

Tác giả: Warren W. Wiersbe

Translated by Tuong Vi – Vinh Hien

 

Lời Nói Đầu

 

“Tôi tạ ơn Đức Chúa Trời, vì đã được ơn nói tiếng lạ nhiều hơn hết thảy anh em;  nhưng thà tôi lấy năm lời bằng trí khôn mình mà rao giảng trong Hội thánh, để được dạy bảo kẻ khác, hơn là lấy một vạn lời bằng tiếng lạ.” (1 Cô-rinh-tô 14:18-19)

Nếu bạn biết cách chọn lựa các từ ngữ, thì chỉ cần năm từ ấn tượng có thể diễn đạt các ý tưởng làm thay đổi cuộc sống.

Thomas Jefferson đã viết năm từ sau đây trong bản Tuyên ngôn độc lập: Mọi người (sinh ra) đều bình đẳng (All men are created equal). Về sau Abraham Lincoln đã trích dẫn năm từ này trong bài diễn văn nổi tiếng Gettysburg Address.

“Một cảnh tượng ghê gớm đang ám ảnh Âu Châu” (A specter is haunting Europe) là những từ mà Karl Mark và Friedrich Engels sử dụng để mở đầu trong bản Tuyên ngôn cộng sản. Nội dung của nó đã làm rung chuyển một phần của thế giới.

Vào ngày 18 tháng 6 năm 1940, Thủ tướng Winton Churchill đã làm say mê dân chúng nước Anh với một bài diễn văn được kết luận bằng năm từ khó quên: “Chúng ta hãy tự mình gánh vác bổn phận, và hãy chịu trách nhiệm trước lịch sử. Nếu Khối Liên Hiệp Anh và Đế chế của nó tồn tại trong một ngàn năm, con người trên thế giới vẫn sẽ nói: ‘Đây là khoảng thời gian thành công vĩ đại nhất của họ.’  This was their finest hour.”

Kinh Thánh là “lời sống và linh nghiệm” (Hê-bơ-rơ 4:12) chứa đựng nhiều lời công bố bao gồm năm từ – mà Đức Thánh Linh có thể truyền cảm hứng để dẫn dắt chúng ta trong thế giới hỗn loạn ngày nay. Trong quyển sách này tôi sẽ chia sẻ sự suy ngẫm cá nhân trên nền tảng một trăm cụm từ ngắn trong Tân Ước của bản Kinh Thánh New King James Version.

Tôi tin rằng khi bạn suy ngẫm Lời Chúa và xem xét những điều tôi chia sẻ, Đức Thánh Linh sẽ soi sáng, khích lệ bạn khám phá ý chỉ của Đức Chúa Trời và vui thích thực hiện nó.

 

Warrren W. Wiersbe

 

Bài 1

 

Rắn bèn nói với người nữ rằng, “Hai ngươi chẳng chết đâu.

Sáng thế ký 3: 4

Đức Chúa Trời đặt tổ phụ của chúng ta trong một khu vườn đáng yêu nơi mà tất cả các nhu cầu của họ được đáp ứng. Adam và Eva cũng có đặc ân tương giao với Đức Chúa Trời và phụng sự Ngài. Kẻ thù chuẩn bị để tấn công họ, và từ sự kiện này chúng ta có thể học được bài học cho mình: chúng ta cần phải vâng lời để chiến thắng kẻ thù.

Đừng cho Satan một cơ hội. Một trong những trách nhiệm của Adam là “giữ” vườn (Sáng 2: 15), nghĩa là bảo vệ vườn. Từ này cũng được dùng trong Sáng thế ký 3:24, “để giữ con đường đi đến cây sự sống.” Dường như vào một thời điểm nào đó Adam không ở chung với vợ mình, do đó bà là mục tiêu dễ dàng hơn cho ma quỉ. Ê-phê-sô 4: 27 cảnh báo chúng ta “đừng cho ma quỉ nhân dịp,” vì tất cả những gì nó muốn là một “bàn chân đặt vào bên trong ngôi nhà” và nó có thể bắt đầu  tiến hành chiến thuật của nó. Thậm chí hôm nay, các tôi tớ của nó “lẻn vào các nhà” và gây rắc rối trong cộng đồng Hội thánh (2 Ti mô-thê 3: 6; Giu-đe 1: 4). Nuôi dưỡng dục vọng hoặc suy nghĩ không tốt có thể cung cấp cho Satan một cơ hội, và cũng có thể cố ý từ chối làm theo ý chỉ của Đức Chúa Trời.

 

Đừng lắng nghe lời đề nghị của Satan. Satan là kẻ giả mạo và là kẻ đeo mặt nạ không bao giờ bày tỏ bản chất thật của nó. Nó có thể đến như một thiên sứ sáng láng (2 Cô-rin-tô 11: 14) và dẫn chúng ta lạc đường. Chúng ta có thể nói Satan rất khéo léo khi nó đặt câu hỏi về Lời Đức Chúa Trời và khuyến khích chúng ta từ chối uy quyền của Kinh thánh, nó hỏi chúng ta, “Đức Chúa Trời há có phán…?” Trước hết Satan đặt câu hỏi về Lời Chúa, sau đó nó chối bỏ Lời ấy, rồi thay thế bằng sự dối trá. Câu trả lời của chúng ta phải là, “Đúng, Đức Chúa Trời phán, và tôi sẽ cẩn thận về điều đó!” Khi ma quỉ tấn công, chúng ta phải đến cách nhanh chóng với Chúa trong sự cầu nguyện và tìm kiếm sự khôn ngoan của Ngài. Chúa sẽ nhắc nhở về những điều chúng ta đã học được từ Kinh thánh và chúng ta có thể sử dụng gươm của Đức Thánh Linh để chiến thắng Satan, như Chúa Jesus đã làm khi Satan tấn công Ngài (Ê-phê-sô 6:17; Ma-thi-ơ 4: 1-11). Thật quan trọng khi chúng ta giấu Lời Đức Chúa Trời trong lòng, bởi vì điều này giúp chúng ta có khả năng đắc thắng kẻ thù (Thi 119: 11).

Nhắc nhở chính mình về các phước hạnh giàu có của Đức Chúa Trời. Cám dỗ là Satan đem tới cho bạn vài điều mà nó nói là Đức Chúa Trời không thể cho bạn. Khi Satan cám dỗ Chúa Jesus, nó gợi ý, “Cha ngươi phán ngươi là con yêu dấu của Ngài, nếu Ngài yêu ngươi, vậy tại sao ngươi lại đói?” Lời cảnh báo về sự cám dỗ cũng được tìm thấy trong Gia-cơ 1: 12-15. Những câu Kinh Thánh sau đó trong Gia-cơ nhắc nhở rằng chúng ta là những người được nhận lãnh ân tứ tốt lành và trọn vẹn (câu 16-18). Cám dỗ là một loại thay thế lừa dối của Satan đối với ân tứ thật từ trời mà Cha đã ban cho chúng ta. Ma quỉ muốn Chúa Jesus hóa đá thành bánh, nhưng Chúa Jesus đáp lại sự sống của con người đến từ bánh sự sống tức là Lời của Đức Chúa Trời (Ma-thi-ơ 4: 4).

1 Ti-mô-thê 2:14 nhắc chúng ta rằng Eva bị lừa dối bởi Satan, nhưng khi Adam tới cùng vợ ông cũng phạm tội không vâng lời vì ông đồng ý với vợ mình. Bởi vì sự không vâng lời một cách chủ ý mà tổ phụ Adam đã đẩy nhân loại vào tội lỗi và sự phán xét (Rô-ma 5: 12-21). Nhưng qua sự vâng phục của Chúa Jesus Christ và sự chết của Ngài trên thập tự giá đã cứu chúng ta khỏi sự định tội và làm chúng ta trở nên con cái của Đức Chúa Trời.

Hãy chống trả ma quỉ, thì nó sẽ lánh xa anh em.

Gia-cơ 4:7

Cũng hãy cầm gươm của Đức Thánh Linh, là lời Đức Chúa Trời.

Ê-phê-sô 6:17

 

 

 

 

Bài 2

“Đức Giê-hô-va hỏi Ca-in rằng: A-bên, em ngươi, ở đâu? Thưa rằng: Tôi không biết; tôi là người giữ em tôi sao?” (Sáng Thế Ký 4:9)

 

Giống như Ca-in và A-bên, bạn và tôi đã bước vào thế giới này như là những con cái của Adam. Như mọi đứa trẻ đã sinh ra trước chúng ta, chúng ta được sinh ra là những kẻ nhận lãnh sự di truyền từ tổ phụ. Thông qua các tổ phụ, bản chất và cấu trúc di truyền được ban cho chúng ta (Thi 139: 13-16). Nhưng nói cách thuộc linh, chúng ta được sinh ra “tự nhiên làm con của sự thịnh nộ,” và khi chúng ta trưởng thành hơn, chúng ta trở nên “các con của sự không vâng lời” (Ê-phê-sô 2: 1-3). Như hai anh em trên, tất cả chúng ta là tội nhân bởi bản chất và cũng là tội nhân bởi sự lựa chọn cá nhân. Bởi vì thân phận của chúng ta và những gì chúng ta làm, chúng ta cần một Đấng Cứu Rỗi.

Nhưng chúng ta có thể là người tin, được sinh lại lần nữa và trở nên con cái của Đức Chúa Trời, như A-bên đã làm. Ông thừa nhận mình là tội nhân và bởi đức tin mang sinh tế đổ huyết dâng cho Chúa (Hê-bơ-rơ 11:4). Giống như khi chúng ta nhận lấy sự sống con người qua sự sinh nở tự nhiên, thì chúng ta cũng nhận lấy sự sống đời đời bởi sự sinh lại qua đức tin trong Chúa Jesus Christ, Đấng đã phó mạng sống mình như là sinh tế vì các tội lỗi của chúng ta. Ca-in không có đức tin. Ông không thừa nhận mình là một tội nhân và do đó, ông đã không dâng sinh tế đổ huyết, nhưng dâng các công việc bởi tay mình – điều này ra từ đất. “Vả, ấy là nhờ ân điển, bởi đức tin, mà anh em được cứu, điều đó không phải đến từ anh em, bèn là sự ban cho của Đức Chúa Trời. Ấy chẳng phải bởi việc làm đâu, hầu cho không ai khoe mình” (Ê-phê-sô 2: 8-9).

Ca-in không phải là một người tin, ông trở nên một kẻ lừa dối là kẻ thuộc về ma quỉ! “Vả, lời rao truyền mà các con đã nghe từ lúc ban đầu, ấy là chúng ta phải yêu thương lẫn nhau. Chớ làm như Ca-in, là kẻ thuộc về ma quỉ, đã giết em mình” (1 Giăng 3:11-12). Kẻ thuộc về ma quỉ là kẻ từ chối Chúa Jesus Christ nhưng lại thực hành “hình thức tôn giáo” như một Cơ đốc nhân giả mạo. Satan có cả một dòng dõi (Sáng 3:15). Giăng Báp-tít và Chúa Jesus gọi người Pha-ri-si là “dòng dõi rắn lục”, và Satan là con rắn (Ma-thi-ơ 3:7-9; 12:24; 23:33). Chúa Jesus cũng gọi người Pha-ri-si là “người địa ngục” (Ma-thi-ơ 23:15), đó là những người đã đóng đinh Chúa Jesus, và sứ đồ Phao-lô kinh nghiệm “nguy với anh em giả dối” (2 Cô-rin-tô 11:26; Công 20:29-31; 1 Giăng 2:18-23). Một nhà truyền giáo lão thành đã nói với tôi, “Nếu tình yêu thương anh em là một dấu hiệu của tín hữu, thì tôi không nghĩ rằng một nửa những người thuộc các hội thánh địa phương của chúng tôi thật sự đã được sinh lại.”

Nhưng hãy trở lại với Ca-in và câu hỏi của ông: “Tôi là người giữ em tôi sao?” Có một sự mỉa mai kín đáo trong câu hỏi này? Vì em của ông là người giữ chiên (Sáng 4:2), và Ca-in có lẽ hàm ý rằng, “Tôi là người bảo vệ kẻ giữ chiên sao?” Câu trả lời chắc chắn là, “Đúng!” Hai điều răn lớn là yêu Chúa và yêu kẻ lân cận mình, và kẻ lân cận mình là bất cứ ai cần sự giúp đỡ của chúng ta (Lu-ca 10:25-37). Là thành viên của một gia đình, chúng ta phải quan tâm lẫn nhau, và là thành viên của gia đình Đức Chúa Trời, chúng ta càng phải yêu thương và phục vụ lẫn nhau (Ga-la-ti. 5:13). Satan là kẻ nói dối và giết người (Giăng 8:37-45) và Ca-in – kẻ thuộc về ma quỉ thì giống như nó.

“Vậy, đương lúc có dịp tiện, hãy làm điều thiện cho mọi người, nhứt là cho anh em chúng ta trong đức tin” (Ga-la-ti 6:10).

 

Bài 3

Ta sẽ làm cho ngươi nên một dân lớn; ta sẽ ban phước cho ngươi, cùng làm nổi danh ngươi, và ngươi sẽ thành một nguồn phước.

Sáng thế ký 12:2

Từ phước được sử dụng hơn bốn trăm lần trong Kinh thánh với nhiều hình thức khác nhau. Chúng ta thường sử dụng từ này trong các bài chia sẻ hoặc các buổi nói chuyện – và đặc biệt là trong sự cầu nguyện. Phước hạnh là điều gì đó Đức Chúa Trời ban phát, hành động, hoặc phát ngôn để quy vinh hiển cho Ngài. Sứ đồ Phao-lô trước đó đã không nghĩ rằng cái giằm xóc trong thân thể của ông là một phước hạnh, vì thế ông cầu xin Đức Chúa Trời ba lần để loại bỏ nó, nhưng cái giằm xóc đó trở nên phước hạnh cho cả Phao-lô và  hội thánh (1 Cô-rin-tô 12: 7-10). Phi-e-rơ cố gắng ngăn cản Chúa Jesus đi đường thập tự giá (Ma-thi-ơ 16: 21-28), nhưng những gì Chúa Jesus đã hoàn tất tại đồi Calvary đã đem đến phước hạnh cho cả thế giới trải qua các thế hệ và sẽ ban phước cho dân Ngài đến đời đời.

Phước hạnh mà Đức Chúa Trời ban cho chúng ta phải được chuyển tải đến cho người khác, bởi vì Cơ đốc nhân được xem là các ống dẫn, không phải là hồ chứa nước. Nhận lãnh các phước hạnh của Đức Chúa Trời và rồi ích kỷ giữ chúng cho riêng mình là vi phạm một trong những nguyên tắc của đời sống Cơ đốc. “Lòng rộng rãi sẽ được no nê, còn ai nhuần gội, chính người sẽ được nhuần gọi” (Châm ngôn 11:25). Chúng ta được ban phước để chúng ta có thể trở nên một nguồn phước tuôn đổ ra cho người khác.

Bởi vì Áp-ra-ham và Sa-ra tin cậy Đức Chúa Trời và vâng lời Ngài, Đức Chúa Trời ban phước cho họ và khiến họ trở thành nguồn phước cho toàn thế gian. Từ họ ra quốc gia Israel, và dân tộc này đã cho cả thế giới nguồn tri thức về một Đấng chân thật và là Đức Chúa Trời hằng sống. Qua tuyển dân Israel chúng ta có Kinh Thánh và Chúa Jesus Christ, Đấng của rỗi toàn thế gian. Nếu không có sự làm chứng của Israel thì thế giới ngoại bang ngày nay chỉ bao gồm những người dốt nát, thờ hình tượng “không có sự trông cậy và không có Đức Chúa Trời ở thế gian” (Ê-phê-sô 2:12). Nhưng hiện nay “ai tin thì nấy được phước với Áp-ra-ham, là người có lòng tin” (Ga-la-ti 3:9).

Áp-ra-ham chúc phước Lót, cháu mình và để Lót quyền ưu tiên lựa chọn vùng đất trong Ca-na-an (Sáng 13). Ông cũng giải cứu Lót khi Lót bị bắt làm tù binh (Sáng 14), và bởi sự cầu thay của Áp-ra-ham, Lót được cứu khỏi thành Sô-đôm khi nó bị hủy diệt (Sáng 19: 1-29). Không may là Lót đã từ chối bước theo gương mẫu đức tin của bác mình, ông kết thúc cuộc đời trong hang động, say sưa và phạm tội loạn luân (Sáng 19: 30-38). Lót và dòng dõi của ông đã mang đến rắc rối cho Israel, không phải phước hạnh.

Nhưng có ít nhất ba lần mà tổ phụ đức tin Áp-ra-ham thất bại để trở thành một nguồn phước. 1/ Thay vì tin cậy nơi Chúa, Áp-ra-ham cố gắng đi xuống Ai-cập để trốn khỏi nạn đói kém, và ở đó ông đã nói những lời khôn ngoan theo ý riêng về mối quan hệ đầy đủ của ông và Sa-ra (Sáng 12: 10-20). 2/ Ông cũng nói không hết với A-bi-mê-léc, vua Ghê-ra về mối quan hệ thật sự của ông và vợ Sa-ra. (Sáng 20: 1-18). 3/ Ông cố gắng để có được đứa con của lời hứa bằng một phương cách riêng và mang sự chia rẽ vào gia đình (Sáng 16). Bài học gì ở đây cho chúng ta hôm nay? Chúng ta có thể trở nên nguồn phước cho gia đình và cộng đồng khi chúng ta không bước đi với Chúa?

Tất cả chúng ta đều muốn nhận phước hạnh từ Chúa, nhưng không phải bất cứ ai muốn là có thể trở nên nguồn phước cho người khác. Đó là một điểm khác biệt giữa dòng sông và trũng. Sông luôn luôn tuôn chảy, còn trũng là ao tù, ứ đọng. Thi thiên 1 miêu tả về người công chính đã nhận lãnh phước hạnh từ Đức Chúa Trời được ví sánh như một cây trồng gần dòng nước, chia sẻ phước hạnh với người khác. Một thành ngữ trong tiếng Anh “Người trồng cây yêu những cây mọc xung quanh.” Thành ngữ này cũng có thể được ứng dụng cho Cơ đốc nhân phải yêu thương, chia sẻ những phước hạnh của mình cho những người chung quanh.

Các ngươi đã được lãnh không thì hãy cho không.

Ma-thi-ơ 10:8

 

 

Bài 4

“Các anh toan hại tôi, nhưng Đức Chúa Trời lại toan làm điều ích cho tôi, hầu cho cứu sự sống cho nhiều người, y như đã xảy đến ngày nay, và giữ gìn sự sống của dân sự đông đảo.”

Sáng thế ký 50:20

 

Câu Kinh Thánh này trở thành phiên bản của Rô-ma 8:28, “Vả, chúng ta biết rằng mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Đức Chúa Trời, tức là cho kẻ được gọi theo ý muốn Ngài đã định.” Tuy nhiên theo nhãn quan của chúng ta, dường như mọi người, hoàn cảnh, những sự khó khăn và thậm chí là chính Chúa đối địch cùng chúng ta. Là con cái của Đức Chúa Trời, chúng ta biết rằng Cha thiên thượng đang kiểm soát mọi sự. Chúng ta biết Ngài yêu chúng ta và Ngài biết điều gì tốt nhất cho chúng ta. Giô-sép là một gương mẫu tuyệt vời cho lẽ thật này.

Khi còn ở nhà Giô-sép được Gia-cốp, cha mình nuông chìu nhưng bị căm ghét bởi mười người anh còn lại.  Họ đã bán đứng Giô-sép khi ông mười bảy tuổi.  Giô-sép trở thành một nô lệ. Tại Ai-cập, vợ của chủ cố gắng quyến rũ ông phạm tội nhưng không thành, dù vậy ông vẫn bị vu cáo và phải vào tù. Nhưng khi  ba mươi tuổi, Giô-sép được được tự do khỏi vòng nô lệ và Pha-ra-ôn phong ông làm người cai trị thứ hai trên cả Ai-cập! Hai lần các anh của Giô-sép đến Ai-cập để tìm kiếm lương thực, và Giô-sép lúc bấy giờ là tể tướng tại đó đã nói chuyện với các anh em mình để nhắc nhở về những điều kín nhiệm trong lòng họ, và mang họ đến với sự ăn năn. Lúc đầu các anh em đã không nhận ra ngài tể tướng kia chính là Giô-sép. Sau đó  Giô-sép bày tỏ chính mình cho các anh em, ông tha thứ cho họ về những gì họ đã làm với ông trước đây, và bảo họ mang người cha già Gia-cốp và cả gia đình xuống Ai-cập để ông có thể chăm sóc. Bảy mươi năm sau đó Gia-cốp mất, các anh em sợ Giô-sép sẽ trừng phạt, nhưng thay vì trừng phạt, Giô-sép tiếp tục cấp dưỡng cho các anh em vì ông tin rằng mọi điều đã xảy ra là đến từ Chúa. Trong những năm sau đó, Đức Chúa Trời sử dụng Giô-sép để giải cứu người Hê-bê-rơ khỏi sự tuyệt chủng.

Những gì Đức Chúa Trời cho phép xảy ra là tốt cho Giô-sép và để chuẩn bị ông trở nên người lãnh đạo. Nếu Giô-sép chỉ ở nhà, thì có thể sự nuông chìu của thân phụ sẽ làm ông hư hỏng. “Thật tốt cho người mang ách lúc trẻ thơ” (Ca thương 3:27). Các hoạn nạn làm cho Giô-sép trở nên người của Đức Chúa Trời và là biểu tượng hoàn hảo nhất về Chúa Jesus được tìm thấy trong Kinh Thánh. Kế hoạch của Đức Chúa Trời cũng tốt cho các anh em của Giô-sép, Ngài  đem họ ra khỏi con đường đầy mưu mô thủ đoạn  đến với sự ăn năn, để rồi từ họ ra mười hai chi phái Israel. Khi còn trẻ, Gia-cốp đã từng làm những việc không đúng, và bây giờ ông phải trả giá cho những điều đó. Đức Chúa Trời ban cho ông bảy mươi năm vui mừng và bình an với cả gia đình. Kế hoạch của Đức Chúa Trời cũng tốt cho Ai-cập khi Ngài cho phép Giô-sép quản lý nguồn thực phẩm. Tất cả các sự ích lợi này đã ảnh hưởng đến thế giới ngày nay, vì “sự cứu rỗi bởi người Giu-đa mà đến” (Giăng 4:22).

Bạn có bao giờ nói như Gia-cốp, “các nông nỗi này đều đổ lại cho tao hết?” (Sáng thế ký 42:36) Thật ra mọi điều xảy đến cho ông và gia đình của ông là bởi vì ông.  Đôi khi chúng ta hỏi Chúa tại sao đời sống khó khăn và chúng ta không thể hiểu được đường lối Ngài. Lúc đó chúng ta hãy nhớ đến các hoạn nạn thời trai trẻ của Giô-sép và ân điển của Đức Chúa Trời dành cho ông. Chúa kiểm soát mọi sự trong từng thời điểm. Chúng ta không cần phải cảm nhận là Đức Chúa Trời đang tổng hợp mọi sự để làm ích lợi cho chúng ta, bởi vì chúng ta biết chắc Ngài đang hành động.

“Tôi đã bị hoạn nạn lấy làm phải,

Hầu cho học theo luật lệ của Chúa.”

Thi thiên 119:17

“Này, Đức Chúa Trời là sự cứu rỗi tôi; Tôi sẽ tin cậy mà không sợ hãi.”

Ê-sai 12:2

 

Bài 5

“Huyết bôi trên nhà các ngươi ở, sẽ dùng làm dấu hiệu; khi ta hành hại xứ Ê-díp-tô, thấy huyết đó, thì sẽ vượt qua, chẳng có tai nạn hủy diệt các ngươi.” Xuất Ai-cập ký 12: 13

 

Một tâm trí thế tục không được soi sáng không thể nào hiểu được tầm quan trọng về huyết của sinh tế trong Kinh Thánh. Nhiều nhà thần học gọi cộng đồng Cơ đốc Tin Lành là “lò mổ tôn giáo,” và nhiều người từ chối thập tự giá của Đấng Christ nhưng vẫn tiếp tục cố gắng theo đuổi sự dạy dỗ đạo đức. “Bởi vì lời giảng về thập tự giá, thì những người hư mất cho là điên dại; song về phần chúng ta, là kẻ được cứu chuộc, thì cho là quyền phép của Đức Chúa Trời” (1 Cô-rin-tô 1:18). Từ chối huyết nghĩa là từ chối Chúa Jesus và sự cứu rỗi đời đời.

 

Đức Chúa Trời đã nhìn thấy huyết bôi trên cửa. Huyết này mang lời làm chứng cho người Ai-cập về sự phán xét đang đến, nhưng nó mang đến sự tự tin và bình an cho người Israel đằng sau cánh cửa. Nếu huyết bôi trên cửa, họ biết rằng thiên sứ của sự chết sẽ “vượt qua” nhà họ và con đầu lòng của họ không bị chết. Huyết bôi trên cửa nhà hàng xóm không đủ cho bạn, bạn phải có nó cách cá nhân. Chú ý thứ tự trong Xuất Ai-cập ký 12: 3-5: “một con chiên … con chiên … con chiên của ngươi.” Chiên con là bức tranh về Chúa Jesus, là chiên con của Đức Chúa Trời chết vì tội lỗi của thế gian (Giăng 1:29; 1 Phi-e-rơ 1: 18-19).

 

Đức Chúa Trời đã thấy huyết trên hòm giao ước (Lê-vi-ký 16:14). Ngày chuộc tội hằng năm là ngày quan trọng trong lịch của người Israel, ngày duy nhất mà thầy tế lễ thượng phẩm được phép đi vào nơi chí thánh. Trước hết thầy tế lễ thượng phẩm phải dâng một con bò đực như là của lễ chuộc tội cho mình và cho nhà mình và rảy huyết sinh tế trên ngai ân điển trong nơi chí thánh. Sau đó ông phải dâng một con dê đực như là của lễ chuộc tội cho dân sự và rảy huyết trên ngai thương xót. Sau đó ông nhận hai tay mình trên đầu đầu con dê đực còn sống, xưng trên nó các tội của dân sự, và đuổi con dê đực vào đồng vắng bởi tay của một “người thích hợp” (câu 21). Trong hòm giao ước có hai bảng luật pháp, nhưng khi Chúa nhìn xuống, Ngài không nhìn thấy sự vi phạm luật. Ngài nhìn thấy huyết! Ha-lê-lu-gia!

 

Đức Chúa Trời đã thấy huyết trên thân thể con người (Xuất Ai-cập ký 29:20; Lê-vi ký 14:14, 26-28). Khi A-rôn và các con ông được chọn là các thầy tế lễ, Môi-se bôi huyết của sinh tế lên tai phải, ngón tay cái, và ngón chân cái của mỗi người, một dấu hiểu của sự dâng hiến hoàn toàn cho Chúa. Cùng một nghi lễ như vậy được áp dụng cho người phung được sạch để họ có thể trở về trại quân (Lê-vi ký 14:14). Ngày nay khi tội nhân tin vào Đấng Christ, huyết được áp dụng bởi Thánh Linh và tội nhân được cứu! Khi một tín đồ thừa nhận tội mình với Chúa, huyết được áp dụng và các tội được tha (1 Giăng 1:6-8).

 

Đức Chúa Trời đã thấy huyết trên thập tự. Tại thập tự giá Chúa giải hòa “mọi vật cho Ngài…bởi huyết Ngài trên thập tự giá” (Cô-lô-se 1:20). Chúa Jesus ban cho chúng ta Tiệc Thánh để nhắc nhở chúng ta về giao ước mới mà Ngài đã lập qua huyết Ngài (Lu-ca 22:20). Chúa Jesus nhận thương tích (không phải vết sẹo!) trên thập tự giá. Dân sự của Ngài sẽ nhớ giá mà Ngài đã trả để cứu chúng ta, chúng ta đã được mua chuộc “bằng huyết quý báu của Đấng Christ” (1 Phi-e-rơ 1:19).

Lời hứa trong 1 Giăng 1:9 thì đáng tin cậy:

“Còn nếu chúng ta xưng tội mình, thì Ngài là thành tín công bình để tha tội cho chúng ta, và làm cho chúng ta sạch mọi điều gian ác.”

 

 

Bài 6

 

“Vì trong ngày đó người ta sẽ làm lễ chuộc tội cho các ngươi, để các ngươi được tinh sạch: chắc các ngươi sẽ được sạch những tội lỗi mình trước mặt Đức Giê-hô-va vậy.”

Lê-vi ký 16:30

Sách Lê-vi ký được ban cho các thầy tế lễ và tuyển dân Israel để họ có thể “phân biệt điều thánh và điều chẳng thánh, sự khiết và sự chẳng khiết” (Lê-vi-ký 10:10; 11:47); vì mạnh lệnh của Đức Chúa Trời là, “các ngươi phải nên thánh, vì Ta là thánh” (11:45). Mạng lệnh đó được ban cho không phải chỉ cho người Israel, nhưng cũng cho hội thánh (1 Phi-e-rơ 1:13-16). Trong Kinh thánh, tội lỗi được so sánh với điều dơ bẩn, và ngày nay dân của Đức Chúa Trời dễ bị ô uế bản thể mình bởi thế giới, xác thịt, và kẻ ác hơn là thời Cựu Ước (Ê-phê-sô 2:1-3; 5: 1-14). Đức Chúa Trời dạy dân sự Ngài phân biệt các điều thuộc linh bởi ban cho họ các luật lệ liên quan đến ăn uống, sức khỏe, và vệ sinh.

 

Được tẩy sạch bởi nước. Sự ô uế là hình ảnh của tội lỗi, nhưng sự rửa sạch là hình ảnh của sự tha thứ (Thi thiên 51:2, 7). Trong Kinh Thánh, nước uống là biểu tượng về Thánh Linh của Đức Chúa Trời (Giăng 7: 37-39), nhưng nước rửa sạch là hình ảnh về Lời của Đức Chúa Trời. Chúa Jesus phán (Giăng 15:3) “Các ngươi đã được trong sạch, vì lời ta đã bảo cho,” và Phao-lô cũng viết “sự rửa sạch của nước trong Lời” (Ê-phê-sô 5:25-27). Trong đền thờ thời Cựu ước, có một chậu rửa lớn chứa đầy nước được gọi là thùng rửa. Tại nơi này thầy tế lễ rửa tay và chân của họ thường xuyên trong ngày mà họ phụng sự nơi đền thờ, vì nếu họ không làm vậy, họ sẽ ở trong sự nguy hiểm bị phán xét bởi Đức Chúa Trời (Xuất. 30:17-21). Chú ý rằng các thầy tế lễ bị ô uế đang khi họ phụng sự Chúa trong đền thờ.

 

Được tẩy sạch bởi huyết. Trong các bài suy gẫm trước, chúng ta đã chạm đến quyền năng của huyết sinh tế để được giải phóng dân sự Đức Chúa Trời khỏi ách tội lỗi và phán xét, như là huyết của chiên con đã giải phóng nhà người Israel trong sứ Ai-cập. “Theo luật pháp thì hầu hết mọi vật đều nhờ huyết mà được sạch: không đổ huyết thì không có sự tha thứ” (Hê-bơ-rơ 9:22). Đó là Chúa Jesus trên thập tự “yêu thương chúng ta, đã lấy huyết mình rửa sạch tội lỗi chúng ta” (Khải 1:6). Chúng ta được xưng nghĩa (được xưng công bình) bởi huyết Ngài (Rô-ma 5:9) và cũng được thánh hóa (làm cho công bình) bởi huyết Ngài (Hê-bơ-rơ 13:12). Khi chúng ta thừa nhận các tội mình với Chúa, Ngài tha thứ chúng ta và tẩy sạch chúng ta qua huyết của Chúa Jesus Christ (1 Giăng 1:5-10).

 

Được tẩy sạch bởi lửa. Điều này được ứng dụng với các kim khí chiếm đoạt từ chiến trận (Dân số ký 31: 21-24), “mọi vật đưa vào lửa được”. Nhưng điều này cũng nhắc nhở chúng ta rằng đôi lúc Đức Chúa Trời sẽ đưa chúng ta vào lửa của sự hoạn nạn để chúng ta có thể được luyện cho tinh khiết. “Trước khi chưa bị hoạn nạn, thì tôi lầm lạc, nhưng bây giờ tôi gìn giữ lời Chúa” (Thi thiên 119:67, 71, 75; Hê-bơ-rơ 12:11; 1 Phi-e-rơ 1:6-7). Khi chúng ta đi xuyên qua lửa, Đức Chúa Trời ở với chúng ta và Ngài sẽ dùng chúng ta để tôn vinh Ngài (Ê-sai 43:2; Đa-ni-ên 3:16-26).

 

Chúng ta có đang phân biệt giữa sự khiết và sự chẳng khiết và chỉ chọn điều tốt nhất cho đời sống chúng ta (Ê-xê-chi-ên 22:23-31; 44:23)? Nếu không, chúng ta có thể tìm thấy chính chúng ta trong lò hoạn nạn để kinh nghiệm sự sửa trị của Chúa (Hê-bơ-rơ 12: 1-11). Điều này không có nghĩa là chúng ta bị định tội bởi sự phán xét nghiêm khắc, nhưng là đang bị “xử lý” bởi tình yêu của Đức Chúa Trời để đạt mục tiêu là “để khiến chúng ta được dự phần trong sự thánh khiết Ngài” (Hê-bơ-rơ 12:10), hầu cho học biết sự khác biệt giữa sự khiết và sự chẳng khiết.

 

“Các sự sửa phạt lúc đầu coi như một cớ buồn bã, chớ không phải sự vui mừng; nhưng về sau sanh ra bông trái công bình và bình an cho những kẻ đã chịu luyện tập như vậy.”

Hê-bơ-rơ 12:11

 

Bài 7

“Đừng sợ các nước đó, vì chính Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi tranh chiến cho các ngươi.”

Phục truyền 3:22

 

Khi Môi-se nói những lời này, ông đang nhắc lại cuộc hành trình ra khỏi Ai-cập vào chiếm lấy xứ Ca-na-na cho thế hệ mới. Tổ phụ của họ đã đánh bại hai vua lớn Si-hôn và Óc (Phục  2:26-3:11), và Môi-se dùng những chiến thắng đó để khích lệ Giô-suê phải tin cậy Chúa, tiến vào chinh phục vùng đất hứa. Ngày hôm nay bạn và tôi không tranh chiến với các dân tộc lớn, nhưng chúng ta đều đang đối mặt với “vua chúa của thế gian mờ tối nầy” (Ê-phê-sô  6:12) để nhận lấy sản nghiệp của chúng ta trong Đấng Christ. Chúng ta không cần phải sợ kẻ thù hay sợ thất bại mà sẵn sàng tiến lên nhận lấy tất cả những gì Đức Chúa Trời đã dành cho chúng ta (Hê-bơ-rơ 4:1-9). Muốn vậy chúng ta phải lý giải ba loại sợ hãi sau đây:

Có những nỗi sợ thông thường nhưng khiến chúng ta trở mạnh mẽ. Mọi đứa trẻ phải được cảnh báo về sự nguy hiểm khi băng qua đường, chơi với điện, dao, bơi ra vũng nước sâu, hay nuốt nhầm thuốc độc. Sợ bị thương và chết thì rất bình thường, và khi chúng ta ở trong tình cảnh nguy hiểm, nỗi sợ này làm chúng ta mạnh mẽ để cố gắng thay đổi tình huống và tìm kiếm sự giúp đỡ. Những nỗi sợ này thì khác biệt với tinh thần nhút nhát sợ hãi tiêu cực của một người lính chiến. Tinh thần sợ hãi sẽ  lan truyền sự chán nản, và người lính sợ và nhát thì không thể thắng trận (Phục  20:3-4, 8).

 

Có những nỗi sợ không rõ ràng làm tê liệt chúng ta. Trong từ điển cá nhân, tôi diễn ý từ “sợ hãi” chiếm hết bốn trang, với bốn cột sợ hãi ở mỗi trang! Từ điển của tôi định nghĩa “sợ hãi” là “một cảm giác lo sợ được phóng đại, nó không thể giải thích và phi lý từ những đối tượng hay tình huống đặc biệt ngoài mong đợi”. Nếu bạn sợ tắm, thì bạn mắc bệnh ám ảnh sợ tắm, nhưng nếu bạn sợ bị bẩn, bạn mắc bệnh ám ảnh sợ bẩn. Một số người sợ những con gián hay nhện, trong khi một số khác sợ độ cao.

Nhưng có nỗi sợ mà mỗi tín hữu phải nuôi dưỡng: kính sợ Chúa; vì kính sợ Chúa làm chúng ta thoát khỏi các nỗi sợ khác. “Phước cho người nào kính sợ Đức Giê-hô-va, rất ưa thích điều răn Ngài” (Thi 112:1). Đọc toàn bộ Thi thiên này, bạn sẽ khám phá ra rằng kính sợ Chúa làm bạn thoát khỏi các nỗi lo sợ về: tương lai của con cái (c. 2), nghèo đói (c. 3), sự tối tăm bao phủ (c. 4), bị kiện cáo (c. 5), và nhiều loại sợ hãi khác.

Kính sợ Chúa không có nghĩa là khúm núm chịu lụy vì sợ Cha thiên thượng sẽ hủy diệt chúng ta, nhưng là yêu mến, kính trọng, và vui mừng vâng phục Ngài, bởi vì chúng ta yêu Chúa và muốn làm điều đẹp lòng Ngài. A. W. Tozer viết quyển sách Nguồn Gốc Của Sự Công bình, trong đó có câu, “Người không biết kính sợ Đức Chúa Trời thì không thể biết được ân điển thật của Đức Chúa Trời.” Một khi chúng ta biết kính sợ Đức Chúa Trời, chúng ta không cần phải sợ kẻ thù, vì biết rằng Chúa đang chiến đấu cho chúng ta.

“Sự kính sợ Đức Giê-hô-va là khởi đầu sự tri thức; Còn kẻ ngu muội khinh bỉ sự khôn ngoan và lời khuyên dạy” (Châm 1:7). Kiến thức là hiểu thấu các sự kiện và nguyên lý của thế giới, nhưng sự khôn ngoan là làm thế nào sử dụng các hiểu biết đó để làm theo ý chỉ Đức Chúa Trời và tôn vinh danh Ngài. “Sự kính sợ Đức Giê-hô-va là khởi đầu sự khôn ngoan” (Thi 111:10). Một trong những kẻ thù của chúng ta chính là khước từ sự khôn ngoan thuộc linh được tìm thấy trong Lời Đức Chúa Trời.

 

“Đức Giê-hô-va sẽ ban phước cho những kẻ kính sợ Ngài.”

Thi Thiên 115:13

 

 

 

Bài 8

“Vậy, Giô-suê chiếm cả xứ, y như Đức Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se, và ban xứ cho Y-sơ-ra-ên làm sản nghiệp, tùy sự chia phân từng chi phái. Bấy giờ, xứ được bình tịnh, không còn giặc giã.”

Giô-suê 11:23

 

Bối cảnh của sách Giô-suê là dân Israel chinh phục xứ Ca-na-an dưới sự lãnh đạo của Giô-suê. Dân Israel đã là chủ nhân của vùng đất này bởi vì Đức Chúa Trời đã hứa cùng Áp-ra-ham trước đó (Sáng 13:14-18), nhưng bây giờ họ phải chiếm lấy và khai thác miền đất hứa. Thật là sai lầm khi một số người soạn nhạc và thi ca nghĩ rằng vượt sông Giô-đanh và tiến vào Ca-na-an là bức tranh của việc chết đi và lên thiên đàng! Đúng hơn, đó là bức tranh của các môn đồ ngày nay, những người biệt riêng chính mình ra khỏi đời sống cũ (vượt sông Giô-đanh) và nhận lấy sản nghiệp trong Đấng Christ bởi đức tin. Khi đồng ý điều này, chúng ta đã sẵn sàng cho chiến trận thuộc linh kèm theo các phước hạnh, nhưng Giô-suê của chúng ta là Chúa Jesus Christ, ban cho chúng ta chiến thắng (Hê-bơ-rơ 4).

Giô-suê là người lãnh đạo Đức Chúa Trời chọn (Dân 27:12-23; Phục 31:1-8), một người tin kính  với nhiều năm kinh nghiệm, người lãnh đạo của đoàn quân (Xuất 17:8-16) và là người phụ tá đắc lực cho Môi-se (Xuất. 33:7-11). Ông hoàn toàn hiến dâng chính mình cho Chúa và nhận biết ông chỉ là người thứ hai trong đạo quân (Giô-suê 5:13-15). Chúa bảo Giô-suê phải “vững lòng bền chí” (Giô-suê 1:6, 7, 9) bởi vì Ngài đã hứa ban cho ông sự đắc thắng. Trong mỗi sách của Môi-se, bạn sẽ tìm thấy lời hứa từ Đức Chúa Trời rằng Ngài sẽ đuổi kẻ thù và ban cho Israel vùng đất.  Giô-suê đã nhận lấy những lời hứa này (Sáng 13:14-18; Xuất 23:20-23; 33:1-2; 34:10-14; Lê-vi 18:24-25; 20:23-24; Dân 33:50-56; Phục 4:35-38; 7:17-26; 9:1-6). Giô-suê đã không nhận lấy một tấm bản đồ rõ ràng hay các chỉ dẫn cụ thể cho mỗi bước đi, nhưng ông có Lời Đức Chúa Trời (Giô-suê 1:7-8). Thật là một gương mẫu tốt cho chúng ta hôm nay.

 

Giô-suê cũng là một người lãnh đạo khiêm nhường, sẵn sàng thừa nhận lỗi lầm và không qui kết trách nhiệm cho bất cứ ai. Sau chiến thắng vang dội tại Giê-ri-cô, ông đã không dành thời gian để tìm kiếm sự hướng dẫn của Đức Chúa Trời, và rồi sau đó dân Israel kinh nghiệm sự thất bại trước người A-hi (Giô-suê 7). Giô-suê sấp mình xuống để tìm kiếm Chúa và Ngài bảo ông đứng dậy. Chúa chỉ ra kẻ phạm tội không vâng lời là nguyên nhân của sự thất bại lần này. Và rồi một lần nữa sau đó, ông lại đưa ra quyết định cá nhân thực hiện kết ước  hòa bình với kẻ thù của Israel là người Ga-ba-ôn (Giô-suê 9) mà không cầu hỏi ý Chúa. Thật quan trọng cho đầy tớ của Đức Chúa Trời dành thời gian để chờ đợi nơi Chúa và không dựa vào sự tự mãn từ những chiến thắng trong quá khứ.

 

Giô-suê là một người của đức tin, và nếu bất cứ ai có đức tin, đó là người lãnh đạo. “Bởi đức tin, các tường thành Giê-ri-cô đổ xuống, sau khi người ta đi vòng quanh bảy ngày” (Hê-bơ-rơ 11:30). Đức tin thừa nhận chiến thuật của Đức Chúa Trời và vâng lệnh Ngài, bất chấp chiến thuật đó khó hiểu như thế nào. Giô-suê còn vận dụng đức tin cầu nguyện khiến mặt trời dừng lại để có thêm thời gian cho đội quân Israel đánh bại kẻ thù (Giô-suê 10).

Giô-suê chinh phục vùng đất, nhưng không phải tất cả các chi phái đều nhận được phần đất của mình (Các quan xét 2:27-36). Tuy nhiên ngày nay hội thánh  đã nhận mọi điều mà Chúa Jesus đã trả cho chúng ta trên thập tự giá. Những gì chúng ta trông đợi hôm nay là cần có nhiều người như Giô-suê tin cậy Đức Chúa Trời và giúp  những người khác nhận lấy sản nghiệp Chúa ban.

 

“Rút lại, hết thảy anh em phải đồng lòng đầy thương xót và tình yêu anh em, có lòng nhân từ và đức khiêm nhường.  Đừng lấy ác trả ác, cũng đừng lấy rủa sả trả rủa sả; trái lại, phải chúc phước, ấy vì điều đó mà anh em được gọi để hưởng phước lành.”

 

1 Phi-e-rơ 3:8-9

 

 

Bài 9

 

“Đức Giê-hô-va xây lại cùng người mà phán rằng: Hãy dùng sức của ngươi vẫn có mà đi giải cứu Y-sơ-ra-ên khỏi tay dân Ma-đi-an. Ta há chẳng sai ngươi đi sao?”

Các quan xét 6:14

Nếu chúng ta là hàng xóm của Ghê-đê-ôn, chúng ta không mong đợi một ngày nào đó ông sẽ trở nên một tướng lãnh lớn và quan xét của Israel, nhưng đó là những gì đã xảy ra. Khi ông đang giấu mình đạp lúa trong bàn ép, và Chúa gọi ông, “Hỡi người dõng sĩ” (Các quan  6:12). Điều này  làm ông bàng hoàng. Những người chung quanh phải rất kinh ngạc khi ông có dũng khí để phá hủy tượng thần Ba-anh và dựng một bàn thờ cho Chúa sau đó, và ông cũng đã tập hợp một đạo quân nhỏ để đánh bại dân Ma-đi-an. Bí mật của câu chuyện lý thú này là gì? Ông được sai đi bởi Đức Chúa Trời và ông tin cậy Chúa sẽ thực hiện các lời Ngài hứa. Vấn đề không phải là chúng ta là ai hay chúng ta có thể làm gì nhưng chúng ta có được Đức Chúa Trời sai phái ra đi?

Tuy nhiên, khi bắt đầu đối diện với Đức Chúa Trời, sự vô tín của Ghê-đê-ôn hầu như đã làm hỏng mọi thứ. “Ôi! Chúa, nếu Đức Giê-hô-va ở cùng chúng tôi, sao các điều nầy xảy đến cho chúng tôi? Các phép lạ kia ở đâu… Vì bây giờ Đức Giê-hô-va từ bỏ chúng tôi” (c.13). Sai lầm của Ghê-đê-ôn là nhìn vào các hoàn cảnh thay vì nhìn xem Đức Chúa Trời và vâng phục Ngài. Chúa chủ tể của chúng ta không bao giờ bị ngăn cản bởi các hoàn cảnh, vì Ngài có thể làm những điều bất khả thi. Khi bạn sống bởi đức tin trong Đức Chúa Trời hằng sống và chân thật, bạn không cần đặt câu hỏi. Bạn tin cậy nơi các lời Chúa hứa.

Khi Ghê-đê-ôn nhìn vào chính mình ông trở nên nản lòng. “Than ôi! Hỡi Chúa, tôi sẽ lấy chi giải cứu Israel? Kìa, trong chi phái Ma-na-se, họ tôi vốn nghèo hơn hết; còn tôi là nhỏ hơn hết trong nhà cha tôi” (c.15). Nhưng Đức Chúa Trời đã gọi ông là “hỡi người dõng sĩ” và những gì Đức Chúa Trời phán thì luôn luôn đúng.

“Nhưng Đức Chúa Trời đã chọn những sự dại ở thế gian để làm hổ thẹn những kẻ khôn; Đức Chúa Trời đã chọn những sự yếu ở thế gian để làm hổ thẹn những sự mạnh; Đức Chúa Trời đã chọn những sự hèn hạ và khinh bỉ ở thế gian, cùng những sự không có, hầu cho làm những sự có ra không có, để chẳng ai khoe mình trước mặt Đức Chúa Trời.” 1 Cô-rin-tô 1:27-29

Ghê-đê-ôn trở nên người có đủ tiêu chuẩn cho công việc Chúa, và chúng ta cũng vậy!

Trong Hê-bơ-rơ 11:32, tên của Ghê-đê-ôn được liệt kê với các anh hùng đức tin khác, những người đã làm những việc lớn để dâng vinh hiển cho Chúa là Đấng sai họ đi. Khi Đức Chúa Trời sai chúng ta đi, Ngài đồng hành và ở với chúng ta. Lời hứa của Đức Chúa Trời, “Ta ở cùng ngươi,” nâng đỡ họ và khích lệ chúng ta ngày nay. Chúa ban lời hứa cho:  Áp-ra-ham (Sáng 26:3), Gia-cốp (Sáng 31:3), Môi-se (Xuất 3:12), Giô-suê (Giô-suê 1:5,9), Giê-rê-mi (Giê 1:8, 19), sứ đồ Phao-lô (Công 18:9-10), và với tất cả các Cơ đốc nhân ngày nay (Hêb 13:5-6). “Há Ta không sai ngươi đi?” và “Ta ở cùng ngươi” có thể thay đổi ý tưởng của bất kỳ Cơ đốc nhân nào.

Một người bạn đã gởi cho tôi một khổ thơ ngắn, nó có thể tóm tắt bài học này:

Nhìn vào hoàn cảnh, bạn sẽ thấy tuyệt vọng.

Nhìn vào chính mình, bạn sẽ ngã lòng.

Nhưng lấy đức tin nhìn xem  Chúa Jesus và bạn sẽ được phước.

 

“Lấy lòng nhịn nhục theo đòi cuộc chạy đua đã bày ra cho chúng ta, nhìn xem Đức Chúa Jêsus, là cội rễ và cuối cùng của đức tin.”

Hê-bơ-rơ 12: 1-2

 

Bài 10

“Nguyện Đức Giê-hô-va báo đáp điều nàng đã làm; nàng đã đến núp dưới cánh Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên; cầu xin Ngài thưởng cho nàng cách trọn vẹn.”

Ru-tơ 2:12

 

Chúa đã ban câu trả lời cho công việc của Ru-tơ, nhưng cô sẽ chẳng có việc gì làm nếu như trước hết không đặt đức tin nơi Chúa, vì “đức tin không có việc làm thì chết” (Gia-cơ 2:26). Lời làm chứng của cô trong Ru-tơ 1:16-17 là một trong những lời làm chứng lớn nhất từ Kinh thánh và cuộc đời cô là một trong những cuộc đời tinh sạch và ngọt ngào nhất. Vì Ru-tơ tin cậy Chúa, Chúa đã trả lời cô để mang đến những thay đổi lạ lùng trong đời sống của cô.

Người bên ngoài bước vào. “Dân Am-môn và dân Mô-áp sẽ không được phép vào hội Đức Giê-hô-va” (Phục 23:3), nhưng Ru-tơ đã từ chối hình tượng của truyền thống gia đình và tiếp nhận  Chúa. Cô là người cải đạo và trở nên một thành viên của dân tộc Israel. Nhưng hơn nữa, nói theo cách thuộc linh, cô đã tiến vào nơi chí thánh trong đền tạm, dưới cánh của chê-ru-bin che phủ Hòm giao ước (Thi 36:7; 61:4; 91:1-4). Tôi cũng có kinh nghiệm tương tự khi tôi tin cậy Đấng Christ. “Nhưng trong Đức Chúa Jêsus Christ, anh em là kẻ ngày trước cách xa, hiện nay đã nhờ huyết Đấng Christ mà được gần rồi” (Êph. 2:13).

Người than khóc tìm thấy bình an. Chương mở đầu của sách Ru-tơ là một câu chuyện bi thương đầy nước mắt. Ê-li-mê-léc cùng với vợ là Na-ô-mi và hai con trai lìa bỏ Bết-lê-hem đến kiều ngụ trong xứ Mô-áp. Sau đó chồng của Na-ô-mi chết và các con trai cũng chết, để lại ba góa phụ. Thời đó góa phụ và những người phung bị xã hội coi thường. Na-ô-mi quyết định trở về Bết-lê-hem và Ru-tơ khăng khăng được tháp tùng mẹ chồng. Khi họ trở về, Na-ô-mi nói với các bạn mình, “Chớ gọi tôi là Na-ô-mi, hãy gọi là Ma-ra”. Ma-ra trong tiếng Hê-bơ-rơ có nghĩa là cay đắng (Ru-tơ 1:20). Nhưng Ru-tơ có sự bình an của Đức Chúa Trời trong lòng và ngay lập tức bắt đầu phục vụ mẹ chồng của mình. Chị dâu của Ru-tơ ở lại Mô-áp để có thể tái hôn và tìm sự may mắn theo cách loài người (1:9), nhưng phước hạnh mà Ru-tơ kinh nghiệm tại Bết-lê-hem thì lớn hơn rất nhiều.

 

Người lao tác kinh nghiệm sự thỏa lòng. Ru-tơ học biết rằng theo luật của người Hê-bơ-rơ cho phép người nghèo mót lúa giữa các bó lúa trong mùa gặt, và cô muốn phụng dưỡng Na-ô-mi trong khả năng của cô theo cách tốt nhất. Ở đây chúng ta thấy có sự sắp xếp của Đức Chúa Trời, vì “chỉ tình cờ” cô mót lúa trong đồng ruộng của Bô-ô, một người họ hàng của Na-ô-mi, và “chỉ tình cờ” Bô-ô xuất hiện đúng lúc khi cô đang mót lúa. Tình yêu đến “từ cái nhìn đầu tiên” và ông bảo cô chỉ cần mót lúa ở trong đồng ruộng của ông mà thôi. Ông truyền lịnh cho những người làm công phải bảo vệ cô và cung ứng cho cô một cách chủ ý qua việc thả các gié lúa tốt để cô lượm lấy. Bô-ô bảo đảm rằng cô có chỗ nghỉ ngơi và đồ ăn thức uống, dù cô là một người xa lạ! Ru-tơ đã tìm được ân huệ (ân điển) trong mắt của Bô-ô (2:2, 10, 13). Đây chính là phương cách mà sự cứu rỗi bắt đầu.

“Không có người nào” được tôn trọng như thế. Ru-tơ không chỉ trở nên người tin và là thành viên của cộng đồng Israel, nhưng cô còn kết hôn với Bô-ô và sinh ra ông nội của Vua Đa-vít! Hơn nữa, tên của cô được tìm thấy trong gia phả của Chúa Jesus Christ (Math. 1:5). Khởi đầu, Ru-tơ là một góa phụ nghèo (chương 1) sống bằng những bông lúa sót (chương 2). Cô nhận được món quà từ Bô-ô (chương 3) và cuối cùng kết hôn với ông, chia sẻ mọi sự giàu có của ông (chương 4). Đây là ân điển của Đức Chúa Trời! Những điều này là “sự đền đáp” của Đức Chúa Trời cho đến ngày cô về thiên đàng và nhận lãnh “phần thưởng đầy đủ.”

Sự đền đáp được ban xuống ở đây và phần thưởng đầy đủ thì ở trên trời. Đó là cách của Chúa – Chủ nhân đáng kính mà chúng ta đang phụng sự! Hãy chắc rằng chúng ta là những đầy tớ mà  phần thưởng đã được dành sẵn.

“Chính các ngươi hãy giữ, hầu cho khỏi mất kết quả của công việc mình, nhưng cho được phần thưởng đầy đủ.”

2 Giăng 8

 

Bài 11

 

“Thôi, chớ nói những lời kiêu ngạo, chớ để những lời xấc xược ra từ miệng các ngươi nữa, vì Giê-hô-va là Đức Chúa Trời thông biết mọi điều, Ngài cân nhắc mọi việc làm của người.”

1 Sa-mu-ên 2:3

An-ne, một người nữ tin kính bị  người khác hiểu lầm, chỉ trích. Người vợ khác của chồng An-ne là Phê-ni-na trêu ghẹo và làm An-ne khóc vì nàng không có con. An-ne chung phần với những tín đồ khác là những người bị hiểu lầm và gánh chịu sự chỉ trích như: Giô-sép, Đa-vít, Giê-rê-mi, Phao-lô, và ngay cả Chúa Jesus Christ (Ngài thậm chí còn bị tố cáo là một phe với Satan!) Nhưng Đức Chúa Trời đã nghe lời cầu nguyện của An-ne và ban cho nàng một đứa con, nàng đặt tên là Sa-mu-ên và dâng nó cho Đức Chúa Trời để phụng sự Ngài trong đền thờ. Sa-mu-ên trở nên một trong những người lãnh đạo thuộc linh thời Cựu ước. Những lời  ngợi khen và vui mừng của An-ne trong 1 Sa-mu-ên chương 2 tràn đầy khích lệ khi chúng ta bị người khác hiểu lầm và lên án.

 

Đức Chúa Trời biết sự thật. Ngài biết những gì người khác suy nghĩ và nói, và Ngài cũng biết những gì bạn suy nghĩ và nói (Thi 139:1-6). Ngài biết điều ở trong lòng mọi người (Công 1:24). “Chẳng có vật nào được giấu kín trước mặt Chúa, nhưng thảy đều trần trụi và lộ ra trước mắt Đấng mà chúng ta phải thưa lại” (Hêb 4:13). Còn chúng ta thậm chí không biết những gì trong tấm lòng của chính mình (Giê 17:9)! Phi-e-rơ từng nghĩ rằng ông sẵn sàng chết vì Chúa, nhưng rồi ông  khám phá  ông đã chối Chúa ba lần. Khi loài người làm chứng dối về bạn, bạn có thể biết chắc Cha thiên thượng biết đâu là sự thật và một ngày kia mọi việc sẽ được phơi bày rõ ràng.

 

Đức Chúa Trời cân con người và việc làm của họ. Thầy giảng Tin Lành D. L. Moody đã nói rằng sự qui đạo phải cũng phải được cân cũng giống như là được tính sổ, và Chúa chúng ta cân con người và những gì họ nói và làm. “Quả thật, người hạ lưu chỉ là hư không, người thượng đẳng chỉ là dối giả, nhắc để trên cân, chúng nó chỏng lên, chúng nó hết thảy nhau đều nhẹ hơn sự hư không” (Thi 62:9). “Người truyền đạo nói: Hư không của sự hư không, hư không của sự hư không, thảy đều hư không” (Truyền 1:2). Sa-lô-môn sử dụng từ Hê-bơ-rơ hevel  ba mươi tám lần trong sách Truyền đạo, và từ này được dịch là “hư không, trống rỗng, vô ích.” Đời sống trong ý chỉ của Đức Chúa Trời thì vững chắc và thỏa lòng, nhưng đời sống ngoài ý chỉ Ngài thì trống rỗng và vô nghĩa.

Trước khi chúng ta nói, chúng ta phải cân nhắc lời nói của mình. “Lòng người công bình suy nghĩ lời phải đáp, nhưng miệng kẻ ác buông ra điều dữ” (Châm 15:28). Chúng ta cũng phải suy xét những lời được nói trong hội thánh để xem chúng có phải thật là Lời Đức Chúa Trời hay không (1 Côr 14:29). Chúa Jesus cảnh báo, “Vả, ta bảo các ngươi, đến ngày phán xét, người ta sẽ khai ra mọi lời hư không mà mình đã nói;  vì bởi lời nói mà ngươi sẽ được xưng là công bình, cũng bởi lời nói mà ngươi sẽ bị phạt” (Math 12:36-37). Đức Chúa Trời cân nhắc động cơ bên trong (Châm 16:2) và tấm lòng của chúng ta (Châm 21:2; 24:12). Ngài thấy và nghe những gì mà không một ai khác có thể thấy và nghe.

 

Đức Chúa Trời ban thưởng người “có tầm ảnh hưởng lớn”. Nếu chúng ta sử dụng những vật liệu quí giá như vàng, bạc, và đá quý (không phải gỗ, cỏ khô, hay rơm rạ) để phụng sự Chúa, thì Đức Chúa Trời sẽ cân chúng và chúng ta chắc chắn nhận phần thưởng, không phải chỉ trong đời này, mà trong đời hầu đến (1 Côr 3:12-17; Êph 6:8; Côl 3:23-24). Vợ của Phô-ti-pha làm chứng dối về Giô-sép và bỏ tù ông, nhưng Đức Chúa Trời tôn trọng và bênh vực Giô-sép. Vua Sau-lơ nói dối về Đa-vít và cố gắng giết ông, nhưng Đa-vịt được minh oan. Và chính Chúa Jesus được minh chứng là Chúa trong sự phục sinh và thăng thiên vinh hiển lên trời.

Vua Bên-xát-sa nghĩ rằng ông giàu sang và đầy uy quyền, và theo tiêu chuẩn thế giới thì ông quả như vậy. Nhưng Đức Chúa Trời phán với ông, “Vua đã bị cân trên cái cân, và thấy là kém thiếu (Đa-ni-ên 5:27). Ngay đêm đó, ông bị giết chết. Đừng có cân đời sống bởi cái cân của thế gian; nhưng hãy cân nó bằng cái cân của Đức Chúa Trời. Nếu chúng ta đặt Đấng Christ lên vị trí ưu tiên hàng đầu, chúng ta không chỉ có Ngài, nhưng những điều khác cũng được cho thêm.

 

“Nhưng trước hết, hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa.”

Ma-thi-ơ 6:33

 

Bài 12

 

1 Samuel 14:7 (NKJV)

 So his armorbearer said to him, “Do all that is in your heart. Go then; here I am with you, according to your heart.”

Kẻ vác binh khí (của Giô-na-than thưa rằng): “Hãy làm tất cả những gì có trong lòng ông. Và rồi hãy đi; này tôi ở với ông, theo như lòng ông mách bảo.”

1 Sa-mu-ên 14:7

Năm từ đơn giản: này tôi ở với ông (here I am with you) – nhưng chúng tạo ra sự khác biệt giữa thành công và thất bại. Giô-na-than đã chiến thắng kẻ thù, thế nhưng cha của ông là Sau-lơ được đề cao trong trận chiến đó (1 Sa-mu-ên 13:1-4). Nhưng Giô-na-than không quan tâm ai là người được ca ngợi miễn là Đức Chúa Trời nhận lấy vinh hiển và Israel được bảo vệ. Là dân sự của Đức Chúa Trời, chúng ta luôn ở trong xung đột với kẻ thù của Chúa và nhớ là lực lượng của chúng ta luôn mạnh hơn kẻ thù. Có ba loại người Isreal trên chiến trường ngày đó, như là ba loại “chiến sĩ Cơ đốc” trong hội thánh ngày nay.

 

  1. Có những người không làm gì cả. Vua Sau-lơ đang ngồi dưới gốc cây, xung quanh có khoảng sáu trăm lính, đang tự hỏi phải làm gì tiếp theo. Người lãnh đạo phải sử dụng người của mình và không làm thay cho họ (1 Tim. 3:13). Đức Chúa Trời đã ban cho Sau-lơ địa vị và uy quyền nhưng dường như ông không có tầm nhìn, sức mạnh, hoặc chiến thuật nào cả. Ông chỉ  đang quan sát xem điều gì đang xảy ra thay vì hành động để một điều tích cực nào đó xảy ra. Một người trong vai trò khán giả không thể tạo ra sự  khác biệt trong đời sống. Bên cạnh Sau-lơ và số quân nhỏ bé của ông có một số người Israel đã bỏ chạy khỏi chiến trường và trốn đi, một số khác  đầu hàng kẻ thù! Khi Giô-na-than và kẻ vác binh khí bắt đầu đánh người Phi-li-tin, Chúa đã làm kinh động cả trại quân kẻ thù. Lúc bấy giờ những kẻ chạy trốn quay trở lại và tham dự vào trận chiến. Bạn có biết bất cứ Cơ đốc nhân nào như vậy? Bạn là một trong số đó?

 

  1. Có những người không sợ bất cứ điều gì. Giô-na-than đã đánh thắng người Phi-li-tin và ông là người của đức tin, là một người mà Đức Chúa Trời sử dụng để ban chiến thắng cho dân sự. Có thể ông đã dựa trên lời hứa của Đức Chúa Trời trong Lê-vi ký 26:7-8, “Các ngươi đuổi theo quân nghịch, họ sẽ bị gươm sa ngã trước mặt các ngươi. Năm người trong các ngươi sẽ đuổi theo một trăm; một trăm trong các ngươi sẽ đuổi theo một muôn.” Ông trả lời chắc chắn với kẻ vác binh khí rằng “vì Đức Giê-hô-va khiến cho số ít người được thắng cũng như số đông người vậy” (1 Sam 14:6). Giô-na-than mong đợi Đức Chúa Trời ban cho ông một dấu hiệu để biết rằng chiến thuật của ông là đúng, và Đức Chúa Trời đã làm như vậy (c. 9-14). Đức Chúa Trời cũng khiến động đất trong trại quân kẻ thù làm cho chúng kinh hoàng, và rồi chúng bắt đầu tấn công lẫn nhau; và quân đội chúng bị vỡ trận hoàn toàn (c.16)

 

  1. Có những người làm việc thầm lặng nhưng rất hiệu quả. Kẻ vác binh khí của Giô-na-than được đề cập đến chín lần trong câu chuyện này, nhưng tên của ông không được bày tỏ. Như nhiều người trong Kinh thánh làm công việc của mình rất tốt nhưng không cần được nêu tên tuổi cho đến ngày nhận phần thưởng trong nước trời. Hãy nghĩ về cậu bé đã dâng cho Chúa Jesus bữa ăn trưa của mình để Ngài cung ứng nó cho năm ngàn người (Giăng 6:8-11), hoặc đứa tớ gái nhỏ người Israel đã ngỏ ý Na-a-man đến với tiên tri Ê-li-sê để được chữa lành bệnh phung (2 Các Vua 5:1-4), hay là đứa cháu trai của Phao-lô đã hành động dũng cảm để cứu mạng sống của ông (Công 23:16-22).

 

Kẻ vác binh khí nói lời khích lệ Giô-na-than và hứa  sẽ đứng với ông. Tất cả người lãnh đạo, bất luận thành công như thế nào, cần có những người khác đứng bên cạnh để có thể giúp họ tiến hành các kế hoạch. A-rôn và Hu-rơ đỡ tay Môi-se lên khi ông cầu nguyện cho Giô-suê và đạo quân Israel trong chiến trận (Xuất 17:8-16). Chúa Jesus yêu cầu Phi-e-rơ, Gia-cơ, và Giăng thức canh với Ngài khi Ngài cầu nguyện trong vườn Ghết-sê-ma-nê (Math 26:36-46). Phước cho người lãnh đạo nào có người giúp đỡ đáng tin cậy, người mà lòng họ làm một với người lãnh đạo và không mưu cầu điều gì cho cá nhân nhưng nói cách nhiệt thành, “này tôi ở với ông.”

Chúa Jesus phán lời đó với chúng ta và Ngài cũng giúp chúng ta nói như thế với người khác.

 

“Ta thường ở cùng các ngươi luôn cho đến tận thế.”

Ma-thi-ơ 28:20

 

Bài 13

“Một người trong vòng tôi tớ cất tiếng nói rằng: Nầy tôi đã thấy một con trai của Y-sai, người Bết-lê-hem; nó gảy đàn hay, một người chiến sĩ mạnh bạo, ăn nói khôn ngoan, và mặt mày tốt đẹp; Đức Giê-hô-va ở cùng người.”

1 Sa-mu-ên 16:18

Khi Đa-vít chưa giết Gô-li-át, ông không phải là một người hùng trong mắt của dân chúng như sau này. Nhưng một tôi tớ vô danh của Sau-lơ đã quan sát Đa-vít và cảm phục chàng thiếu niên này. Ông ta đã tiến dẫn Đa-vít để giúp đỡ Sau-lơ trong suốt thời gian nhà vua bị tà linh khống chế. Có nhiều người trẻ khác giữa vòng dân Israel là chiến binh, biết âm nhạc,  có tài ăn nói và đẹp trai, nhưng điều đã gây ấn tượng mạnh mẽ cho người tôi tớ của Sau-lơ đó chính là Đức Giê-hô-va ở cùng Đa-vít. Trước đó Chúa ở cùng Sau-lơ, nhưng Ngài đã rời bỏ nhà vua (1 Sam 10:7; 16:14). Chúa đã ở cùng Áp-ra-ham (Sáng 21:22), Y-sác (Sáng 6:28), Gia-cốp (Sáng 28:15), Giô-sép (Sáng 39:2-3, 21, 23), Giô-suê (Giô 1:5), và nhiều người khác. Nhưng Đa-vít khác biệt với tất cả. Không có lời khen nào tốt hơn là “Chúa ở cùng bạn”, điều này có nghĩa gì?

Có nghĩa là bạn có một nhân cách thuộc linh. Khi Sa-mu-ên đi đến nhà của Y-sai để xức dầu cho Đa-vít làm vua, ông bị thu hút với mỗi đứa con của Y-sai. Nhưng Chúa cảnh báo ông đừng chỉ nhìn bề ngoài, vì “Đức Giê-hô-va nhìn thấy trong lòng” (1 Sam 16:7). Nhiều năm sau, A-sáp viết về Đa-vít, “Như vậy, người chăn giữ họ theo sự thanh liêm lòng người” (Thi 78:72). Sau-lơ là một người kiêu ngạo muốn được người khác tôn kính (1 Sam 15:30), nhưng Đa-vít khiêm nhường và muốn tìm kiếm vinh hiển của Đức Chúa Trời. Đa-vít là người đi theo lòng  của Đức Chúa Trời (13:14). Robert Murray M’Cheyne đã viết, “Đức Chúa Trời tìm kiếm và  ban phước cho người có tấm lòng giống Chúa Jesus.”

Có nghĩa là bạn có quyền năng thần thượng. Đa-vít giết tên khổng lồ Gô-li-át bằng cái trành ném đá khi ông còn ở tuổi thiếu niên. Rồi sau đó Đa-vít đã chỉ huy quân lính của mình đi từ chiến thắng này đến chiến thắng khác nên các người nữ Israel hát khen ngợi: “Sau-lơ giết hàng ngàn, còn Đa-vít giết hàng vạn” (18:7). Điều này làm cho lòng ganh ghét của Sau-lơ nổi lên và nhà vua tìm cách giết Đa-vít, nhưng Chúa đã bảo vệ người của Ngài. Người mà Chúa đã gọi, thì Ngài làm cho mạnh mẽ, và Đa-vít lệ thuộc vào quyền năng của Đức Chúa Trời trên mỗi bước đi. Đa-vít biết cách làm thế nào để xây dựng những người lãnh đạo khác (chương 23). Chúa ở cùng ông và ông sẽ không thất bại. Đa-vít viết, “Vì Chúa đã thắt lưng tôi bằng sức lực để chiến đấu” (Thi 18:39).

Nó có nghĩa là bạn chấp nhận sự đối nghịch. Dân Israel yêu mến và tôn trọng Đa-vít, nhưng Sau-lơ và binh lính của ông tìm cách giết Đa-vít. Bất cứ tín đồ chân thật nào tôn cao Chúa và đi theo sự sáng sẽ bị tấn công từ những người ham thích sự tối tăm (Giăng 3:19-21). Có lẽ trong khoảng bảy năm, Sau-lơ truy nã Đa-vít và đám tùy tùng. Họ phải trốn tránh từ nơi này đến nơi khác, và đôi khi ở trong hang động. Ngày hôm nay bạn và tôi có thể không bị đạo quân nào đuổi theo, nhưng đều phải trải qua bài học này: “Vả lại, hết thảy mọi người muốn sống cách nhân đức trong Đức Chúa Jêsus Christ thì sẽ bị bắt bớ” (2 Tim 3:12).

Nó có nghĩa là bạn nhận được những phước hạnh bền vững. Sách Các Vua thứ nhất chương hai nói về sự chết của Đa-vít, nhưng sau khi qua đời tên của ông  được tìm thấy nhiều lần trong Kinh Thánh. Trong một phương diện, Đa-vít vẫn còn chuyển tải  phước hạnh đến  cho tuyển dân Israel và vẫn đang chúc phước cho dân sự Đức Chúa Trời ngày nay. Ông để lại bản thiết kế đền thờ và các vật liệu để xây dựng đền thờ (1 Sử 28:11-20). Ông cũng để lại vũ khí cho quân đội (2 Các vua 11:10; 2 Sử. 29:26-27; Nê-hê-mi 12:36), và các bài Thi Thiên. Nhiều bài hát chúng ta sử dụng ngày nay xuất phát từ trong các Thi Thiên của Đa-vít. Và Chúa Cứu Thế Jesus sinh ra từ dòng dõi của vua Đa-vít.

Những ân tứ mà Đa-vít có được từ Chúa vẫn là bài học lớn cho chúng ta hôm nay. 1 Giăng 2:17 bảo đảm rằng “song ai làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời thì còn lại đời đời.” Nguyện Chúa ở cùng chúng ta!

“Đa-vít lại nói với Sa-lô-môn, con trai mình rằng: Hãy vững lòng bền chí mà làm; chớ sợ sệt, chớ kinh hãi chi, vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời, tức là Đức Chúa Trời của cha, vẫn ở cùng con; Ngài chẳng hề từ bỏ con, cũng chẳng hề lìa khỏi con.”

1 Sử ký 28:20

 

 

 

Bài 14

 

“Ôi Y-sơ-ra-ên! Kẻ danh vọng của ngươi đã thác trên gò nổng ngươi!
Nhân sao các kẻ anh hùng nầy bị ngã chết.”

2 Sa-mu-ên 1:19

 

“Luôn luôn nói tốt về người chết” là một câu thành ngữ cổ xưa, và Đa-vít đã làm như vậy khi ông viết bài ai điếu này trong sự tôn trọng Sau-lơ và Giô-na-than. Ông không nói gì về tính ích kỷ và những việc làm tội lỗi của Sau-lơ, nhưng ba lần ông nói, “Nhân sao các anh hùng này bị ngã chết” (2 Sam 1:19, 25, 27). Sau-lơ có thân hình to lớn (10:23-24) nhưng lại nhỏ bé trong tính cách, bởi vì ông luôn lẩn trốn.

 

Ông lẩn trốn khỏi việc nhận trách nhiệm (1 Sam. 10:20-24). Sa-mu-ên rất kịch tính khi ông giới thiệu vua Israel đầu tiên cho dân sự. Sa-mu-ên loại bỏ từng chi phái cho đến khi chỉ còn lại chi phái Bên-gia-min, rồi loại bỏ từng họ chỉ còn lại gia đình Kích, và Chúa phán về Sau-lơ, “Kìa, nó ẩn trong đồ đạc kia” (câu 22), nghĩa là Sau-lơ giấu mình trong những hành lý của dân sự. Sau-lơ đang làm gì ở đó? Ông đã được xức dầu bởi tiên tri Sa-mu-ên, vì vậy ông biết Đức Chúa Trời đã chọn ông làm vua, và không có lý do nào để lẩn trốn hay do dự. Sự biểu lộ này của ông là do sợ hãi hay khiêm nhường giả tạo?

  1. Campbell Morgan từng nói, “Nếu Đức Chúa Trời gọi một người để làm vua, người đó không có quyền lẩn trốn.” Tôi đồng ý với điều này.

 

Ông lẩn trốn khỏi việc thực hiện trách nhiệm. Khi đọc về cuộc đời của Sau-lơ, chúng ta thấy nhiều lần ông không vâng lời Đức Chúa Trời và sau đó tìm cách biện giải thay vì xưng nhận và tìm kiếm sự tha tội. Trong 1 Sa-mu-ên 13, ông trở nên mất kiên nhẫn khi chờ đợi Sa-mu-ên đến dâng sinh tế, do đó ông tự mình dâng của lễ và qui trách nhiệm Sa-mu-ên đến “trễ”. Trong chương 14, ông đưa ra lời thề một cách thiếu suy nghĩ và quở trách con trai Giô-na-than. Chỉ thiếu chút nữa thôi là ông đã giết con mình.

Trong chương 15, ông không vâng lời Chúa khi tha chết vua A-ga và giữ lại các súc vật tốt đẹp của kẻ thù. Biện giải của ông? Là dân sự để lại phần “tốt nhất” và hủy diệt những gì không đáng giá. Nhưng nếu Đức Chúa Trời phán “Hủy diệt” thì không thể có điều nào là “tốt nhất”! Sự bào chữa này làm cho Sau-lơ phải trả giá bằng cả vương quốc của ông. Sau-lơ trở nên hoang tưởng với tất cả những người hỗ trợ Đa-vít, và ông đã giết các thầy tế lễ và dân cư thành Nóp (1 Sam 21-22). Sau-lơ hành động giống như Satan; ông là kẻ dối trá và giết người (Giăng 8:44).

 

Ông lẩn trốn khỏi đối diện với sự thật (1 Sam 28; 31). Sau-lơ không có bất cứ sứ điệp nào từ Chúa, điều này là hiển nhiên. “Nếu lòng tôi có chú về tội ác, ắt Chúa chẳng nghe tôi” (Thi 66:18). Từ chú về có nghĩa là biết tội lỗi có ở đây, nhưng đồng thuận và không làm gì với nó. Sau-lơ đã cải trang và đi tìm sự tư vấn của đồng bóng, và giờ đây ông nhận mạng lệnh từ ma quỷ. Tuy nhiên, Sau-lơ đã không thể cải trang bản ngã mình. Ông đang bày tỏ mình là một người giả dối, vì ông đã là một diễn viên tuồng trong hầu hết khoảng thời gian cai trị. Sa-mu-ên đã nói với ông rằng ngày mai sẽ là ngày cuối của ông bởi vì ông và con trai sẽ chết trong chiến trận (1 Sam 28:19; 31:1-6). Như một diễn viên thủ vai đến cuối cùng, Sau-lơ dẫn đội quân của mình chiến đấu, dầu ông biết chắc sẽ thua trận và chết.

Đức Chúa Trời chưa bao giờ có ý định thiết lập triều đại bền vững cho Sau-lơ, vì vua của Israel phải ra từ chi phái Giu-đa (Sáng 49:10), và Đa-vít đã được xức dầu để làm vua. Sự thất bại của Sau-lơ nhắc nhở tôi về Lời của Chúa trong Khải Huyền 3:11, “Ta đến mau kíp; hãy giữ lấy điều ngươi có, hầu cho không ai cất lấy mão triều thiên của ngươi.” Sự nghiệp của Sau-lơ bắt đầu khi ông đứng lên cao hơn mọi người một cái đầu (1 Sam 10:23-24), nhưng kết thúc sỉ nhục khi ngã chết trong chiến trận. Giống như Sam-sôn, Lót, Giu-đa, và Đê-ma, ông không có kết thúc tốt lành.

 

“Vậy thì, ai tưởng mình đứng, hãy giữ kẻo ngã.”

 

1 Cô-rin-tô 10:12

 

Bài 15 

 “Đa-vít bèn đáp cùng Gát rằng: Sự khốn khổ tôi lớn thay! Thế thì, nguyện tôi sa vào tay của Đức Giê-hô-va, vì những sự thương xót của Ngài là lớn lắm; nhưng chớ cho tôi sa vào tay của loài người ta.”

2 Sa-mu-ên 24:14

Hai tội. Hãy thực hiện một cuộc phỏng vấn với những người đọc Kinh thánh về tội lỗi nghiêm trọng nhất mà Đa-vít đã phạm là gì, thì hầu hết họ sẽ trả lời, “Tội gian dâm với Bát-sê-ba.” Đây thực sự là một tội trọng, một tội bất thình lình, tội của dục vọng xác thịt đã khiến năm người chết: U-ri, chồng của Bát-sê-ba, đứa con đầu lòng của Bát-sê-ba, và ba người con khác của Đa-vít. Nhưng khi Đa-vít kiểm kê dân số, đó là tội tự cao và cố ý sâu xa trong tâm hồn đã mang đến sự chết cho bảy mươi ngàn người! Khi Đa-vít thừa nhận tội gian dâm, ông nói, “Tôi đã phạm tội cùng Đức Giê-hô-va” (2 Sa. 12:13), nhưng khi thừa nhận tội về kiểm kê dân số ông nói, “tôi đã phạm tội rất nặng”. Có các tội của phần xác thịt và phần thần linh sâu xa bên trong con người (2 Côr 7:1), và chúng ta thường nhấn mạnh về tội đầu tiên nhưng hạn chế nhắc đến tội thứ hai. Nhưng các tội bên trong tấm lòng cũng mang đến những hậu quả kinh khủng. Chúa Jesus xem sự ghen ghét ngang bằng với tội giết người và “ngó đàn bà mà động tình tham muốn” thì cũng xem như phạm tội ngoại tình (Ma-thi-ơ 5:21-30). Ngài bày tỏ lòng thương xót với dân sự và tội nhân, nhưng Ngài gọi các thầy thông giáo và người Pha-ri-si tự cao là “con cái của ma quỷ.”

 

Hai hậu quả. Trong sự tể trị thần thượng, Đức Chúa Trời cho phép tội của Đa-vít mang đến sự đau đớn, hoạn nạn, và sự chết. Điều này chạm đến nỗi đau tột cùng của Đa-vít. Nhưng Đức Chúa Trời trong ân điển và thương xót của Ngài đã tha thứ  các tội của Đa-vít và thậm chí đem đến điều tốt từ  bi kịch xấu. Sa-lô-môn được Bết-sê-ba sinh ra và là người kế thừa của Đa-vít. Sa-lô-môn đã xây đền thờ từ các tài vật mà Đa-vít  chuẩn bị và ông dâng sinh tế cho Đức Chúa Trời. Chỉ duy Đức Chúa Trời giàu lòng thương xót mới có thể ban ơn trên hậu tự của người mà đã phạm hai tội lỗi nghiêm trọng. Kinh Thánh cho chúng ta biết Đức Chúa Trời với lòng thương xót cả thể (1 Phi-e-rơ 1:3), Ngài có lòng yêu thương lớn (Êph 2:4). Vì thế sa vào tay của Chúa thì dễ chịu hơn nhiều khi sa vào tay những đối tượng khác. Trong Thi thiên 25:6 Đa-vít nói “sự thương xót và sự nhân từ” của Chúa có từ ngàn xưa.

 

Hai ngôi. Đức Chúa Trời trong sự thương xót, Ngài không xử lý chúng ta theo những gì chúng ta xứng đáng nhận. Và trong ân điển, Ngài ban cho chúng ta những gì chúng ta không xứng đáng – sự tha thứ! Chúng ta có thể đến trước ngôi thi ân và nhận lãnh sự thương xót (Hêb. 4:16). Nhưng điều này không có nghĩa là chúng ta được tự do phạm tội khi lợi dụng ân điển và sự thương xót của Chúa (Rô-ma 6:1-2)! Điều này đơn giản nghĩa là Cha thương xót đem chúng ta đến sự thừa nhận tội và được tha thứ. Đó là ân điển của Đức Chúa Trời – nhưng đừng quên sự tể trị của Đức Chúa Trời. Sự tha thứ này được trả giá bởi sự sống của chính Chúa Jesus. Giá trả cho điều này vô cùng lớn! Đa-vít trên ngôi vua được tự do không nghe lời của Đức Chúa Trời mà tiến hành kiểm kê dân sự, nhưng ông không được tự do để thay đổi hậu quả cho các hành động của mình.

 

Hai sự bảo đảm. Thứ nhất, sự thương xót của Đức Chúa Trời không bao giờ thất bại. Satan là kẻ kiện cáo (Khải. 12:10), và nó tìm kiếm cơ hội để tác động xấu trên Cơ đốc nhân bằng cách nhắc chúng ta về các tội lỗi của mình. Chúng ta không nên nghi ngờ về những lời hứa của Đức Chúa Trời, điều ấy không phụ thuộc vào sự cảm nhận chủ quan của cá nhân khi Đức Chúa Trời sửa phạt chúng ta. Dĩ nhiên chúng ta sẽ bị đau đớn vì hậu quả của tội lỗi. Nhưng lời hứa của Đức Chúa Trời trong 1 Giăng 1:9 là thật, và chúng ta phải cầu hỏi trong đức tin, để kinh nghiệm “sạch mọi điều gian ác”. Thứ hai, tiên tri Mi-chê đã viết một lời hoàn hảo cho những ai bị quấy rối bởi các dấu ấn của tội lỗi.

 

“Ai là Đức Chúa Trời giống như Ngài,

Tha thứ sự gian ác,

Và bỏ qua sự phạm pháp của dân sót của sản nghiệp Ngài?

Ngài không cưu giận đời đời,

Vì Ngài lấy sự nhân từ làm vui thích.

Ngài sẽ còn thương xót chúng tôi,

Và dập sự gian ác chúng tôi dưới chân Ngài;

Ném hết thảy tội lỗi chúng tôi xuống đáy biển.”

Mi-chê 7:18-19

 

Corrie ten Boom đã nói, “Chúa đưa lên một biển báo hiệu, ‘KHÔNG NHỚ ĐẾN NỮA’ khi Ngài bày tỏ lòng thương xót quăng xa tội lỗi của chúng ta.”

 

 

 

Bài 16

“Vậy, Đức Chúa Trời tôi ôi! Bây giờ cầu xin Chúa đoái thương và lắng tai nghe phàm lời nào cầu nguyện trong nơi nầy.”

2 Sử ký 6:40

“Nơi này” chỉ về đền thờ mà Vua Sa-lô-môn đã dâng lên cho Chúa tại Giê-ru-sa-lem. Đền thờ là “nhà cầu nguyện của mọi dân tộc” (Ê-sai 56:7; Mác 11:17), và lời cầu nguyện của Sa-lô-môn là một gương mẫu tốt cho dân sự. Ông nhấn mạnh việc cầu nguyện trong đền thờ khi họ ở tại Giê-ru-sa-lem (2 Sử. 6:24, 32, 40) và hướng về đền thờ khi ở xa (các câu 20, 21, 26, 34, 38). Khi cần sự giúp đỡ của Chúa, Đa-vít thường hướng về đền thờ dâng lời cầu nguyện (Thi 28:2; 138:2). Nếu quy định về vị trí địa lý này được áp dụng cho tín hữu ngày nay, tôi sẽ thật sự gặp rắc rối, bởi vì tôi không có cảm nhận về phương hướng! Nhưng thực ra điều Chúa muốn các con cái của Ngài thực hiện: tấm lòng chúng ta hướng về trời, và trong đức tin kêu: “A-ba, Cha!”.

 

Khi chúng ta cầu nguyện trong ý chỉ của Đức Chúa Trời, chúng ta tham dự vào một phép lạ, bởi vì sự cầu nguyện vượt qua cả không gian và thời gian. Chúng ta không cần phải lo lắng về vị trí địa lý. Đa-vít đã từng cầu nguyện trong hang động (Thi 57; 142), Phao-lô và Si-la cầu nguyện trong nhà tù (Công 16:25), vua Ê-xê-chia cầu nguyện khi ông bị bệnh (Ê-sai 38), Phi-e-rơ kêu cầu danh Chúa khi đang sụp xuống biển Ga-li-lê (Ma-thi-ơ 14: 29-33), và Chúa Jesus cầu nguyện khi Ngài bị đóng đinh trên thập tự giá (Lu-ca 23:34)… Khi cầu nguyện, Cơ đốc nhân không nhất thiết phải có dụng cụ đặc biệt, thời gian biểu, hay môi trường. Nếu họ cần vậy, thì Phao-lô đã không viết là “cầu nguyện không thôi” (1 Tê-sa-lô-ni-ca 5:17) hay “cầu nguyện luôn luôn” (Êph 6:18), và Chúa Jesus sẽ không dạy chúng ta “phải cầu nguyện luôn luôn, chớ hề mỏi mệt” (Lu-ca 18:1).

 

Cầu nguyện không bị giới hạn bởi thời gian, bởi vì chúng ta được liên kết với Đức Chúa Trời đời đời, Đấng biết sự kết thúc từ buổi đầu tiên. Vua Sa-lô-môn đã cầu nguyện xin Chúa giải cứu dân sự trong những tình huống giả định ở tương lai. Đọc lời cầu nguyện của Chúa Jesus được ghi lại trong Giăng 17, chúng ta thấy Chúa đã cầu nguyện cho những người sẽ sống trong thời đại sắp đến. Thậm chí Ngài cũng cầu nguyện cho hội thánh ngày nay, cho bạn và tôi (câu 20-26). Khi bạn đến với ngai ân điển, hãy phớt lờ hết ngày tháng, thời gian, không gian, và bởi đức tin mà chạm đến các đời sống và hoàn cảnh của con người ở mọi nơi trên tinh cầu này. Chúng ta không cần phải “đến nhà thờ” để cầu nguyện. Tôi đã cầu nguyện trong xe cứu thương khi xe đang chở tôi đến bệnh viện sau khi một tài xế say rượu tông vào xe làm tôi suýt chết. Tôi đã cầu nguyện trên chuyến bay ngang qua Đại tây dương khi mà khí ga bị rò rỉ. Tôi cũng cầu nguyện trong bệnh viện với thân nhân của bệnh nhân đang ở trong tình trạng nguy hiểm. Tôi cầu nguyện lúc rao giảng khi tôi cảm nhận kẻ thù đang tấn công. Hãy cầu nguyện và cảm tạ Chúa theo Rô-ma 8:28 khi mà mọi thứ xảy ra dường như trái ngược với sự mong đợi của chúng ta.

Nếu chúng ta không còn nghĩ về sự cầu nguyện như là một phép lạ, lúc đó nếp sống cầu nguyện của chúng ta bắt đầu thụt lùi và sẽ dừng lại. Bi kịch là chúng ta sẽ kết thúc sự cầu nguyện một cách rụt rè, bẽn lẽn như thể chúng ta vừa mới nói chuyện với chính mình chứ không phải với Chúa. Khi Charles Haddon Spurgeon rao giảng cho hội thánh tại London trong buổi sáng chủ nhật ngày 1 tháng 10 năm 1882, ông nói, “Thưa anh chị em, dù chúng ta thích hay không thích, nhớ hay không nhớ, thì cầu nguyện là qui luật của vương quốc… Đây là một qui luật không bao giờ thay đổi cho bất cứ trường hợp của ai.” Điều này nhắc chúng ta về Gia-cơ 4:2 “anh em chẳng được chi, vì không cầu xin.”

D.L Moody nói, “Một vài người nghĩ rằng Đức Chúa Trời không thích bị quấy rầy bởi việc chúng ta thường đến và cầu xin. Thực ra chỉ có một cách gây rắc rối cho Đức Chúa Trời là không đến với Ngài bao giờ.”

Bạn có đang đến với Chúa và cầu nguyện?

“Ta lại nói cùng các ngươi: Hãy xin, sẽ ban cho; hãy tìm, sẽ gặp; hãy gõ cửa, sẽ mở cho.”

Lu-ca 11:9

 

 

Bài 17

 

Bấy giờ, Giê-sua, con trai của Giô-sa-đác, và các anh em người, là thầy tế lễ, luôn với Xô-rô-ba-bên, con trai Sa-anh-thi-ên, và các anh em người, đều chỗi dậy xây cất bàn thờ Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, đặng dâng của lễ thiêu tại đó, theo như đã chép trong luật pháp Môi-se, người của Đức Chúa Trời.

E-xơ-ra 3:2

 

Năm 538 trước Công Nguyên, khoảng năm mươi ngàn người Do Thái rời khỏi Ba-by-lôn và trở về Giê-ru-sa-lem để tái xây dựng đền thờ và khôi phục thành phố. Họ đã không có một cuộc sống dễ dàng, bởi vì thành phố đã bị tàn phá và các kẻ thù không muốn Giê-ru-sa-lem được xây lại. Tuy nhiên những người Do Thái hiệp lại như một người (E-xơ-ra 3:1, 9) và Đức Chúa Trời ở cùng họ trong công tác khôi phục. Trình tự công cuộc tái thiết của họ hợp lý. Họ không chờ đợi cho đến khi đền thờ được xây xong thì mới dâng của lễ. Họ đã thiết lập bàn thờ và bắt đầu dâng của lễ hằng ngày lên cho Đức Chúa Trời. Đây là một thế hệ mới đại diện cho một quốc gia làm nên một khởi đầu mới. Họ đã vâng theo sự hướng dẫn từ quyển sách Luật pháp của Môi-se. Họ đã không sáng tạo điều gì mới mẻ, họ chỉ đơn giản vâng lời Đức Chúa Trời. Các tín hữu ngày nay cần phải bước theo gương mẫu của họ.

 

Chúng ta có một bàn thờ. Bàn thờ không phải ở nơi thánh trên đất nhưng đúng hơn là ngai trên trời, vì Con của Đức Chúa Trời, Đấng thăng thiên và được tôn cao là bàn thờ của chúng ta (Hêb 13:10). Đó là qua Ngài mà chúng ta dâng lên các sinh tế thuộc linh cho Đức Chúa Trời (1 Phi-e-rơ 2:5). Tôi đã từng nghe một nhà truyền giảng nói, “Hãy đến gần bàn thờ và gặp Chúa”, nhưng nói cách nghiêm túc thì không có một bàn thờ nào trên đất cả. Chúa Jesus đã vượt qua khỏi màn che trên trời mà vào nơi Chí Thánh, và tại đó Ngài cầu thay cho chúng ta (Hêb 6:20). Trong Cựu Ước, Đức Chúa Trời gặp dân Ngài tại bàn thờ bằng đồng đặt tại cửa của đền tạm (Xuất 29:42-43), nhưng ngày nay chúng ta đến với Đức Chúa Cha qua Đức Chúa Con (Giăng 14:6) và trong Thánh Linh (Êph. 2:18). Theo Hê-bơ-rơ 4:14-16, chúng ta có thể vững lòng đến gần ngôi ơn phước, dâng của lễ của sự ngợi khen, và trình ra các nhu cầu của chúng ta.

 

Chúng ta mang đến các của lễ. Mỗi tín đồ trong Chúa Jesus là một thầy tế lễ (1 Phi-e-rơ 2:5, 9; Khải 1:6) và có đặc ân phụng sự và thờ phượng Đức Chúa Trời và dâng “các của lễ thuộc linh” cho Ngài.

Từ “thuộc linh” không có nghĩa là phi vật chất, nhưng đúng hơn là “chất lượng thuộc linh mà Đức Chúa Trời có thể chấp nhận.” Khi ngày mới bắt đầu, tôi phải trình dâng thân thể tôi cho Đức Chúa Trời như là sinh tế sống (Rô-ma 12:1-2), và tôi phải dành thời gian để dâng Ngài lời cầu nguyện (Thi 141:1-3) và ngợi khen (Hêb 13:15). Cả ngày tôi phải làm các việc tốt để tôn cao Ngài (câu 16), và tôi phải sử dụng các tài vật của tôi để giúp người khác và tôn vinh Đức Chúa Trời (Phi-líp 4:14-18; Rô-ma. 15:27). Khi hội thánh địa phương nhóm lại, đó là một “vương quốc các thầy tế lễ” đang mang các của lễ thuộc linh dâng lên Chúa, và khao khát của chúng ta là làm đẹp lòng và tôn kính Ngài.

 

Chúng ta dâng điều tốt nhất của chúng ta cho Đức Chúa Trời. Hãy đọc Ma-la-chi 1, Đức Chúa Trời quở trách các thầy tế lễ vì mang các “của lễ ít giá trị” đến bàn thờ. Lời của Đa-vít khi ông mua tài vật của Ọt-nan: “ta muốn mua nó theo giá bạc thật nó; vì ta chẳng muốn lấy vật gì của ngươi mà dâng cho Đức Giê-hô-va, cũng không muốn dâng của lễ thiêu chẳng tốn chi cả” (1 Sử ký 21:24). Những gì chúng ta dâng và chúng ta ta dâng như thế nào đều bày tỏ cách chúng ta lượng giá Chúa và đánh giá cao sự thương xót của Ngài đến mức nào. Từ worship (thờ phượng)  có nghĩa là “worth-ship” (một con thuyền đáng giá), và chúng ta đặt sự thờ phượng của chúng ta vào trong “con thuyền” để bày tỏ chúng ta “đo lường giá trị” Chúa chúng ta vĩ đại như thế nào.

Dù bạn đang tham dự vào dự án nào, hãy chắc rằng trước hết bạn đang xây dựng bàn thờ. Dâng chính mình cho Chúa, kế hoạch của bạn và tất cả những gì bạn có. Dâng cho Ngài điều tốt nhất. Đừng bao giờ dâng lên Ngài điều mà bạn không trả giá gì cả, vì sự thờ phượng và phụng sự mà không phải trả giá sẽ không hoàn thành bất cứ  điều gì có giá trị.

 

“Khi các ngươi dâng một con vật mù làm của lễ, điều đó há chẳng phải là dữ sao? Khi các ngươi dâng một con vật què hoặc đau, điều đó há chẳng phải là dữ sao? Thử dâng nó cho quan trấn thủ ngươi, thì người há đẹp lòng và vui nhận cho ngươi sao? Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vậy.  Các ngươi đã làm điều đó, nay ta xin các ngươi hãy nài xin ơn Đức Chúa Trời, hầu cho Ngài làm ơn cho chúng ta, thì Ngài há sẽ nhận một người nào trong các ngươi sao? Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy.”

Ma-la-chi 1:8-9

 

Bài 18

Khi các thù nghịch của Giu-đa … đi đến Xô-rô-ba-bên và các trưởng tộc mà nói rằng: “Chúng tôi muốn đồng xây cất với các ngươi.”

E-xơ-ra 4:1-2

Một mục đích phải thành đạt. Đó là chính Chúa đã mở đường để dân sót Israel trở về lại vùng đất của họ sau khi bị phu tù tại Ba-by-lôn (2 Sử 36:22-23). Sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời dành cho thế gian đòi hỏi quốc gia Israel phải được khôi phục, dân số tại thủ đô Israel phải được phục hồi, và đền thờ của người Israel phải được xây lại. Đức Chúa Trời đã lập giao ước với dân tộc Israel, không phải với bất cứ dân tộc nào trên đất này, và Ngài sẽ giữ giao ước đó (Sáng 12:1-3; 13:14; 17; 22:15-19). Sẽ có một ngày Con của Đức Chúa Trời được sinh ra tại Bết-lê-hem, lớn lên ở Na-xa-rét, thi hành chức vụ tại xứ thánh, và cuối cùng bị đóng đinh bên ngoài Giê-ru-sa-lem,  rồi bị chôn trong mồ. Ngài sống lại từ cõi chết, hiện ra cho các người theo Ngài, và sau đó trở về trời và ngự trên ngai với Cha. “Chúng ta lại đã thấy và làm chứng rằng Đức Chúa Cha đã sai Đức Chúa Con đặng làm Cứu Chúa thế gian” (1 Giăng 4:14).

 

Một hiểm họa phải tránh. Bởi vì dân Israel là dân giao ước được tuyển chọn của Đức Chúa Trời, nên họ trở nên mục tiêu cho tất cả những ai khước từ Lời Đức Chúa Trời và Con của Ngài. “Thế thì, tôi cùng dân sự Ngài sẽ được phân biệt với muôn dân trên mặt đất” (Xuất. 33:16), Môi-se nói rằng Israel là “một dân ở riêng ra, sẽ không nhập số các nước” (Dân 23:9). Đó là chính Chúa biệt riêng Israel ra khỏi các dân ngoại bang (Lê-vi ký 20:26) và cảnh báo họ không được thỏa hiệp với các dân khác bằng cách đi theo họ. Nếu dân Israel đồng ý sự giúp đỡ của các dân ngoại đạo, họ sẽ làm việc chung với kẻ thù của họ, và Chúa sẽ không thể chúc phước cho họ. Nhưng thực tế là người Israel đã thỏa hiệp với các kẻ ngoại đạo thông qua hành động cưới các con gái ngoại bang (E-xơ-ra 10:2). Cùng một nguyên tắc như vậy cho hội thánh ngày nay. Phao-lô cảnh báo, và giải thích điều này trong 2 Cô-rin-tô 6:14, “Chớ mang ách chung với kẻ chẳng tin.” Dân của Đức Chúa Trời phải được biệt riêng ra nhưng không phải bị cô lập (Êph 5:8-14).

 

Một lời hứa phải ấn chứng. Lời hứa không thay đổi của Đức Chúa Trời đối với Áp-ra-ham, “Ta sẽ ban phước cho ngươi …và ngươi sẽ thành một nguồn phước” (Sáng 12:2). Bất cứ khi nào  tuyển dân ở ngoài ý chỉ của Đức Chúa Trời và thờ phượng các thần của dân ngoại bang, thì dân sự phải chịu đựng sự hạn hán, đói kém, dịch lệ, và ách nô lệ. Bất cứ khi nào dân Israel vâng phục các mạng lệnh trong giao ước, họ được phước trong gia đình, trên đồng ruộng, gia súc, và vui hưởng sự bình an trong vùng đất định cư. Đức Chúa Trời ban phước và làm họ thành một nguồn phước cho người khác. Tuy nhiên lịch sử của dân sót trở về đất thánh không phải là những người hạnh phúc, vì nhiều người đã cưới vợ ngoại bang và thậm chỉ cũng có những thầy tế lễ làm như vậy (E-xơ-ra 9-10). Thật là quan trọng cho người Israel giữ cây gia phả của họ không bị ô uế, vì lời hứa về Đấng Mê-si phải được sanh ra bởi người nữ đồng trinh của dân tộc Israel (Ê-sai 7:14).

Chúa phán, “Ta sẽ xây hội thánh ta” (Ma-thi-ơ 16:18), và Ngài cần biệt riêng những người được Thánh Linh kiểm soát để cùng làm việc với Ngài. Cơ đốc nhân thỏa hiệp với thế giới thì vô hình trung đang chống lại Chúa. “Bởi vậy Chúa phán rằng: Hãy ra khỏi giữa chúng nó, hãy phân rẽ ra khỏi chúng nó, đừng đá động đến đồ ô uế, thì ta sẽ tiếp nhận các ngươi” (2 Côr 6:17). Sự biệt riêng không phải là làm cho bị cô lập, vì tín đồ  giống như  muối và ánh sáng trong thế giới, họ chiến thắng sự sa bại và tối tăm, làm cho thế giới trở nên đáng sống hơn (Ma-thi-ơ 5:13-16). Chỉ loại người như vậy Chúa mới có thể dùng làm rường cột để xây hội thánh Ngài.

 

Hỡi những kẻ rất yêu dấu của tôi, chúng ta đã có lời hứa dường ấy, thì hãy làm cho mình sạch khỏi mọi sự dơ bẩn phần xác thịt và phần thần linh, lại lấy sự kính sợ Đức Chúa Trời mà làm cho trọn việc nên thánh của chúng ta.

2 Cô-rin-tô 7:1

 

 

Bài 19

Tại nơi nào các ngươi nghe tiếng kèn, thì hãy nhóm lại cùng chúng ta ở đó; Đức Chúa Trời của chúng ta sẽ chiến đấu cho chúng ta.

 

Nê-hê-mi 4:20

Bất cứ khi nào chúng ta trung tín thực hiện các công tác Chúa giao thì kẻ thù sẽ tấn công chúng ta. Một số Cơ đốc nhân bối rối bởi những hình ảnh chiến tranh trong Kinh thánh, chúng ở đó và chúng ta không thể bỏ qua nó. Tuyển dân đã đi qua nhiều cuộc chiến trong suốt lịch sử của họ, và hội thánh cũng có những xung đột. Lần đầu tiên chúng ta bắt gặp từ “hội thánh” trong Tân ước, Chúa Giê-su phán: “Ta sẽ lập Hội thánh ta trên đá nầy, các cửa âm phủ chẳng thắng được hội đó.” (Ma-thi-ơ 16:18). Câu này được liên tưởng tới công trình xây dựng và cuộc chiến. Và sứ đồ Phao-lô không tránh né sử dụng các từ chỉ về người lính chiến đấu trong các thư tín (Ê-phê-sô 6:10-20; 2 Ti-mô-thê 2:1-4; 1 Cô-rinh-tô 15:57; 2 Cô-rinh-tô 2:12-17; 10:4-6). Khi chúng ta chiến đấu với các kẻ thù của Đức Chúa Trời, chính Ngài sẽ chiến đấu cho chúng ta.

 

Thuộc tính của Chúa đòi hỏi điều này. “Đức Giê-hô-va là một chiến sĩ.” (Xuất-ê-díp-tô 15:3). Tuyển dân đã ca hát và công bố những lời này sau khi ra khỏi Biển Đỏ. Và khi người A-ma-léc tấn công Israel, Môi-se đã cầu nguyện dẫn đến kết quả là Giô-suê đánh bại đạo binh của đối phương (17:8-16). Để ghi nhớ về trận đánh này, Môi-se lập lên một bàn thờ, đặt tên là ‘Giê-hô-va cờ xí của tôi’. Gần cuối đời ông công bố, “Ồ! Y-sơ-ra-ên, ngươi có phước dường bao!
Hỡi dân được Đức Giê-hô-va cứu rỗi, ai giống như ngươi?
Ngài là cái thuẫn giúp đỡ ngươi,
Thanh gươm khiến cho ngươi nên vinh hiển.
Kẻ thù nghịch ngươi sẽ đến dua nịnh ngươi;
Còn ngươi, ngươi sẽ lấy chân giày đạp các nơi cao của chúng nó.” (Phục truyền. 33:29)

Ê-sai viết:

“Đức Giê-hô-va sẽ ra như người mạnh dạn; giục lòng sốt sắng như người lính chiến; kêu la quát tháo; ra sức cự lại kẻ thù nghịch mình.” (Ê-sai 42:13)

Giê-rê-mi cũng viết: “Nhưng Đức Giê-hô-va ở với tôi như một tay anh hùng đáng khiếp.” (20:11)

Đức Chúa Trời của chúng ta là một Đức Chúa Trời thánh khiết, công bình, nghiêm minh. Khi tuyển dân chiến đấu chống lại các thế lực thù nghịch, gian ác thì Đức Giê-hô-va cùng chiến đấu với họ.

Giao ước của Đức Chúa Trời công bố điều này. Chúng ta sẽ tìm thấy giao ước của Ngài với tuyển dân trong Lê-vi-ký 26-27 và Phục truyền. 28-30. Đức Chúa Trời đã hứa cùng tuyển dân về một vùng đất mới, và cuối cùng họ đã đến Ca-na-an. “Các ngươi đuổi theo quân nghịch, họ sẽ bị gươm sa ngã trước mặt các ngươi.  Năm người trong các ngươi sẽ đuổi theo một trăm; một trăm trong các ngươi sẽ đuổi theo một muôn, và quân nghịch sẽ bị gươm sa ngã trước mặt các ngươi.”  (Lê-vi-ký 26:7-8). “Đức Giê-hô-va sẽ làm cho kẻ thù nghịch dấy lên cùng ngươi bị đánh bại trước mặt ngươi; chúng nó sẽ do một đường ra đánh ngươi, rồi do bảy đường chạy trốn trước mặt ngươi.” (Phục. 28:7). Trong giao ước mới mà Chúa Giê-su đã thiết lập với hội thánh thông qua huyết của Ngài không bao hàm một vùng đất hứa như trong Cựu Ước. Chúa Giê-su hứa rằng, “các cửa âm phủ chẳng thắng được hội thánh.” (Ma-thi-ơ 16:18). Sứ đồ Phao-lô viết, “Tạ ơn Đức Chúa Trời đã cho chúng ta sự thắng, nhờ Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta.” (1 Cô-rinh-tô 15:57). “Vì hễ sự gì sanh bởi Đức Chúa Trời, thì thắng hơn thế gian; và sự thắng hơn thế gian, ấy là đức tin của chúng ta.” (1 Giăng 5:4). Các chiến binh Cơ đốc “dùng sự sẵn sàng của Tin lành bình an mà làm giày dép.” (Ê-phê-sô 6:15). Và khi chia sẻ Phúc âm chúng ta mang bình an đến cho thế giới hỗn loạn này. Nhưng Satan thì trái ngược lại. Quỷ vương có thể tấn công chúng ta đủ mọi lĩnh vực, nhưng nó là kẻ thù đã bị đánh bại. “Trong mọi sự đó (trong mọi điều tồi tệ nhất), chúng ta nhờ Đấng yêu thương mình mà thắng hơn bội phần.” (Rô-ma 8:37)

 

Con cái của Đức Chúa Trời phải tùy thuộc vào điều này. Trong chiến trận thuộc linh, chúng ta phải hoàn thành phần việc của mình bằng cách tin vào lời hứa của Đức Chúa Trời, trang bị các vũ khí của Ngài và đầy dẫy Đức Thánh Linh. Điều này có nghĩa chúng ta phải dành thời gian suy ngẫm Lời Chúa, đầu phục Đức Thánh Linh, mặc lấy các binh giáp bởi đức tin để đứng vững trong Christ. Dân sự của Đức Chúa Trời mà hai lòng (đi giẹo hai bên) sẽ trở thành nạn nhân, không phải là người chiến thắng trong trận chiến. Một bài Thánh ca cổ điễn viết, “Hãu đứng vững cho danh Giê-su!” Làm chứng về danh Giê-su khi đã trải qua chiến trận đắc thắng sẽ cho chúng ta những cơ hội tốt nhất để rao giảng Phúc âm.

Khi đối diện với chiến trận thuộc linh, hãy nhớ lời của Nê-hê-mi, “Đức Giê-hô-va sẽ chiến đấu cho chúng ta.” Các bạn sẽ không chiến đấu đơn độc. Nhưng Đức Chúa Trời cũng không chiến đấu thay cho chúng ta, bởi vì chúng ta có phần trong cuộc chiến này.

 

Hãy vì đức tin mà đánh trận tốt lành

1 Ti-mô-thê 6:12

 

Bài 20

Ngày mười hai tháng giêng, chúng ta ở sông A-ha-va khởi hành, đặng đi đến Giê-ru-sa-lem. Tay của Đức Chúa Trời chúng ta phù trợ chúng ta, giải cứu chúng ta khỏi tay kẻ thù nghịch, và khỏi kẻ rình phục dọc đường.

E-xơ-ra 8:31

 

Tiến sĩ Bob Cook, chủ tịch điều hành tổ chức Young For Christ đã phát biểu trong một kỳ hội thảo của YFC cách đây nhiều năm, “Nếu bạn có thể giải thích về những gì sẽ xảy ra trong đời sống và chức vụ của bạn, thì khi đó Đức Chúa Trời không làm điều đó. Vì vậy hãy chắc chắc rằng phải giữ gìn đời sống của bạn trên một nền tảng những điều kỳ diệu.” Đến bây giờ tôi vẫn chưa quên lời phát biểu ấy. Nếu không có cánh tay toàn năng của Đức Chúa Trời bao phủ, chúng ta sẽ không bao giờ trải nghiệm quyền năng của Chúa trong linh trình bước đi mỗi ngày. Nếu có một quyển sách nào trong Kinh Thánh minh họa cho lẽ thật này, thì đó sẽ là sách E-xơ-ra. “Tay của Đức Chúa Trời” đã làm việc trên tuyển dân Israel cách kỳ diệu.

 

Tay của Đức Chúa Trời hướng dẫn chúng ta. “Lòng của vua ở trong tay Đức Giê-hô-va khác nào dòng nước chảy. Ngài làm nghiêng lệch nó bề nào tùy ý Ngài muốn.” (Châm ngôn 21:1).Tiên tri Giê-rê-mi đã tiên đoán dân Do thái sẽ bị lưu đày ở Ba-by-lôn 70 năm và rồi sau đó được trở về vùng đất của họ (Giê-rê-mi 25:1-14; 29:10-11). Đa-ni-ên, tiên tri bị lưu đày hiểu biết sự thật này, và ông đã cầu nguyện nhắc nhở Chúa về lời hứa giải cứu của Ngài trên tuyển dân (Đa-ni-ên chương 9). Tấm lòng của vua Si-ru được Chúa cảm động và ông ra một chiếu chỉ: “Si-ru, vua Phe-rơ-sơ, nói như vầy: Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã ban các nước thế gian cho ta, và chính Ngài có biểu ta xây cất cho Ngài một đền thờ tại Giê-ru-sa-lem, trong xứ Giu-đa.  Trong các ngươi, phàm ai thuộc về dân sự Ngài, khá trở lên Giê-ru-sa-lem trong xứ Giu-đa, đặng cất lại đền thờ Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, vẫn ngự tại Giê-ru-sa-lem. Nguyện Đức Chúa Trời người ấy ở cùng người!  Hễ dân Giu-đa còn sót lại, mặc dầu ở đâu, thì bổn dân của nơi họ ở, phải tiếp trợ họ bằng bạc, vàng, của cải, súc vật, không kể những của lễ lạc hiến về đền của Đức Chúa Trời ở tại Giê-ru-sa-lem.” (E-xơ-ra 1:1-4). Tuyển dân được tự do trở về tái thiết đền thờ, không phải vì áp lực chính trị hay bất cứ điều gì từ phía con người. Nhưng là họ đã tin cậy vào các lời hứa của Đức Chúa Trời và cầu nguyện về điều đó.

Đức Chúa Trời cảm động lòng của vua Si-ru, và Ngài cũng thúc giục tấm lòng của dân sự để họ trở về vùng đất của họ (E-xơ-ra 1:5). Khoảng chừng năm mươi ngàn người rời Ba-by-lôn, thực hiện một chuyến hành trình dài về Giê-ru-sa-lem. Trong suốt những năm lưu đày nhiều gia đình đã dần trở nên thích nghi và cảm thấy thoải mái khi sống ở Ba-by-lôn, nhưng bởi đức tin họ cũng đã từ bỏ nó để trở về vùng đất của mình và xây dựng lại đền thờ. Các trưởng tộc, thầy tế lễ, người Lê-vi và dân sự hiệp một lòng trở về tái thiết Giê-ru-sa-lem. Những người chung quanh tài trợ cho họ, và vua Si-ru cũng trả lại những khí dụng của đền thờ Đức Giê-hô-va (câu 5-8). Đức Chúa Trời được vinh hiển từ sự kiện đáng ghi nhớ này. Chúng ta cũng sẽ trải nghiệm nhiều sự kiện như thế ngày hôm nay, nếu chúng ta dâng chính mình cho Lời Chúa và sự cầu nguyện (Công vụ. 6:4).

 

Tay của Đức Chúa Trời bảo vệ chúng ta. Trong thời đại của khoa học và công nghệ hiện đại, chúng ta không phải thực hiện những chuyến đi bộ hằng ngàn dặm. Nhưng vào thời của E-xơ-ra, bức tranh của đoàn lữ hành trở về Giê-ru-sa-lem không phải là một chuyến đi dã ngoại. Tuyển dân phải đi qua những vùng đất nguy hiểm, đối diện với những toán cướp có vũ trang. Cuộc hành trình hiển nhiên là không dễ chịu, nhưng tay của Đức Chúa Trời luôn đưa ra bảo vệ dân sự Ngài. Khi đoàn người về đến Giê-ru-sa-lem, họ nhìn thấy chung quanh là những kẻ thù. Kẻ thù nghịch không muốn tuyển dân tái thiết đền thờ. Và Đức Chúa Trời đã ban cho người Do Thái sự sáng suốt và không thỏa hiệp với kẻ thù. Satan bắt đầu tấn công tuyển dân bằng những mưu chước của nó (E-xơ-ra 4:1-5). Nhưng tay của Đức Chúa Trời quyền năng ban cho tuyển dân sự chiến thắng.

 

Tay của Đức Chúa Trời sửa phạt chúng ta. Các chương sách E-xơ-ra 9-10 và Nê-hê-mi 9-13 là những câu chuyện buồn về những người nam của tuyển dân không vâng lời Đức Chúa Trời và cưới những người nữ ngoại bang. Nếu những người lãnh đạo cho phép sự thỏa hiệp này tiếp tục, nó sẽ làm cho tuyển dân bị ô uế và sa ngã (Ma-la-chi 2:13-16). Người lãnh đạo phải thi hành kỷ luật trên dân sự. Trước giả sách Hê-bơ-rơ viết , “chớ dể ngươi sự sửa phạt của Chúa. Và khi Chúa trách, chớ ngã lòng;
 Vì Chúa sửa phạt kẻ Ngài yêu. Hễ ai mà Ngài nhận làm con, thì cho roi cho vọt.” (Hê-bơ-rơ 12:5-6). Nếu chúng ta vâng lời, tay của Chúa đưa ra ban phước. Còn khi nổi loạn, tay Chúa đè nặng trên chúng ta (Thi thiên 32:4). Nguyện tay của Đức Chúa Trời luôn vùa giúp khi chúng ta tìm kiếm cơ hội để phục vụ Ngài!

 

Tay hữu Đức Giê-hô-va giơ cao lên,
Tay hữu Đức Giê-hô-va làm việc cả thể.

 

Thi thiên 118:16

 

Bài 21

 

Vậy, ngày hai mươi lăm tháng Ê-lun, vách thành sửa xong, hết năm mươi hai ngày.

Nê-hê-mi 6:12

Bắt đầu một dự án là một việc, thực hiện nó thành công là một việc khác. Nê-hê-mi và những bạn đồng công đã kết thúc công việc thành công. Giê-ru-sa-lem được các cổng và tường bảo vệ vững chắc. Trước đó kẻ thù đã cười, chế nhạo công cuộc tái thiết Giê-ru-sa-lem và nói rằng việc đó sẽ không thành công. Nhưng ngược lại công việc đã hoàn tất mỹ mãn. Một điều quan trọng cần nhớ trong dự án này là sự quân bình của tuyển dân, loại quân bình cần thiết trong mọi mục vụ chúng ta làm cho Chúa.

 

Dẫn dắt và đi theo. Tất cả bắt đầu khi tấm lòng của Nê-hê-mi bị tan vỡ khi ông nghe tin từ một người anh em và vài người Giu-đa, “Các người ấy rằng: Những kẻ bị bắt làm phu tù còn sót ở lại trong tỉnh, bị tai nạn và sỉ nhục lắm; còn vách thành của Giê-ru-sa-lem thì hư nát và các cửa nó đã bị lửa cháy.” (Nê-hê-mi 1:3). Nê-hê-mi than khóc, cầu nguyện xin Đức Chúa Trời phù trợ để ông có thể làm một điều gì đó trong câu chuyện này. Và Chúa đã trả lời. Với sự cho phép của vua đương triều, ông rời bỏ nơi ở tiện nghi của  mình trở về Giê-ru-sa-lem, khảo sát tình huống và chia sẻ gánh nặng của mình với các trưởng tộc. Từ những người lãnh đạo (leaders) được đề cập tám lần trong Nê-hê-mi 3, chỉ ra rằng Giê-ru-sa-lem đã đi vào hệ thống tổ chức và Nê-hê-mi tiếp tục điều hành các đội làm việc. Nếu bạn muốn tránh sự chế nhạo, thì một khải tượng lớn phải được các cố vấn đáng tin cậy và nhiều người cùng tham gia,. Chương ba sách Nê-hê-mi bày tỏ rằng không phải chỉ những người tình nguyện làm việc trong công cuộc tái thiết Giê-ru-sa-lem, mà còn có các thầy tế lễ, những thợ khéo, phụ nữ, và ngay cả những người ở bên ngoài Giê-ru-sa-lem cũng tham gia (câu 2, 5, 7). Một số người đã làm nhiều việc hơn những người khác (câu 11, 19, 21, 24, 27, 30).

 

Xây dựng và sẵn sàng chiến trận (Nê-hê-mi 4:18).  Trong đời sống Cơ đốc, xây dựng và chiến trận đi chung với nhau (Lu-ca 25-33). Nếu không trang bị vũ khí làm sao chúng ta có thể phòng vệ khi đang xây dựng? Những gì cần trang bị cho tín nhân được mô tả trong Ê-phê-sô 6:10-20, và chúng ta phải mang các vũ khí ấy mỗi ngày bởi đức tin. Các trang bị của chúng ta phải là Lời Chúa và sự cầu nguyện. Sứ đồ Giăng viết, “Chính các ngươi hãy giữ (Lời Chúa và cầu nguyện), hầu cho khỏi mất kết quả của công việc mình, nhưng cho được phần thưởng đầy đủ.” (2 Giăng 8). Cơ đốc nhân phải quân bình, không được chỉ tập chú đến chiến trận mà quên mất công tác xây dựng.

Các chiến binh và công nhân của Đức Chúa Trời phải quân bình bài học này.

 

Thức canh và cầu nguyện (Nê-hê-mi 4:9). Làm việc, thức canh (tỉnh thức), cầu nguyện, và sẵn sàng cho chiến trận (mang gươm bên hông) sẽ là một bài trắc nghiệm cho bất cứ tín nhân nào. Cụm từ “thức canh và cầu nguyện” được tìm thấy trong Mác 13:35 và 14:38, Ê-phê-sô 6:18 và Cô-lô-se 4:2-4 đáng để chúng ta suy nghĩ. Trong thế giới hiện đại có rất nhiều điều chi phối làm chúng ta mất tập trung, thì thật là khó khăn để tỉnh thức và cầu nguyện!  Tỉnh thức có nghĩa là cảnh giác và sẵn sàng trong chiến trận thuộc linh. Phi-e-rơ, Giăng, Gia-cơ là các sứ đồ hàng đầu đã ngủ trên núi hóa hình (Lu-ca 9:32) và trong vườn Ghết-sê-ma-nê (Lu-ca 22:45). Các thánh đồ ngủ là người bị chết về mặt thuộc linh, không phải người chiến thắng.

 

Tin cậy và phục vụ (Gia-cơ 2:14-26). Sẽ là không đủ nếu chỉ cầu nguyện cho chức vụ. Chúng ta phải tham gia vào chức vụ theo như ân tứ Chúa ban cho mỗi người, “Vả, xác chẳng có hồn thì chết, đức tin không có việc làm cũng chết như vậy.” (Gia-cơ 2:26). Nê-hê-mi và các bạn đồng công đã minh họa điều này trong chức vụ của họ. Nếu đức tin chúng ta nơi Chúa là chân thật, khi ấy Ngài chắc chắn trang bị cho chúng ta khả năng để làm công tác của Ngài. Nê-hê-mi tin rằng Đức Chúa Trời muốn các tường thành Giê-ru-sa-lem phải được xây dựng lại, và Đức Chúa Trời đã dùng ông làm người lãnh đạo cho công tác này. Khi Chúa kêu gọi thì Ngài cũng trang bị cho người của Ngài. Phần của chúng ta là “tin cậy và vâng lời, nào nhờ cách gì trong đời.”

Một người bạn của tôi đã về với Chúa thường nói, “Phước cho những tín nhân giữ sự quân bình.” Tôi muốn giới thiệu với bạn lời này để làm phong phú bài giảng Các Phước Lành của Chúa Giê-su.

 

Vì trước mặt Đức Chúa Trời, là Cha, chúng tôi nhớ mãi về công việc của đức tin anh em, công lao của lòng yêu thương anh em, sự bền đỗ về sự trông cậy của anh em trong Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta,

1 Tê-sa-lô-ni-ca 1:3

 

Bài 22

Chúa thật công bằng
Trong mọi việc xảy ra cho chúng con,
Vì Ngài đối xử thành tín (You have dealt faithfully)
Trong khi chúng con làm điều ác. (Bản dịch mới 2002)

Nê-hê-mi 9:33

 

Những lời này được tuyển dân Israel ca hát trong ngày Lễ Lều Tạm sau khi các vách thành của Giê-ru-sa-lem hoàn tất. Tuyển dân đã thừa nhận tội lỗi của mình và tái dâng hiến chính họ cho Đức Chúa Trời.  Những lời trong Nê-hê-mi 9:33 mô tả các thuộc tính của Đức Chúa Trời. Ở đây chúng ta sẽ nhấn mạnh đến đặc tính thành tín của Chúa (his faithfulness).

 

Chúng ta có một Đấng Tạo Hóa thành tín (1 Phi-e-rơ 4:19). Sứ đồ Phi-e-rơ viết thư tín này cho các tín hữu trong thời đại của ông, họ chịu nhiều thử thách và khó khăn khi sống cho Chúa (câu 12-19). Vị sứ đồ khích lệ tín nhân: “Vậy, những ai chịu khổ theo ý của Đức Chúa Trời hãy phó chính mình cho Đấng Tạo Hóa thành tín và tiếp tục làm điều thiện.” Nếu chúng ta có một Đấng Tạo Hóa thành tín đang kiểm soát và vận hành toàn thể vũ trụ, thì Ngài chắc chắn cũng chăm sóc đến dân sự của Ngài và đáp ứng các nhu cầu cho họ. Khi những hoàn cảnh xung quanh áp đảo bạn, hãy quay trở về với Đấng Tạo Hóa thành tín và để Ngài chăm sóc bạn.

 

Chúng ta có một thầy tế lễ thượng phẩm thành tín (Hê-bơ-rơ 2:17-18). Hiện nay Chúa Giê-su là Vua và thầy tế lễ trên thiên đàng, và Ngài có thể ban ân sủng khi chúng ta cần đến (4:14-16). Là con cái của Chúa, chúng ta sẽ không bao giờ nói, “Không có ai biết nan đề của tôi.” Hãy nhớ chúng ta có một vị thượng tế có thể cảm thông sự yếu đuối chúng ta và Ngài cầu thay cho chúng ta. “Vị thượng tế này (Chúa Giê-su) đã chịu cám dỗ đủ mọi mặt cũng như chúng ta song không hề phạm tội.” Chúa Cứu thế đã nhục hóa thành người và Ngài trải qua những vấn đề của con người chúng ta, nên chỉ duy Ngài có thể ban ân sủng giúp chúng ta chiến thắng các kẻ thù.

 

Chúng ta có một Đấng biện hộ thành tín. “Nhưng nếu có ai phạm tội, chúng ta có một Đấng biện hộ với Đức Chúa Cha là Chúa Cứu Thế Giê-su, Đấng Công Chính.” (1 Giăng 1:9-2:1). Điều gì xảy ra nếu chúng ta không chạy đến với Đức Chúa Trời để tìm kiếm sự thương xót trước ngôi ân điển, chúng ta lắng nghe tiếng nói của kẻ thù bà bất phục tùng Lời Chúa? Khi ấy Satan sẽ kết án và tuyên bố chúng ta thất bại. Lúc này tình hình sẽ trở nên tồi tệ hơn. Nhưng Chúa Giê-su không bỏ rơi chúng ta. Ngài đã chết vì tội lỗi của tất cả chúng ta và đang biện hộ cho chúng ta trước ngôi ân sủng. Khi chúng ta xưng nhận tội lỗi của mình, thì “Ngài là Đấng thành tín và công chính sẽ tha thứ tội lỗi chúng ta và thanh tẩy chúng ta sạch mọi điều bất chính.” Hãy đọc lại Xa-cha-ri chương 3 minh họa cho kinh nghiệm này.

 

Chúng ta có một Chứng Nhân thành tín (Khải. 1:5; 3:14). Khi thực hành chức vụ trên đất. Chúa Cứu thế rao giảng Lời Đức Chúa Trời và những lời này được ghi lại trong Tân ước. Sứ đồ Giăng viết về Ngài, “Đấng đến từ trên cao trổi hơn mọi người, còn kẻ từ đất mà ra thuộc về đất và chỉ nói được chuyện trần gian. Đấng từ trời xuống cao trọng hơn mọi người.  Thấy gì, nghe gì Ngài đều làm chứng, mà không ai chịu nhận lời chứng của Ngài.” (Giăng 3:31-32; Đọc thêm Giăng 18:37). Thánh Linh của Đức Chúa Trời có thể ban cho chúng ta sự hiểu biết và áp dụng Lời Chúa trong cuộc sống của mình, đây là phương cách để chúng ta “lớn lên trong ân sủng và trong sự hiểu biết Đấng Cứu Rỗi, Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta.” (2 Phi-e-rơ 3:18)

 

Chúng ta có một Đấng Thành Tín và Chân Thật (Khải. 19:11). Chúa Giê-su là hoàng tử bình an. Nhưng Ngài cũng là Đấng Chinh Phục, đánh bại mọi kẻ thù và thành lập vương quốc (2 Tê-sa-lô-ni-ca 1:7-10). Cơ đốc nhân ngày hôm nay nhận được: “Trong tất cả những điều này (những hoạn nạn) chúng ta hoàn toàn chiến thắng nhờ Đấng đã yêu thương chúng ta.” (Rô-ma 8:37). Một ngày tương lai Chiên Con sẽ hiện ra, “Đấng cưỡi ngựa tên là Đấng Thành Tín và Chân Thật….Trên áo và trên đùi Ngài có ghi danh hiệu: VUA CỦA CÁC VUA và CHÚA CỦA CÁC CHÚA.” (Khải. 19:16). Chúng ta hãy để cho Ngài chiến thắng các trận đánh của chúng ta hôm nay.

 

Đức Chúa Trời là thành tín, chúng ta phải tin cậy Ngài thay vì tin vào chính mình. Chúng ta là những người chiến thắng không phải vì chúng ta đặt đức tin nơi chính mình nhưng nơi Đấng Christ – là Đấng luôn thành tín, giữ lời hứa với chúng ta. Làm thế nào để đức tin của chúng ta trở nên lớn mạnh? Hudson Taylor, giám đốc Hội truyền Giáo Trung Hoa nội địa viết, “Không bởi nỗ lực đức tin của chúng ta, nhưng bởi yên nghỉ trên lời hứa của Đấng thành tín.”  Và ông trưng dẫn 2 Ti-mô-thê 2:13, “Nhưng nếu chúng ta thất tín. Ngài vẫn thành tín. Vì Ngài không thể nào tự chối bỏ mình.”  Hãy yên nghỉ trên Đấng Thành tín.

 

Vì cớ tình yêu thương thành tín của CHÚA, chúng tôi không bị tiêu diệt,
Lòng thương xót Ngài chẳng dứt.
 Nhưng tươi mới luôn mỗi buổi sáng;
Sự thành tín Ngài lớn thay!

 

Ca thương 3:22-23

 

 

Bài 23  

Vì Chúa đã định ngày cho người,
Chúa biết số tháng trong đời người,
Chúa đặt cho người một giới hạn không thể vượt qua.

Gióp 14:5

 

Trở thành con người là chấp nhận những giới hạn mà Chúa trong sự khôn ngoan của Ngài đã dành sẵn cho chúng ta và trên thế giới mà Ngài đã đặt chúng ta vào đó. Đức Chúa Trời tạo các giới hạn của biển (Gióp 38:10-11) và Ngài vẽ đường biên giới của các quốc gia (Công vụ 27:26). Các tổ phụ đầu tiên của con người trong vườn Ê-đen cũng bị giới hạn trong những gì họ làm, và khi họ bước quá giới hạn đó, họ bị đuổi khỏi vườn (Sáng thế ký 3). Mỗi cá nhân chúng ta đều bị giới hạn về khả năng, cơ hội, nguồn lực, và những năm tháng sống trên đất. Đức Chúa Trời đã thiết lập các giới hạn. Chúng ta không thể đi xa hơn các giới hạn của Ngài. Theo như luật pháp, tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng, nhưng khi liên quan đến cuộc sống, chúng ta không bình đẳng, bởi vì cuộc sống của con người liên quan đến những hạn chế cá nhân.

Các sự giới hạn này cho chúng ta sự tự do. Tôi đã đáp ứng các điều kiện để đảm bảo có bằng lái xe và điều này cho tôi tự do lái xe trên đường phố và các xa lộ. Vợ tôi và tôi đã đáp ứng các điều kiện về hộ chiếu du lịch và điều này cho phép chúng tôi tự do đi đến nhiều quốc gia trên thế giới. Kinh Thánh trao cho chúng ta những điều kiện, và khi đáp ứng, chúng ta sẽ nhận được câu trả lời cho sự cầu nguyện. Và nếu chúng ta vâng lời, Đức Chúa Trời sẽ tài trợ những gì chúng ta yêu cầu. Đây là một trong những khác biệt giữa sự tự do và giấy phép.  Sự tự do thật không làm những gì chúng ta muốn, nhưng làm những gì Chúa muốn, và sự vâng lời của chúng ta mở cửa cho những phước hạnh đến từ Chúa. Chúng ta không nhận một giấy phép để chỉ làm theo một danh mục. Chúng ta nhận sự tự do từ Chúa và làm theo điều Chúa muốn trong một biên độ lớn hơn nhiều nếu so sánh với giấy phép.

 

Chúng ta phải tiến lên một bước cao hơn: Sự tự do thật khuyến khích sự hợp tác. Bởi vì khả năng và những gì tôi có là giới hạn, có nhiều điều tôi không biết và không thể làm. Vì vậy tôi cần sự giúp đỡ từ những người khác. Đức Chúa Trời nhìn thấy A-đam lúc đầu chỉ ở một mình và điều đó không tốt, vì vậy Ngài làm nên một Ê-va để bù đắp cho những giới hạn của A-đam (Sáng. 2:18-25). Hôn nhân, gia đình và các bạn hữu là những món quà từ Đức Chúa Trời để giúp mỗi chúng ta bổ sung cho những giới hạn của mình. Gia-đình, cộng đồng và hội thánh cũng theo nguyên tắc tương tự. Chúng ta thuộc về nhau, chúng ta ảnh hưởng lẫn nhau và chúng ta cần nhau.

 

Cuộc sống liên quan đến những hạn chế, những hạn chế mang lại cho chúng ta sự tự do, sự tự do dẫn đến sự hợp tác và sự hợp tác làm cho chúng ta nghiêm túc với cuộc sống. Khi đời sống chúng ta nối kết với những người khác trong tình yêu thương, những người khác sẽ trở nên đặc biệt với chúng ta, và chúng ta không muốn đánh mất họ. “Xin dạy chúng tôi biết đếm các ngày chúng tôi. Để chúng tôi được lòng khôn ngoan.” (Thi. 90:12). Đức Chúa Trời đã thiết lập các giới hạn cho những năm tháng trên đất của chúng ta, và chúng ta không biết điều gì sẽ xảy ra, nhưng Chúa biết (Thi. 13915-16)

 

Kết luận gì cho bài học này? Chúng ta phải nhận thức rõ ràng về giới hạn của đời sống của chính mình và người khác. Chúng ta phải biết rằng Chúa lập trình các giới hạn, đặc biệt là tuổi thọ của chúng ta. Vì vậy đang khi còn sống hãy làm hết khả năng theo ý muốn của Chúa theo những gì Chúa đặt để trong chúng ta. Chúa Giê-su phán, “Khi còn ban ngày, chúng ta phải làm những công tác của Đấng đã sai Ta đến, kẻo khi đêm xuống, không ai làm việc được nữa!” (Giăng 9:4) Sự giới hạn của chúng ta không phải là những sự ngăn trở, chúng là những cơ hội. Đức Chúa Trời đã đặt chúng ta trong các giới hạn hầu cho chúng ta có thể tập chú vào những gì Chúa muốn chúng ta làm. Có một câu ngạn ngữ nói, “Tôi không thể làm tất cả mọi điều, nhưng tôi có thể làm một số điều. Tôi phải làm những gì tôi có thể làm miễn là Chúa cho phép, và tôi phải trung tín cho đến khi Ngài chỉ dạy tôi một việc khác.”

 

Vậy, anh chị em hãy hết sức thận trọng về nếp sống của mình, đừng sống như người khờ dại nhưng như người khôn ngoan.  Hãy tận dụng thì giờ, vì thời buổi hiện tại là thời xấu xa.

Ê-phê-sô 5:15-16

 

Bài 24

 

Chúa hỏi con là ai, không hiểu biết gì, sao dám nghi ngờ ý định Chúa.
Thật con đã nói những điều con không hiểu,

 

Gióp 42:3

Có hơn mười ngàn từ trong sách của Gióp, hầu hết là lời phán của Đức Chúa Trời, sau đó là của Gióp và của bốn bạn hữu viếng thăm. Gióp là một con người tin kính Chúa, nhưng Satan cáo buộc rằng Gióp được như vậy là vì Đức Chúa Trời ban phước, nếu Chúa không ban phước, Gióp sẽ khác đi. Trước lời kiện cáo đó, Đức Chúa Trời cho phép Satan tấn công Gióp trên nhiều lĩnh vực. Nó gây cho Gióp bị ung nhọt nhức nhối từ bàn chân đến đỉnh đầu.  Bấy giờ Gióp phải ngồi giữa đống tro. Ông lượm một miếng sành để gãi.  Vợ Gióp nói: “Ông vẫn giữ được sự trọn lành sao? Sao ông không nguyền rủa Đức Chúa Trời rồi chết đi?”  Nhưng Gióp đáp: “Bà nói như một người đàn bà ngu muội. Ơn phước Đức Chúa Trời ban, chúng ta nhận; còn tai họa, lẽ nào chúng ta không nhận?” (Gióp 2:8-10). Trong nhiều ngày sau đó Gióp và các bạn hữu đã tranh luận với nhau, cố gắng giải thích tại sao sự đau khổ lại bủa vây Gióp tứ bề như vậy? Và rồi mỗi người đi tới một kết luận khác nhau. Chúng ta nghĩ thế nào về các kết luận đó?

Có ba sự yên lặng trong sách Gióp có thể giúp đỡ chúng ta ngày hôm nay.

 

Sự im lặng của sự cảm thông (Gióp 2:11-13). Các bạn hữu của Gióp vượt qua những chặng đường xa đến thăm Gióp, và họ “thấy Gióp, nhưng họ không nhận ra ông. Họ liền khóc lớn tiếng, mỗi người xé áo mình, hất bụi đất lên trời, và rải trên đầu mình.  Họ ngồi bệt xuống đất với Gióp suốt bảy ngày bảy đêm; không ai nói với ông một lời nào, vì họ thấy ông đau đớn quá nhiều.” Những người này biết rằng để bày tỏ sự cảm thông đối với khổ nạn của Gióp vào lúc này là không nói gì cả trong suốt một tuần. Họ chỉ ngồi bên cạnh ông để cùng chia sẻ nỗi đau với Gióp. Gióp không có gì để nói với họ, và họ cũng không có lời nào để an ủi ông. Có những lời mang đến sự chữa lành, nhưng có lúc sự im lặng cũng mang đến sự chữa lành. Và trong tình huống này của Gióp, sự yên lặng của các bạn hữu là tốt hơn những lời nói.

 

 

Sự im lặng của uy quyền thiên thượng (chương 3-37). Khi đọc các lời phát biểu từ bốn vị khách viếng thăm, chúng ta tự hỏi tại sao Đức Chúa Trời không lên tiếng? Thay vì vậy Ngài giữ yên lặng. Có 329 câu hỏi được nêu ra trong sách của Gióp. Tuy nhiên không có nhiều câu trả lời. Mỗi người nghĩ rằng mình đang đi đúng hướng, nhưng tất cả họ đều lẫn lộn. Sô-pha nói với Gióp, “Có thể nào anh dò thấu sự sâu nhiệm của Đức Chúa Trời. Hoặc khám phá được tận cùng sự hiểu biết của Đấng Toàn Năng?  Sự khôn ngoan của Ngài cao hơn các tầng trời, anh làm gì được? Sâu hơn âm phủ, anh hiểu sao thấu?” (Gióp 11:7-8). Phao-lô làm sáng tỏ điều này khi ông viết, “Vì chúng ta chỉ mới hiểu biết một phần.” (1 Cô-rinh-tô 13:9). Đức Chúa Trời im lặng trong suốt cuộc tranh luận mặc cho các nhân vật trong câu chuyện đưa ra quan điểm của mình. Có một thực tế là các diễn giả và chính khách có những bài phát biểu sinh động, nhưng điều đó không có nghĩa là họ sẽ giải quyết vấn đề theo những gì họ nói. Đôi khi họ làm cho vấn đề trở nên tồi tệ hơn. Nhà văn Joseph Conrad viết, “lời nói là kẻ thù lớn của thực tế.”  Bạn nghĩ sao?

 

Sự im lặng của sự khám phá (Gióp 42:1-6). Gióp lắng nghe tiếng phán của Đức Chúa Trời và học biết nhiều hơn về chính mình, nhiều hơn những gì Gióp đã từng biết trước đây. “Sau đó, giữa cơn bão tố, Chúa phán với Gióp:  Con là ai mà dám nghi ngờ ý định ta. Nói ra những lời thiếu hiểu biết?” (38:1-2). Bấy giờ Gióp thưa với Chúa, “Con không ra chi, biết thưa lại cùng Chúa thể nào? Con lấy tay che miệng, không dám nói.  Con đã lỡ phát biểu một hai lần rồi. Nay xin thôi, không dám nói thêm.” (40:3-5) Khi Đức Chúa Trời kết thúc cuộc thẩm vấn, Gióp thừa nhận là ông đã nói ra những lời thiếu hiểu biết. Khi Gióp nhìn thấy Chúa và thấy chính mình, điều duy nhất mà ông có thể làm là ăn năn. “Trước kia con chỉ nghe đồn về Chúa. Nhưng bây giờ, chính mắt con đã thấy Ngài.  Vì vậy, con xấu hổ về mọi điều con nói. Và xin ăn năn giữa đống tro bụi.” (Gióp 42:5-6)

Và cuối cùng Đức Chúa Trời đã bác bỏ các luận đề của các vị khách viếng thăm, minh oan cho Gióp. Gióp đã nhận ra bài học cho mình. Vua Đa-vít cũng đã có một kinh nghiệm tỉnh thức tương tự như của Gióp (Thi. 131).

 

Giữa những bận rộn và âm thanh xô bồ của cuộc sống hiện đại, chúng ta phải dành thời gian ở với Đức Chúa Trời để nghe được tiếng phán êm dịu nhỏ nhẹ của Ngài. Chúng ta cần suy nghĩ thấu đáo về thái độ của mình. Còn phương cách nào khác để chúng ta có thể biết được ý Chúa và nhận ra con người thật của mình?

 

Đức Chúa Trời phán với người rằng: Hãy đi ra, đứng tại trên núi trước mặt Đức Giê-hô-va. Nầy Đức Giê-hô-va đi ngang qua, có một ngọn gió mạnh thổi dữ-tợn trước mặt Ngài, xé núi ra, và làm tan-nát các hòn đá; nhưng không có Đức Giê-hô-va trong trận gió. Sau trận gió có cơn động-đất; nhưng không có Đức Giê-hô-va trong cơn động-đất.  Sau cơn động-đất có đám lửa; nhưng không có Đức Giê-hô-va trong đám lửa. Sau đám lửa, có một tiếng êm-dịu nhỏ-nhẹ.

1 Các vua 19:11-12

 

Bài 25

Cầu Chúa bảo hộ tôi như con ngươi của mắt.
Hãy ấp tôi dưới bóng cánh của Chúa.

Thi thiên 17:8

 

Chúng ta hiểu thế nào về cụm từ “dưới bóng cánh của Chúa”?

Gà mái túc con mình trong cánh được đề cập trong Ma-thi-ơ 23:37, và các chê-ru-bin sè cánh ra che trên nắp thi ân của Hòm bảng chứng đặt trong nơi chí thánh được nói đến trong Xuất Ê-díp-tô ký 25:20. Ngoại trừ thầy tế lễ thì không ai được vào trong nơi thánh và nơi chí thánh của đền tạm trong ngày đại lễ chuộc tội. Vào lúc đó thầy tế lễ A-rôn phải “lấy huyết con bò tơ, dùng ngón tay rảy trên nắp thi ân, về phía đông, và rảy bảy lần về phía trước nắp thi ân.  Đoạn, người giết con dê đực dùng về dân chúng làm của lễ chuộc tội; đem huyết nó vào phía trong bức màn; dùng huyết con dê đực đó cũng như đã dùng huyết con bò tơ, tức là rảy trên nắp thi ân và trước nắp thi ân vậy.” (Lê-vi-ký 16:14-15). Tuyển dân Israel phải thực hiện nghi lễ này để tiếp tục được ở dưới sự che phủ của Chúa. Khi đọc Thi thiên 17, chúng ta thấy Đa-vít nói cho chúng ta biết những gì Đức Chúa Trời làm cho những ai núp dưới bóng cánh của Ngài: Ngài cứu, Ngài bảo hộ, và Ngài làm cho thỏa nguyện.

 

Đức Chúa Trời cứu (Thi. 17:7). Chúng ta cần được cứu, bởi vì chúng ta đã phá vỡ luật pháp của Chúa và xứng đáng nhận lãnh sự phán xét. Israel đã vi phạm luật pháp, chúng ta cũng vậy. Cựu ước qui định: “Vì sanh mạng Nguyên-bổn rằng: Linh-hồn vẫn ở trong huyết

của xác thịt ở trong huyết; ta đã cho các ngươi huyết rưới trên bàn thờ đặng làm lễ chuộc tội cho linh hồn mình; vì nhờ sanh mạng mà huyết mới chuộc tội được.”  (Lê-vi-ký 17:11). Thầy tế lễ rảy huyết trên nắp thi ân, và khi Đức Chúa Trời nhìn xuống, Ngài không thấy luật pháp bị tuyển dân phá vỡ (Ngài bỏ qua tình trạng vi phạm luật pháp của tuyển dân). Ngài chỉ thấy huyết chuộc tội. Cũng vậy khi Chúa Giê-su chết trên thập giá, huyết Ngài trả giá cho mọi tội lỗi của chúng ta. “Ấy là trong Đấng Christ, chúng ta được cứu chuộc bởi huyết Ngài, được tha tội, theo sự dư dật của ân điển Ngài.” (Ê-phê-sô 1:7). Ru-tơ người Mô-áp ở bên ngoài giao ước của Israel cho đến khi cô đặt đức tin mình nơi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tuyển dân (Ru-tơ 1:16-17). Kết quả nào Ru-tơ? “Nguyện Đức Giê-hô-va báo đáp điều nàng đã làm; nàng đã đến núp dưới cánh Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên; cầu xin Ngài thưởng cho nàng cách trọn vẹn.” (2:12)

 

 

Đức Chúa Trời bảo hộ (Thi. 17:8). “Đức Chúa Trời ôi! Xin thương xót tôi, xin thương xót tôi,
Vì linh hồn tôi nương náu nơi Chúa! Phải, tôi nương náu mình dưới bóng cánh của Chúa.
Cho đến chừng tai họa đã qua.” (57:1)

Mạng sống của Đa-vít phải ở trong sự nguy hiểm khi ông viết những lời trên, ông phải ẩn mình trong hang động để tránh sự truy sát của Sau-lơ. Lúc này đức tin của ông chỉ nương cậy vào bóng cánh che chở của Đức Chúa Trời. Trong Thi thiên 61:4, trước giả cũng viết, “Tôi sẽ ở trong trại Chúa mãi mãi. Nương náu mình dưới cánh của Chúa.” Nơi an toàn nhất cho dân sự của Đức Chúa Trời là trong nơi kín đáo của Chúa. “Người nào ở nơi kín đáo của Đấng Chí Cao. Sẽ được hằng ở dưới bóng của Đấng Toàn năng.” (91:1). Một phiên bản khác của Cựu ước cũng được viết lại trong Giăng 15:4 như sau: “Hãy cứ ở trong ta, thì ta sẽ ở trong các ngươi.”

 

Đức Chúa Trời làm cho thỏa nguyện. “Còn tôi, nhờ sự công bình, tôi sẽ được thấy mặt Chúa.
Khi tôi tỉnh thức, tôi sẽ thỏa nguyện nhìn xem hình dạng của Chúa.” (Thi. 17:15)

 “Hỡi Đức Chúa Trời sự nhân từ Chúa quí biết bao!
Con cái loài người nương náu mình dưới bóng cánh của Chúa.
 Họ nhờ sự dư dật của nhà Chúa mà được thỏa nguyện. Chúa sẽ cho họ uống nước sông phước lạc của Chúa.” (36:7-8)

“Vì Chúa đã giúp đỡ tôi,
Dưới bóng cánh của Chúa tôi sẽ mừng rỡ.” (63:7). Những điều này là đặc ân cho dân sự Chúa – họ nhận được sự đầy đủ, thỏa lòng từ ân sủng của Đức Chúa Trời.

“Linh hồn tôi được no nê dường như ăn tủy xương và mỡ.” (câu 5)

Trong Cựu Ước, luật pháp được qui định nghiêm khắc (Xuất Ê-díp-tô ký 21:12; 19-21). Những công dân bình thường trong tuyển dân không được bước vào trong nơi thánh của đền tạm, nhưng trong Tân Ước ân sủng của Đức Chúa Trời được bày tỏ: “Vì, ấy chính Ngài (Christ) là sự hòa hiệp của chúng ta; Ngài đã hiệp cả hai lại làm một, phá đổ bức tường ngăn cách, là sự thù nghịch đã phân rẽ ra, bởi vì Ngài đã đem thân mình mà trừ bỏ luật pháp của các điều răn chép thành điều lệ.” (Ê-phê-sô 2:14-15). Chúa Giê-su đã làm cho “cái màn trong đền thờ bị xé ra làm hai từ trên chí dưới.” (Ma-thi-ơ 27:51) và mời gọi chúng ta đến gần Đức Chúa Trời. “Hãy đến gần Đức Chúa Trời, thì Ngài sẽ đến gần anh em.” (Gia-cơ 4:8). Trước giả sách Hê-bơ-rơ viết, “Hỡi anh em, vì chúng ta nhờ huyết Đức Chúa Jêsus được dạn dĩ vào nơi rất thánh,  bởi đường mới và sống mà Ngài đã mở ngang qua cái màn, nghĩa là ngang qua xác Ngài,  lại vì chúng ta có một thầy tế lễ lớn đã lập lên cai trị nhà Đức Chúa Trời,  nên chúng ta hãy lấy lòng thật thà với đức tin đầy dẫy trọn vẹn, lòng được tưới sạch khỏi lương tâm xấu, thân thể rửa bằng nước trong, mà đến gần Chúa.” (10:19-22). Kết luận ở đây là dưới bóng cánh của Chúa, chúng ta được cứu chuộc, được nhận lãnh sự bảo đảm an ninh chắc chắn và sự thỏa lòng.

 

Cho nên hiện nay chẳng còn có sự đoán phạt nào cho những kẻ ở trong Đức Chúa Jêsus Christ.

Rô-ma 8:1

 

 

Bài 26

 

 

Đức Giê-hô-va là Đấng chăn giữ tôi; tôi sẽ chẳng thiếu thốn gì.

Thi thiên 23:1

 

Những lời này trở nên quen thuộc với tất cả chúng ta. Đây là lời công bố của Đa-vít, và của những ai đặt đức tin nơi Chúa Giê-su Christ.

 

Nếu chúng ta phát biểu cách chân thành: “Đức Giê-hô-va là Đấng chăn giữ tôi.” Khi đó chúng ta thực sự là những chiên của Ngài. Trước khi tin nhận Christ, chúng ta là những con chiên lạc mất. “Chúng ta thảy đều như chiên đi lạc, ai theo đường nấy: Đức Giê-hô-va đã làm cho tội lỗi của hết thảy chúng ta đều chất trên người.” (Ê-sai 53:6). Hiện nay chúa Giê-su đã tìm thấy chúng ta và chúng ta trở thành một phần trong bầy của Ngài. Ngài là Đấng chăn giữ chúng ta. Một số Cơ đốc nhân bối rối vì họ được ví sánh với chiên – là một loài vật không thể tự vệ, đi lang thang trên đồng cỏ. Kinh Thánh không ví sánh tín nhân là sư tử, nhưng là chiên. Vì thế thế chúng ta cần một người chăn để dẫn đưa các bước chân của chúng ta. “Hỡi Đức Giê-hô-va, tôi biết đường của loài người chẳng do nơi họ, người ta đi, chẳng có quyền dẫn đưa bước của mình.” (Giê-rê-mi 10:23). Bạn đã khám phá lẽ thật này?

 

Nếu Chúa Giê-su là Đấng chăn giữ của chúng ta, khi ấy chúng ta sẽ lắng nghe tiếng của Ngài. Có ba lần trong Giăng 10, Chúa Giê-su dạy rằng chiên của Ngài nghe theo tiếng của Ngài (câu 3, 16, 17). Chiên của Christ không chỉ nghe theo tiếng Ngài, mà còn nhận ra tiếng của những người chăn giả mạo – là những người phủ nhận Christ (câu 4, 5). Tiếng của Đấng Chăn nhân lành là Lời của Đức Chúa Trời, và Đức Thánh Linh cũng ban cho chiên của Christ biết phân biệt các linh, có khả năng “nhìn biết thần chân thật và thần sai lầm.” (1 Giăng 4:1-6). Nếu Đức Chúa Trời thực sự là Người chăn của bạn, bạn sẽ dành thì giờ để đọc, suy ngẫm Lời Ngài, “nghe đạo Ngài, và được dạy dỗ trong Ngài (y theo lẽ thật trong Đức Chúa Jêsus)” (Ê-phê-sô 4:21)

 

Nếu Chúa Giê-su là Đấng chăn giữ của chúng ta, khi ấy chúng ta sẽ đi theo Ngài. Chiên đi theo Chúa Giê-su, bởi vì chúng nghe theo tiếng Ngài (Giăng 10:4). Nếu chỉ đọc Lời Chúa thì không đủ, chúng ta cần vâng phục, làm theo những gì Lời Chúa dạy. Đấng chăn chiên nhân lành nuôi dưỡng và dẫn dắt chúng ta bằng Lời của Ngài. Chiên của Christ vươn tới sự trưởng thành thuộc linh bằng cách nghe và làm theo Lời. “Hãy làm theo lời, chớ lấy nghe làm đủ mà lừa dối mình.” (Gia-cơ 1:22). Thi thiên 23 là một minh họa đầy đủ cho chúng ta là những người bước theo Đấng chăn chiên nhân lành. Chúng ta sẽ có tất cả với thực phẩm, đồng cỏ xanh, suối nước mát bình tịnh, bàn ăn với các thực phẩm phong phú và… mọi điều tốt đẹp. Tại bàn của Ngài chúng ta được dự phần trong sự thông công với Ngài và nhiều hơn thế nữa.

 

Nếu Chúa Giê-su là Đấng chăn giữ của chúng ta, khi ấy chúng ta sẽ sinh ra các lợi ích cho Ngài. Bầy chiên cung ứng cho người chăn và gia đình của ông những lợi ích: sữa, thịt, lông, da….Những người chăn chiên Do Thái không bao giờ ăn thịt những con chiên tốt nhất trong bầy, nhưng họ để dành chúng làm những sinh tế tốt nhất dâng lên cho Đức Chúa Trời. Chúng ta là những “của lễ sống và thánh” (Rô-ma 12:1-2) được dâng lên cho Đức Chúa Trời. Chúng ta cũng tái sản xuất khi chia sẻ Phúc âm để đem người khác về với Cứu Chúa. Khi nhận thức đầy đủ về cái giá mà Chúa Giê-su phải trả cho bầy chiên của Ngài, Cơ đốc nhân sẵn sàng dâng tất cả những gì mình có, những điều tốt nhất cho Ngài.

 

Cuối cùng nếu chúng ta biết mình là chiên của Ngài, chúng ta sẽ về thiên đàng. “Quả thật, trọn đời tôi
Phước hạnh và sự thương xót sẽ theo tôi.
Tôi sẽ ở trong nhà Đức Giê-hô-va.
Cho đến lâu dài.” (Thi. 23:6)

Trong nhà Cha ta có nhiều chỗ ở; bằng chẳng vậy, ta đã nói cho các ngươi rồi. Ta đi sắm sẵn cho các ngươi một chỗ.  Khi ta đã đi, và đã sắm sẵn cho các ngươi một chỗ rồi, ta sẽ trở lại đem các ngươi đi với ta, hầu cho ta ở đâu thì các ngươi cũng ở đó.

(Giăng 14:2-3)

Khi về đến thiên đàng, Đấng Chăn chiên vẫn còn chăm sóc chúng ta.

 

“Đức Giê-hô-va là Đấng chăn giữ tôi” phải là lời nói xuất phát tận đáy lòng của chúng ta. Đức Chúa Giê-su gọi con dân của Ngài là “chiên của Ta” bởi vì Ngài đã mua chuộc chúng ta bằng chính huyết Ngài. Và chúng ta gọi Ngài là Đấng Đấng chăn giữ tôi, vì chúng ta tín thác vào Ngài.

 

Vì Chiên Con ở giữa ngôi sẽ chăn giữ và đưa chúng đến những suối nước sống; Đức Chúa Trời sẽ lau hết nước mắt nơi mắt chúng.

Khải. 7:17

 

Bài 27

Mưu của Đức Giê-hô-va được vững lập đời đời.
Ý tưởng của lòng Ngài còn đời nầy sang đời kia.

Thi thiên 33:11

 

Trong phần a của câu gốc này, chúng ta dễ dàng nói Amen. Nhưng đến phần b, một số tín nhân gặp rắc rối. Bạn có thể đã trải qua nhiều khổ nạn trong đời sống theo Chúa và điều đó làm cho bạn gặp khó khăn để tin rằng mọi điều xảy đến cho mình là xuất phát từ tình yêu của Chúa. Nếu Đức Chúa Trời yêu thương chúng ta, thì tại sao chúng ta phải trải qua những thất vọng, khủng hoảng, đau khổ….? Khi những gì chúng ta gọi là “những điều tệ hại” xảy ra cho dân sự của Đức Chúa Trời, thì kẻ thù sẽ hỏi: “Nếu Chúa yêu thương bạn, tại sao điều này lại xảy ra?” Là Cơ đốc nhân, chúng ta sẽ có thái độ nào trước những tình huống này?

 

Chấp nhận mục đích tổng thể của Chúa. Sự khôn ngoan của Cha thiên thượng là Ngài dùng mọi cách để cho Cơ đốc nhân “trở nên giống như hình ảnh Con Ngài” (Rô-ma 8:29). Các hoạn nạn trong đời sống được Chúa sử dụng như một dụng cụ để rèn tập chúng ta trở nên càng giống Chúa Giê-su hơn. Và dù chúng ta có hiểu hay không thì tất cả những khó khăn này tập hợp lại với nhau làm ích lợi cho người yêu mến Đức Chúa Trời (câu 28). Nhưng Cha thiên thượng cũng có một mục đích cho từng cá nhân chúng ta. Ngài đang hành động để chúng ta có thể “lấy lòng sợ sệt run rẩy mà hoàn tất sự cứu rỗi của chính mình… và vừa muốn vừa làm theo ý chỉ tốt đẹp của Ngài” (Phi-líp 2:12-13). Giô-sép không thể hiểu được tại sao Đức Chúa Trời lại khiến ông phải chịu  đựng quá nhiều gian truân, nhưng đó là cách Chúa huấn luyện người của Ngài  để cuối cùng đặt ông lên chiếc ghế của thủ tướng Ai-cập và ông trở nên giống Chúa Giê-su nhiều hơn. Mười hai sứ đồ không hiểu được tại sao người thầy vĩ đại của họ phải chịu khổ nạn và chết. Nhưng cuối cùng họ đã hiểu và công bố các sứ điệp Phúc âm.

 

Đầu phục những kế hoạch hằng ngày của Đức Chúa Trời. “Trong lòng loài người có nhiều mưu kế;
Song ý chỉ của Đức Giê-hô-va sẽ thành được” (Châm ngôn 19:21). Rất nhiều lần trong chức vụ tôi đã quay trở về với Giê-rê-mi 29:11 và tìm thấy sự khích lệ: “Đức Giê-hô-va phán: Vì ta biết ý tưởng ta nghĩ đối cùng các ngươi, là ý tưởng bình an, không phải tai họa, để cho các ngươi được sự trông cậy trong lúc cuối cùng của mình.” Đức Chúa Trời đang kiểm soát toàn thể hoàn vũ, nhưng Ngài cũng luôn nghĩ đến và chăm sóc chúng ta trong tất cả mọi tình huống. Nếu chúng ta tín thác vào Ngài, chúng ta sẽ kinh nghiệm Ngài dẫn chúng ta đến một tương lai tươi sáng và đầy hy vọng. Lời hứa này nhắc tôi nhớ đến một gia đình ở Bê-tha-ni khi họ đối diện với một hoàn cảnh khó khăn. Chúng ta đọc trong Giăng 11:5, “Đức Chúa Giê-su yêu Ma-thê, em người, và La-xa-rơ.” Vậy thì tại sao Chúa lại để cho La-xa-rơ đau ốm và chết? Tại sao Chúa trì hoãn đến Bê-tha-ni khi Ngài nghe tin La-xa-rơ ốm nặng? Tuy nhiên tất cả những chi tiết này tổng hợp lại để dâng vinh hiển về cho Đức Chúa Trời. Trước giả Thi thiên viết, “Kỳ mạng tôi ở nơi tay Chúa” (31:15).

 

Yên nghỉ trong tình yêu của Đức Chúa Trời. Cho dù Ma-ri, Ma-thê, La-xa-rơ hay bạn và tôi, Đức Chúa Trời vẫn luôn bày tỏ tình yêu Ngài dành cho chúng ta. Khi con trai lớn của chúng tôi vào học lớp một. Nó cố gắng trèo qua cửa sổ và bị ngã xuống đất, trán nó đập vào nền nhà và máu tuôn lai láng. Vợ chồng tôi lập tức đưa nó đến bệnh viện để nhờ bác sĩ giúp đỡ. Trên đường tới bệnh viện nó hỏi tôi: “bác sĩ sẽ làm gì với con?” Tôi trả lời là bác sĩ gây tê và khâu vết thương lại, con sẽ được tiêm thuốc kháng sinh và điều trị trong một thời gian. Quá trình này sẽ gây đau đớn, nhưng cuối cùng vết thương của con sẽ lành. Tại sao chúng tôi đưa nó đến bác sĩ? Vì chúng tôi yêu con trai của mình và muốn điều tốt nhất cho nó. Đức Chúa Trời là Cha thiên thượng của chúng ta. Ngài không bao giờ bỏ rơi con cái Ngài trong những tình huống nguy hiểm. “Ngài đã không tiếc chính Con mình, nhưng vì chúng ta hết thảy mà phó Con ấy cho, thì Ngài há chẳng cũng sẽ ban mọi sự luôn với Con ấy cho chúng ta sao?” (Rô-ma 8:32). Cha thiên thượng đã phó Con ngài trên thập giá vì chúng ta (trong một phương diện Ngài đã từ bỏ Con Ngài) để chúng ta không bao giờ bị từ bỏ. Cho dù cảm xúc của chúng ta như thế nào, thì ân điển của Chúa sẽ biến đổi sự đau khổ của chúng ta thành vinh hiển cho Ngài và khiến chúng trở nên giống Chúa Giê-su nhiều hơn.

 

Chúa sẽ dùng sự khuyên dạy mà dẫn dắt tôi,
Rồi sau tiếp rước tôi trong sự vinh hiển.

Thi thiên 73:24

 

Lòng người toan định đường lối mình;
Song Đức Giê-hô-va chỉ dẫn các bước của người.

Châm ngôn 16:9

 

Bài 28

 

Linh hồn tôi khát khao Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Trời hằng sống:
Tôi sẽ đến ra mắt Đức Chúa Trời chừng nào?

Thi thiên 42:2

 

Những câu đầu tiên của Thi Thiên 42 đề cập đến hai yếu tố chủ yếu của đời sống vật lý: nước (câu 1) và thực phẩm (câu 3). Về phương diện thuộc linh thì không khí, nước và thực phẩm sạch làm khỏe mạnh đời sống tâm linh. Thánh Linh của Đức Chúa Trời là hơi thở (Giăng 20:22), cũng là nước (7:37-39) và Lời Chúa là thực phẩm của chúng ta (Ma-thi-ơ 4:4). Không khí, nước và thực phẩm là cần thiết, chúng không xa xỉ. Trong sự suy ngẫm hôm nay tôi tập chú vào nước để uống là một trong những biểu tượng của Đức Thánh Linh (nước dùng để rửa là hình bóng về Lời của Đức Chúa Trời trong Giăng 15:3 và Ê-phê-sô 5:6). Những điều nào liên quan đến trải nghiệm về “sự khao khát thiêng liêng” này?

 

Sự khao khát liên quan đến ước muốn. Những ai công bố rằng mình muốn trở thành một Cơ đốc nhân phải có ước muốn hiểu biết về Đức Chúa Trời và thiết lập mối quan hệ cá nhân với Ngài. Nếu không có sự khao khát đó, người ấy có thể không phải là tín hữu chân thật hoặc là tín hữu nhưng đã uống nhầm một nguồn nước sai trật. Tuyển dân Israel đã “làm hai điều ác: Chúng nó đã lìa bỏ ta, là nguồn nước sống, mà tự đào lấy hồ, thật, hồ nứt ra, không chứa nước được.” (Giê-rê-mi 2:13). Sẽ là nguy hiểm khi sống bằng một nguồn nước khác thay thế cho nước sống từ Đức Chúa Trời. St. Augustine đã viết, “trong lòng con người có một khoảng trống mà chỉ Đức Chúa Trời mới có thể lấp đầy. Con người sẽ không bao giờ được yên nghỉ cho đến chừng nào tìm được nơi nghỉ yên trong Chúa.” Các thần tượng khác thay thế Đức Chúa Trời không bao giờ dẫn người ta đến với sự sống thật. Sau khi mô tả về đặc trưng của các hình tượng, trước giả Thi thiên 115 viết, “Phàm kẻ nào làm hình tượng, và nhờ cậy nơi nó, đều giống như nó” (câu 8). Chúng ta có thật sự khao khát Đức Chúa Trời và muốn trở nên giống như hình ảnh Con Ngài? “Hỡi Đức Chúa Trời, Chúa là Đức Chúa Trời tôi, vừa sáng tôi tìm cầu Chúa. Trong một đất khô khan, cực nhọc, chẳng nước. Linh hồn tôi khát khao Chúa, thân thể tôi mong mỏi về Chúa” (63:1). Đây là thực tế của đời sống theo Chúa.

 

Sự đói khát thuộc linh liên quan đến quyết định cá nhân. Khi vào một nhà hàng, bạn sẽ đối diện với câu hỏi: Anh chị uống gì? Lúc đó chúng ta phải đưa ra quyết định. Tuy nhiên trong lĩnh vực đói khát tâm linh, chỉ có một sự lựa chọn cho môn đồ Đấng Christ, đó là nước sự sống. “Thánh Linh và vợ mới cùng nói: Hãy đến! Kẻ nào nghe cũng hãy nói rằng: Hãy đến! Ai khát, khá đến. Kẻ nào muốn, khá nhận lấy nước sự sống cách nhưng không.” (Khải. 22:17). Khi tôi được bác sĩ thông báo rằng, “anh bị tiểu đường”. Ông ấy đã liệt kê cho tôi một số thực phẩm cần phải được giới hạn – những thực phẩm này sẽ không tốt cho bệnh tiểu đường của tôi. Lúc đó tôi phải quyết định: theo lời khuyên của bác sĩ hoặc khước từ. Lời mời của Chúa rất đơn giản: “Nếu người nào khát, hãy đến cùng ta mà uống” (Giăng 7:37). Không có gì trong thế giới này có thể thay thế cho hành động đức tin của tín nhân: đến với Chúa Giê-su là Nguồn nước sống.

 

Sự đói khát liên quan đến sự vui thích. Những quảng cáo về thực phẩm, các mặt hàng tiêu dung khác đều nhắm đến sự vui thích, hài lòng của người mua chúng. Và nếu những sản phẩm này thực sự làm hài lòng người tiêu dùng, họ sẽ không bỏ chúng để đi mua những sản phẩm thay thế khác. Chúa Giê-su đã làm cho chúng ta vui thỏa trong Ngài đủ mọi phương diện, thì có lý do nào để chúng ta từ bỏ Ngài và chọn một đối tượng khác thay thế?  Cứu Chúa đã phán dạy: “Bất cứ ai uống nước ta sẽ cho, thì chẳng hề khát nữa. Nước ta cho sẽ thành một mạch nước trong người đó, văng ra cho đến sự sống đời đời” (Giăng 4:14). Những người hư mất dành thời gian cho những vui thú trần gian và khi chết đi họ vẫn còn khát mãi (Lu-ca 16:19-31). Nguồn nước sống giống như con sông ra từ đền thờ trong Ê-xê-chi-ên 47:1-12 làm vui thích cho con cái của Đức Chúa Trời.

 

Sông nước sự sống được Đức Chúa Trời ban tặng miễn phí, nhưng Chúa Giê-su đã trả một giá bằng chính mạng sống của Ngài để chúng ta có thể nhận lãnh bởi đức tin. Trên thập tự giá Chúa Giê-su kêu lên rằng Ngài khát nước để Ngày hôm nay chúng ta không còn khát nữa (Giăng 19:28). Lời mời gọi của Cứu Chúa kêu tội nhân đến cùng Ngài không bao giờ bị hủy bỏ. Bạn đã đáp ứng với lời mời gọi này? Nếu câu trả lời của bạn là “đã đáp ứng” thì hãy mời gọi các thân hữu khác đến với Nguồn nước sống.

 

Ngài lại phán cùng tôi rằng: Xong rồi! Ta là An-pha và Ô-mê-ga, nghĩa là đầu tiên và cuối cùng. Kẻ nào khát, ta sẽ lấy nước suối sự sống mà ban cho nhưng không.

Khải. 21:6

 

Bài 29

Đức Chúa Trời cai trị các nước.
Đức Chúa Trời ngự ngôi thánh Ngài.

 

Thi thiên 47:18

Các tổ phụ đức tin, tiên tri, sứ đồ trong Kinh Thánh chưa bao giờ nghe đến danh từ toàn cầu hóa, tuy nhiên mối quan tâm của họ cũng dành cho các dân tộc khác trên thế giới. Đức Giê-hô-va không chỉ là Chúa của người Do Thái mà Ngài còn là “Chúa của các vua trong thế gian!” (Khải. 1:5). Trong lăng kính của Đức Chúa Trời, “các dân tộc khác nào một giọt nước nhỏ trong thùng, và kể như là một mảy bụi rơi trên cân; nầy, Ngài giở các cù lao lên như đồ vật nhỏ” (Ê-sai 40:15). Các quốc gia trên thế giới cũng là cánh đồng truyền giáo mà Hội thánh có sứ mạng gieo hạt giống Lời Đức Chúa Trời vào đó. Các mục vụ khởi phát từ Đức Chúa Trời đến các quốc gia đóng một vai trò quan trọng, và mỗi Cơ đốc nhân phải cầu nguyện “xin Vương quốc Chúa được thể hiện trong thế gian.”

 

Đức Chúa Trời làm nên các quốc gia. “Ngài đã làm cho muôn dân sanh ra bởi chỉ một người và khiến ở khắp trên mặt đất, định trước thì giờ đời người ta cùng giới hạn chỗ ở” (Công vụ. 17:26). Các dân tộc bắt nguồn từ A-đam và Ê-va và phát triển sau trận đại hồng thủy (Sáng. 10-11) và rồi tản ra trên khắp mặt đất. Khi chúng ta đọc Cựu Ước, không chỉ tuyển dân Israel được đề cập nổi bật mà còn có nhiều dân tộc khác. Và đại mạng lệnh của Đấng Christ khích lệ chúng ta đem Phúc âm đến cho muôn dân (Lu-ca 24:46-49). Đức Chúa Trời tạo nên các dân tộc.

 

Đức Chúa Trời duy trì các quốc gia. “Vì tại trong Ngài, chúng ta được sống, động, và có” (Công vụ. 17:28). Trong khi các dân tộc khác nhau về ngôn ngữ, văn hóa, phong tục và nhiều điều khác. Tuy nhiên họ vẫn phải lệ thuộc vào Đức Chúa Trời trong mọi phương diện như: thời tiết, thực phẩm, nguồn nước, không khí, môi trường sống….Và các dân tộc cũng lệ thuộc vào nhau. Tôi được biết rằng điện thoại mà chúng ta sử dụng được tổng hợp từ các nguyên liệu vật chất của trên hai mươi quốc gia khác nhau. Đây là một hình thái của toàn cầu hóa.

 

Đức Chúa Trời phân định thời gian và các đường biên giới của các dân tộc. “Ngài đã làm cho muôn dân sanh ra bởi chỉ một người và khiến ở khắp trên mặt đất, định trước thì giờ đời người ta cùng giới hạn chỗ ở” (Công vụ. 17:26). Các quốc gia và thể chế chính trị trên thế giới xuất hiện rồi suy tàn, các đường biên giới thay đổi theo từng thời kỳ, nhưng lịch sử thế giới vẫn ở trong quyền tể trị của Đức Chúa Trời. Ngài cũng kiểm soát quyền lãnh đạo của các vua. “Chính Ngài thay đổi thì giờ và mùa, bỏ và lập các vua; ban sự khôn ngoan cho kẻ khôn ngoan, và sự thông biết cho kẻ tỏ sáng” (Đa-ni-ên 2:21). Sự bày tỏ của Chúa là đây: “Đấng Rất Cao cai trị trong nước của loài người, và Ngài muốn ban cho ai tùy ý” (Đa-ni-ên 4:32). “Đức Chúa Trời đoán xét. Ngài hạ kẻ nầy xuống, nhắc kẻ kia lên” (Thi. 75:7). Điều này không có nghĩa là Đức Chúa Trời vui lòng ưng thuận về những điều ngu dại, ích kỷ mà các vua trên thế giới đã làm, vì mỗi người phải chịu trách nhiệm trước mặt Chúa về mỗi quyết định của chính mình. Đức Chúa Trời có thể dùng một chính phủ vô tín để hoàn thành mục đích của Ngài. Ngài sử dụng các dân ngoại bang và đế quốc Rô-ma để trừng phạt tuyển dân Israel. Và trong một thời điểm đã được tiên báo trước Chúa Giê-su đã đến thi hành sự cứu chuộc.

 

Đức Chúa Trời mong muốn các dân tộc được cứu. “hầu cho các dân tìm kiếm Đức Chúa Trời, và hết sức rờ tìm cho được, dẫu Ngài chẳng ở xa mỗi một người trong chúng ta” (Công vụ. 17:27). Trong Cựu Ước Israel được gọi là “ánh sáng cho dân ngoại” (Ê-sai 42:6, 49:6), nhưng họ đã thất bại làm chứng cớ cho Chúa. Bây giờ các chứng nhân của hội thánh ngày nay phải đem ánh sáng đó đến khắp cùng thế giới (Lu-ca 2:32; Công vụ. 13:42-47). Các dân tộc nổi loạn chống lại Chúa (Thi. 2:1-3), nhưng lời mời gọi của Ngài dành cho người Do thái và các dân ngoại bang là như nhau (Thi. 2:10-12).

 

Chúng ta là những người học biết về Đức Chúa Trời phải nhớ rằng, bởi ân điển của Ngài “đang khi chúng ta chết vì tội mình, thì Ngài làm cho chúng ta sống với Đấng Christ – ấy là nhờ ân điển mà anh em được cứu – và Ngài làm cho chúng ta đồng sống lại và đồng ngồi trong các nơi trên trời trong Đức Chúa Jêsus Christ” (Ê-phê-sô 2:5-6). Ngài cũng “làm cho chúng ta nên nước Ngài, nên thầy tế lễ của Đức Chúa Trời là Cha Ngài” (Khải 1:6), và chúng ta được “nhờ một mình Đức Chúa Jêsus Christ mà cai trị trong sự sống là dường nào!” (Rô-ma 5:17). Khi Đức Chúa Trời mở ra trời mới và đất mới, những người thuộc về Chúa sẽ đồng trị cùng Ngài mãi mãi (Khải. 22:3-5).

 

Đừng quên cầu thay cho những người hư mất trong tất cả các dân tộc, và làm tất cả những gì bạn có thể để chia sẻ Phúc âm với họ. Đức Chúa Trời muốn cứu rỗi mọi người. Chúa Giê-su đã “lấy huyết mình mà chuộc cho Đức Chúa Trời những người thuộc về mọi chi phái, mọi tiếng, mọi dân tộc, mọi nước” (Khải. 5:9). Đức Chúa Trời đang kiểm soát các quốc gia và Ngài cũng đang cai trị trên mỗi đời sống chúng ta.

 

Đức Chúa Trời cai trị các nước,
Đức Chúa Trời ngự ngôi thánh Ngài.

Thi thiên 47:8

 

 

Bài 30

 

Điều chúng tôi có nghe nói, thì đã thấy. Trong thành của Đức Giê-hô-va vạn quân, tức là trong thành của Đức Chúa Trời chúng tôi: Đức Chúa Trời sẽ lập thành ấy vững chắc đời đời.

Thi thiên 48:8

Thời gian lặng lẽ trôi qua. Các thể chế, các quốc gia, những thành phố, những người lãnh đạo xuất hiện rồi biến mất. Nhưng thành phố Giê-ru-sa-lem sẽ được thành lập đời đời! Chúng ta tìm thấy Giê-ru-sa-lem xuất hiện trên tám trăm lần trong Kinh Thánh, bắt đầu từ Sáng thế ký 14:18 (Sa-lem có nghĩa là bình an. Đọc thêm Hê-bơ-rơ 7:1-10) và kết thúc ở Khải huyền 21:10. Như vậy Giê-ru-sa-lem thuộc loại thành phố nào?

 

Một thành phố được chọn. Lịch sử cứu rỗi được gói lại trong số những sự lựa chọn mà Đức Chúa Trời đã thực hiện bởi ân điển và sự tể trị của Ngài. Điều trước tiên là trong số các thiên thể được sáng tạo, Đức Chúa Trời đã chọn trái đất để thực hiện kế hoạch của Ngài (Thi thiên 24:1). Trong số các dân tộc trên thế giới, Đức Chúa Trời chọn người Israel để đem Lời và Con Ngài vào thế giới (Phục truyền. 7:6). Chúa Giê-su xác nhận: “sự cứu rỗi bởi người Giu-đa mà đến” (Giăng 4:22). Đức Chúa Trời chọn Ca-na-an là vùng đất hứa cho tuyển dân (Phục. 1:8). Và Ngài chọn núi Si-ôn là địa điểm của thành phố thủ đô quốc gia. Giê-ru-sa-lem sẽ là nhà (nơi ở) của Đức Chúa Trời (Thi. 132:13-18). Giê-ru-sa-lem là một thành phố được Chúa chọn (Xa-cha-ri 3:2), và Đa-vít là vị vua được chọn để thành lập triều đại nhà Đa-vít để từ đó đem Chúa Giê-su vào thế giới (1 Các vua 11:34). Thật kỳ diệu cho thành phố Giê-ru-sa-lem.

 

Một thành phố tội lỗi. Giê-ru-sa-lem là thành thánh (Nê-hê-mi 11:1, 18; Ê-sai 48:2; Ma-thi-ơ 4:5; 27:53) và là thành phố của Đức Chúa Trời (Thi. 46:4; 48:1; Ê-sai 60:14). Những người Do Thái trong Cựu Ước tự hào về thành phố này và gọi nó là “sự đẹp đẽ trọn vẹn, sự vui mừng của cả đất chăng” (Ca thương 2:15). Nhưng khi Chúa Giê-su đến, Ngài nhìn thấy nó nhơ nhuốc và tội lỗi. “Hỡi Giê-ru-sa-lem, Giê-ru-sa-lem, ngươi giết các đấng tiên tri và ném đá những kẻ chịu sai đến cùng ngươi, bao nhiêu lần ta muốn nhóm họp các con ngươi như gà mái túc con mình lại ấp trong cánh, mà các ngươi chẳng khứng!” (Ma-thi-ơ 23:37).

 

Một thành phố thiên đàng (Hê-bơ-rơ 12:18-24). Núi Si-ôn thuộc linh của Cơ đốc nhân không phải nằm trên đất nhưng trên thiên đàng. Cha thiên thượng và Cứu Chúa của chúng ta đang ở trên thiên đàng, và ngôi nhà thực sự của chúng ta cũng đang ở đó. Của cải của chúng ta nên được chất chứa ở đó (Ma-thi-ơ 6:19-21). Sách Ga-la-ti 4:21-32 giải thích rằng Cơ đốc nhân thuộc về “Giê-ru-sa-lem ở trên cao” vì con cái Đức Chúa Trời là công dân của thiên đàng (Phi-líp 3:20). Giống như mọi thánh đồ khác, chúng ta là lữ khách và kiều dân trên đất đang trông đợi một quê hương thật trên thiên đàng (Hê-bơ-rơ 11:13-16). Chúng ta “tìm các sự ở trên trời, là nơi Đấng Christ ngồi bên hữu Đức Chúa Trời. Hãy ham mến các sự ở trên trời, đừng ham mến các sự ở dưới đất” (Cô-lô-se 3:1-2). Mọi nhu cầu của chúng ta đều đến từ Đức Chúa Trời. Trong Thi thiên 87:7 trước giả viết, “Các suối tôi đều ở trong Người.” Chúa Giê-su mời gọi chúng ta đến cùng Ngài và uống (Giăng 7:37-39)

 

Một thành phố đời đời. Vào một ngày tương lai, Đức Chúa Trời sẽ mở ra trời mới, đất mới và Giê-ru-sa-lem mới (Khải. 21:1-6). Điều này làm ứng nghiệm đầy trọn Thi thiên 48:8, “Điều chúng tôi có nghe nói, thì đã thấy trong thành của Đức Giê-hô-va vạn quân,
tức là trong thành của Đức Chúa Trời chúng tôi: Đức Chúa Trời lập thành ấy vững chắc đời đời.” Hai chương cuối của sách Khải huyền mô tả sự kỳ diệu vĩ đại và vinh hiển của thành phố. Các con cái của Đức Chúa Trời sẽ có nhà tại đó. Các tín nhân Do thái và các dân tộc khác đều hiệp một trong thành phố. “Thành có một bức tường cao lớn, với mười hai cửa, trên những cửa có mười hai vị thiên sứ, cùng những danh đề, là danh mười hai chi phái của con cháu Y-sơ-ra-ên:  Phía đông có ba cửa; phía bắc có ba cửa; phía nam có ba cửa; phía tây có ba cửa.  Còn tường của thành có mười hai cái nền, tại trên có đề mười hai danh là danh mười hai sứ đồ của Chiên Con” (Khải. 21:12-14). Chúa Giê-su đã phán dạy, “Ta đi và chuẩn bị sẵn cho các ngươi một chỗ ở” (Giăng 14:1-3)

 

Tôi chợt nhớ lại một thông báo trên truyền hình trước đây, “Giê-ru-sa-lem là chìa khóa cho hòa bình ở Trung Đông.” Tôi nghĩ đến lời này trong Thi thiên 122:6, “Hãy cầu hòa bình cho Giê-ru-sa-lem; Phàm kẻ nào yêu mến ngươi sẽ được thới thạnh.” Bạn có cầu nguyện như thế?

 

Hỡi anh em, sự ước ao trong lòng tôi và lời tôi vì dân Y-sơ-ra-ên cầu nguyện cùng Đức Chúa Trời, ấy là cho họ được cứu.

 

Rô-ma 10:1

 

 

Bài 31 

 

Xin hãy rửa tôi cho sạch hết mọi gian ác. Và làm tôi được thanh khiết về tội lỗi tôi.

Thi thiên 51:2

 

Vào một lần nọ tôi hỏi Theodore Epp, một thầy giảng Kinh Thánh trên Radio ông có lời khuyên nào dành cho những cặp vợ chồng không chung thủy nhưng muốn bắt đầu một khởi đầu mới.  Và ông trả lời, “tôi bảo họ hãy suy ngẫm thật kỹ trong Thi thiên 51.” Khi nói đến việc thú nhận tội lỗi, Đa-vít là một tấm gương tốt cho chúng ta.

 

Đa-vít chịu trách nhiệm về hành động của mình. Chúng ta không tìm thấy Đa-vít nói “chúng tôi, chúng nó” nhưng nói rõ là “tôi, của tôi”. Không giống như A-đam, Ê-va hay vua Sau-lơ. Đa-vít không đổ lỗi cho bất kỳ một ai khác. Lúc đầu ông có ý định che giấu tội lỗi của mình, nhưng đã không thành công.  “Người nào giấu tội lỗi mình sẽ không được may mắn. Nhưng ai xưng nó ra và lìa bỏ nó sẽ được thương xót” (Châm ngôn 28:13). Đức Chúa Trời đã sử dụng những lời của tiên tri Na-than để cáo trách Đa-vít. “Na-than nói cùng Đa-vít rằng: Vua là người đó!” (2 Sa-mu-ên 12:7). Đa-vít tỉnh ngộ, nhìn ra sai lầm nghiêm trọng của mình. Nếu chúng ta chối tội lỗi của mình, thì đây là lời cảnh báo: “Nhược bằng chúng ta nói mình chẳng từng phạm tội, ấy là chúng ta cho Ngài là kẻ nói dối, lời Ngài không ở trong chúng ta” (1 Giăng 1:10). Tội lỗi của chúng ta là nghiêm trọng. Chúa Giê-su đã gánh tất cả các tội ấy trên thập giá thay cho chúng ta.

 

Đa-vít mang gánh nặng và tan vỡ tấm lòng. Thi thiên 51 không phải là lời cầu nguyện thiếu sót của một đứa trẻ chưa trưởng thành mà là lời thú tội đẫm nước mắt của một tôi tớ Đức Chúa Trời đã trưởng thành. Đa-vít nhận thức rằng bản thân ông đã đánh mất sự chính trực, ông đã phạm tội cùng Chúa, vi phạm luật pháp của Chúa và ông cầu xin Chúa Chúa phục hồi: “Xin hãy ban lại cho tôi sự vui vẻ về sự cứu rỗi của Chúa. Dùng thần linh sẵn lòng mà nâng đỡ tôi.” (câu 12). Trước đây ông đã từng trải nghiệm niềm vui trong sự cứu rỗi, nhưng giờ đây ông thấy bản thân đầy tội lỗi (câu 3). Đa-vít đã khóc than về tội lỗi của mình. Chúng ta không nhất thiết phải rơi nước mắt như Đa-vít, nhưng điều chính yếu là phải thực lòng ăn năn thống hối về lỗi lầm của mình. “Của lễ đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là tâm thần đau thương: Đức Chúa Trời ôi! Lòng đau thương thống hối Chúa không khinh dể đâu” (câu 17). Lời hứa của Chúa dành cho chúng ta: “Ta ngự trong nơi cao và thánh, với người có lòng ăn năn đau đớn và khiêm nhường, đặng làm tươi tỉnh thần linh của những kẻ khiêm nhường, và làm tươi tỉnh lòng người ăn năn đau đớn” (Ê-sai 57:15)

 

Đa-vít tin chắc chắn vào Đức Chúa Trời. Chúng ta không thấy Đa-vít đối nại hay mặc cả với Đức Chúa Trời. Ngay từ ban đầu Đa-vít tin vào thuộc tánh của Đức Chúa Trời, tin vào sự thương xót và tình yêu không thay đổi của Ngài (câu 1). Đa-vít biết rằng ông có thể tin cậy vào lời hứa của Chúa. Vua của Israel được đòi hỏi phải đọc luật pháp Chúa thường xuyên, vì vậy Đa-vít có thể đã nhớ lời này trong Xuất Ê-díp-tô ký, “Giê-hô-va! Giê-hô-va! Là Đức Chúa Trời nhân từ, thương xót, chậm giận, đầy dẫy ân huệ và thành thực,  ban ơn đến ngàn đời, xá điều gian ác, tội trọng, và tội lỗi; nhưng chẳng kể kẻ có tội là vô tội, và nhân tội tổ phụ phạt đến con cháu trải ba bốn đời” (34:6-7). Sau này Đa-vít đã nói, “Sự khốn khổ tôi lớn thay! Thế thì, nguyện tôi sa vào tay của Đức Giê-hô-va, vì những sự thương xót của Ngài là lớn lắm; nhưng chớ cho tôi sa vào tay của loài người ta” (2 Sa-mu-ên 24:14). Là Cơ đốc nhân chúng ta yên nghỉ trên lời hứa của Chúa trong 1 Giăng 1:9.

 

Đa-vít tái dâng hiến chính mình cho sự phục vụ (Thi. 51:13, 18-19). Khi được tha thứ Đa-vít đã không nếu ra bất kỳ điều kiện nào cho sự phục vụ Đức Chúa Trời và con người. Khi được tẩy sạch, Chúa tiếp tục sử dụng Đa-vít. Ông có thể làm chứng về sự tha thứ của Chúa cho người khác. Đa-vít có thể đi vào nơi tôn nghiêm và hát ca ngợi Chúa. Ông có thể khích lệ tuyển dân xây sửa lại các bức tường của Giê-ru-sa-lem, khích lệ các thầy tế lễ dâng lên các của lễ. Lời cầu nguyện của ông trong câu 10, “Đức Chúa Trời ôi! Hãy dựng nên trong tôi một lòng trong sạch. Và làm cho mới lại trong tôi một thần linh ngay thẳng.” Là Cơ đốc nhân sau khi thừa nhận tội lỗi, nhận được sự tha thứ của Đức Chúa Trời, chúng ta phải hợp tác với Đức Thánh Linh cho phép Ngài dùng Lời Chúa chữa lành tấm lòng của chúng ta để chúng ta không vấp phạm lần nữa. Đức Chúa Trời không chỉ chữa lành tấm lòng đau thương thống hối, mà Ngài còn ban cho chúng ta tấm lòng khao khát vâng phục Ngài.

 

 

Còn nếu chúng ta xưng tội mình, thì Ngài là thành tín công bình để tha tội cho chúng ta, và làm cho chúng ta sạch mọi điều gian ác.

1 Giăng 1:9

 

Bài 32

 

Xin hãy ban lại cho tôi sự vui vẻ về sự cứu rỗi của Chúa. Dùng thần linh sẵn lòng mà nâng đỡ tôi.

Thi thiên 51:12

 

Thi thiên 51 ghi lại những lời cầu nguyện của Đa-vít xin Đức Chúa Trời tha tội sau khi ông phạm tội tà dâm và giết người (2 Sa-mu-ên 11-12; Thi. 32). Đa-vít không đánh mất sự cứu rỗi, vì điều này được bảo đảm bằng lời hứa của Đức Chúa Trời, nhưng ông đã đánh mất niềm vui của sự cứu rỗi khi phạm tôi. Hạnh phúc tùy thuộc vào những gì đang xảy ra chung quanh chúng ta. Nhưng niềm vui tùy thuộc vào những gì đang xảy ra bên trong chúng ta. Sau khi phạm tội, trong lòng Đa-vít là một mớ hỗn độn. Ngay cả một ban nhạc cũng không làm ông vui vẻ lên được. Vì vậy Đa-vít cầu nguyện, “Hãy cho tôi nghe sự vui vẻ mừng rỡ. Để các xương cốt mà Chúa đã bẻ gãy được khoái lạc.” (câu 8). Khi chúng ta ở bên ngoài mối liên hiệp với Đức Chúa Trời, thì không có gì đúng đắn cả cho đến khi chúng ta làm hòa lại với Ngài qua sự ăn năn, và giải quyết vấn đề với những người có liên quan.

Nhiều người rơi vào tình trạng chịu đựng với cuộc sống, và điều này đồng nghĩa với tuyệt vọng không tìm ra lối thoát. Henry David Thoreau đã viết trong tác phẩm Nền kinh tế, “nhiều người sống cuộc đời trong tuyệt vọng thầm lặng.” Những lời này được viết ra trước khi có điện thoại di động, máy bay, radio, phim ảnh Hollywood, truyền hình… Những người khác tìm cách thoát ly khỏi cuộc sống, và cách tiếp cận chính của họ là sự thay thế. Họ thay thế các giá trị của đời sống. Họ chạy chỗ này chỗ kia thay vì ngồi yên ở nhà với một tấm lòng tĩnh lặng. Họ thà la hét trong đám đông ồn ào hơn ở nhà thưởng thức không khí đầm ấm của gia đình. Đa-vít vốn đã có nhiều vợ, và mối quan hệ của ông với Bát-sê-ba chỉ là sự hiếu kỳ, ích kỷ thuần túy. Tội lỗi thường là một sự thay thế xa xỉ cho thực tế.

 

Đức Chúa Trời không muốn chúng ta chịu đựng hay trốn thoát khỏi cuộc sống. Ngài muốn chúng ta vui hưởng nó, vì vậy Ngài ban “mọi vật dư dật cho chúng ta được hưởng mỗi ngày” (1 Ti-mô-thê 6:17). Cuộc sống bình thường vốn đã nhiều vấn đề nan giải với những gánh nặng, sự tranh chiến nhưng phản ứng của chúng ta không phải là tuyệt vọng hay thay thế mà là chuyển đổi. Chúa Giê-su đã dạy cho các môn đồ, “Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, các ngươi sẽ khóc lóc, than vãn, còn người đời sẽ mừng rỡ; các ngươi sẽ ở trong sự lo buồn, nhưng sự lo buồn các ngươi sẽ đổi làm vui vẻ.  Người đàn bà, lúc sanh đẻ thì đau đớn, vì giờ mình đến rồi; song khi đứa con đã lọt lòng, người không còn nhớ sự khốn khổ nữa, mừng rằng mình đã sanh ra một người trong thế gian.  Khác nào như các ngươi hiện ở trong cơn đau đớn, nhưng ta sẽ lại thấy các ngươi, thì lòng các ngươi vui mừng, và chẳng ai cướp lấy sự vui mừng các ngươi được” (Giăng 16:20-22). Đó là sự chuyển đổi! Một hài nhi chuẩn bị chào đời là một nỗi đau, nhưng cũng là một sự vui mừng cho người mẹ. Những hoạn nạn của cuộc sống có thể được chuyển đổi thành sự vui mừng nhờ ân điển Chúa. “Đức Chúa Trời chúng tôi đổi sự rủa sả ra sự phước hạnh” (Nê-hê-mi 13:2)

 

Tội lỗi là kẻ thù của sự vui mừng. Bởi vì tội lỗi là sự thay thế của ma quỉ cho sự chúc phước của Đức Chúa Trời. Chấp nhận cám dỗ và phạm tội nhiều lúc có vẻ dễ dàng và thú vị, nhưng hậu quả là khó khăn và tốn kém. Đa-vít đã trả một giá cao khi ông chiếm hữu Bát-sê-ba. Nhưng sau khi ăn năn tan vỡ, ông khám phá rằng Đức Chúa Trời có thể biến đổi sự rủa rả thành phước lành. Hãy nhớ rằng Đa-vít cũng đã phạm tội khi tiến hành kiểm tra dân số, hậu quả của điều này là khiến cho bảy mươi ngàn người Israedl phải chết (2 Sa-mu-ên 24). Cuối đời Đa-vít mua một khu đất với ý định sẽ xây lên đó một đền thờ cho Đức Giê-hô-va, nhưng ông không làm được điều này mà là con trai của ông và Bát-sê-ba sẽ làm. Tà dâm và kiểm tra dân số là hai trọng tội của Đa-vít. Tuy nhiên Đức Chúa Trời vẫn tha thứ cho người của Ngài và sử dụng con trai Đa-vít để xây nên đền thờ cho Ngài. Điều này cũng là bài học khích lệ cho những ai thật lòng ăn năn tội lỗi của mình. “Nhưng tôi đã tin cậy nơi sự nhân từ Chúa. Lòng tôi khoái lạc về sự cứu rỗi của Chúa.
 Tôi sẽ hát ngợi khen Đức Giê-hô-va, vì Ngài đã làm ơn cho tôi.” (Thi. 13:5-6)

 

Nếu chúng ta đánh mất niềm vui của sự cứu rỗi, thì điều này không có nghĩa là Đức Chúa Trời đã thất bại. Chúng ta có phạm tội khi không xưng ra các tội? Nếu không xưng tội thì hậu quả của nó là gì! Làm thế nào chúng ta cảm thấy vấn đề này không phải là điều quan trọng. Điều quan trọng là làm thế nào chúng ta nối kết với Chúa và lời của Ngài. Đừng giữ quan điểm là phải chịu đựng hay trốn thoát khỏi cuộc sống. Đức Chúa Trời muốn giúp chúng ta vui hưởng đời sống, bất luận các vấn đề xảy ra chung quanh chúng ta. Ngài có thể biến đổi sự rủa sả thành phước lành.

 

Vậy xin Đức Chúa Trời của sự trông cậy, làm cho anh em đầy dẫy mọi điều vui vẻ và mọi điều bình an trong đức tin, hầu cho anh em nhờ quyền phép Đức Thánh Linh được dư dật sự trông cậy!

Rô-ma 15:13

 

Bài 33

Buổi chiều, buổi sáng, và ban trưa, tôi sẽ than thở rên siết.
Ngài ắt sẽ nghe tiếng tôi.

 

Thi thiên 55:17

 

“Cuộc gọi của bạn rất quan trọng đối với chúng tôi, vì vậy xin vui lòng giữ máy.” Vì vậy, chúng ta giữ máy để cuộc gọi của chúng ta trở nên quan trọng. Cầu nguyện không phải như thế. Đức Chúa Trời biết những gì chúng ta cần trước khi kêu cầu. Nhưng Ngài muốn chúng ta phải cầu nguyện vì cớ chúng ta chứ không phải vì Ngài. Ngài khao khát ban cho chúng ta những nhu cầu, nhưng trước hết chúng ta phải cầu nguyện. “Ngài ắt sẽ nghe tiếng tôi.” Liên quan đến ba đặc ân của chúng ta.

 

Là con người được tạo dựng theo hình ảnh của Đức Chúa Trời, chúng ta có đặc quyền được nói. Nhiều người coi thường đặc quyền này và lạm dụng nó. Lời nói thực sự là một phép lạ cần phải được bảo vệ và sử dụng cho vinh quang của Chúa. Đức Chúa Trời tạo nên bộ não kỳ diệu của con người để chúng ta học nói và trưởng thành hơn trong những lời phát biểu khi tuổi càng cao. Chúng ta phải học tập phát biểu không chỉ giữa vòng con người với nhau, nhưng cũng là giữa chúng ta với Đức Chúa Trời. Chúng ta có thể cầu nguyện hay ngợi khen Chúa Trong yên lặng, nhưng tốt hơn chúng ta nên làm điều đó bằng những lời nói có thể nghe rõ được, đặc biệt là khi ở một mình.  Để giúp một đứa trẻ học tên của các sự vật và làm thế nào để nói chúng ra là một niềm vui cho chúng ta. Chúng ta đang tham gia vào một phép lạ! Nhiều triết gia kết luận rằng điểm khác biệt căn bản giữa con người và loài vật chính là lời nói.

 

Là Cơ đốc nhân, chúng ta có đặc ân để cầu nguyện. Trong Kinh Thánh đặc biệt là Thi thiên, chúng ta nhìn thấy các bài cầu nguyện của các thánh đồ. Trong Thi thiên 65:2, “Hỡi Đấng nghe lời cầu nguyện. Các xác thịt đều sẽ đến cùng Ngài.” Cụm từ “Chúa nghe lời cầu nguyện tôi” được tìm thấy ít nhất hai mươi lăm lần trong các Thi thiên. Khi Đa-vít viết Thi thiên 55, tác giả đang gặp rắc rối và muốn chạy trốn. “Lòng tôi rất đau đớn trong mình tôi. Sự kinh khiếp về sự chết đã áp lấy tôi.
 Nỗi sợ sệt và sự run rẩy đã giáng trên tôi. Sự hoảng hốt đã phủ lấy tôi.
 Tôi có nói: Ôi! Chớ chi tôi có cánh như bồ câu, ắt sẽ bay đi và ở được yên lặng.
 Phải, tôi sẽ trốn đi xa, ở trong đồng vắng.
 Tôi sẽ lật đật chạy đụt khỏi gió dữ” (câu 4-8). Tác giả đang một trận chiến (câu 18-21) và mặc dù là một chiến binh từng trải, trong tình huống này dường như ông không thể đánh thắng quân thù. Tuy nhiên Đức Chúa Trời nghe tiếng cầu xin của Đa-vít và Ngài ban cho ông chiến thắng. Thay vì bay gần mặt đất như một con chim bồ câu, Đa-vít có thể cất cánh bay cao như chim đại bàng (Ê-sai 40:31) và “trong mọi sự đó, chúng ta nhờ Đấng yêu thương mình mà thắng hơn bội phần” (Rô-ma 8:37)

 

Chúng ta biết rằng Đấng Christ cũng có đặc quyền khi trưng dẫn các lời hứa của Đức Chúa Trời. Kinh Thánh chứa đựng nhiều lời hứa liên quan đến lời cầu nguyện và nhiều tấm gương của sự cầu nguyện. Cha thiên thượng vui lòng khi chúng ta tin cậy và áp dụng các lời của Ngài. Đa-ni-ên đã bắt chước Đa-vít khi ông cầu nguyện ba lần trong một ngày (Đa-ni-ên 6:10), và Phao-lô khích lệ chúng ta phải cầu nguyện không thôi (1 Tê-sa-lô-ni-ca 5:17). Đức Chúa Trời nghe tiếng kêu cầu của Đa-vít khi ông ở trong hang động (Thi. 57). Và Chúa cũng nghe lời cầu nguyện của Ê-xê-chia khi vị vua này đối diện với bệnh tật (Ê-sai 38). Phi-e-rơ sắp chìm xuống nước thì kêu lên “Chúa ôi, cứu tôi” (Ma-thi-ơ 14:30). Và Chúa đã trả lời cho Phi-e-rơ. Khi vị sứ đồ này phải vào tù vì rao giảng Phúc âm, Đức Chúa Trời đã nghe lời cầu nguyện của các tín hữu đang nhóm lại trong nhà của Ma-ri là mẹ của Giăng Mác, và Chúa đã giải cứu Phi-e-rơ ra khỏi tù cách diệu kỳ (Công vụ 12). Phao-lô-và Si-la ngợi khen Chúa và cầu nguyện trong nhà tù, điều này dẫn đến một phép lạ khiến họ được giải cứu và danh Chúa được vinh hiển (Công vụ 16:25-34). Bất luận chúng ta ở chỗ nào, Đức Chúa Trời cũng nghe lời cầu nguyện của chúng ta. Giô-na cầu nguyện từ trong bụng cá và Chúa đã giải cứu ông (Giô-na 2). (Thi. 147:9). Đức Chúa Trời còn chú ý tới tiếng kêu của những con quạ nhỏ, Ngài “ban đồ ăn cho thú vật, và cho quạ con kêu rêu” (Thi. 147:9).

Cầu nguyện thay đổi mọi điều và nó cũng thay đổi con người bao gồm những ai đang ở trong cơn khủng hoảng và tin cậy Chúa giải cứu. Có điều chi quá khó cho Đức Giê-hô-va?

 

Tôi yêu mến Đức Giê-hô-va, vì Ngài nghe tiếng tôi,
Và lời nài xin của tôi.
Tôi sẽ cầu khẩn Ngài trọn đời tôi,
Bởi vì Ngài có nghiêng tai qua tôi.

Thi thiên 116:1-2

 

 

 

Bài 34

Hỡi sự vinh hiển ta, hãy tỉnh thức!
Hỡi cầm sắt, hãy tỉnh thức!
Chính mình tôi sẽ tỉnh thức thật sớm.

 

Thi thiên 57:8

Nhà tự nhiên học người Mỹ Henry David Thoreau đã viết trong tác phẩm Walden vào một buổi sáng, “giờ thức tỉnh ….là giờ đáng nhớ nhất trong ngày.” Không có ai đồng ý với ông! Thoreau đã viết những lời này khi ông ở trong một căn lều giữa rừng. Còn Đa-vít viết Thi thiên 57 khi đang ở trong hang ẩn nấp để né tránh sự truy sát của Sau-lơ. “Linh hồn tôi ở giữa các sư tử; Tôi nằm giữa những kẻ thổi lửa ra. Tức là các con loài người có răng giống như giáo và tên. Và lưỡi chúng nó khác nào gươm nhọn bén.
 Hỡi Đức Chúa Trời nguyện Chúa được tôn cao hơn các từng trời; Nguyện sự vinh hiển Chúa trổi cao hơn cả trái đất! ” (Câu 4-5). Nhiều người cho rằng dậy sớm vào buổi sáng là một hành động khó khăn, nhưng Đa-vít đã “trình bày duyên cớ tôi trước mặt Ngài, và trông đợi” (Thi. 5:3) vào sáng sớm. Có ba sự thức tỉnh mà các tín nhân phải cầu nguyện hàng ngày.

 

“Lạy Chúa, xin tỉnh thức linh hồn tôi!” Từ vinh hiển (glory) cũng có nghĩa là “con người bên trong,” vì vậy Đa-vít đã cầu xin Chúa phục hưng linh hồn của chính mình. Nếu con người bên trong của Đa-vít không nhận được năng lực thuộc linh từ chính Đức Chúa Trời, thì làm thế nào ông có thể chiến thắng kẻ thù và phục vụ Chúa? Nếu không có sự trợ giúp từ Đức Chúa Trời, liệu Đa-vít và quân đội của ông có giành được chiến thắng? Có thể nói rằng sự sống thuộc linh bên trong chúng ta sẽ quyết định sự thành bại bên ngoài. Đa-vít lệ thuộc vào Đức Chúa Trời và Ngài không để ông phải thất bại. Ông viết trong Thi thiên 18: “Đức Chúa Trời thắt lưng tôi bằng năng lực. Và ban bằng đường tôi.” (câu 32). Mỗi buổi sáng trước khi thân thể di chuyển ra khỏi giường, phải bảo đảm rằng con người bên trong chúng ta đã tỉnh thức với một tâm trí minh mẫn. “Nhưng tôi sẽ ca hát về sức lực Chúa: Phải, buổi sáng tôi sẽ hát lớn tiếng về sự nhân từ Chúa” (Thi. 59:16). Một trong những phương cách tốt nhất để linh hồn chúng ta ở trong trạng thái sẵn sàng là trước khi đi ngủ dành thì giờ suy ngẫm Lời Chúa, và buổi sáng thức dậy với thì giờ tĩnh nguyện với Chúa. “Lấy làm vui vẻ về luật pháp của Đức Giê-hô-va. Và suy gẫm luật pháp ấy ngày và đêm” (Thi. 1:2).

 

“Lạy Chúa, xin đánh thức trong tôi một bài ca ngợi!” Đa-vít đã chơi rất hay một số nhạc cụ và viết nhiều bài hát ca ngợi và tạ ơn Chúa. Chúng ta chào đón một ngày mới đến với những phước hạnh Chúa ban, và hãy tuôn tràn lời ngợi khen cảm tạ Chúa từ nơi sâu thẳm của tấm lòng.  Đa-vít ngợi khen Chúa trước khi mặt trời mọc. Chúng ta than thở hay ngợi khen Chúa về sự nhân từ Ngài trước bình minh? “Đức Giê-hô-va ôi! Buổi sáng Ngài sẽ nghe tiếng tôi; Buổi sáng tôi sẽ trình bày duyên cớ tôi trước mặt Ngài, và trông đợi” (Thi. 5:3). Bất cứ ai cũng có thể ca hát sau khi chiến thắng, nhưng người có đức tin nơi Chúa sẽ ca hát trước mỗi trận đánh. Đọc lại 2 Sử ký 20:21-25, để thấy cách mà Giô-sa-phát bước vào trận chiến.

 

“Hỡi Chúa, xin đánh thức mặt trời!” Đa-vít hy vọng rằng lời ngợi ca của ông sẽ làm tỉnh thức mặt trời. Đa-vít là một trong số nhiều người thức dậy sớm trong Kinh Thánh. Nếu chúng ta muốn Chúa ở cùng với chúng ta suốt cả ngày, chúng ta phải gặp Ngài vào mỗi sáng sớm. Các khuôn mẫu cho điều này là Áp-ra-ham (Sáng. 22:3), Gia-cốp (Sáng. 28:18), Môi-se (Xuất. 8:20; 9:13; 24:4; 34:4), Giô-suê (Giô-suê 6:12; 7:16; 8:10), Gióp (Gióp 1:5) và Chúa Giê-su (Mác 1:35-38; Lu-ca 4:42; 21:35-38). Trước khi đọc báo, trả lời điện thoại hay bất kỳ một loại công việc nào khác khiến chúng ta bị chi phối, hãy gặp Đức Chúa Trời trước hết vào mỗi sáng sớm thông qua việc suy ngẫm Lời, cầu nguyện, chờ đợi nghe được sự hướng dẫn từ Ngài cho các mục vụ hay công việc của chúng ta. Có một bài Thánh Ca viết rằng: “Lo biệt giờ nên thánh ra”. Và biệt riêng thì giờ thánh tốt nhất là buổi sáng sớm trong ngày. Trước khi bước vào một ngày bận rộn cới các công tác khác nhau Chúa Giê-su đã dành thì giờ ở với Cha vào mỗi sáng sớm.

Bất luận điều gì có thể xảy ra trong ngày, thì mỗi sáng sớm là khởi đầu cho chúng ta với Đức Chúa Trời. Ngài sẽ tiếng chúng ta cầu nguyện, bởi vì Ngài không bao giờ ngủ (Thi. 121:3-4).

 

Ấy là nhờ sự nhân từ Đức Giê-hô-va mà chúng ta chưa tuyệt. Vì sự thương xót của Ngài chẳng dứt;
 Mỗi buổi sáng thì lại mới luôn, sự thành tín Ngài là lớn lắm.

Ca thương 3:22-23

 

Bài 35  

Hỡi linh hồn ta, hãy nghỉ an nơi Đức Chúa Trời;
Vì sự trông cậy ta ở nơi Ngài.

 

Thi thiên 62:5

 

Hỡi linh hồn ta, hãy nghỉ an nơi Đức Chúa Trời;

Vì sự trông cậy ta ở nơi Ngài.

 

Có những lý do nghiêm trọng ngăn cản chúng ta sống đắc thắng cho Đức Chúa Trời: chạy trước Chúa, ra lệnh cho Chúa, và can thiệp vào kế hoạch của Đức Chúa Trời.

 

Hãy kiên nhẫn và đừng chạy trước Chúa. “Hỡi linh hồn ta, hãy yên lặng chờ đợi Đức Chúa Trời.” Chúng ta đang sống trong một thế giới luôn luôn vội vã, và điều này làm cho Cơ đốc nhân dễ dàng đánh mất khả năng chờ đợi sự trả lời từ Đức Chúa Trời. Mặc dù phương châm và khẩu hiệu của chúng ta là: “Truyền giáo khắp thế giới.” nhưng hãy nhớ rằng Đức Chúa Trời không vội vã. Ngài có thể sáng tạo hoàn vũ   trong một khoảng thời gian rất ngắn với quyền năng của Ngài, tuy nhiên Ngài đã dành sáu ngày để làm việc đó. Vua Sau-lơ đã chạy trước Chúa và đánh mất vương miện. Giô-sép thì khác, ông kiên nhẫn chờ đợi trong tù và những khoảng thời gian khổ nhục để nhận được vương miện. Chúa Giê-su có thể đã bắt đầu chức vụ vào ngày Thứ Hai, chết trên thập giá vào Thứ Sáu, phục sinh vào ngày Chủ Nhật. Ngài phải ở tại Na-xa-rét ba mươi năm, trải qua hơn ba năm thi hành chức vụ, chịu chết và phục sinh. Chúa Giê-su là Chúa của ngày Sa-bát (Mác 2:28). Chúa Cứu thế vẫn phải trải qua một tiến trình, trong đó có những khoảng thời gian Ngài phải chờ đợi. Những điều này có nghĩa Đức Chúa Trời là Chủ mọi thời gian của chúng ta. Chúng ta không nên để bị mắc bẫy vào sự háo hức cạnh tranh của thế gian muốn cái gì cũng đến nhanh chóng. “Hãy yên tịnh trước mặt Đức Giê-hô-va, và chờ đợi Ngài.” (Thi thiên 37:7) và sẵn sàng hành động khi Ngài truyền dạy chúng ta.

 

Hãy yên lặng và đừng ra lệnh cho Chúa. Chúng ta không chỉ sống trong một thế giới vội vã, nhưng cũng sống trong một thế giới ồn ào náo động. Chúng ta có thể cho rằng nhịp sống thế giới không ảnh hưởng đến những Cơ đốc nhân trưởng thành, nhưng thực tế là ngược lại. Chúa Giê-su không chỉ là Chủ thời gian của chúng ta, nhưng Ngài cũng là Chủ của lời nói chúng ta. “Có kỳ nín lặng, có kỳ nói ra” (Truyền đạo 3:7). Quyển sách ghi lại nhiều lời nói tranh luận trong Kinh Thánh là sách Gióp, trong đó Đức Chúa Trời tuyên phán. Trong khi Satan, Gióp, vợ Gióp và bốn bạn hữu của Gióp tranh luận với nhau về các thuộc tính của Đức Chúa Trời và giải thích ý nghĩa của sự đau khổ. Nhưng vấn đề không được giải quyết cho đến khi Gióp yên lặng và để cho Đức Chúa Trời phán dạy (Gióp 40:1-5; 42:1-6). Sứ đồ Phi-e-rơ đã cố gắng đưa ra lời khuyên cho Chúa Giê-su khi Chúa nói trước về sự chết của Ngài (Ma-thi-ơ 16:21-23), và ông cũng là người chủ động đưa ra ý tưởng “tích cực”cho Thầy của mình trên núi hóa hình (17:1-7). Nhưng Chúa Giê-su không đi theo lời tư vấn của Phi-e-rơ. Để nghe được lời của Chúa, cách tốt nhất là chúng ta phải yên lặng.

 

Hãy bình tĩnh và đừng can thiệp vào chương trình của Chúa. Để sống đời sống Cơ đốc tin kính, chúng ta cần “một mình Đức Chúa Trời”. Hãy ghi nhớ những gì Đức Chúa Trời có thể làm khi chúng ta không can thiệp vào kế hoạch của Ngài để dâng vinh hiển về cho Ngài. Thật là dễ dàng để bắt chước Gia-cốp khi ông cầu xin Chúa giúp đỡ mình, rồi sau đó dùng sức riêng để thực hiện kế hoạch của chúng ta (Sáng thế ký 32:6-21). Tin cậy Chúa có nghĩa là bước đi trong đức tin mà không nuôi dưỡng những mưu đồ riêng. Chúng ta không đủ khôn ngoan để thực hiện một dự án tốt hơn mà Đức Chúa Trời sẽ làm cho chúng ta. Trong nguyên ngữ tiếng Hê-bơ-rơ, từ được dịch là “một mình Đức Chúa Trời”  được dùng trong các câu 1, 2,  6 của Thi thiên 62. Khi Chúa Giê-su công bố về sự chết của Ngài, Phi-e-rơ đã nói lời can thiệp (Ma-thi-ơ 16:21-23), và trong giờ phút nguy kịch vị sứ đồ này cũng đã rút gươm ra cố gắng giải cứu Thầy của mình (Giăng 18:1-11). Can thiệp vào kế hoạch của Đức Chúa Trời là vô hình trung loại bỏ chính chúng ta ra khỏi phước hạnh tốt nhất mà Đức Chúa Trời dự định dành cho chúng ta.

 

Thi thiên 62 bày tỏ cho chúng ta các thuộc tính của Đức Chúa Trời. Ngài là Vầng đá (câu 2, 6, 7), là nơi nương náu (câu 7, 8), sự cứu rỗi (câu 1, 2, 6, 7), là sự che chở (câu 2, 6), là sự vinh hiển (câu 7) của chúng ta. Chúa Giê-su kiểm soát mọi thời gian, vì vậy chúng ta phải kiên nhẫn, chờ đợi Ngài. Ngài là Chủ của mọi lời nói chúng ta, vì vậy chúng ta phải học tập yên lặng và chớ có đưa ra lời tư vấn cho Ngài. Ngài là Chúa cho mọi kế hoạch của chúng ta, vì vậy hãy để Ngài thành toàn kế hoạch ấy. Tương lai Ngài dành cho chúng ta là tốt nhất.

Vì Ta biết chương trình Ta hoạch định cho các ngươi là chương trình hòa bình thịnh vượng, không phải là tai họa diệt vong. Ta kiến tạo cho các ngươi một tương lai sáng sủa, một niềm hy vọng vững vàng.

Giê-rê-mi 29:11

 

 

Bài 36

Hỡi linh hồn ta, hãy nghỉ an nơi Đức Chúa Trời;
Vì sự trông cậy ta ở nơi Ngài.

Thi thiên 62:5

 

Sự trông cậy có nghĩa là hy vọng. Và hy vọng lớn nhất trong tấm lòng của Cơ đốc nhân là sự trở lại của Chúa Giê-su. Phao-lô gọi đó là “sự trông cậy hạnh phước của chúng ta” (Tít 2:13). Samuel Johnson đã viết, “Bản thân hy vọng là một loại hạnh phúc. Và có lẽ nó là hạnh phúc chính yếu mà thế giới vươn tới.” Nhưng Alexander Pope không lạc quan như vậy khi ông viết, “Hy vọng sẽ tồn tại mãi mãi trong tấm lòng của con người: họ không bao giờ ngừng hy vọng, nhưng luôn luôn nhận được phước hạnh khi có hy vọng.” Nhiều người điều chỉnh hy vọng của họ về những đối tượng khác nhau, nhưng Cơ đốc nhân tin kính đặt hy vọng của mình hoàn toàn ở trong Chúa, “Hỡi Chúa, bây giờ tôi trông đợi gì?
Sự trông cậy tôi ở nơi Chúa.” (Thi. 39:7)

 

Sự hy vọng của chúng ta trong Christ không phải là “tôi hy vọng như thế” mà không có xác quyết. Hy vọng trong Christ là chắc chắn. Nó đem đến các phước hạnh và kết quả sau đây cho mỗi chúng ta.

 

Tinh sạch. “Hễ ai có hi vọng đó nơi Ngài, thì tự tẩy sạch mình cũng như Ngài là tinh sạch” (1 Giăng 3:3). Đây cũng là điều mà sứ đồ Phao-lô cầu nguyện cho các tín hữu tại Tê-sa-lô-ni-ca (1 Tê-sa. 5:22-23) và nó cũng nên là lời cầu nguyện của chúng ta. Như một cặp đôi kết ước, hứa nguyện với nhau trong ngày lễ cưới giữ sự tinh sạch, chung thủy thế nào, thì hội thánh là cô dâu của Đấng Christ cũng phải như vậy (Khải. 19:7-9).

 

Phục vụ cách trung tín. “Phước cho những đầy tớ ấy, khi chủ đến thấy họ thức canh! Quả thật, ta nói cùng các ngươi, chủ sẽ thắt lưng mình, cho chúng ngồi bàn, và đến mà phục sự chúng. ….. Các ngươi cũng hãy chực sẵn, vì Con người đến trong giờ các ngươi không ngờ.” (Lu-ca 12:37, 40). Chúng ta trích lời của Samuel Johnson một lần nữa, “Ở đâu không có hy vọng, ở đó không có sự cố gắng.”  Người nông dân cố gắng lao tác vất vả trên cánh đồng, cày xới đất, gieo hạt, bón phân, tưới nước…. với hy vọng rằng sẽ có một mùa bội thu. Các sinh viên phải áp dụng điều này trong học tập nếu muốn gặt hái thành công cho tương lai. Chúa Giê-su phán, “Kìa, ta đến mau chóng, đem tiền công theo để trả cho mỗi người tuỳ công việc của họ” (Khải. 22:12)

 

Làm cho khỏe khoắn. Sự tái lâm của Đấng Christ không chỉ đem theo phần thưởng cho các thánh đồ trung tín, mà còn là loại bỏ đi những nỗi buồn (1 Tê-sa-lô-ni-ca 4:13-18). Lúc đó chúng ta sẽ được hội hiệp cùng với các tín nhân trong suốt mọi thời đại và sẽ ở cùng Chúa mãi mãi.

 

Vui mừng. Phao-lô viết, “Hãy vui mừng trong sự hi vọng” (Rô-ma 12:12). Bất luận các hoàn cảnh xảy ra chung quanh chúng ta như thế nào, chúng ta biết rằng điều tốt nhất vẫn chưa tới. Nhiều người cho rằng được định cư ở Mỹ (nhận được quốc tịch Mỹ) là điều tốt nhất, nhưng với tín nhân thì được định cư ở thiên đàng là tốt hơn. G. K. Chesterton đã viết, “Hy vọng là quyền năng làm cho vui vẻ trong những tình huống mà chúng ta biết là tuyệt vọng.” Hạnh phúc tùy thuộc vào những gì đang xảy ra, nhưng niềm vui chân thật tùy thuộc vào mối liên hệ giữa chúng ta với Đức Chúa Trời. “Hãy vui mừng trong Chúa luôn luôn. Tôi lại còn nói nữa: Hãy vui mừng đi.  Hãy cho mọi người đều biết sự nhu nhượng của anh em. Chúa đã gần rồi” (Phi-líp 4:4-5).

 

Sự ổn định vững vàng trong tâm linh. “Chúng ta có hi vọng ấy như cái neo của linh hồn, vừa chắc vừa vững, thấu vào phía trong bức màn” (Hê-bơ-rơ 6:19). Cái neo vật lý cắm sâu vào lòng biển để giữ chặt con thuyền không bị trôi lạc, còn cái neo thuộc linh, giữ chặt chúng ta trong Đấng Christ, “chúng ta càng đáng phải hết sức để ý đến điều mình đã nghe, kẻo e bị trôi lạc chăng” (Hê-bơ-rơ 2:1). Cơ đốc nhân phải “gác qua sự sơ học về đạo Đấng Christ mà bươn tới sự trọn vẹn” (Hê-bơ-rơ 6:1) để trở nên trưởng thành càng hơn trong ân điển, và không bị nhấn chìm vì những giông bão của đời sống.

Khi chúng ta chờ đợi trước mặt Chúa, suy ngẫm Lời Ngài và cầu nguyện thì Đức Thánh Linh và Lời sự sống sẽ gia tăng trong chúng ta niềm hy vọng. Hãy dành thì giờ đọc Rô-ma 15:4, 13 – và vui mừng trong sự hy vọng.

 

Ước vọng thiện nhân, niềm vui lớn,
Hoài bão ác nhân sớm tàn phai.

Châm ngôn 10:28

 

Bài 37

 

Chúa đừng bỏ con trong tuổi già,
Đừng lìa con khi tóc bạc răng long;  

 

Thi thiên 71:9

 

Ogden Nash, một nhà thơ người Mỹ nói rằng khi con cháu của chúng ta đông hơn bạn hữu thì đó là lúc tuổi già đến. Đối với một số người thì đây là một thực tế. Có một điều chắc chắn: Ngày mai rồi mình cũng già, nhưng với sự giúp đỡ của Đức Chúa Trời chúng ta có thể vui hưởng ân điển trong lúc tuổi đã về chiều. Điều này có nghĩa gì?

 

Chúng ta tránh sự dại dột. Sứ đồ Phao-lô nhắc nhở Tít và chúng ta, “Hãy khuyên người có tuổi nên điềm đạm, đứng đắn, khôn khéo, vững vàng trong đức tin, làm mọi việc với lòng yêu thương, nhẫn nại” (Tít 2:2). Xuyên suốt Kinh thánh sự khôn ngoan gắn liền với những người cao tuổi. “Già cả thêm khôn ngoan. Sống lâu thêm hiểu biết” (Gióp 12:12). Vua Rô-bô-am đã nghe theo lời tư vấn của những người trẻ tuổi, và điều này làm cho ông sa bại, đất nước bị chia cắt thành Israel và Giu-đa. Trước đó cha của Rô-bô-am là Sa-lô-môn đã viết về “một ông vua giàu mà dại, chẳng biết nghe lời khuyên can” (Truyền đạo 4:13).

 

Chúng ta đối lập với sự cáu gắt. Trong Truyền đạo 12:1-7, Sa-lô-môn mô tả tình trạng của con người lúc tuổi già, và đưa ra lời khuyên cho những người sẽ trở nên già:

 Phải nghĩ đến Tạo Hóa trong những ngày còn niên thiếu, trước thời kỳ khó khăn, khi những năm nặng nề đến trong đời mình, là thời gian ánh sáng mặt trời, mặt trăng và các tinh tú trở nên lu mờ trong mắt, bầu trời như đầy mây chằng đen kịt.  Vì ai cũng vậy, sẽ đến lúc sức mạnh hao mòn với tuổi tác, chân tay run rẩy, lưng khòm cúp, răng rụng dần không còn đủ để nhai, mắt mờ đi; lúc ăn môi phải mím chặt vì răng không còn, giọng nói yếu ớt thều thào; trong giấc ngủ dễ bị đánh thức, dù chỉ bởi tiếng chim hót lúc rạng đông; sợ không dám lên cao, đi đứng dễ ngã, tóc bạc phơ, người khô héo cằn cỗi, tình dục tắt ngấm, và cứ thế đi dần vào cõi chết là nơi ở ngàn thu; rồi những người thân khóc thương khi đưa đám tang qua các đường phố.
Phải nghĩ đến Tạo Hóa khi còn trẻ, trước khi dây bạc sinh mệnh đứt, bát vàng vỡ bể, vò nước tan tành bên suối, bánh xe gãy vụn bên giếng, và tro bụi trở về cùng đất, còn linh hồn quay về với Đức Chúa Trời, Đấng đã ban nó.”

Khi đã già, những điều từng ưa thích trước đây không còn hấp dẫn chúng ta nữa và chúng ta có xu hướng chỉ trích chúng. Những phản ứng này có lẽ là triệu chứng của sự kháng cự của chúng ta đối với sự thay đổi nhanh chóng của thế giới và nỗi sợ bị bỏ lại phía sau. Điều này không giúp ích gì cho bản thân. Nhưng Chúa sẽ không bỏ rơi chúng ta khi về già (Thi. 71:9, 18). Khi Chúa cho phép, chúng ta nên loại bỏ những lời càm ràm và làm những gì có thể để giúp đỡ và khuyến khích người khác.

 

Chúng ta chuyên lòng trung tín. Chúng ta đều quen thuộc với Lu-ca chương 1 và 2 ghi lại bốn tấm gương người cao tuổi trung tín: Xa-cha-ri và Ê-li-sa-bét (cha mẹ của Giăng Báp-tít), Si-mê-ôn và An-ne (những người thờ phượng trong đền thờ). Bởi vì họ là các thánh đồ trung tín cho nên những người khác được nghe tin Cứu Chúa đã đến trần gian thông qua họ. “Tóc bạc là vương miện hiển vinh, của con người theo đường công chính.” (Châm ngôn 16:31). Những người trẻ tuổi được dạy phải kính trọng các thánh đồ lớn tuổi. “Phải kính trọng người già cả, đầu râu tóc bạc. Phải tôn kính Đức Chúa Trời các ngươi. Ta là Chúa Hằng Hữu” (Lê-vi-ký 19:32). Và những người lớn tuổi cũng phải truyền lại cho những người trung tín trẻ tuổi khác các lẽ thật trong Kinh Thánh (2 Ti-mô-thê 2:2).

 

Chúng ta biểu hiện ra các thành quả. “Người công chính sẽ thịnh mậu như rừng dừa.
Xanh tốt như rừng hương bách núi Li-ban.
 Như cây cối trồng trong nhà Đức Chúa Trời.
Mọc giữa sân Đền Đấng Chân Thần.
 Đến tuổi già vẫn luôn sai trái.
Đầy nhựa sống và mãi mãi tươi xanh” (Thi. 92:12-14). Trong suốt những năm thi hành chức vụ, tôi thường gặp một số Cơ đốc nhân dù đã đến tuổi nghỉ hưu, nhưng họ vẫn hầu việc Chúa cho đến hơi thở cuối cùng. F. B. Meyer, nhà truyền đạo nổi tiếng Anh Quốc đã nói với một người bạn, “Tôi hy vọng dòng sông sự sống của Cha thiên thượng tiếp tục tuôn chảy trong tôi cho đến cuối cuộc đời, tôi không muốn điều này phải dừng lại.” Đó cũng là lời cầu nguyện của tôi. Tôi muốn được tươi mới, tiếp tục kết quả và tuôn chảy sự sống. Hiện tại tôi đã bước qua tuổi tám mươi khi viết những dòng này. Tôi không thể làm tất cả mọi điều mà tôi đã từng làm trước đây, nhưng bởi ân điển của Đức Chúa Trời tôi muốn tiếp tục làm những mục vụ mà Chúa đặt để trong lòng tôi.

Khi tuổi đã già chúng ta biết điều gì là quan trọng. Và điều này cũng làm cho chúng chúng ta nắm lấy các cơ hội để hầu việc Chúa theo tuổi tác và sức khỏe của mình, đặc biệt là giúp đỡ cho những ai chưa từng có cơ hội nghe đến Phúc âm. Chúng ta tiếp tục bước đi với Chúa và để cho sông nước sự sống của Ngài tuôn chảy phước hạnh đến cho người khác (Giăng 7:37-39)? Hay là chúng ta dừng lại thu vén và sống trong ốc đảo của riêng mình? Các bạn và tôi phải đưa ra quyết định đúng.

 

Đến tuổi già vẫn luôn sai trái. Đầy nhựa sống và mãi mãi tươi xanh,

Thi thiên 92:14

 

Bài 38

Cho đến giờ con đi vào Nơi Thánh, chợt hiểu ra chung cuộc của người ác.

Thi thiên 73:17

A-sáp là một trong những người hướng dẫn sự thờ phượng của tuyển dân trong đền thánh đã viết Thi thiên 73 (1 Sử ký 16:1-6, 37). Ông cũng viết Thi thiên 50 và các Thi thiên 74-83. Trong Thi thiên 73 trước giả cho chúng ta biết trong hoàn cảnh nào khiến ông tạm thời đánh mất lời ca ngợi Chúa, và rồi sau đó ông đã lấy lại từ sự bày tỏ của Chúa. Ông thất vọng, vì những kẻ gian ác được hưng thịnh trong khi những người công chính phải chịu đau khổ. Trong thực tế đôi khi là như vậy. Nhưng khi trước giả bước vào trong nơi thánh của Đức Chúa Trời, ông trở nên một con người được thay đổi. Từ Thi thiên này chúng ta học được ba chỉ dẫn căn bản cho đời sống.

 

Đừng nhìn chung quanh và trở nên một “kẻ theo dõi người khác”. A-sáp không phải là người đầu tiên cảm thấy thất vọng vì những kẻ ác được may mắn còn người công bình chịu đau khổ. Gióp đã rất bối rối trong chủ đề này (Gióp 21). Và những người khác như Giê-rê-mi (Giê-rê-mi 12), Đa-vít (Thi. 73), Ha-ba-cúc (Ha-ba-cúc 1) cũng thế. Nhưng chỉ tập chú vào những công việc của những người vô tín làm và sự thành công của họ thì có nghĩa là bước đi bởi những gì mắt thấy và không bởi đức tin. A-sáp đã học biết rằng sự thành công trên đất của những người vô tín tựa như: “Như giấc mơ chưa chín nồi kê.
Giàu sang, cường thịnh tiêu tan mấy hồi.
Chúa tỉnh thức, chê cười bọn ấy.
Họ biến đi như hình ảnh trong mơ” (Câu 20). Trong khi đó thì các tín nhân đã đụng chạm với cõi đời đời. Chúng ta không ghen tị với những người vô tín vì số phận sau cùng của họ là hư mất đời đời (Câu 17, 27). Và chúng ta cũng không cần ghen tị với những Cơ đốc nhân khác, bởi vì chúng ta không được xét đoán anh em mình (Rô-ma 14:4). Khi bạn bước vào trong nơi thánh, tương giao với Đức Chúa Trời, bạn sẽ không nhìn vào người khác hay chính mình. Bạn phải tập chú vào một mình Đức Chúa Trời.

 

Hãy nhìn lui lại, và nhớ đến các sự tốt lành của Đức Chúa Trời (Thi thiên 73:1). “Hãy nếm trải và nhận thấy Chúa Hằng Hữu tuyệt hảo; Phúc cho người tin cậy Ngài” (34:8). Nếu chúng ta quên đi các sự tốt lành của Đức Chúa Trời trong quá khứ, thì có thể là khẩu vị của chúng ta đã có một điều gì đó sai trật và thay đổi rồi (chúng ta đang nuôi mình bằng một loại thực phẩm sai trật).  Đức Chúa Trời hiện diện, Ngài gìn giữ và hướng dẫn chúng ta (Câu 23-24). Cơ đốc nhân có Đức Thánh Linh nội trú bên trong ban quyền năng, dạy dỗ mỗi ngày. Chúng ta có hàng ngàn lời hứa của Chúa khích lệ, nâng đỡ hằng ngày. Và đừng quên rằng một số nỗi đau chúng ta phải trải qua trong thế giới này là kết quả của việc chúng ta trở thành Cơ đốc nhân – là muối và ánh sáng của thế giới. “Thật vậy, mọi người muốn sống đạo đức trong Chúa Cứu Thế Giê-xu đều sẽ bị bức hại” (2 Ti-mô-thê 3:12). Chúng ta thường có khuynh hướng tiếp nhận các phước lành mà Đức Chúa Trời cung cấp nhưng lại phàn nàn về những khổ nạn mà Chúa cho phép xảy ra để giúp chúng ta trưởng thành trong ân điển của Ngài. A-sáp viết, “Thân thể, tâm trí, tàn tạ. Nhưng Chúa là sức mạnh lòng con. Là Đấng bảo đảm mọi nhu cầu” (Câu 26). Giữa những buồn phiền, đau khổ Gióp nói vời người vợ, “Tại sao chúng ta chỉ biết hưởng phúc của Đức Chúa Trời, mà không nhận họa?” (Gióp 2:10. Trên nền tảng của Rô-ma 8:28, những trải nghiệm mà chúng ta cho là xấu, sẽ trở thành tốt vào một thời điểm thích hợp của Chúa. Khi đếm phước lành từ Chúa, tín nhân loại bỏ sự ghen tị ra khỏi tấm lòng và cất lên những lời ngợi khen Chúa.

 

Nhìn xem những sự ở đằng trước và trông đợi vui hưởng một tương lai vinh hiển. “Chúa dẫn dắt bằng lời huấn thị. Nghênh đón con tại cuối đường đời” (Câu 24). Chúa Giê-su đã “kiên nhẫn vác cây thập tự, xem thường sỉ nhục và hiện nay ngồi trên ngai uy quyền tuyệt đối, bên phải ngai Đức Chúa Trời (Hê-bơ-rơ 12:2). Điều này cũng áp dụng cho Hội thánh là Cô dâu sẽ hội kiến với Tân Lang là Đấng Christ trước mặt Cha thiên thượng trên thiên đàng (Giu-đe 24-25). Quá khứ có thể có nhiều thất bại, nhưng biết trước những lời hứa đã hoàn thành sẽ mang lại niềm vui và chiến thắng khi chúng ta nhìn xem Chúa Giê-su là Cội Rễ và Cuối Cùng của đức tin (Hê-bơ-rơ 12:2). Khi những gánh nặng và trận chiến trở nên gay go và khó hiểu với chúng ta, hãy nhớ lời Chúa Giê-su dạy trong Giăng 13:7, “Bây giờ con chưa hiểu được việc Ta làm, nhưng sau này con sẽ hiểu.” Đức tin vào lời Chúa sẽ đưa bạn vào nơi thánh và hiện diện của Ngài sẽ cung cấp cho chúng ta tất cả những phương tiện để chiến thắng trận chiến thuộc linh.

 

Chúng ta biết mọi việc đều hợp lại làm ích cho người yêu mến Chúa, tức là những người được lựa chọn theo ý định của Ngài.

Rô-ma 8:28

 

Bài 39

 

Bao lần họ nổi loạn trong sa mạc
Và làm buồn lòng Ngài giữa đồng hoang!

Thi thiên 78:40

 

Chúng ta thường nghe nói rằng, Đức Chúa Trời giải phóng Israel đem họ ra khỏi Ai-cập chỉ trong một đêm, nhưng tuyển dân phải mất bốn mươi năm để đem Ai-cập rời xa họ. Sự tự do thoát khỏi vòng nô lệ tại Ai-cập không bảo đảm cho sự trưởng thành. Sau nhiều năm sống trong xiềng xích nô lệ, Israel phải vượt qua tâm lý làm nô lệ hay là tuyển dân sẽ không bao giờ có thể chinh phục kẻ thù và nhận lãnh vùng đất hứa. Sự càm ràm và nổi loạn của họ trong cuộc hành trình về đất hứa đã chọc giận cả Đức Chúa Trời và Môi-se. Tình trạng này vẫn còn tái diễn giữa vòng dân sự của Chúa ngày hôm nay, mặc dù họ cho rằng họ đang vui hưởng sự tự do trong Đấng Christ. Nếu bạn vẫn còn những ý tưởng sau đây, thì bạn vẫn còn sống trong tình trạng bị nô lệ giống như tuyển dân trong đồng vắng, và bạn cần chuẩn bị một khởi đầu mới.

 

“Cuộc sống là một gánh nặng!” Khi tuyển dân Israel ở Ai cập, thì cuộc sống của họ là một gánh nặng. Họ bị buộc phải phục tùng người cai trị hoặc là bị trừng phạt. Trẻ con phải vâng lời bố mẹ vì sợ bị trừng phạt, nhưng người trưởng thành thuộc linh vâng lời Chúa vì tình yêu và sự nhiệt thành. Đức Chúa Trời dẫn tuyển dân đến núi Sinai, nơi đó Chúa bày tỏ vinh quang của Ngài và ban cho tuyển dân luật pháp để bảo vệ và hướng dẫn họ. Dân sự có khả năng yêu mến, kính  sợ Chúa là Đức Chúa Trời của họ trong mỗi lĩnh vực của đời sống, và điều này khác với tình trạng làm nô lệ trong Ai-cập. Loại tự do cao nhất là khi tình yêu nối kết dân sự của Đức Chúa Trời với Ngài và với người khác. Nếu đời sống của bạn còn nhiều gánh nặng, hãy đến với lời hứa của Chúa Giê-su, ““Những ai đang nhọc mệt và nặng gánh ưu tư, hãy đến với Ta, Ta sẽ cho các con được nghỉ ngơi.  Ta có lòng khiêm tốn, dịu dàng; hãy mang ách với Ta và học theo Ta, các con sẽ được an nghỉ trong tâm hồn.  Vì ách Ta êm dịu và gánh Ta nhẹ nhàng.” (Ma-thi-ơ 11:28-30).

 

“Tôi phải có sự bảo đảm chắc chắn.” Có nhiều sự nguy hiểm trong đồng vắng, nhưng Đức Chúa Trời ở với dân sự Ngài để bảo vệ và cung ứng cho họ các nhu cầu. “Chúa Hằng Hữu là Đấng dắt chăn. Nên tôi chẳng còn gì thiếu thốn” (Thi. 23:1). Đức Chúa Trời bảo đảm rằng quần áo, giày dép của tuyển dân sẽ không mòn, và họ cũng có đủ bánh ăn mỗi ngày, Ngài ở cùng họ chống cự các kẻ thù và ban sự chiến thắng cho Israel. Yêu kính và vâng theo lời Chúa chính là nguồn bảo đảm nhất cho sự an ninh.

 

“Tôi không hiểu tại sao điều đó đã xảy ra.” Cơ đốc nhân trưởng thành bước đi bởi đức tin, không phải bởi mắt thấy (2 Cô-rin-tô 5:7). Đức Chúa Trời sửa soạn cho tuyển dân các trận chiến và phước hạnh trong vùng đất hứa. Mỗi một trở lực mà chúng ta vượt qua bởi ân điển Chúa sẽ làm cho sức lực thuộc linh của chúng ta gia tăng, và mỗi thử thách khiến chúng ta trưởng thành càng hơn trong ân điển.

 

“Chúa ôi, tôi đã gặp đủ rắc rối rồi.” Trong suốt cuộc hành trình trong đồng vắng, tuyển dân đã trải nghiệm đói, khát và sự tấn công từ phía các kẻ thù. Và phản ứng tự nhiên của họ là phàn nàn, lằm bằm. Không có ai trong chúng ta được phép lằm bằm về bất cứ điều gì. Tất cả những gì chúng ta nhận được là bởi ân điển Chúa, và chúng ta không nên càm ràm về các tình huống mình đối diện.

 

“Tôi có quyền nhận được những gì tôi muốn.” Tuyển dân cầu xin thịt để ăn, và Chúa đã ban cho. Nhưng nhiều người trong vòng họ bị chết vì điều này (Dân số ký 11). Chúng ta có trưởng thành đến một mức độ mà biết cảm tạ Chúa khi lời cầu nguyện của mình không được trả lời?

 

“Ôi, những ngày xưa tốt đẹp!” Bất cứ khi nào gặp khó khăn, tuyển dân lại muốn trở về Ai-cập. Họ muốn trở lại nơi đó làm nô lệ. Nhưng kế hoạch của Đức Chúa Trời thì không phải vậy. “Trong lĩnh vực tri thức Đạo Chúa, ta nên vượt qua trình độ sơ đẳng để tiến đến giai đoạn trưởng thành” (Hê-bơ-rơ 6:1). Vượt qua giai đoạn con đỏ để tiến đến bậc thành nhân không phải là điều dễ dàng. Nhưng có ai lại muốn nằm mãi trong nôi với các món đồ chơi trẻ con?

 

Chọc giận Chúa bằng sự trẻ con và nổi loạn của chúng ta chỉ làm Ngài đau buồn và vô hình trung cướp đi của chúng ta những gì tốt nhất mà Ngài  đã lên kế hoạch. Chúng ta đã thuộc về Christ, và không còn thuộc về thế gian nữa (Giăng 17:16). Tuy nhiên những điều nào của thế gian vẫn còn sót lại trong tấm lòng của chúng ta? Nếu có, hãy thừa nhận và từ bỏ chúng. Bài học của tuyển dân là muốn thỏa hiệp trở về với xiềng xích của Ai-cập. Cơ đốc nhân không thể như thế. Chúng ta là công dân thiên quốc (Phi-líp 3:20).

 

 

 

Sa-mu-ên bảo: Chúa có thích lễ thiêu và lễ cầu an hơn sự vâng lời Ngài đâu? Vì vâng lời hơn dâng lễ vật, nghe theo hơn dâng mỡ cừu đực.

1 Sa-mu-ên 15:22

 

Bài 40

 

Chúa có cánh tay quyền năng.
Bàn tay Chúa có sức mạnh, và tay hữu Chúa giơ cao lên.

Thi thiên 89:13

 

Có nhiều dụng cụ cơ khí và điện năng đầy sức mạnh mà những cánh tay cơ bắp của công nhân không thể theo kịp. Nhưng trong văn cảnh của Kinh Thánh, thì các công nhân lao động và những chiến binh đều cần sức mạnh cơ bắp. Khi Đức Chúa Trời làm việc, Ngài không tùy thuộc vào sức mạnh vật lý của cánh tay chúng ta. Chúng ta phải tùy thuộc vào sức mạnh, quyền năng vô giới hạn của Ngài. Khi tự cho mình có đủ sức mạnh để tham gia vào trận chiến thuộc linh, chúng ta sẽ nhanh chóng phát hiện ra mình yếu ớt mỏng manh dường bao. Vua Ô-xia nhờ ơn Chúa đã biểu dương sức mạnh của vũ khí dùng trong chiến tranh: “Ở Giê-ru-sa-lem, người khiến tay kỹ sư chế tạo những máy dùng đặt trên các tháp, và trên chót đồn lũy, đặng bắn tên và đá lớn. Danh tiếng người đồn ra phương xa; bởi vì người được Chúa giúp đỡ cách lạ thường, cho đến trở nên cường thạnh” (2 Sử ký 26:15). Phao-lô đã mô tả kinh nghiệm của mình, “Vì khi tôi yếu đuối, đó là lúc tôi mạnh mẽ” (2 Cô-rin-tô 12:10). Khi đặt đức tin vào Đức Chúa Trời, quyền năng siêu việt của Ngài sẽ khiến chúng ta có đủ sức để thực hiện ý muốn Ngài.

 

Cánh tay của Đức Chúa Trời Sáng Tạo. “Ôi! Hỡi Chúa Giê-hô-va! Chính Ngài đã dùng quyền phép lớn và cánh tay giơ ra mà làm nên trời và đất; chẳng có sự gì là khó quá cho Ngài cả” (Giê-rê-mi 32:17). Khi chiêm ngưỡng sự sáng tạo chung quanh, bên dưới, bên trên và ngay trong chính con người chúng ta, những điều này có đủ sức thuyết phục chúng ta tin vào quyền năng vĩ đại, sự khôn ngoan vô giới hạn của Chúa? Những gì con người gọi là các định luật khoa học chỉ là cách giải thích về những nguyên lý diệu kỳ của Đức Chúa Trời đã tạo dựng nên vũ trụ.  Những điều này nhắc chúng ta rằng không có điều gì khó quá cho Đức Giê-hô-va. Trong bài giảng trên núi, Chúa Giê-su đã phán dạy rằng ngay cả con chim sẻ bé bỏng hay những cánh hoa yếu ớt trên đồng vẫn được Chúa bảo tồn, chăm sóc. Vì vậy đối với chúng ta Chúa chắc sẽ quan tâm nhiều hơn. Hiểu được điều này tại sao chúng ta còn phải lo lắng?

 

Cánh tay của Đức Chúa Trời Giải Cứu. Quyền năng của Đức Chúa Trời cũng được bày tỏ trong lịch sử tuyển dân. Sau khi vượt qua Biển Đỏ như đi trên đất khô, tuyển dân ca ngợi cánh tay quyền năng của Đức Chúa Trời đã giải cứu họ. “Sự hoảng hốt kinh hãi giáng cho chúng nó;
Hỡi Đức Giê-hô-va! Vì quyền cao nơi cánh tay Ngài.
Chúng nó đều bị câm như đá,
Cho đến chừng nào dân Ngài vượt qua;
Cho đến khi dân mà Ngài đã chuộc, vượt qua rồi” (Xuất 15:16). Môi-se viết trong sách Phục truyền về sự giải cứu của Đức Chúa Trời, Ngài “dùng cánh tay quyền năng giơ thẳng ra và các dấu kỳ, phép lạ lớn đáng kinh khủng, mà rút chúng tôi khỏi xứ Ê-díp-tô” (Phục truyền 26:8). Trong Tân Ước, sứ đồ Phao-lô viết, “Ngài đã giải thoát chúng ta khỏi quyền của sự tối tăm, làm cho chúng ta dời qua nước của Con rất yêu dấu Ngài” (Cô-lô-se 1:13)

 

Cánh tay của Đức Chúa Trời Chinh Phục. Đức Chúa Trời giải phóng tuyển dân ra khỏi Ai-cập để họ có thể nhận lãnh cơ nghiệp, và Chúa giúp đỡ họ chiến thắng kẻ thù. Trước giả Thi thiên viết, “Vì họ chẳng nhờ thanh gươm mình mà được xứ.
Cũng chẳng nhờ cánh tay mình mà được cứu;
Bèn nhờ tay hữu Chúa, cánh tay Chúa, và sự sáng mặt Chúa” (Thi thiên 44:3). Là Cơ đốc nhân, chúng ta nhận lãnh cơ nghiệp thuộc linh trong Đấng Christ bởi đức tin vào Đức Chúa Trời và cánh tay quyền năng của Ngài (Ê-phê-sô 1:19; Cô-lô-se 1:29)

 

Cánh tay của Đức Chúa Trời Cứu Rỗi. “Ai tin điều đã rao truyền cho chúng ta, và cánh tay Đức Giê-hô-va đã được tỏ ra cho ai?” (Ê-sai 53:1). Sự cứu rỗi không đến với chúng ta qua các của lễ dâng hay những việc làm công đức. Sự cứu rỗi chúng ta có được nhờ vào sự chết của Chúa Giê-su trên thập tự giá và sự phục sinh của Ngài. Cánh tay quyền năng của Đức Chúa Trời thể hiện trên đồi Gô-gô-tha và ngôi một trống đã chiến thắng tội lỗi cũng như sự chết.

 

Cánh tay của Đức Chúa Trời Chăm Sóc. “Ngài sẽ chăn bầy mình như người chăn chiên; thâu các con chiên con vào cánh tay mình và ẵm vào lòng; từ từ dắt các chiên cái đương cho bú” (Ê-sai 40:11). Đức Chúa Giê-su là người chăn chiên nhân lành, Ngài phán dạy, “Trong các ngươi ai là người có một trăm con chiên, nếu mất một con, mà không để chín mươi chín con nơi đồng vắng, đặng đi tìm con đã mất cho kỳ được sao? 5 Khi đã kiếm được, thì vui mừng vác nó lên vai.” (Lu-ca 15:4-5). Một con chiên chỉ được an toàn khi ở trong bầy và được bảo vệ dưới cánh tay chăm sóc của Đấng chăn chiên.

Cánh tay quyền năng của Đức Chúa Trời không bao giờ suy yếu hay thất bại trong việc bảo vệ dân sự Ngài.

 

Đức Chúa Trời hằng sống là nơi ở của ngươi,
Ở dưới có cánh tay đời đời của Ngài.
Ngài đuổi kẻ thù nghịch khỏi trước mặt ngươi,

Phục truyền 33:27

 

Bài 41

Ôi Chúa! Xin nhớ lại thì giờ tôi ngắn dường nào.
Chúa dựng nên con loài người hư không dường bao!

 

Thi thiên 89:47

Một số người nói rằng thời gian là một liều thuốc chữa lành tuyệt vời nhưng cũng là một người trang điểm đáng thương hại. Khi đã già, tôi đồng ý với điều này. Mọi người đang sống rồi sẽ già đi, nhưng không phải ai cũng biểu lộ hay sửa chữa dung nhan của mình theo cùng một cách mà sự lão hóa mang lại. Có những lúc dường như thời gian trôi nhanh theo tốc độ của ánh sáng, nhưng cũng có lúc chúng ta cảm giác thấy thời gian nặng nề chầm chậm trôi qua. Có một điều chắc chắn: thời gian luôn lao nhanh về phía trước, và mỗi chúng ta phải quyết định sử dụng nó như thế nào.

 

Chúng ta có thể lãng phí thời gian trong những điều vô ích. Trong sách Truyền đạo chúng ta có thể tìm thấy ba mươi tám lần từ “hư không hay vô nghĩa” được đề cập. Một trong những giáo sư của chúng tôi dạy rằng trong tiếng Hê-bơ-rơ từ “hư không” có nghĩa là những gì còn lại sau khi bọt bong bóng của xà phòng tan vỡ. Vua Sa-lô-môn đã quan sát nhiều khía cạnh của đời sống khi viết sách Truyền đạo. Và cuối cùng trước giả đi đến kết luận rằng đời sống là vô nghĩa. Đời sống không có ý nghĩa chỉ là sự tồn tại về mặt sinh vật học mà không phải là đời sống thực. Chúng ta có thể làm việc vất vả và tiêu xài đồng tiền kiếm được theo ý thích, nhưng chúng ta không thể lấy lại thời gian mà mình đã lãng phí. Nếu Chúa hỏi nhiều người đang đi trên “con đường hư không” này về ý nghĩa của đời sống, họ sẽ không có câu trả lời đúng đắn. Sống cho những điều hư không của thế giới này là một sự lãng phí thời gian.

 

Chúng ta có thể sử dụng thời gian của mình cho những hoạt động. “Đức Chúa Trời, là Đấng mỗi ngày ban mọi vật dư dật cho chúng ta được hưởng” (1 Ti-mô-thê 6:17), nhưng không phải tất cả mọi sự vui hưởng đều mang lại sự phong phú cho đời sống chúng ta. Khi trưởng thành chúng ta muốn qui về Chúa mọi vinh hiển và xây dựng đời sống của chúng ta trên những giá trị thuộc linh. Đời sống thật sự có ý nghĩa khi chúng ta ban ra những gì chúng ta nhận được. Chúa Giê-su phán, “Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, nếu hột giống lúa mì kia, chẳng chết sau khi gieo xuống đất, thì cứ ở một mình; nhưng nếu chết đi, thì kết quả được nhiều” (Giăng 12:24). Đời sống Cơ đốc chỉ có ý nghĩa khi kết quả cho Chúa. Nếu chỉ sống cho chính mình, chúng ta sẽ đánh mất ý nghĩa của đời sống. Nhưng nếu dâng đời sống của chúng ta lên cho Đấng Christ, chúng ta được cứu rỗi và giúp đỡ người khác nhận được sự cứu rỗi. Những hoạt động cá nhân đơn lẻ vì tư lợi sẽ không làm đẹp lòng Chúa. Chúng ta phải sống và hoạt động vì Chúa và tha nhân.

 

Chúng ta có thể đầu tư thì giờ của mình cho cõi đời đời. Đời sống liên quan đến sự quản lý thời gian.  Chúa ban cho chúng ta sự sống khi được thụ thai và đời sống vĩnh cửu khi qui đạo. Và với cả hai trải nghiệm này đều có những ân tứ và khả năng Chúa ban để sử dụng nhằm tôn vinh  Chúa. Đức Chúa Trời không ban cho tôi khả năng của một vận động viên điền kinh hay khả năng của một thợ cơ khí. Ngài ban cho tôi khả năng văn chương, có thể viết lách và sử dụng các từ ngữ để truyền thông sứ điệp Thánh Kinh. Tôi nhận được từ Chúa khả năng nghiên cứu, học tập và truyền đạt những gì mà Chúa đã dạy tôi. Điều này không có nghĩa là mọi tín nhân phải giống như tôi. Không phải ai cũng trở thành mục sư hay người truyền đạo. Tuy nhiên mỗi người trong chúng ta phải phát triển các ân tứ của minh để phục vụ Chúa và người khác nhằm dâng vinh hiển về cho Chúa. Những giá trị, thước đo của thế giới rồi sẽ qua đi. Sứ đồ Giăng viết, “thế gian với sự tham dục nó đều qua đi, song ai làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời thì còn lại đời đời” (1 Giăng 2:17). Chúng ta không được lãng phí thời gian, nhưng phải đầu tư thời gian của mình cho những điều theo ý muốn Chúa sẽ còn lại đời đời.

 

Trái ngược với sự vĩnh hằng, cuộc sống vốn ngắn ngủi và thời gian vun vút trôi qua thật nhanh. Chúng ta có nhận thức rõ ràng điều này? Tôi nhìn lại cuộc đời mình, chỉ mới hôm qua thôi vừa mới lập gia đình, rồi hai năm sau có đứa con đầu tiên, mà bây giờ đã là một ông già tám mươi tuổi. Chung quanh tôi là những đứa cháu! Cõi đời đời rồi cũng sẽ đến nhanh. Chúng ta sẽ đứng trước ngai Đấng Christ, và mọi công việc của chúng ta sẽ được phán xét.

 

Hãy đầu tư thì giờ ngắn ngủi của mình cho những giá trị thuộc linh vĩnh cửu. Phần chia lãi phước hạnh thuộc linh là vô lượng, bây giờ và cho đến đời đời.

 

Vả lại, cái điều người ta trông mong nơi người quản trị là phải trung thành.

1 Cô-rin-tô 4:2

 

Bài 42

Hỡi Đức Giê-hô-va, các chứng cớ Ngài rất là chắc chắn:
Sự thánh khiết là xứng đáng cho nhà Ngài đến đời đời,

Thi thiên 93:5

 

Các chứng cớ (testimonies) là một trong những từ xuất hiện nhiều lần trong Kinh Thánh – Lời của Đức Chúa Trời. Từ này có nguồn gốc từ tiếng Latin có nghĩa là “chứng nhân”. Từ phái sinh của nó trong Tiếng Anh là testify (tỏ ra) và testament (thánh kinh). Kinh Thánh làm chứng về: sự tồn tại, các thuộc tính của Đức Chúa Trời, các công việc Ngài và ý muốn của Ngài cho con người.

 

Kinh Thánh là một lời chứng của Vua. “Đức Giê-hô-va cai trị; Ngài mặc sự oai nghi. Đức Giê-hô-va mặc mình bằng sức lực, và thắt lưng bằng sự ấy: Thế gian cũng được lập vững bền, không thế bị rúng động.  Ngôi Chúa đã lập vững từ thời cổ; Chúa hằng có từ trước vô cùng” (Thi thiên 93:1-2). Chúa Giê-hô-va luôn luôn cai trị, “Đức Giê-hô-va làm Vua đến đời đời vô cùng” (Thi. 10:16). Và Phao-lô viết, “Nguyền xin sự tôn quí vinh hiển đời đời vô cùng về nơi Vua muôn đời, không hề hư nát, không thấy được, tức là Đức Chúa Trời có một mà thôi!” (1 Ti-mô-thê 1:17). Trong thời kỳ phong kiến, khi một vị vua phát ngôn – đó là chiếu chỉ và mọi công dân phải vâng theo. “Vả lại, lời vua có quyền; ai dám nói với người rằng: Ngươi làm chi?” (Truyền đạo 8:4). Chúng ta không bao giờ đánh giá Kinh thánh là sai lầm, và Vua tạo dựng nên vũ trụ đang phán dạy chúng ta qua Lời Ngài. Có phải chúng ta đang quá vội vàng trong việc đọc Thánh Kinh đến nỗi không nhận ra bài học Chúa muốn dạy?

 

Kinh Thánh là một lời chứng cho mọi thời đại. Trước giả Thi thiên 93, sử dụng động từ “là (are)” trong thì hiện tại (Your testimony are very sure.) Bởi vì những gì Đức Chúa Trời phán dạy cách đây nhiều thế kỷ thì Ngài vẫn còn phán với chúng ta ngày hôm nay. Lời Đức Chúa Trời không thay đổi, nhưng ngôn ngữ con người có thay đổi, vì vậy các học giả Kinh Thánh phải nghiên cứu bản văn đầu tiên của Kinh Thánh để chuyển ngữ cho phù hợp với thời hiện đại. Khi đọc Lời Chúa, chúng ta lắng nghe những gì Đức Chúa Trời phán với các tổ phụ, thầy tế lễ, tiên tri, sứ đồ, những công dân bình thường…. Trong một phương diện Chúa cũng dùng các lời ấy phán dạy cho chúng ta ngày hôm nay. Và chúng ta cũng đọc thấy các lời mà con người phản hồi, đối nại với Đức Chúa Trời. Lời của Đức Chúa Trời là lời sống, linh nghiệm và không bao giờ lỗi thời (Hê-bơ-rơ 4:12; 1 Phi-e-rơ 1:23). Tôi được khích lệ khi nghe người ta nói: “Mục sư của chúng tôi làm cho Kinh Thánh trở nên thích hợp, xác đáng và dễ hiểu.”

Chúng ta vận dụng Kinh Thánh như thế nào thì không thành vấn đề, nó vẫn luôn luôn thích hợp cho tất cả những ai có thiện chí tìm kiếm ý muốn của Chúa. Và nếu chúng ta nhờ Thánh Linh hướng dẫn, thì Lời Chúa sẽ trở nên rõ ràng cho chúng ta.

 

Kinh Thánh là một lời chứng đáng tin cậy. “Hỡi Đức Giê-hô-va, các chứng cớ Ngài rất là chắc chắn” (Thi thiên 93:5). “Ngôi Chúa đã lập vững từ thời cổ” (câu 2), và Lời Đức Chúa Trời cũng được xác lập. Không phải tất cả các nhân chứng xuất hiện trước tòa án đều đáng tin cậy. Một số người trong vòng họ có thể bị phạt vì lời khai gian dối. Nhưng lời chứng của Kinh Thánh luôn luôn đáng tin cậy. Chúa Giê-su phán, “Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Ta không bao giờ qua” (Ma-thi-ơ 24:35). Giống như những cơn bão trên đại dương, hệ thống văn hóa của các quốc gia cố gắng nhấn chìm Lời của Chúa, nhưng Lời của Ngài vẫn tiếp tục phát ngôn đến mọi người (Thi thiên 93:3-4). Đức Chúa Trời quở trách các dân tộc trên đất, “Ôi! Các dân đông đảo làm xôn xao là dường nào, khác nào như biển gầm! Các dân tộc chạy xông tới như nhiều nước đổ mạnh!  Thật, các dân tộc chạy xông tới như nhiều nước đổ ầm ạc; nhưng Ngài sẽ quở trách họ, thì đều trốn xa, bị đùa đi như rơm rác trên núi khi gió thổi, như luồng bụi gặp cơn bão” (Ê-sai 17:12-13). Và Chúa cười nhạo chúng (Thi thiên 2:1-4). Hãy ghi nhớ lẽ thật này khi bạn đọc báo hay nghe tin tức thời sự trên truyền hình.

 

Kinh Thánh là một lời chứng về sự biến đổi. Nếu yêu mến Lời Đức Chúa Trời và thực hành Lời ấy, chúng ta sẽ được biến đổi trở nên những người thánh của Chúa. “Sự thánh khiết là xứng đáng cho nhà Ngài đến đời đời” (Thi thiên 93:5b). Từ “nhà Ngài” hàm ý đến nơi thánh của Đức Chúa Trời và cũng là nơi chốn dành cho dân sự Ngài. Khi Kinh Thánh được hiểu thấu đáo và áp dụng, nó sẽ sản sinh ra các thánh đồ (2 Cô-rinh-tô 3:18). Đức Chúa Trời cai trị hoàn vũ bằng các điều răn của Ngài. Ngài không cai trị thông qua một ủy ban hay sự đồng thuận. Chúng ta không thể thương lượng để điều chỉnh ý muốn Ngài. Chúng ta phải chấp nhận và vâng phục ý chỉ ấy.

 

Nhân sao các ngoại bang náo loạn?
Và những dân tộc toan mưu chước hư không?

Thi thiên 2:1

 

Bài 43

Hãy tôn cao Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi,
Và thờ lạy trước bệ chân Ngài:
Ngài là thánh!

Thi thiên 99:5

 

Xuyên qua các Thi thiên (99:5, 9), Chúa Thánh Linh khích lệ chúng ta thờ phượng và tôn cao Đức Chúa Trời. Tôn cao Chúa là hành động được chờ đợi từ Cơ đốc nhân? Để tôn cao Chúa, chúng ta phải có ước muốn sâu xa trong tấm lòng là dâng vinh hiển lên cho Ngài. Từ “tôn cao” có nguồn gốc trong tiếng Latin gồm hai từ: “đem ra” và “trên cao”. Để tôn vinh Chúa có nghĩa là nâng Ngài lên cao giữa vòng những “người nổi tiếng” trên thế giới này. Nó có nghĩa là tôn cao Chúa Giê-su trong sự làm chứng, cách ăn ở, các mục vụ, sự thờ phượng của chúng ta để người khác có thể thấy Đức Chúa Trời là ai. Thi thiên 99 đưa ra ba lý do để chúng ta tôn cao Chúa trong thế giới hôm nay:

 

Ngài trị vì trên nơi cao và trên ngai thánh (câu 1-3). Mặc dù chúng ta không nhìn thấy Ngài, Ngài trị vì trên ngôi cao sang và không bao giờ bị truất ngôi. Chúa Giê-su đang đồng trị với Cha trên thiên đàng (Hê-bơ-rơ 1:3; 12:2). Cụm từ “trên các chê-ru-bim” trong câu 1: “Đức Giê-hô-va cai trị: các dân hãy run sợ;
Ngài ngự trên các chê-ru-bim: trái đất khá rúng động”  đưa chúng ta vào trong nơi thánh. Hai chê-ru-bim bằng vàng là một phần của ngai thương xót hay chiếc nắp vàng được đặt trên đỉnh của hòm giao ước. Đây là ngai của Chúa trong quốc gia Israel. Vinh quang của Chúa ngự trong nơi thánh của đền tạm, vì ngai vàng của Chúa và vinh hiển của Ngài đi cùng nhau. Nhưng ngai vinh hiển này cũng là một ngôi ân điển (ngôi ơn phước) là nơi Cứu Chúa thi hành mục vụ và nghe những lời cầu nguyện của chúng ta (Hê-bơ-rơ 4:14-16). Vì ân điển và vinh hiển đi chúng với nhau (Thi. 84:11). Đây là lý do mà trong bài cầu nguyện chung, Chúa Giê-su dạy chúng ta phải cầu xin cho “Danh Cha được thánh” (Ma-thi-ơ 6:9). Lời cầu nguyện của chúng ta phải qui vinh hiển về cho Ngài. Chúng ta phải tôn cao Ngài là Vua vĩ đại của muôn vua.

 

Ngài là Đấng phán xét công minh. “Vua có quyền năng, cũng yêu mến sự công bình;
Ngài lập vững bền sự ngay thẳng,
Thi hành sự đoán xét và sự công bình trong Gia-cốp.
 Hãy tôn cao Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi,
Và thờ lạy trước bệ chân Ngài:
Ngài là thánh!” (Thi. 99:4-5). Trong thế giới loài người hôm nay chúng ta có thể nhìn thấy sự phán xét và cai trị công bình? Các vụ án trong hệ thống tòa án của chúng ta làm thất vọng một số người cố gắng để có được công lý. Chỉ có Đức Chúa Trời công bình và khôn ngoan tuyệt đối mới có thể đưa ra phán xét thích hợp cho mọi người, và không ai có thể chối tội được. “Đức Giê-hô-va thi hành sự công bình
Và sự ngay thẳng cho mọi người bị hà hiếp” (Thi. 103:6) không chỉ trong đời này mà còn trong đời hầu đến nữa. Khi Chúa ngồi trên ngai phán xét với các quyển sách được mở ra, hồ sơ của từng cá nhân đầy đủ trong đó. Người công nghĩa nhận lãnh phần thưởng, và những kẻ ác bị trừng phạt. “Công việc của Hòn-Đá là trọn vẹn;
Vì các đường lối Ngài là công bình.
Ấy là Đức Chúa Trời thành tín và vô tội;
Ngài là công bình và chánh trực” (Phục truyền 32:4). Sứ đồ Phao-lô viết, “vì Ngài đã chỉ định một ngày, khi Ngài sẽ lấy sự công bình đoán xét thế gian, bởi Người Ngài đã lập, và Đức Chúa Trời đã khiến Người từ kẻ chết sống lại, để làm chứng chắc về điều đó cho thiên hạ” (Công vụ. 17:31). Chúng ta hãy tôn vinh Đấng Thẩm Phán công minh hoàn hảo.

 

Ngài duy trì một mối tương giao thánh khiết và cao trọng (Thi. 99:6-9). Vợ tôi và tôi đã ghé thăm London nhiều lần, nhưng chúng tôi không bao giờ tự ý nỗ lực vượt qua cổng bảo vệ của cung điện Buckingham để vào gặp nữ hoáng Anh. Tuy nhiên là con cái  của Đức Chúa Trời chúng ta có thể mạnh dạn đến gặp Ngài trước ngôi ân điển bất cứ lúc nào bởi đức tin. Các trước giả sách Thi thiên là Môi-se, Đa-vít, và những thánh đồ ưu tú khác cũng không có đặc ân lớn như chúng ta hiện nay. A-rôn chỉ có thể bướcvào trong nơi thánh của đền tạm mỗi năm một lần vào ngày đại lễ chuộc tội, còn chúng ta thì có thể ở “nơi kín đáo của Đấng Chí Cao” (Thi. 91:1). Chúng ta có thể thưa chuyện cùng Đức Chúa Trời và nghe Lời Ngài phán dạy chúng ta qua Kinh Thánh. Ngài tha thứ khi chúng ta xưng tội cùng Ngài (1 Giăng 1:9). Khi chúng ta thờ phượng Ngài, ở trong sự tương giao mật thiết với Ngài, lúc đó quyền năng Ngài sẽ bao phủ và biến đổi chúng ta. Đó chính là đặc ân lớn lao mà chúng ta có được trước ngai ân điển.

 

Hỡi Đức Giê-hô-va, Ngài là Đức Chúa Trời tôi! Tôi tôn sùng Ngài, tôi ngợi khen danh Ngài; vì Ngài đã làm những sự mới lạ, là những mưu đã định từ xưa, cách thành tín chân thật

Ê-sai 25:1

 

Bài 44

 

Hỡi linh hồn ta, hãy ngợi khen Đức Giê-hô-va,
Chớ quên các ân huệ của Ngài.

Thi thiên 103:2

Từ “các ân huệ” được đề cập ở đây có nguồn gốc từ tiếng Latin có nghĩa là “làm điều tốt đẹp”. Bởi vì Đức Chúa Trời là tốt lành, Ngài luôn làm điều tốt đẹp. Ngài không thể làm điều ác. Những gì Chúa làm dường như có vẻ không tốt với cái nhìn của chúng ta, nhưng đó là điều Chúa đã làm và chúng chắc chắn là điều tốt – ngay cả cái giằm xóc trong cơ thể Phao-lô cũng là điều tốt (2 Cô-rin-tô 12:7-10). Phao-lô viết, “chúng ta biết rằng mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Đức Chúa Trời, tức là cho kẻ được gọi theo ý muốn Ngài đã định” (Rô-ma 8:28). Có ba yếu tố liên quan đến “các ân huệ” của Chúa.

 

Ghi nhớ – chúng ta nhớ đến Chúa. Trong chức vụ chăn bầy, đôi khi tôi viếng thăm một số người mà họ đã bị mất trí nhớ. Những lần như vậy thường làm tôi suy nghĩ về tình trạng mất trí nhớ của con người. Khi bộ nhớ ngừng hoạt động, người ta không còn biết mình và những người chung quanh là ai. Không còn biết nơi mình ở và tại sao mình lại ở đây. Trí nhớ hay bộ nhớ là một món quà vĩ đại của Chúa ban cho con người. Giả sử mỗi sáng chúng ta không nhớ nổi tên và địa chỉ của chúng ta, bảng chữ cái, hệ thống số, cộng với tên của những người trong cuộc sống của chúng ta. Lúc đó chúng ta gần như sẽ bị cô lập với thực tế. Tuyển dân Israel thường xuyên quên Đức Chúa Trời và chuyển sang thờ phượng các hình tượng khác của những dân tộc chung quanh. Điều này khiến cho tuyển dân bị Chúa xử phạt. Trong sách Phục truyền luật lệ ký Môi-se thường xuyên viết, “hãy nhớ” và “đừng quên”. Môi-se viết câu này năm lần, “Hãy nhớ rằng các ngươi đã từng chịu thân phận nô lệ tại Ai-cập.” Bất cứ khi nào tuyển dân quên đi họ là ai, và Đức Chúa Trời đã làm gì cho họ, họ sẽ bị trượt chân vào tội lỗi và đối nghịch, không vâng lời Đức Chúa Trời. Mỗi hội thánh ngày nay nên có một ngày kỷ niệm “Chủ nhật di sản” hàng năm để nhắc nhở mọi thành viên về những gì Chúa đã làm ơn trên hội thánh. Quên đi lịch sử và các ân huệ của Chúa là đánh mất danh tính của mình.

 

Hãy tạ ơn Chúa về sự thương xót của Ngài. Đức Chúa Trời ban cho Israel ngày nghỉ Sa-bát và các ngày lễ trọng thể khác để nhắc nhở dân sự về ân sủng và sự thương xót của Ngài (Lê-vi-ký 23). Tuyển dân cũng dựng lên những đài tưởng niệm đặc biệt để làm chứng cho các sự kiện lịch sử quan trọng. Các hội thánh ngày nay nhóm lại vào Chủ nhật để thờ phượng, rao giảng Lời Chúa, kỷ niệm sự phục sinh của Chúa Giê-su. Chúng ta cũng có các ngày đặc biệt như Giáng Sinh, Phục sinh, Kỷ niệm ngày cải chánh giáo hội… để ghi nhớ các sự kiện lịch sử quan trọng của hội thánh. Hội Thánh Ê-phê-sô và Sạt-đe trong sách Khải huyền cần phải nhớ lại “đã sa sút từ đâu, hãy ăn năn và làm lại những công việc ban đầu của mình” (Khải 2:5) và “hãy nhớ lại mình đã nhận và nghe đạo thể nào, thì giữ lấy, và ăn năn đi” (3:3). Một số hội thánh ngày hôm nay cũng nên như thế.

 

Chúng ta hãy phục vụ Chúa. Kỷ niệm các công việc trong quá khứ Chúa làm không có nghĩa là phớt lờ hiện tại và tương lai. Nhưng gợi nhớ lại những ân huệ nhận được trong quá khứ làm chúng ta được nhắc nhở, khích lệ để làm tốt các mục vụ trong hiện tại và sẵn sàng cho những dự án tương lai. Một triết gia nói, “một người không biết về quá khứ bị kết án khi đi lại trên vết xe đổ của nó.” Khi Phao-lô gặp các trưởng lão tại hội thánh Ê-phê-sô, vị sứ đồ đã ôn lại các công việc trong quá khứ và lên kế hoạch cho tương lai (Công vụ. 20:17-38). Nếu các vận động viên thể thao có thể trở thành những vận động viên giỏi hơn nhờ học được các bài học xương máu trong quá khứ, thì Cơ đốc nhân cũng vậy. Chúng ta phải học từ các bài học trong quá khứ để trở nên những thánh đồ hiệu quả hơn cho Đức Chúa Trời.

 

Lòng biết ơn là một yếu tố quan trọng trong cuộc đời theo Chúa. Thay vì đi theo vết xe đổ của tuyển dân Israel: quên đi các phước hạnh từ Đức Chúa Trời và phớt lờ các điều răn Ngài. Chúng ta hãy ca ngợi Chúa và kỷ niệm các điều tốt lành Ngài đã làm cho chúng ta. Đức Chúa Trời không bao giờ quên con cái của Ngài, vì vậy không có lý do nào chúng ta lại quên Ngài.

 

Đàn bà há dễ quên con mình cho bú, không thương đến con trai ruột mình sao? Dầu đàn bà quên con mình, ta cũng chẳng quên ngươi.  Nầy ta đã chạm ngươi trong lòng bàn tay ta; các tường thành ngươi thường ở trước mặt ta luôn.

Ê-sai 49:15-16

 

Bài 45

 

Đức Giê-hô-va phán cùng Chúa tôi rằng:
Hãy ngồi bên hữu ta,
Cho đến chừng ta đặt kẻ thù nghịch ngươi làm bệ chân cho ngươi.

 

Thi thiên 110:1

Có ít nhất hai lý do chúng ta tập chú vào Thi thiên này. Thứ nhất, nó nói đến chức vụ của Chúa Giê-su đối với hội thánh ngày hôm nay. Và thứ hai Tân Ước trích dẫn Thi thiên này nhiều hơn bất kỳ Thi thiên nào khác. Nó ghi lại những lời của Cha phán với Con khi Chúa Giê-su trở về thiên đàng, và nhấn mạnh các lẽ thật quan trọng về Cứu Chúa.

 

Giê-su là Cứu Chúa Hằng sống. Ngài đã hoàn thành sự cứu chuộc (Giăng 19:30). Ngài không còn ở trên thập tự giá hay trong mồ mã. Ngài đang sống! Lẽ thật này đã làm cho các sứ đồ được biến đổi từ nhút nhát sợ hãi chuyển sang đầy bạo dạn rao giảng Phúc âm. 0Chúng ta có thể bước đi và hầu việc Chúa ngày hôm nay trong “quyền năng phục sinh của Ngài” (Phi-líp 3:10) bởi vì Christ sống trong chúng ta qua Đức Thánh Linh (Ga-la-ti 2:20). Đức Thánh Linh muốn trao quyền năng cho chúng ta để can đảm đứng lên công bố Phúc âm. Thế giới cho rằng Chúa Giê-su chỉ là một giáo sư trong lịch sử, Ngài đã chết. Nhưng Đức Thánh Linh muốn  chúng ta phải biểu minh ra Chúa Cứu thế đang sống, và Ngài đang làm việc trên trái đất này.   Chúng ta có sẵn sàng cho Ngài?

 

Giê-su là Cứu Chúa được tôn cao. Trong những năm thi hành chức vụ trên đất, Chúa Giê-su là một đầy tớ khiêm nhường, vâng phục, chịu đau khổ. Và Đức Chúa Trời đã “đem Ngài lên rất cao, và ban cho Ngài danh trên hết mọi danh” (Phi-líp 2:9). Đức Chúa Trời cũng “đã tỏ ra trong Đấng Christ, khi khiến Đấng Christ từ kẻ chết sống lại và làm cho ngồi bên hữu mình tại các nơi trên trời, cao hơn hết mọi quyền, mọi phép, mọi thế lực, mọi quân chủ cùng mọi danh vang ra, không những trong đời nầy, mà cũng trong đời hầu đến nữa” (Ê-phê-sô 1:20-21). Không một ai trong trần thế này có thể ngang bằng hay so sánh được với Chúa Giê-su. Mọi tạo vật phải ở dưới chân của Ngài. Ngài nắm trọn quyền cai trị. Vậy chúng ta có nên lo sợ?

 

Giê-su là Cứu Chúa đang cai trị. Chúa Cứu thế không trở lại trái đất để làm vua, vì hiện nay Ngài là vua đang cai trị. Chúa Giê-su phán, “Hết cả quyền phép ở trên trời và dưới đất đã giao cho ta” (Ma-thi-ơ 28:18-20). Và Chúa trao mạng lệnh cho chúng ta, “Vậy, hãy đi dạy dỗ muôn dân, hãy nhân danh Đức Cha, Đức Con, và Đức Thánh Linh mà làm phép báp-têm cho họ, và dạy họ giữ hết cả mọi điều mà ta đã truyền cho các ngươi. Và nầy, ta thường ở cùng các ngươi luôn cho đến tận thế” Trong quyền năng Chúa ủy nhiệm – không phải trong khả năng của con người, chúng ta có đặc ân đi ra rao giảng Phúc Âm, mở rộng vương quốc của Chúa. Chúng ta có thể “nhờ một mình Đức Chúa Jêsus Christ mà cai trị trong sự sống” (Rô-ma 5:17) bởi vì Chúa Cứu thế đang trị vì từ thiên đàng. Hơn nữa Đức Chúa Trời cũng làm cho, “chúng ta đồng sống lại và đồng ngồi trong các nơi trên trời trong Đức Chúa Jêsus Christ” (Ê-phê-sô 2:6). Còn có điều nào cao sang và kỳ diệu hơn so với những điều mà chúng ta đã nhận trong Christ?

 

Giê-su là Cứu Chúa đang thi hành mục vụ. “Đại ý điều chúng ta mới nói đó, là chúng ta có một thầy tế lễ thượng phẩm, ngồi bên hữu ngai của Đấng tôn nghiêm trong các từng trời, làm chức việc nơi thánh và đền tạm thật, bởi Chúa dựng lên” (Hê-bơ-rơ 8:1-2). Thư tín Hê-bơ-rơ giải thích rằng Chúa Giê-su đang thi hành thánh chức trên thiên đàng để giúp đỡ cho hội thánh Ngài thực thi các sứ mạng ở dưới đất. Không nên có quan niệm sai lầm rằng Cha thiên thượng nổi giận với các sự thất bại của chúng ta, vì Chúa Giê-su đang cầu thay cho Tân phụ của Ngài và chúng ta có thể nhận được sự trợ giúp khi cần. Cha và Con cùng làm việc với nhau để huấn luyện chúng ta đạt đến mức độ trưởng thành có thể qui vinh hiển về cho Ngài. Chúa Giê-su là “thầy tế lễ bị thử thách trong mọi việc cũng như chúng ta, song chẳng phạm tội.  Vậy, chúng ta hãy vững lòng đến gần ngôi ơn phước, hầu cho được thương xót và tìm được ơn để giúp chúng ta trong thì giờ có cần dùng” (4:14-16)

 

Đức Chúa Trời đã đặt mọi điều dưới chân Chúa Giê-su. “Đức Chúa Trời đã khiến mọi vật phục Đức Chúa Jêsus như vậy; thì chẳng để cho một vật nào chẳng phục Ngài” (2:8) và “Đức Chúa Trời bình an sẽ kíp giày đạp quỉ Sa-tan dưới chân anh em” (Rô-ma 16:20). Vì vậy chúng ta có thể vui hưởng sự chiến thắng trong Christ. Chúng ta không chiến đấu để giành sự chiến thắng bằng sức lực của mình, nhưng thừa hưởng sự chiến thắng mà Christ đã làm cho chúng ta (Ê-phê-sô 1:19-23). Khi đọc Kinh Thánh, suy ngẫm và nhờ Đức Thánh Linh áp dụng Lời Chúa vào đời sống, chúng ta sẽ nhận được từ Chúa Giê-su tất cả những gì chúng ta cần và chiến thắng các kẻ thù.

 

Chúa ban cho người quyền cai trị công việc tay Chúa làm,
Khiến muôn vật phục dưới chân người:

Thi thiên 8:6

 

Bài 46

 

Nguyện sự thương xót Chúa đến cùng tôi, để tôi được sống;
Vì luật pháp Chúa là điều tôi ưa thích

Thi thiên 119:77

 

Bất cứ điều gì làm chúng ta thích thú sẽ chỉ đạo chúng ta, và bất cứ điều gì chỉ đạo chúng ta sẽ quyết định số phận của chúng ta; vì vậy chúng ta phải cẩn thận với những ham thích của mình. “Phước cho những kẻ đói khát sự công bình, vì sẽ được no đủ!” (Ma-thi-ơ 5:6). Khi vui thích trong Lời Đức Chúa Trời, chúng ta cũng sẽ vui thích trong ý muốn của Ngài. Chúa Giê-su phán, “Đồ ăn của ta tức là làm theo ý muốn của Đấng sai ta đến, và làm trọn công việc Ngài” (Giăng 4:34). Chúng ta vui thích với điều gì? “Sự ác lấy làm ngọt ngào cho miệng nó” (Gióp 20:12) hay “Lời Chúa ngọt họng tôi dường bao! Thật ngọt hơn mật ong trong miệng tôi!” (Thi. 119:103) Cơ đốc nhân được mời gọi đến trải nghiệm này: “Khá nếm thử xem Đức Giê-hô-va tốt lành dường bao! Phước cho người nào nương náu mình nơi Ngài!” (Thi. 34:8)

 

Đức Chúa Trời cai trị hoàn vũ. Ngài thiết kế các qui luật trong thiên nhiên cho mỗi khu vực và các luật lệ của Vương quốc thuộc linh. Nếu kháng cự lại các qui luật này, con người sẽ bị suy sụp và có thể bị hủy diệt. Cơ đốc nhân học biết luật pháp thiên thượng trong Lời của Đức Chúa Trời và phải vâng lời, áp dụng các lẽ thật ấy. Phước cho người nào “vui vẻ về luật pháp của Đức Giê-hô-va. Và suy gẫm luật pháp ấy ngày và đêm” (Thi. 1:2)

 

Tôi có sự tự do để lái xe ô-tô, bởi vì tôi có bằng lái xe. Nhưng trước đó tôi phải trải qua một kỳ thi để trắc nghiệm kiến thức về luật giao thông và kỹ năng lái xe trong các địa hình. Và khi lái xe tôi phải tuân thủ luật giao thông của tiểu bang. Còn lái xe ngày nào tôi còn phải tiếp tục tuân thủ các nguyên tắc giao thông, mặc dù tôi được tự do lái xe. Các khoa học gia có thể nghiên cứu về nhiều vấn đề trong thế giới tự nhiên và trong vũ trụ để khám phá các qui luật không thay đổi mà Đức Chúa Trời đã thiết định trên tất cả mọi tạo vật.  Cơ quan không gian NASA Hoa kỳ có thể đưa vệ tinh, phi thuyền, con người vào không gian rồi trở về trái đất an toàn vì vâng theo các qui luật được thiết định từ  Đấng Tạo Hóa.

 

Tại sao không có nhiều người ham thích đọc và nghiên cứu Lời của Chúa? Đức Thánh Linh là tác giả của Kinh Thánh đang sống bên trong tín nhân và khích lệ chúng ta dành thì giờ đọc, suy ngẫm Lời Chúa mỗi ngày. Nhưng chúng ta quá bận rộn đến nỗi không còn thời gian để làm điều này! Hay là không có ai dạy chúng ta nghiên cứu Kinh Thánh? Là cha mẹ chúng ta dành thời gian chăm sóc con cái và cung cấp cho chúng những thực phẩm tốt nhất có thể. Nếu bọn trẻ ăn quá nhiều đồ ăn vặt giữa các bữa ăn, chúng sẽ không còn ham thích với bữa ăn chính có nhiều chất dinh dưỡng. Thức ăn thuộc linh của Cơ đốc nhân cũng vậy.

Khi tín nhân tập chú vào Lời Đức Chúa Trời, điều này có nghĩa Kinh Thánh là quyển sách quan trọng nhất trong cuộc đời người đó. Trong Kinh Thánh có mọi điều chúng ta cần cho sự tăng trưởng tâm linh. Nó là thực phẩm của tín nhân (Thi. 119:103; Ma-thi-ơ 4:4; 1 Phi-e-rơ 2:2; Hê-bơ-rơ 5:12-14), là nước thanh tẩy tội lỗi (Thi. 119:9; Giăng 15:3; Ê-phê-sô 5:26), là ngọn đèn soi sáng (Thi. 119:105, 130), là thanh gươm bảo vệ (Ê-phê-sô 6:17; Hê-bơ-rơ 4:12), là kho báu làm chúng ta giàu có (Thi. 119:14, 72, 127, 162), là lẽ thật biến đổi chúng ta (Giăng 17:17)

 

Là con người chúng ta thường bận rộn trong những công việc hàng ngày như đi mua sắm, kiểm tra email, câu cá …và nhiều sinh hoạt khác làm chúng ta vui thích hơn là suy ngẫm Lời Chúa. Nhưng hãy nhớ rằng trước giả Thi thiên viết, “Tôi thức trước rạng đông và kêu cầu; Tôi trông cậy nơi lời Chúa.  Canh đêm chưa khuya, mắt tôi mở tỉnh ra. Đặng suy gẫm lời Chúa” (119:147-148). Và “Hỡi Đức Giê-hô-va, ban đêm tôi nhớ lại danh Ngài. Cũng gìn giữ luật pháp Ngài” (câu 55). “Nhân vì các mạng lịnh công bình của Chúa. Tôi sẽ thức dậy giữa đêm đặng cảm tạ Chúa” (câu 62)

Nếu Phi-e-rơ, Gia-cơ và Giăng không ngủ trên Núi – nơi Chúa hóa hình, họ có thể học được nhiều hơn về nội dung đàm thoại của Chúa Giê-su với Môi-se và Ê-li (Lu-ca 9:32). Nếu Ơ-tích không ngủ thì có thể nghe hết bài giảng của Phao-lô, tuy nhiên cậu thanh niên này đã làm điều ngược lại. “Một gã tuổi trẻ tên là Ơ-tích, ngồi trên cửa sổ, ngủ gục trong khi Phao-lô giảng rất dài” (Công vụ. 20:7-12). Chúng ta phải tỉnh thức, chỗi dậy để học Lời Chúa.

 

Hãy ăn ở như vậy, vì biết thời kỳ đương lúc chúng ta đây: Giờ anh em từ ngủ thức dậy đã đến, bởi sự cứu hiện nay đã gần chúng ta hơn lúc chúng ta mới tin.

Rô ma 13:11

 

Bài 47

 

Tôi đã kêu cầu Chúa; xin hãy cứu tôi,
Thì tôi sẽ giữ các chứng cớ Chúa.

Thi thiên 119:146

 

Điểm nhấn mạnh của Thi thiên 119 là Lời Đức Chúa Trời và những gì Lời Chúa hành động trong chúng ta khi chúng ta vui thích và áp dụng Lời đó. Nhưng cũng có một chủ đề khác trong Thi thiên này mà chúng ta không được phớt lờ. Chúng ta phải cầu nguyện theo Lời Chúa. Trước giả Thi Thiên đã cầu nguyện (câu 145-147, 169), và có bằng chứng là Đức Chúa Trời trả lời sự cầu nguyện này. Từ đây chúng ta có thể học tập thêm các lẽ thật căn bản về sự đời sống Cơ đốc.

 

Người kính sợ Chúa có những kẻ thù. Những ai cho rằng đời sống Cơ đốc nhân giống như một chuyến đi du lịch êm ả, bình yên trên biển bằng du thuyền hiện đại cần phải đọc lại Tân ước. Chúa Giê-su dạy trong Ma-thi-ơ 5:10, “Phước cho những kẻ chịu bắt bớ vì sự công bình, vì nước thiên đàng là của những kẻ ấy!” Và Phao-lô cũng viết, “Vả lại, hết thảy mọi người muốn sống cách nhân đức trong Đức Chúa Giê-su Christ, thì sẽ bị bắt bớ” (2 Ti-mô-thê 3:12). Nếu  những người vô tín bắt bớ Chúa Giê-su, thì họ cũng bắt bớ những ai đi theo Chúa (Giăng 15:18-25).  Một người nói với tôi: “Tôi không nói bất cứ điều gì về Phúc âm với ai. Tôi chỉ sống cuộc sống của tôi và đó là lời chứng của tôi.” Nhưng nếu đời sống của bạn khác biệt với những người vô tín trên thế giới này, họ sẽ lưu ý và hỏi bạn tại sao. Và đó là cơ hội cho bạn để làm chứng về Phúc âm. Trước giả Thi Thiên bị các vua chúa đời này tấn công (119:23) và bị những kẻ ác gây phiền nhiễu (53, 61, 69), nhưng ông vẫn tiếp tục gìn giữ luật pháp Chúa. “Hỡi kẻ làm ác, hãy lìa khỏi ta. Để ta giữ điều răn của Đức Chúa Trời ta” (115; đọc thêm 121, 122). “Tôi ghét những kẻ hai lòng, nhưng yêu mến luật pháp của Chúa” (113; đọc thêm 136, 141). Cơ đốc nhân là ánh sáng của thế giới, nhưng thế giới yêu thích sự tối tăm hơn là ánh sáng, bởi vì “phàm ai làm ác thì ghét sự sáng và không đến cùng sự sáng, e rằng công việc của mình phải trách móc chăng” (Giăng 3:20)

 

Người tin kính có thể cầu nguyện tìm kiếm sự trợ giúp của Đức Chúa Trời. Trước giả Thi thiên kêu cầu sự trợ giúp của Chúa mỗi khi có nhu cầu (145-147, 169). Trong Công vụ 4:23:31 là khuôn mẫu về sự cầu nguyện cho chúng ta khi hội thánh gặp bắt bớ. Các tín hữu không cầu xin Đức Chúa Trời loại bỏ các quan chức chính quyền xấu xa hoặc che chở hội thánh thoát khỏi sự bắt bớ. Thay vì vậy họ đã cầu xin xin sự can đảm để tiếp tục công bố Phúc Âm cho những người hư mất. Hội thánh đầu tiên đã không xem sự bắt bớ là lý do để dừng lại công tác rao giảng Phúc âm nhưng xem đó là cơ hội cho mục vụ này tiếp tục tăng trưởng. Điều đáng buồn là nhiều hội thánh ngày hôm nay đã suy giảm tinh thần cầu nguyện cho công cuộc chia sẻ Tin mừng. Có lẽ chúng ta cần đến một vài sự bách hại để tỉnh thức về vấn đề này.

 

Người tin kính nối kết sự cầu nguyện với Lời Đức Chúa Trời. Các tín nhân cầu nguyện trong Công vụ chương 4 hiểu biết Kinh Thánh Cựu ước. Họ trích dẫn hai câu trong Thi thiên 2 và áp dụng các câu này cho hoàn cảnh của họ. Khi cầu nguyện trong Thánh Linh, Ngài sẽ nhắc chúng ta nhớ lại những lời hứa từ Kinh Thánh mà chúng ta đã đọc trước đây. Hãy công bố những lời hứa ấy. Hội thánh ngày nay cần phải đi theo khuôn mẫu của các sứ đồ, “Còn chúng ta sẽ cứ chuyên lo về sự cầu nguyện và chức vụ giảng đạo” (Công vụ. 6:4). Cầu nguyện và giảng đạo (hay công bố Lời) luôn đi chung với nhau. Cầu nguyện mà không có Lời Chúa đi kèm theo giống như sức nóng mà không có sự sáng. Còn Lời Chúa mà không có sự cầu nguyện giống như có ánh sáng mà không có sức nóng làm bùng cháy. Chúng ta cần cả hai điều này. Chúa Giê-su dạy: “ví bằng các ngươi cứ ở trong ta, và những lời ta ở trong các ngươi, hãy cầu xin mọi điều mình muốn, thì sẽ được điều đó” (Giăng 15:7). Sa-mu-ên, một người tin kính trong Cựu Ước cũng dạy lẽ thật tương tự, “Còn ta đây, cũng chẳng phạm tội cùng Đức Giê-hô-va mà thôi cầu nguyện cho các ngươi. Ta sẽ dạy các ngươi biết con đường lành và ngay” (1 Sa-mu-ên 12:23). Cầu nguyện và công bố Lời!

 

Hỡi Đức Giê-hô-va, nguyện tiếng kêu của tôi thấu đến Ngài.
Xin hãy ban cho tôi sự thông sáng tùy theo lời Chúa.

 

Thi thiên 119:169

 

Bài 48

Nguyện môi miệng tôi đồn ra sự ngợi khen Chúa;
Vì Chúa dạy tôi các luật lệ Chúa.

 

Thi thiên 119:171

Một tín nhân cần có sự quân bình trong đời sống. Chúng ta không biết ai viết Thi thiên 119, nhưng chúng ta biết những điều trong tấm lòng của trước giả: học Lời Chúa, cầu nguyện cho chính mình và người khác, ngợi khen Chúa về sự đáp lời cầu nguyện. Trước giả Thi thiên không có một cuộc sống dễ dàng, nhưng có một đời sống quân bình khi dành thời gian học Lời Chúa, cầu nguyện và tạ ơn Chúa. Một người bạn của tôi có lần nói, “Phước cho những ai có đời sống quân bình, vì họ sẽ không bị hổ thẹn.” Nếu mỗi ngày chúng ta dành thời gian để học Lời, cầu nguyện và cảm tạ Chúa, Ngài sẽ hành động trên những phần còn lại của cuộc sống chúng ta. Hiểu biết về Kinh Thánh là điều tốt cho mọi người, đặc biệt là các sinh viên Thần học. Tuy nhiên sự hiểu biết ấy phải cân bằng với sự thực hành Lời Chúa. Sứ đồ Phao-lô dạy: “sự hay biết sanh kiêu căng, còn sự yêu thương làm gương tốt” (1 Cô-rin-tô 8:1). Song hành với việc nghiên cứu Kinh Thánh là cầu nguyện. Hãy thực hành loại cầu nguyện nào mà có thể biến đổi đời sống chúng ta bởi quyền năng Đức Thánh Linh xuyên qua Lời Chúa! “Chúng ta ai nấy đều để mặt trần mà nhìn xem vinh hiển Chúa như trong gương, thì hóa nên cũng một ảnh tượng Ngài, từ vinh hiển qua vinh hiển, như bởi Chúa, là Thánh Linh” (2 Cô-rin-tô 3:18). Thờ phượng Chúa cũng là điều cần thiết, khi thờ phượng chúng ta dâng mọi vinh hiển về Đức Chúa Trời và giấu mình đi trong ân sủng của Ngài. Điều quan trọng là tấm lòng và tâm trí chúng ta cần tập chú vào chính Đức Chúa Trời, điều này sẽ khích lệ chúng ta bước đi trong nếp sống tin kính và thực hành các mục vụ.

 

Người tín hữu có đời sống kỷ luật. Nếu các môn đồ không cần kỷ luật thì đó là một điều sai trật cho nếp sống môn đồ hóa. Trước giả Thi thiên thức dậy trước bình minh và dành thì giờ với Đức Chúa Trời: “Tôi thức trước rạng đông và kêu cầu” (Thi. 119:147), và ông cũng “canh đêm chưa khuya, mắt tôi mở tỉnh ra, đặng suy gẫm lời Chúa” (Thi. 119:148).  Còn nữa, “nhân vì các mạng lịnh công bình của Chúa, tôi sẽ thức dậy giữa đêm đặng cảm tạ Chúa” (câu 62). Phao-lô và Si-la đã thức dậy lúc nửa đêm giữa chốn lao tù để cầu nguyện và ngợi khen Chúa. Sau đó phép lạ xảy ra và một số người được cứu (Công vụ. 16:25-34). Trước giả Thi thiên cũng viết, “Tôi yêu mến luật pháp Chúa biết bao! Trọn ngày tôi suy gẫm luật pháp ấy” (câu 97). Điều này không hàm ý là Cơ đốc nhân phải bỏ lơ công việc của mình, và không đọc bất kỳ sách gì ngoài Kinh Thánh. Thầy giảng Tin Lành D. L. Moody đã từng cảnh báo các tín hữu chống lại “những người luôn nghĩ chuyện trên trời, nhưng lại không hữu ích gì ở trần gian.” Chúng ta đang sống trong một thế giới thực tế, với những con người thực tế. Vì thế không thể phớt lờ hay bỏ qua những trách nhiệm của một con người bình thường. Sự tận hiến của chúng ta cho Đức Chúa Trời phải làm cho chúng ta trở nên những công dân tốt hơn – những người làm cha mẹ tốt hơn – những công nhân tốt hơn trong các xí nghiệp….

 

Tín nhân sống cuộc sống đầu phục Chúa.  Tấm lòng, tâm trí, ý muốn (câu 7, 8) môi miệng chúng ta (câu 171-172) phải thuộc về Chúa. Thì giờ của chúng ta cũng vậy. “Mỗi ngày tôi ngợi khen Chúa bảy lần” (câu 164). Thực hành những điều này làm chúng ta được biến đổi. Trước giả Thi thiên cầu xin, “Xin hãy dạy tôi lẽ phải, sự hiểu biết” (câu 66) và tri thức về Lời Chúa. Một đời sống đầu phục Chúa sẽ chọn những ưu tiên thích hợp. Cơ đốc nhân không chọn giữa điều tốt hoặc xấu, nhưng chọn điều tốt hơn và tốt nhất. “Nhưng trước hết, hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa” (Ma-thi-ơ 6:33). Và dành cho chúa Giê-su ưu tiên này: “trong mọi vật, Ngài đứng đầu hàng” (Cô-lô-se 1:18). Chúng ta nên đồng thanh nói như Đa-vít, “Nhưng, Đức Giê-hô-va ôi! Tôi tin cậy nơi Ngài; Tôi nói: Ngài là Đức Chúa Trời tôi.  Kỳ mạng tôi ở nơi tay Chúa; Xin giải cứu tôi khỏi tay kẻ thù nghịch, và khỏi tay kẻ bắt bớ tôi” (Thi. 31:14-15).

Động cơ của đời sống Cơ đốc là tình yêu. Nếu muốn tôn vinh Đức Chúa Trời, lòng chúng ta phải tràn đầy tình yêu với Ngài, Lời của Ngài và sẵn sàng phục vụ Ngài (119:47-48, 97, 132, 140, 165). Sự chân thành trong tấm lòng giúp đưa ra định hướng cho tâm trí và một đời sống kỷ luật theo ý muốn của Chúa.

 

Tình yêu thương của Đấng Christ cảm động chúng tôi.

2 Cô-rin-tô 5:14

 

Bài 49

 

Nhưng Chúa có lòng tha thứ cho,
Để người ta kính sợ Chúa.

 

Thi thiên 130:4

Những tín nhân mà nghiêm túc xem xét tấm lòng của mình đều biết rằng họ cần sự tha thứ của Đức Chúa Trời về những vi phạm của mình. Đức Thánh Linh cáo trách và thuyết phục chúng ta trong vấn đề này. Những ai nói rằng mình không cần sự tha thứ từ Chúa phải đọc lời này: “Ví bằng chúng ta nói mình không có tội chi hết, ấy là chính chúng ta lừa dối mình, và lẽ thật không ở trong chúng ta” (1 Giăng 1:8).

Khi nhận biết mình có tội, hãy nhớ rằng chỉ một mình Đức Chúa Trời có quyền tha tội cho chúng ta. Giu-đa đã xưng nhận tội phản bội Thầy mình với các nhà lãnh đạo Do thái giáo, nhưng họ không thể giúp gì được cho ông. Dằn vặt với gánh nặng tội lỗi, Giu-đa đã thắt cổ tự tự tử. Phi-e-rơ cũng phạm tội chối Thầy của mình, nhưng ông đã ăn năn trong chỗ riêng tư với Chúa và khóc lóc tan vỡ (Lu-ca 24:34; 1 Cô-rin-tô 15:5). Có một  sự khác biệt giữa hai môn đồ này.

Chúa Giê-su phán với người bệnh bại liệt, sau khi anh ta nhận được sự chữa lành, “Hỡi người, tội lỗi ngươi đã được tha” (Lu-ca 5:20). Lời công bố này làm cho các nhà lãnh đạo Do thái giáo vấp phạm, vì họ biết rằng chỉ duy nhất Đức Chúa Trời có quyền tha tội. Họ cho rằng khi Chúa Giê-su phán như vậy tức là đã phạm tội lộng ngôn – coi mình ngang bằng Đức Chúa Trời. Nhưng Chúa Giê-su là Đức Chúa Trời, vì thế Ngài có quyền tha tội. Trong Lu-ca chương 7, Chúa Cứu thế cũng phán với người phụ nữ xấu nết, “Ngài bèn phán cùng người đàn bà rằng: Tội lỗi ngươi đã được tha rồi” (Lu-ca 7:48). Những lời này khiến cho các thầy tế lễ Do Thái giáo nổi giận, nhưng đó là những lời giải phóng cho người phụ nữ. “Ngài phán cùng người đàn bà rằng: Đức tin của ngươi đã cứu ngươi; hãy đi cho bình an” (câu 50).

 

Chúa Giê-su là Con Đức Chúa Trời, là Cứu Chúa của thế gian nên Ngài có quyền tha tội. Sự chết trên thập giá và sự sống lại khải hoàn của Ngài sau đó làm cho tội nhân nhận được sự tha tội và sự sanh lại vào trong gia đình Đức Chúa Trời. “Ấy là trong Đấng Christ, chúng ta được cứu chuộc bởi huyết Ngài, được tha tội, theo sự dư dật của ân điển Ngài” (Ê-phê-sô 1:7). Phép lạ của sự tha tội không đến từ các việc làm tốt đẹp của con n gười, bởi vì sự cứu rỗi là món quà miễn phí của Đức Chúa Trời dành cho nhân loại. Ân điển là tình yêu của Đức Chúa Trời đến với chúng ta – những tội nhân không xứng đáng. Và trong sự thương xót của Đức Chúa Trời Ngài không trách phạt chúng ta theo cách chúng ta xứng đáng nhận. Chúa Giê-su đã nhận lãnh cực hình trên thập giá một cách bất công, không xứng hiệp với Ngài. Chúng ta xứng đáng nhận lãnh cực hình đó.

 

Trong Cựu Ước, vào ngày Lễ chuộc tội (Lê-vi-ký 16), hai con dê được đưa vào trong nơi tôn nghiêm. “A-rôn sẽ giết con dê đực làm tế lễ chuộc tội cho dân chúng, đem huyết nó vào phía sau bức màn và rảy huyết trên nắp chuộc tội và trước nắp ấy, như người đã rảy huyết con bò đực. Như vậy người làm lễ chuộc tội trong nơi thánh vì tình trạng ô uế và vi phạm của dân Y-sơ-ra-ên và vì đủ thứ gian ác của họ” (câu 15-16).

“Khi đã làm xong lễ chuộc tội cho nơi thánh, trại hội kiến và bàn thờ, A-rôn sẽ đem con dê đực còn sống đến.  Người đặt hai tay lên đầu con dê, xưng nhận tất cả gian ác và vi phạm của dân Y-sơ-ra-ên, để các tội lỗi đó trên đầu con dê và giao nó cho một người đã chỉ định để thả vào sa mạc.  Con dê sẽ mang trên nó tất cả tội lỗi của họ và được dẫn đến một nơi cô tịch, tại đó người kia sẽ thả cho nó đi trong sa mạc” (câu 20-22).

 

Chúng ta có hai bức tranh về sự tha thứ ở đây: huyết bao phủ tội lỗi của tuyển dân, và tội lỗi bị quăng xa không bao giờ được nhìn thấy trở lại. “Phương đông xa cách phương tây thể nào
Thì Ngài cũng loại bỏ các vi phạm của chúng ta xa thể ấy” (Thi thiên 103:12).

Điều gì xảy ra sau đó? Tuyển dân chắc chắc phải vui mừng vì biết rằng tội lỗi của họ đã được tha thứ. “Phước cho người nào có sự vi phạm được tha thứ, tội lỗi mình được khỏa lấp” (Thi thiên 32:1). Huyết của các sinh vật bao phủ tội lỗi của Israel, nhưng “huyết Đức Giê-su, Con Ngài, thanh tẩy mọi tội lỗi chúng ta” (1 Giăng 1:7). Điều này sẽ kéo chúng ta đến gần Đức Chúa Trời nhiều hơn để chúng ta có thể yêu mến Ngài càng hơn và tái dâng hiến đời sống chúng ta cho ý muốn Ngài. “Hãy kính sợ mà phục vụ CHÚA. Hãy run rẩy mà vui mừng” (Thi thiên 2:11). Chúng ta được tha thứ không phải để tái phạm các tội lỗi, nhưng “hãy đi và đừng phạm tội nữa” (Giăng 8:11). Không dễ dàng để tiếp tục bước đi trong sự kính sợ Đức Chúa Trời và xa lánh tội lỗi, nhưng đây là một yếu tố cần thiết của đời sống Cơ đốc tin kính.

 

Vậy chúng ta sẽ nói gì? Chúng ta cứ tiếp tục sống trong tội lỗi để ân sủng được dư dật sao?  Không thể như vậy được. Chúng ta là những người đã chết đối với tội lỗi thì làm sao chúng ta lại cứ sống trong tội lỗi nữa?

 

Rô-ma 6:1-2

 

Bài 50

 

Lạy Chúa, lòng tôi không tự cao,
Mắt tôi không tự đắc.
Tôi cũng không theo đuổi những việc quá vĩ đại
Hay quá diệu kỳ cho tôi.

Thi thiên 131:1

 

Chúng ta không thể tiến lên trong nếp sống Cơ đốc trưởng thành với những bài học vỡ lòng. Nếu làm vậy không bao lâu chúng ta sẽ ngã quị và trở lại con đường cũ. “Vì thế, chúng ta hãy từ bỏ bài học vỡ lòng về đạo lý của Chúa Cứu Thế mà tiến lên bậc trưởng thành” (Hê-bơ-rơ 6:1). Ý muốn của Chúa là, “hãy lớn lên trong ân sủng và trong sự hiểu biết Đấng Cứu Rỗi, Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta” (2 Phi-e-rơ 3:18). Nếu chúng ta ăn uống tốt, luyện tập thể dục đều đặn cộng với các thói quen lành mạnh, thì sự trưởng thành vật lý trong cơ thể chúng ta là điều đương nhiên. Sự trưởng thành thuộc linh đòi hỏi một đời sống có kỷ luật. Hãy cân nhắc những phân tích sau đây:

 

Có thể chúng ta vẫn còn trong tình trạng con đỏ thuộc linh. Cai sữa thường là một trải nghiệm khủng hoảng đối với trẻ em vì chúng nghĩ rằng chúng đã bị từ chối bởi một người mẹ không còn yêu thương chúng nữa. Chúng không nhận thức là chuyện cai sữa là bắt đầu cho tiến trình trưởng thành của em bé mà người mẹ mong muốn. Trẻ con thường tìm thấy sự an toàn hơn khi được tiếp tục ở trong vòng tay và bám lấy bầu vú sữa mẹ. Nhưng dĩ nhiên chúng phải học cách thoát ly dần ra khỏi tình trạng đó để vươn tới bậc thành nhân. Điều này đòi hỏi sự vâng lời của đứa trẻ, đồng thời người mẹ cũng phải khéo léo dẫn dắt con mình vượt qua giai đoạn này. Cùng một nguyên tắc tương tự cho đời sống thuộc linh: Đức Chúa Trời yêu thương muốn chúng ta vượt qua giai đoạn con đỏ – vượt qua thời kỳ uống sữa (1 Cô-rin-tô 13:11) để có thể tiếp nhận những đồ ăn cứng (Hê-bơ-rơ 5:12-14).

 

Chúng ta có thể giả vờ là người trưởng thành thuộc linh. Điều này liên quan đến với những gì chúng ta hiểu biết trong đời sống thuộc linh. Có thể tham gia vào lớp học Kinh Thánh hàng tuần ở nhà thờ, nhưng về nhà bạn không bao giờ mở Kinh Thánh ra! Chúng ta có thể tham dự hết kỳ hội đồng bồi linh này đến những kỳ hội đồng khác, nhưng không bao giờ áp dụng các lẽ thật Kinh Thánh vào đời sống. Chúng ta chấp nhận các cơ hội để phục vụ Chúa và hội thánh, nhưng thường không duy trì được sự phục vụ này cách liên tục. Cũng giống như hội thánh Sạc-đe trong Khải huyền, chúng ta có tiếng là sống nhưng thực ra là đang chết (Khải. 3:1-6). G. Campbell gọi tình trạng này là “có danh nhưng không có thực chất”. Và Chúa Giê-su gọi đó là sự giả hình. Cuối cùng các cuộc giả mạo kết thúc và mặt nạ bật ra, và sau đó chúng ta phát hiện ra rằng chúng ta trẻ con nhưng không ngây thơ và cái gọi là sự khiêm tốn của chúng ta là sự kiêu căng. Những đứa trẻ giả vờ là người lớn trở thành kỳ cục, không dễ thương và không ai xem chúng như người lớn.

 

Chúng ta có thể trả giá và khởi đầu cho sự trưởng thành. Sự trưởng thành thuộc linh không phải là một nơi đến – nó là một hành trình. Và cuộc hành trình này không kết thúc cho đến khi chúng ta gặp Chúa Giê-su. Khi ấy một hành trình khác lại bắt đầu. Những người trưởng thành biết rõ bản thân mình, chấp nhận chính con người của mình, không ngừng hoàn thiện con người của mình, và dâng chính mình cho Đức Chúa Trời để phục vụ người khác. Họ biết những gì có thể làm và nơi họ được đặt để trong chương trình của Chúa. Họ không giành chiếm uy quyền và những điều thấy được tạm thời. Họ tin cậy Đức Chúa Trời giúp đỡ để hoàn thành các mục vụ và dâng vinh hiển về Chúa Giê-su. Nhiều chức vụ bị suy tàn vì tội kiêu ngạo hơn bất kỳ tội lỗi nào khác. “Sự kiêu ngạo đi trước, sự bại hoại theo sau” (Châm. 16:18), nhưng khiêm nhường là dấu hiệu của sự trưởng thành thuộc linh. Một tấm lòng kiêu ngạo và một đôi mắt tự cao có thể hủy phá mọi điều.

 

Đức Chúa Trời chống cự kẻ kiêu ngạo, mà ban ơn cho kẻ khiêm nhường.

1 Phi-e-rơ 5:5

 

 

Bài 51

Ngài ra lịnh mình trên đất.
Lời của Ngài chạy rất mau (Lời Ngài loan truyền nhanh chóng).

 

Thi thiên 147:15

Chúng ta đang sống trong một thời đại công nghệ thông tin bùng nổ với quá nhiều tin tức về mọi đề tài trên báo chí và mạng internet. Làm sao để nhận và tiêu hóa chúng? Có quá nhiều thông tin, và thường là chúng gây nên sự thất vọng cho người đọc. Nhưng Cơ đốc nhân có thể tìm thấy sự bình an trong Lời Chúa và tin rằng Đức Chúa Trời đang làm việc trên thế giới ngay vào lúc này. Lời Chúa là sống động và quyền năng (Hê-bơ-rơ 4:12) và luôn luôn hoàn thành mục đích của Ngài (Ê-sai 55:10-11). Các đầy tớ của Chúa có thể bị cầm tù, nhưng không thế lực nào có thể giam cầm được Lời Ngài (2 Ti-mô-thê 2:9). Thi thiên 147 thông báo cho chúng ta biết Đức Chúa Trời đang làm việc trong thế giới tự nhiên (câu 8-9, 15-18) trong các sự kiện ở những thành phố và quốc gia (câu 2-5, 12-14, 19-20) đặc biệt là ở Israel. Để hoàn thành chương trình cho Israel, Đức Chúa Trời có thể dùng các vua ngoại bang như Nê-bu-cát-nết-sa, Đa-ri-út, Sê-sa…

 

Không chỉ Lời của Đức Chúa Trời hành động trong thế giới hiện nay, mà Ngài còn dùng dân sự của Ngài để lan truyền Lời đó. Phao-lô  đã khen ngợi các tín hữu tại Tê-sa-lô-ni-ca, “Vì đạo Chúa không những từ nơi anh em vang ra trong xứ Ma-xê-đoan và A-chai thôi đâu, nhưng đức tin mà anh em có trong Đức Chúa Trời đã đồn khắp mọi nơi, đến nỗi chúng tôi không cần phải nói đến nữa ” (1 Tê-sa. 1:8). Niềm tin nơi Phúc âm đã lan đi khắp mọi nơi thông qua một nhóm tín hữu! Điều này làm tôi nhớ lại câu chuyện vua Ba-tư ban chiếu chỉ đặc biệt giải cứu dân tộc Do Thái theo thỉnh cầu của Ê-xơ-tê. Lúc đó “những lính trạm cỡi ngựa hăng và ngựa nòi, vâng mạng vua thúc giục lật đật đi. Đoạn chiếu chỉ ấy được truyền ra trong kinh đô Su-sơ” (Ê-xơ-tê 8:13-14). Ngày hôm nay vị Vua tối cao đã truyền lệnh (đã ban chiếu chỉ) cho chúng ta mang Phúc Âm đến cho tất cả mọi dân tộc, và chúng ta có những phương tiện tốt hơn rất nhiều so với thời của Ê-xơ-tê để làm điều đó. Vậy tại sao chúng ta trì hoãn việc này? Mỗi người trong chúng ta phải là một thành viên trong các đội truyền giáo để lan truyền sứ điệp Phúc âm trên khắp thế giới.

 

Dân sự của Đức Chúa Trời hỗ trợ cho các sứ giả rao giảng Tin mừng thông qua sự cầu nguyện. “Vả lại, hỡi anh em, hãy cầu nguyện cho chúng tôi, hầu cho đạo Chúa được đồn ra và được sáng danh, như thể ở trong anh em vậy” (2 Tê-sa-lô-ni-ca 3:1). Mọi mục vụ khác cần phải chu toàn, nhưng việc cầu nguyện và giảng đạo phải là trọng tâm (Công vụ 6:4). Khi cầu nguyện trong đức tin chúng ta sẽ trải nghiệm Chúa mở đường cho công tác truyền giáo, Phao-lô làm chứng “tại đó có một cái cửa lớn mở toang ra cho công việc tôi” (1 Cô-rin-tô 16:9). Đức Chúa Trời có thể không làm việc nhanh chóng như chúng ta mong đợi. Và chúng ta tự hỏi: “Còn bao lâu, thưa Chúa?” Hãy nhớ lời hứa của Ngài là: “Chớ mệt nhọc về sự làm lành, vì nếu chúng ta không trễ nải, thì đến kỳ, chúng ta sẽ gặt” (Ga-la-ti 6:9). Tôi tin rằng sự cầu nguyện bền bĩ là nhu cầu thực tế của các hội thánh hôm nay. Mặc dù có nhiều tài năng và ân tứ, Phao-lô vẫn mong đợi hội thánh cầu nguyện cho chức vụ của ông. Bởi vì ân tứ và sự khôn ngoan mà không có quyền năng thì không thể hoàn thành được kế hoạch của Đức Chúa Trời. Trong chức vụ truyền giáo, Phao-lô đã cầu nguyện cho các hội thánh và cho từng cá nhân. Chúng ta đáng phải theo gương vị sứ đồ này?

 

Lời Chúa loan truyền nhanh chóng trên khắp thế giới, ngay cả khi chúng ta không thấy được những gì Đức Chúa Trời đang hoàn thành. Nhưng một ngày kia trên thiên đàng chúng ta sẽ biết Chúa sử dùng các nguồn đầu tư của chúng ta như thế nào cho công cuộc truyền giáo khắp thế giới. “Trước kia loài người không biết Chúa, Ngài đã rộng lòng tha thứ, nhưng bây giờ Chúa truyền cho mọi người khắp thế giới phải ăn năn thờ phượng Ngài” (Công vụ 17:30). Phúc âm không chỉ đơn giản là một thông điệp, nó là một mạng lệnh của Vua thiên đàng. Các công ty và xí nghiệm rao bán những sản phẩm của họ trên toàn cầu. Vậy tại sao chúng ta không làm điều tương tự với Phúc âm?

 

Thiên sứ liền trấn an: “Đừng sợ, tôi đến báo cho các anh một tin mừng. Tin này sẽ đem lại niềm vui lớn cho mọi người.

Lu-ca 2:10

 

Bài 52

 

Lắng tai nghe điều khôn ngoan. Hướng lòng về sự thông sáng;

Châm Ngôn 2:2

 

Sự khôn ngoan là chủ đề chính của sách Châm ngôn. Nó có nghĩa là sự khéo léo sử dụng các tri thức và kinh nghiệm khi chúng ta vâng lời Đức Chúa Trời, hầu cho Ngài có thể xây dựng nhân cách của chúng ta và ban cho chúng ta sự thành công. Sự thành công ở đây không có nghĩa là giàu có về vật chất, nhưng có nghĩa là sự phong phú trong đời sống chúng ta gia tăng để có thể tài bồi, làm giàu cho người khác. Có năm yếu tố liên quan khi chúng ta nắm giữ những phước hạnh này:

 

Mục đích. Một số người đọc Kinh Thánh hàng ngày chỉ là thói quen đọc sách hoặc để làm êm dịu lương tâm của họ, nhưng không có cách tiếp cận nào trong hai cách này là phù hợp. Sự tập chú của chúng ta phải là làm vui lòng Đức Chúa Trời, học biết nhiều hơn về Ngài, tấn tới trong ân điển để có thể phục vụ Ngài. Chúng ta muốn xây dựng một mối liên hệ mật thiết càng hơn với Chúa xuyên qua Lời Ngài. “Vì lời ấy là sự sống cho người nào tìm được nó. Và sự khỏe mạnh cho toàn thân thể của họ” (Châm ngôn 4:22). Kinh Thánh phải được đọc như đọc một lá thư tình yêu, không phải như những quyển sách khác. “Hãy ham thích sữa thiêng liêng của Đạo, như trẻ con mới đẻ vậy, hầu cho anh em nhờ đó lớn lên mà được rỗi linh hồn” (1 Phi-e-rơ 2:2)

 

Sự chú ý. “Hỡi các con, hãy nghe lời khuyên dạy của một người cha,
Khá chú ý vào, hầu cho biết sự thông sáng” (Châm ngôn 4:1). Bất luận chúng ta đang ở trong tư thế nào, đứng hay đi, nằm hay ngồi, chúng ta vẫn phải tập chú vào Lời của Chúa, sẵn sàng   học tập và vâng phục Lời ấy. “Vậy, hãy coi chừng về cách các ngươi nghe” (Lu-ca 8:18). Bất luận chúng ta đọc Kinh Thánh một mình hay chung trong hội thánh, chúng ta phải tập chú vào Lời Chúa đang nói với mình. Mắt và tai thuộc linh của chúng ta phải mở ra (Ê-phê-sô 1:17-18; 2 Ti-mô-thê 4:4) để thấy và nghe các lẽ thật. Thói quen đọc và nghe Lời Chúa mỗi ngày sẽ giúp chúng ta nhớ các sứ điệp mà Chúa dành cho chúng ta. Kẻ thù sẽ làm tất cả mọi cách để kéo chúng ta ra xa khỏi Lời Chúa. Cơ đốc nhân phải chống cự Satan và tập chú vào Đức Chúa Trời và Lời Ngài.

 

Suy ngẫm. Suy ngẫm là một tiến trình tiêu hóa của con người bên trong với những gì chúng ta lĩnh hội từ bên ngoài. Nó làm cho lẽ thật trở thành một phần của bản thể chúng ta. Chúng ta phải mời Đức Thánh Linh là Thần Lẽ thật hướng dẫn chúng ta vào mọi lẽ thật và không xem Kinh Thánh giống như các sách vở khác (1 Tê-sa-lô-ni-ca 2:13). Những cuốn sách khác có thể làm giàu cho tâm trí con người, nhưng Kinh Thánh nuôi dưỡng và làm mạnh mẽ con người bề trong của chúng ta (Ma-thi-ơ 4:4; Giê-rê-mi 15:16). Suy ngẫm cũng có nghĩa là suy nghĩ thấu đáo về phần Kinh Thánh đang đọc, liên hệ nó với những phần khác và áp dụng điều đang đọc vào chính đời sống của chúng ta. Tôi vui hưởng các phần Kinh Thánh tra cứu chéo trong các bản dịch, và tham khảo cách giải thích của từng bản dịch. Bởi vì Lời Chúa là thức ăn thiêng liêng, chúng ta phải cân bằng trong chế độ ăn uống và không nán lại chỉ trong những sách và đoạn Kinh văn chúng ta yêu thích nhất.

 

Trân quí Kinh Thánh. Khi được chúc phước từ Lời Chúa, chúng ta phải dâng tấm lòng lên cho Chúa và thờ phượng Ngài. “Khi tôi học các đoán ngữ công bình của Chúa, thì tôi sẽ lấy lòng ngay thẳng mà ngợi khen Chúa” (Thi thiên 119:7). Đọc Kinh Thánh và thờ phượng Chúa phải song hành với nhau (Cô-lô-se 3:16-17), và khi được đổ đầy với Lời Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ trưởng thành trong sự thờ phượng Chúa. Chúng ta không thờ phượng quyển Kinh Thánh, nhưng thờ phượng Đấng ban cho chúng ta tài sản vô giá này.

 

Sự áp dụng. “Hãy làm theo lời, chớ lấy nghe làm đủ mà lừa dối mình” (Gia-cơ 1:22). Kinh Thánh không chỉ vận hành trong đời sống mà còn giúp chúng ta lớn lên trong sự vâng lời. Có thể ngồi trước bàn ăn tối và chiêm ngưỡng các món ăn với sự thán phục, nhưng điều này sẽ không ích gì nếu chúng ta không ăn và tiêu hóa các thực phẩm đó. Đọc công thức cách nấu ăn thì không đủ, chúng ta phải nấu, ăn, nhai, nuốt và tiêu hóa các món ăn. Điều này có nghĩa là chúng ta phải đọc Kinh Thánh, suy ngẫm và vâng lời, đáp ứng với những gì Đức Chúa Trời phán dạy chúng ta.

 

Xin Cha lấy lẽ thật khiến họ nên thánh; lời Cha tức là lẽ thật.

Giăng 17:17

 

 

Bài 53

Phàm trong các việc làm của con, khá nhận biết Ngài,
Thì Ngài sẽ chỉ dẫn các nẻo của con.

Châm ngôn 3:6

 

Châm Ngôn 3:5-6 là những câu Kinh Thánh quen thuộc với hầu hết nhiều người trong chúng ta. Nếu muốn làm đẹp lòng Đức Chúa Trời, chúng ta phải bước đi trong ý muốn Ngài. Sau ba năm tiếp nhận Chúa, tôi được Ngài soi sáng trong Thi thiên 16:11, “Chúa sẽ chỉ cho tôi biết con đường sự sống;
Trước mặt Chúa có trọn sự khoái lạc. Tại bên hữu Chúa có điều vui sướng vô cùng.” Đời sống Cơ đốc là một cuộc hành trình, không phải là một nơi để đỗ xe. Chúng ta phải đáp ứng một số điều kiện nhất định nếu chúng ta muốn ở trên con đường của Chúa và không lạc bước lang thang.

 

Chúng ta phải hết lòng với Chúa. Đây là cuộc hành trình đức tin – đi theo một Đấng hướng dẫn duy nhất. Chúng ta không thể đồng thời phục vụ hai ông chủ. Một người phân tâm sẽ không nhận lãnh được gì từ nơi Chúa (Gia-cơ 1:6-8). Hãy nhớ lời này, “Các ngươi sẽ tìm ta, và gặp được khi các ngươi tìm kiếm ta hết lòng” (Giê-rê-mi 29:13). Một cô dâu tương lai sẽ cảm thấy thế nào nếu vị hôn phu của cô ấy nói với cô ấy, “tôi hứa sẽ chung thủy với em ít nhất là tám mươi phần trăm”. Làm thế nào để bạn trả tiền cho một bữa ăn tối nếu người phục vụ nói, “nước uống của chúng tôi cung cấp cho quí vị tinh khiết 90 phần trăm?” Sự cống hiến hoàn toàn cho Chúa Giê-su không phải là một lựa chọn bao nhiêu phần trăm, nó là một sự tuyệt đối một trăm phần trăm. Chúng ta cần phải yêu Chúa với hết cả tấm lòng (Ma-thi-ơ 22:37). Khi Chúa Cứu thế kêu gọi Phi-e-rơ, Gia-cơ và Giăng, họ đã từ bỏ hết mọi sự mà đi theo Ngài (Lu-ca 5:11).

 

Chúng ta phải tin cậy Chúa hoàn toàn. Đức tin vào Chúa hàm ý rằng không có mưu tính riêng. Đó là bước đi với lòng tin chắc vào những lời hứa của Đức Chúa Trời (và Chúa sẽ làm những gì Ngài hứa). Một số tín nhân phó thác những “vấn đề lớn” vào tay Chúa, còn tự mình thì giải quyết những “vấn đề nhỏ”. Không bao lâu sau đó họ khám phá rằng những việc nhỏ sẽ trở thành những việc lớn. Ý muốn của Đức Chúa Trời dành cho chúng ta luôn luôn bày tỏ tình yêu của Ngài. “Mưu của Đức Giê-hô-va được vững lập đời đời. Ý tưởng của lòng Ngài còn đời nầy sang đời kia” (Thi thiên 33:11). Nếu chúng ta vâng lời, điều này sẽ đến: “Đức Giê-hô-va định liệu các bước của người công bình. Và Ngài thích đường lối người” (Thi. 37:23). Nếu tín nhân không vâng lời, sẽ bị Đức Chúa Trời thi hành kỷ luật trong tình yêu (Hê-bơ-rơ 12:3-11).

 

Chúng ta không được tin cậy chính mình. “Con có thấy người nào khôn ngoan theo mắt nó chăng? Còn có sự trông cậy cho kẻ ngu muội hơn là cho nó” (Châm ngôn 26:12). “Kẻ nào tin cậy nơi lòng mình là kẻ ngu muội; Còn ai ăn ở cách khôn ngoan sẽ được cứu rỗi” (Châm. 28:26). Điều này không có nghĩa là chúng ta phải loại bỏ các hiểu biết và kinh nghiệm của riêng mình, nhưng đúng hơn là chúng ta không được lệ thuộc vào những điều đó. “Lòng người ta là dối trá hơn mọi vật, và rất là xấu xa: ai có thể biết được?” (Giê-rê-mi 17:9). Các hoàn cảnh hay kinh nghiệm có thể là bài học tốt nhưng chúng không bao giờ là khuôn mẫu điển hình tuyệt đối để tín nhân áp dụng. Và Cơ đốc nhân cần sự khôn ngoan từ Đức Chúa Trời ban cho để biết cách đáp ứng trong mỗi tình huống cụ thể (Gia-cơ 1:5).

 

Chúng ta phải tìm kiếm sự vinh hiển về cho duy nhất Đức Chúa Trời. “Phàm trong các việc làm của con, khá nhận biết Ngài. Thì Ngài sẽ chỉ dẫn các nẻo của con” (Châm. 3:6). Điều này có nghĩa mục đích đời sống chúng ta là làm vinh hiển Chúa, chứ không mưu cầu các lợi ích hay danh tiếng của chúng ta. “Vậy, anh em hoặc ăn, hoặc uống, hay là làm sự chi khác, hãy vì sự vinh hiển Đức Chúa Trời mà làm” (1 Cô-rin-tô 10:31). Nếu tin cậy và vâng lời Đức Chúa Trời, Ngài sẽ không bao giờ đưa chúng ta đến một chỗ bế tắc mà ân điển Ngài không thể cứu. Tín nhân phải tự hỏi là những động cơ sâu xa của mình là để đẹp lòng Chúa hay để vinh danh cá nhân? Khi tra cứu tấm lòng sẽ đem chúng ta đến với Lời Chúa và sự cầu nguyện. Khi ở trong ý muốn Chúa, chúng ta có thể cảm tạ Ngài về mọi điều (1 Tê-sa-lô-ni-ca 5:18) bất luận các tình huống xảy ra ngoài mong đợi.

 

Cơ đốc nhân có thể suy nghĩ, cầu nguyện, đọc Lời Chúa, nhờ người khác tư vấn tìm kiếm thêm các thông tin trước khi quyết định hay lựa chọn các vấn đề quan trọng. Nhưng hãy nhớ rằng, “Lòng người toan định đường lối mình; Song Đức Giê-hô-va chỉ dẫn các bước của người” (Châm. 16:9). Tấm lòng chúng ta phải mở ra với Chúa và sẵn sàng thay đổi khi Ngài hướng dẫn.

 

Hỡi Đức Giê-hô-va, tôi biết đường của loài người chẳng do nơi họ, người ta đi, chẳng có quyền dẫn đưa bước của mình.

Giê-rê-mi 10:23

 

 

 

 

Bài 54

 

Sự khôn ngoan là điều cần nhứt; vậy, khá cầu lấy sự khôn ngoan;
Hãy dùng hết của con đã được mà mua sự thông sáng.

Châm ngôn 4:7

 

Từ “cần nhứt” có nguồn gốc từ tiếng Latin “primus” có nghĩa là đầu tiên. Sự khôn ngoan là điều đầu tiên, điều quan trọng nhất, điều tối thượng nhất. Tại sao? Bởi vì nó đụng chạm đến mọi lĩnh vực của đời sống. Trong sách Châm ngôn, Sa-lô-môn  đã chỉ ra rằng sự khôn ngoan cần trong gia đình, nghề nghiệp, hôn nhân, nuôi dạy con cái, quan hệ với hàng xóm, kiếm tiền, tiêu tiền và trong cách chúng ta bước đi với Đức Chúa Trời. Khôn ngoan gắn liền với một tâm trí biết phán đoán những điều gì đem đến sự khích lệ cho tấm lòng và ý chí. Những điều nào làm cho tinh thần và cơ thể mạnh mẽ, khi không đủ can đảm để thực hiện công việc hoặc chiến đấu trong một trận chiến? Những điều tốt đẹp như kiến thức, sự huấn luyện, kinh nghiệm, cơ hội cần phải được sử dụng cách thích hợp khi chúng ta có sự khôn ngoan. “Kính sợ Đức Giê-hô-va, ấy là khởi đầu sự khôn ngoan; Sự nhìn biết Đấng Thánh, đó là sự thông sáng” (Châm ngôn 9:10).

 

Sự khôn ngoan là điều cần nhất/tối thượng nhất vì nó biến đổi việc học tập thành nếp sống. Những ích lợi của một nền giáo dục tốt, hay những điều học được từ Kinh Thánh cần phải biết cách áp dụng phù hợp vào đời sống. Thật không có gì để tự hào khi có tiếng tăm về “sự thông minh vượt trỗi” nhưng liên tục tạo ra một mớ hỗn độn trong cuộc sống. Tôi có một quyển sách trong thư viện tựa đề “Tại sao người thông minh làm những chuyện ngu ngốc?” Tại sao? Một trong những lý do cho điều này là họ thiếu sự khôn ngoan! Cơ đốc nhân, những môn đồ Đấng Christ cũng được gọi là người học việc. Người học việc phải lắng nghe người hướng dẫn, quan sát cách người hướng dẫn làm việc và rồi thực hành lại dưới sự theo dõi của người hướng dẫn. Chúng ta có thể theo dõi các vận động viên bơi lội Olympic, đọc các sách về huấn luyện bơi lội, lắng nghe các bài huấn luyện về bơi. Nhưng cuối cùng chúng ta phải nhảy xuống hồ và bơi. Nhiều Cơ đốc nhân rất giỏi về việc lắng nghe các sứ điệp Kinh Thánh, giỏi trong việc đọc Kinh Thánh, nhưng lại rất yếu khi phải vâng lời hay đáp ứng với những gì Kinh Thánh dạy. Những môn đồ Đấng Christ đúng nghĩa tin cậy Đức Thánh Linh ban cho sự khôn ngoan để áp dụng Kinh Thánh phù hợp vào đời sống. Họ không chỉ lắng nghe và đọc, họ thực hành.

 

Sự khôn ngoan là tối cần thiết bởi vì nó biến cuộc sống trở nên một tiến trình học tập. Cuộc sống trở nên một trường học chứ không chỉ là một chuỗi các sự kiện. Vì vậy sự khôn ngoan thiên thượng biến các sự kiện trong đời sống thành kinh nghiệm, và kinh nghiệm hình thành nên nhân cách. Có nhiều tín nhân không học được gì từ những khổ đau, thất bại, niềm vui hay sự thành công trong cuộc sống. Và đi đến cuối cuộc đời họ khám phá rằng mình đã không thực sự sống đúng nghĩa theo Lời Chúa. Aldous Huxley, một tiểu thuyết gia người Anh đã nói, “Kinh nghiệm không phải là những gì xảy ra cho một người. Kinh nghiệm là những gì người đó làm với những gì xảy ra với anh ta.” Các sự kiện là những gì bạn viết xuống trong cuộc hành trình trên đất. Còn kinh nghiệm là những gì Chúa viết trong tấm lòng của bạn từ kết quả của các sự kiện. Ralph Waldo Emerson đã viết, “Đời sống là một chuỗi những bài học mà người đang sống cần phải hiểu.”

 

Sự khôn ngoan là điều cần nhất vì nó mở ra lối đi bước vào đời sống tin kính. Sự khôn ngoan là một trong những thuộc tính của Chúa. “Ôi! sâu nhiệm thay là sự giàu có, khôn ngoan và thông biết của Đức Chúa Trời! Sự phán xét của Ngài nào ai thấu được, đường nẻo của Ngài nào ai hiểu được!” (Rô-ma 11:33). Đức Thánh Linh là Thần của sự khôn ngoan (Ê-sai 11:2) và Chúa Giê-su Christ là sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời (1 Cô-rin-tô 1:24; Cô-lô-se 2:3). Những người thông minh có thể thu được tiền bạc, quyền lực, uy tín và Chúa có thể sử dụng những điều này. Nhưng những người khôn ngoan vượt xa họ và trưởng thành trong sự giàu có thuộc linh để dâng vinh hiển về Đức Chúa Trời. Thế giới ngày hôm nay có nhiều tri thức khôn ngoan, tuy nhiên “sự khôn ngoan đời nầy trước mặt Đức Chúa Trời là sự dại dột” (1 Cô-rin-tô 3:19). Đời sống trên đất vốn ngắn ngủi và chúng ta phải tận dụng nó để học biết sự khôn ngoan thiên thượng.

 

Cầu xin Chúa dạy chúng tôi biết đếm các ngày chúng tôi,
Hầu cho chúng tôi được lòng khôn ngoan.

Thi thiên 90:12

 

 

Bài 55

 

Khá tuân thủ các mạng lịnh ta, thì con sẽ được sống; Và gìn giữ lời khuyên dạy ta như ngươi của mắt con” (Châm ngôn 7:2)

 

Có nhiều lý do để chúng ta vâng theo các mạng lệnh của Chúa, nhưng điều quan trọng chính là chúng ta cần làm vui lòng và vinh hiển danh Ngài. “Đấng đã sai ta đến vẫn ở cùng ta, chẳng để ta ở một mình, vì ta hằng làm sự đẹp lòng Ngài” (Giăng 8:29). Thật tuyệt vời khi một ngôi nhà có những đứa trẻ biết vâng lời vì chúng yêu thương và muốn làm vui lòng cha mẹ mình. Nếu chúng ta muốn nhận lãnh những ơn phước tốt nhất từ Chúa cho đời sống mình, chúng ta phải dành hết tấm lòng cho Ngài trong việc học lời Ngài và vâng theo những lời đó.

 

Sự vâng lời duy trì cuộc sống. Mỗi chúng ta đang xây dựng một cuộc sống, và mỗi công cuộc xây dựng cần có một nền tảng vững chắc và trường tồn. Theo như Chúa Giê-su dạy, sự vâng lời là nền tảng bền vững duy nhất (Ma-thi-ơ 7:24-27). Những Cơ Đốc Nhân nửa vời sẽ tan vỡ khi những cơn bão trong cuộc đời bắt đầu kéo đến. Còn những Cơ Đốc Nhân hết lòng với Chúa, biết vâng lời sẽ vượt qua những giông bão đó. Chúa không hứa với chúng ta về một cuộc sống dễ dàng, nhưng Ngài hứa với chúng về sự hiện diện của Ngài trong bất cứ hoàn cảnh nào có thể xảy đến. Như trong Nê-hê-mi 1:5, Chúa giữ giao ước và lòng thương xót với những ai yêu Ngài và vâng theo các điều răn của Ngài.

 

Sự vâng lời làm cho Kinh Thánh trở nên quí báu hơn với chúng ta. Kinh Thánh trở nên “con ngươi của mắt chúng ta”. Điều này nói đến con ngươi của mắt, và tượng trưng cho bất cứ điều gì quí giá, không thể thay thế được (Phục Truyền Luật Lệ Ký 32:10; Xa-cha-ri 2:8). Những Cơ Đốc Nhân không vâng lời sẽ không thỏa lòng khi đọc và suy ngẫm Kinh Thánh bởi vì Đức Thánh Linh không thể dẫn dắt họ. Tuy nhiên những Cơ Đốc Nhân biết vâng lời tìm thấy niềm vui tuyệt vời trong Lời Chúa (Thi thiên 1:1-2). Một trong những chìa khóa để mở ra kho tàng kiến thức Kinh Thánh là sự sẵn lòng vâng lời những điều Chúa dạy dỗ chúng ta (Giăng 7:17). Những người ngoại hay những Cơ Đốc Nhân không vâng lời có thể đọc hiểu nội dung Kinh Thánh nhưng họ không thể học được chân lý sâu xa mà Chúa muốn họ nhận biết.

 

Sự vâng lời làm phong phú và thỏa lòng với đời sống. Có một sự khác biệt lớn giữa việc chăm chú kiếm tiền để sống và phát triển nghề nghiệp, lối sống để cảm nhận được hạnh phúc. Chúa muốn chúng ta đạt được cả hai điều này. Ngài có một kế hoạch tốt đẹp cho cuộc sống mỗi chúng ta (Ê-phê-sô 2:10) và Ngài sẽ thực thi kế hoạch đó nếu chúng ta biết vâng lời (Rô-ma 12:1-2). Giô-suê là một điển hình cho lẽ thật này. Ông ta khởi đầu là một người lính chiến (Xuất Ê-díp-tô-ký 17:8-16) và rồi trở thành một người trợ giúp đắc lực của Môi-se (Xuất Ê-díp-tô-ký 24:13; Dân số ký 11:28). Ông ta là một trong những người do thám tìm ra xứ Ca-na-an (Dân số ký 13). Ông đã cùng Ca-lép khích lệ dân sự tin cậy Chúa và tiến vào đất hứa. Sau đó ông đã được sự tín nhiệm của Môi-se, dẫn dắt cả dân tộc vào xứ Ca-na-an và thống trị vùng đất này (Phục Truyền Luật Lệ Ký 31:1-8). Mỗi chúng ta hãy đọc Giô-suê 1:1-9 và vâng theo những nguyên tắc thần thượng đó để lãnh đạo cách hiệu quả.

 

Sự vâng lời giúp chúng ta đến gần với Chúa và nhận lãnh phần thưởng sự sống. Chúng ta sẽ hiệp nhất với Đấng Christ như là nhánh nho với gốc nho (Giăng 15:1-8), như các chi thể với một thân (1 Cô-rinh-tô 12). Sự hiệp một này là nền tảng cho mối thông công. Bí mật của sự phục vụ có kết quả nằm trong mối thông công và sự nương náu trong Chúa. (Giăng 15:1-17). Trong cách nhìn của thế gian, một Cơ Đốc Nhân vâng lời là một kẻ thất bại. Sự thật thì hoàn toàn ngược lại. Cơ Đốc Nhân biết vâng lời sẽ tận hưởng những ơn phước từ Chúa mà thế gian không thể thấy hay kinh nghiệm được. “Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Nếu ai yêu mến ta, thì vâng giữ lời ta, Cha ta sẽ thương yêu người, chúng ta đều đến cùng người và ở trong người” (Giăng 14:23). Sứ đồ Giăng đã viết rằng “Nhưng ai giữ lời phán Ngài, thì lòng kính mến Đức Chúa Trời thật là trọn vẹn trong người ấy. Bởi đó, chúng ta biết mình ở trong Ngài” (1 Giăng 2:5). Mặc cho bất cứ khó khăn hay thử thách nào xảy đến, những Cơ Đốc Nhân biết vâng lời sẽ vui hưởng sự bình an. Họ nhận biết rằng những khổ đau hiện tại sẽ trở thành vinh quang trong tương lai (1 Phi-e-rơ 4:12-19). Nếu chúng ta “lấy lòng tốt làm theo ý muốn Đức Chúa Trời” (Ê-phê-sô 6:6) thì điều này được kể là xứng đáng khi chúng ta gặp Chúa Giê-su.

 

“Chỉ hãy vững lòng bền chí, và cẩn thận làm theo hết thảy luật-pháp mà Môi-se, tôi tớ ta, đã truyền cho ngươi; chớ xây qua bên hữu hoặc bên tả, để hễ ngươi đi đâu cũng đều được thạnh vượng.” (Giô-suê 1:7)

 

 

 

Bài 56

Sự khôn-ngoan xây dựng nhà mình; Tạc thành bảy cây trụ của người. (Châm Ngôn 9:1)

Trong lời Chúa, nhiều lần Ngài ban cho con người hai quyền lựa chọn và những chọn lựa đó luôn đặt trước mặt chúng ta mỗi ngày. Môi-se đã viết: “ta đã đặt trước mặt ngươi sự sống và sự chết, sự phước-lành và sự rủa-sả” (Phục-truyền Luật-lệ Ký 30:19). Chúa Giê-su mô tả một con đường rộng rãi, dễ dàng dẫn đến sự hư mất và một con đường hẹp dẫn đến sự sống (Ma-thi-ơ 7:13-14). Trong Châm Ngôn đoạn 9, Vua Sa-lô-môn giới thiệu về hai người nữ, một người tên là Khôn Ngoan và một người tên là Điên Cuồng. Ông khích lệ chúng ta đón nhận lời mời của Khôn Ngoan, và từ chối bước vào ngôi nhà của Điên Cuồng chính là con đường dẫn đến sự chết và hỏa ngục. Ở đây có một bức tranh tương phản giữa hai người nữ này!

Khôn Ngoan xây dựng còn Điên Cuồng thì hủy hoại. Khôn Ngoan sống trong một căn nhà xinh đẹp và cô ấy mời chúng ta vào bữa yến tiệc thịnh soạn, nhưng Điên Cuồng mời chúng ta vào bữa ăn chỉ có bánh ăn vụng và nước ăn-cắp (Châm Ngôn 9:17) trong một căn nhà là nơi sẽ dẫn đến chốn sâu của Âm-phủ (Châm Ngôn 9:18). Điên Cuồng chẳng có gì để ban cho nhưng lại thỏa mãn với tội lỗi trong phút chốc, rồi sau đó dẫn đến sự phán xét đời đời. Tất cả chúng ta là những người thợ xây. Chúng ta sở hữu bản thiết kế chi tiết và lựa chọn nguyên vật liệu để xây dựng cuộc sống của mình bằng Khôn Ngoan hay Điên Cuồng. Phao-lô viết cho Ti-mô-thê, “Vì sự tập-tành thân thể ích-lợi chẳng bao-lăm, còn như sự tin-kính là ích cho mọi việc, vì có lời hứa về đời nầy và về đời sau nữa.” (1 Ti-mô-thê 4:8). Chúa Giê-su đã phán hứa: “Nhưng trước hết, hãy tìm-kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công-bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa.” (Ma-thi-ơ 6:33). Tôi thật biết ơn Chúa vì những điều mà Ngài đã làm để “xây dựng tôi” và giúp tôi bảo toàn bản vẽ thiết kế cùng nguyên vật liệu từ Khôn Ngoan. Tiến độ xây dựng vẫn chưa hoàn tất và mỗi ngày tôi luôn cầu nguyện xin Chúa giúp tôi đi đến một kết thúc tốt đẹp.

Khôn Ngoan nói ra sự thật còn Điên Cuồng buông lời dối trá. Ánh sáng chân lý chiếu rọi căn nhà của Khôn Ngoan. Trái lại, sương mù và bóng tối phủ lên căn nhà tồi tàn của Điên Cuồng. Dối trá biến ta trở thành nô lệ của nó. Walter Scott viết: “Khi chúng ta bắt đầu lừa dối là lúc chúng ta làm cho tình huống trở nên rối ren.” Trong khi đó, lẽ thật sẽ khiến chúng ta được tự do (Giăng 8:32). Sinh viên Cơ Đốc khi học trong các trường thế tục cần phải nhận thức được rằng cái gọi là “sự thật khoa học” hay “sự thật lịch sử” đôi khi chỉ là trò lừa gạt khi đối chiếu với chuẩn mực của Kinh Thánh. Mục sư Robert Murray M’Cheyne, người Scotland, nhắn gửi đến sinh viên rằng: “Hãy cảnh giác với các môn học kinh điển… Đúng, chúng ta nên biết nó, nhưng hãy như một nhà hóa học khám phá phẩm chất của chúng – để nghiên cứu tính chất của nó chứ không phải để tiêm nó vào cơ thể.” Nhiều năm trước, một nhà truyền giáo tin kính Chúa nói với tôi: “Hãy học tất cả những gì bạn có thể học nhưng phải đặt chúng trong lăng kính của Đấng Christ để Ngài hướng dẫn bạn biết cách sử dụng chúng như thế nào.”

Khôn Ngoan nuôi dưỡng còn Điên Cuồng bỏ đói và đầu độc chúng ta. Khôn Ngoan dọn ra bàn ăn nào là thịt, rượu, và bánh, còn Điên Cuồng chỉ có bánh ăn vụng và nước ăn cắp. Hãy khởi đầu với Kinh thánh và các bài thánh ca, trong đó có rất nhiều sự khôn ngoan dành cho chúng ta từ các thánh đồ tin kính và chúng ta nên tận dụng nó. Tôi đặc biệt đánh giá cao tiểu sử và tự truyện của những người nam và nữ Cơ đốc xuất sắc. Điên Cuồng nói rằng nước ăn-cắp lấy làm ngọt-ngào, bánh ăn vụng là ngon thay (Châm Ngôn 9:17), nhưng người phụ nữ này không cho bạn biết rằng cuối cùng chúng sẽ trở thành độc dược (Châm Ngôn 9:18). Bác sĩ của tôi cho biết: “Bạn ăn loại thực phẩm nào thì bạn cũng trở nên giống như chúng,” và chúng ta cũng là hiện thân của những điều chúng ta đọc và suy nghĩ. “Vì hắn tưởng trong lòng thể nào, thì hắn quả thể ấy” (Châm Ngôn 23:7).

Hãy lựa chọn cho đúng đắn. Hãy ngồi vào bàn ăn của Khôn Ngoan, mở Kinh Thánh ra đọc và suy ngẫm. Kinh Thánh luôn luôn là chọn lựa đầu tiên. Nhưng bên cạnh đó còn có những quyển sách hữu ích khác được các Cơ Đốc nhân có ân tứ viết ra. Hãy mở ra một trong những quyển sách đó và nuôi dưỡng tâm trí cùng tấm lòng bạn trong lẽ thật mà Chúa đã bày tỏ qua tác giả. Ngài thường dạy tôi những điều tôi cần nhận biết khi tôi nghiên cứu qua những trang sách giải thích về Đức Chúa Giê-su và mở rộng ra các lẽ thật thuộc linh. Tôi tin rằng điều này cũng sẽ xảy ra với bạn.

 

Đức Giê-hô-va là phần của tôi;

Tôi đã nói sẽ gìn-giữ lời Chúa.

(Thi Thiên 119:57)

 

 

Bài 57

 

Sự ghen ghét xui điều cãi lộn;
Song lòng thương yêu lấp hết các tội phạm.

Châm ngôn 10:12

 

Tình yêu thương là một ý niệm rất tuyệt vời. Tuy nhiên có một số điều mà tình yêu thương không thể làm. Nó không thể tha thứ hay bỏ qua tội lỗi, bởi vì tội lỗi đối nghịch với một Đức Chúa Trời yêu thương thánh khiết.  Nhưng tình yêu thương (thể hiện qua sự hy sinh của Chiên Con) có thể thanh tẩy tội lỗi, bởi vì, “huyết của Chúa Giê-su, Con Đức Chúa Trời tẩy sạch mọi tội chúng ta” (1 Giăng 1:7). Tình yêu thương có thể bao phủ tội lỗi, và chúng ta không nên thày lay chuyện người khác và đem điều sỉ nhục đến cho danh Chúa. Chúng ta hãy là những người chiến thắng.

 

 

Chúng ta phải lấy điều thiện thắng điều ác. “Đừng để điều ác thắng mình, nhưng hãy lấy điều thiện thắng điều ác” (Rô-ma 12:21). Sem và Gia-phết đã áp dụng điều này khi họ che phủ thân thể của Nô-ê đang khi cha của họ say rượu và ở trong tình trạng lõa thể. Còn Cham thì nhìn thấy sự lõa thể của cha và đi thuật lại (buôn chuyện) câu chuyện của cha với các anh em khác (Sáng thế ký 9). Anh ta đã không làm điều gì để giữ gìn sự tôn trọng dành cho cha mình. “Sự giận dữ của kẻ ngu muội liền lộ ra tức thì; Còn người khôn khéo che lấp sỉ nhục mình” (Châm ngôn 12:16). Luật pháp của Môi-se lúc bấy giờ chưa có, nhưng chắc chắn là có một điều gì đó trong tấm lòng của Cham có thể thúc đẩy anh ta làm điều đúng. Tuy nhiên Cham đã làm điều ngược lại. Khi thuật lại hành động xấu hổ của Nô-ê với các anh em mình, anh ta than khóc hay giễu cợt? Edmund Burke đã viết, “tất cả những gì cần thiết để điều ác ngự trị là những người tốt không làm gì cả,” và Gia-cơ đã viết, “Cho nên, kẻ biết làm điều lành mà chẳng làm, thì phạm tội” (Gia-cơ 4:17).

 

Chúng ta phải chiến thắng sự dối trá bằng lẽ thật. Ví dụ điển hình để minh họa cho điều này là Giô-sép đã đối xử với các anh em của mình bằng sự nhân hậu, tha thứ mặc dù họ đã từng dùng thủ đoạn để tiêu diệt Giô-sép (Sáng thế ký 37:12-35). Đức Chúa Trời của Giô-sép đã đưa ông lên chiếc ghế quyền lực thứ hai tại Ai-cập sau một chặng đường dài gian truân. Trong cơn đói kém các anh em của Giô-sép đã đến Ai-cập tìm kiếm nguồn lương thực. Họ không thể ngờ rằng Giô-sép, người mà họ đã vớt từ dưới hố lên bán cho thương lái làm nô lệ lại trở thành người thi ân cho họ. Giô-sép đã đối xử cách hào hiệp và rộng lượng với những người đã phản bội mình bằng một tình yêu vô đối. Trong cái nhìn của Giô-sép, ông thấy bàn tay của Đức Chúa Trời dùng hoạn nạn để chuyên chở phước hạnh đến cho ông, “Các anh toan hại tôi, nhưng Đức Chúa Trời lại toan làm điều ích cho tôi, hầu cho cứu sự sống cho nhiều người, y như đã xảy đến ngày nay, và giữ gìn sự sống của dân sự đông đảo” (Sáng thế ký 50:20). Giô-sép đã nói ra lẽ thật trong tình yêu (Ê-phê-sô 4:15). Lẽ thật mà không có tình yêu sẽ là sự tàn bạo, còn tình yêu mà không có lẽ thật chỉ là sự giả hình. Giô-sép đã trả một giá cao để trở nên thủ tướng Ai-cập, vì vậy sự giải cứu dành cho các anh em và gia đình của ông là không rẻ chút nào. Anh em của ông đã phải cảm nhận hậu quả đau đớn từ tội lỗi của chính mình trước khi có thể tận hưởng sự tha thứ nơi Giô-sép.

 

Chúng ta phải chiến thắng sự thù hận bằng tình yêu. Một lần nữa hãy nghĩ về Giô-sép, là người bị các anh em mình căm ghét (Sáng thế ký 37:1-11). Nhưng Giô-sép đã không nuôi dưỡng ý tưởng trả đũa họ theo cách thường tình, ông đã làm điều ngược lại. Tôi cũng nhớ đến Đa-vít, là người bị vua Sau-lơ truy sát. Ông có cơ hội để giết chết Sau-lơ nhưng không làm, và còn ngăn cản người khác thực hiện hành động đó. “Kẻ nào lấp giấu tội lỗi tìm cầu điều tình ái”  (Châm ngôn 17:9). Sứ đồ Phi-e-rơ viết, “trong vòng anh em phải có lòng yêu thương sốt sắng; vì sự yêu thương che đậy vô số tội lỗi” (1 Phi-e-rơ 4:8). Khi chúng ta đọc bài ai ca của Đa-vít viết về Sau-lơ, chúng ta thấy tác giả ca ngợi Sau-lơ và không kể tội vị vua gian ác này (2 Sa-mu-ên 1:17-27).

 

Dĩ nhiên, gương mẫu lớn nhất minh họa cho tình yêu thương khỏa lấp tội lỗi là Chúa Giê-su Christ. Hãy suy nghĩ thấu đáo về cách mà Chúa Giê-su muốn “khỏa lấp” tội lỗi của Giu-đa và ban cho ông những cơ hội để thay đổi (Nếu Phi-e-rơ biết kế hoạch của Giu-đa, vị sứ đồ này có thể đã rút kiếm ra!) Sau khi phục sinh, Chúa Giê-su đã gặp riêng Phi-e-rơ và tha thứ tội lỗi của ông (Lu-ca 24:34; 1 Cô-rin-tô 15:5) và sau đó Chúa Cứu thế đã phục hồi chức vụ của ông cách công khai (Giăng 21:15-19). Trong ngày Lễ ngũ tuần, ông đã rao giảng một sứ điệp khiến ba ngàn người tin Chúa.

 

Chúa Giê-su dạy, “Ta ban cho các ngươi một điều răn mới, nghĩa là các ngươi phải yêu nhau; như ta đã yêu các ngươi thể nào, thì các ngươi cũng hãy yêu nhau thể ấy” (Giăng 13:34). Và Phao-lô viết, “Đừng mắc nợ ai chi hết, chỉ mắc nợ về sự yêu thương nhau mà thôi, vì ai yêu kẻ lân cận mình ấy là đã làm trọn luật pháp” (Rô-ma 13:8). Tình yêu thương không chỉ là mạng lệnh lớn nhất, nó còn là sự bao phủ lớn nhất. Chúng ta sẽ đến gần hơn với Đức Chúa Trời khi yêu thương người khác và thực hành sự tha thứ.

 

Nhưng trái của Thánh Linh, ấy là lòng yêu thương,

Ga-la-ti 5:22

 

 

 

 

Bài 58

 

Kẻ làm chứng chân thật giải cứu linh hồn người ta;
Song kẻ nào nói dối gây sự phỉnh gạt.

Thi thiên 14:25

 

Hệ thống tòa công luận của Israel dĩ nhiên là không hoàn hảo, và thông thường các tiên tri phải cảnh báo dân sự không được hối lộ và khai man (Ê-sai 1:23; A-mốt 5:12; Mi-chê 7:3). Sách Châm Ngôn xác nhận những lời chứng gian sẽ bị trừng phạt (19:5, 9; 21:28). Khi chúng ta chuyển ngữ cảnh này ra khỏi phòng xử án đi vào cuộc sống hàng ngày, và tín nhân thành nhân chứng cho Chúa thì điều gì sẽ xảy ra?  Các phân tích sau đây giúp tín nhân đánh giá nghiêm túc công tác làm chứng cho Phúc âm.

 

Một thảm kịch. Sẽ là điều bi thảm khi một người vô tội bị trừng phạt hay bị án tử hình vì một lời khai man, trong khi những chứng nhân thật sự thì không nói gì cả trước tòa xử án. Điều này có thể xảy ra nhiều lần tại tòa án vào một ngày tương lai khi bạn và tôi thất bại trong việc bắt lấy các cơ hội mà Chúa ban cho chúng ta để chia sẻ Phúc âm với người khác. “Im lặng là vàng” đúng trong một số trường hợp. Nhưng im lặng trong những tình huống cần phải lên tiếng là hèn nhát. Chúng ta cần học tập từ các sứ đồ khi họ bị các quan chức của tòa công luận cấm rao giảng Phúc âm. “Phi-e-rơ và Giăng trả lời rằng: Chính các ông hãy suy xét, trước mặt Đức Chúa Trời có nên vâng lời các ông hơn là vâng lời Đức Chúa Trời chăng?  Vì, về phần chúng tôi, không có thể chẳng nói về những điều mình đã thấy và nghe” (Công vụ 4:19-20). Có bao nhiêu người chúng ta biết mà họ không được tái sinh, vì không có ai nói cho họ về con đường cứu rỗi của Chúa Giê-su Christ? Chúng ta sẽ trả giá như thế nào về sự không vâng lời của chính mình trong công tác rao giảng Phúc âm?

 

Một cơ hội. Chúng ta không chỉ làm chứng cho những người đang đi vào sự chết đời đời, nhưng còn tìm kiếm để giải cứu họ ra khỏi xiềng xích. Đây là một mục vụ đòi hỏi sự kiên trì trong tình yêu thương. Chúng ta không phải là những sứ đồ chính thức, nhưng Chúa đã ban cho chúng ta những cơ hội giống như Ngài đã ban cho Phao-lô, “đặng mở mắt họ, hầu cho họ từ tối tăm mà qua sáng láng, từ quyền lực của quỉ Sa-tan mà đến Đức Chúa Trời, và cho họ bởi đức tin nơi ta được sự tha tội, cùng phần gia tài với các thánh đồ” (Công vụ 26:18). Những người hư mất đang bị giam cầm trong bóng tối, trong quyền lực của Satan. Họ bị cột trói trong các thú vui tội lỗi và chìm đắm trong những vũng bùn của thế giới. Họ bị phá sản hoàn toàn đời sống tâm linh. Trong khi bạn và tôi kế thừa sự sống dư dật trong Christ. Họ không cần khởi tố các biện lý hay luật sư. Họ cần các chứng nhân! Những cuộc tranh luận về tôn giáo không có hồi kết, không phải là lời chứng cho Phúc âm. Những người chưa tin có thể tranh biện với chúng ta về thần học, về tổ chức hội thánh … nhưng họ không thể tranh cãi với chúng ta về những gì Đức Chúa Trời đã làm trong cuộc đời của chúng ta. Lời chứng của người được Chúa Giê-su chữa lành là, tôi “biết một điều, là tôi trước đã mù mà bây giờ lại sáng” (Giăng 9:25)

 

Một điều bắt buộc. Yếu tố thiết yếu cho sự làm chứng là lẽ thật. Giống như một chứng nhân trước tòa, tôi phải nói, “sự thật, toàn bộ sự thật, và không có gì khác hơn là sự thật, vì vậy xin Chúa giúp tôi.” Lời hứa của Chúa là, “khi Đức Thánh Linh giáng trên các ngươi, thì các ngươi sẽ nhận lấy quyền phép, và làm chứng về ta tại thành Giê-ru-sa-lem, cả xứ Giu-đê, xứ Sa-ma-ri, cho đến cùng trái đất” (Công vụ 1:8). Đức Thánh Linh là Thần của lẽ thật (Giăng 14:17) và Kinh Thánh là Lời của lẽ thật (Ê-phê-sô 1:13) Nếu bước đi trong lẽ thật (3 Giăng 3-4) Đức Chúa Trời sẽ ban cho chúng ta khả năng để làm chứng cho Chúa Giê-su. Nếp sống tin kính gương mẫu hằng ngày của chúng ta sẽ nói nhiều hơn các lời làm chứng cho người chưa tin. Các chứng nhân chân thật là người đem sự giải cứu tới cho thế giới ngoại bang. Họ công bố lẽ thật trong tình yêu, lắng nghe trong tình yêu và tin cậy Đức Thánh Linh hành động trong lòng người khác. Chúng ta cần những chứng nhân can đảm của Chúa Giê-su Christ.

 

Hãy giải cứu kẻ bị đùa đến sự chết,
Và chớ chối rỗi cho người đi xiêu tó tới chốn hình khổ.
 Nếu con nói: Chúng tôi chẳng biết gì đến.
Thì Đấng mà cân nhắc lòng người ta, há chẳng xem xét điều ấy sao?

 

Châm ngôn 24:11-12

 

 

 

 

Bài 59

Sự kính sợ Đức Giê-hô-va dạy dỗ điều khôn ngoan.
Và sự khiêm nhượng đi trước sự tôn trọng.

Châm ngôn 15:33

 

 

Andrew Murray nói rằng sự khiêm nhường là không suy nghĩ về chính mình. Sự khiêm tốn là ân sủng mà khi chúng ta biết chúng ta có nó, chúng ta đã đánh mất nó. Đức Chúa Trời ghét sự kiêu ngạo (Châm. 6:16-17), và chúng ta cũng phải như thế, đặc biệt là sự kiêu ngạo đó nằm trong chính chúng ta (Châm. 8:13). Để hiểu rõ hơn về chủ đề này, chúng ta có thể nhìn vào bốn nhân cách điển hình trong Kinh Thánh.

 

Vua Sau-lơ – từ tôn trọng đến xấu hổ. Mọi người hầu như cảm phục Sau-lơ trong thời gian đầu ông làm vua tuyển dân. Ngoại hình của Sau-lơ là lý tưởng (1 Sa-mu-ên 9:21), nhưng những năm sau đó niềm tự hào của Sau-lơ trở thành điều sỉ nhục. Những quyết định sai lầm của Sau-lơ khiến cho Đức Chúa Trời từ bỏ ông. Thay vì cầu hỏi Đức Chúa Trời cho những quyết định quan trọng, Sau-lơ đã sử dụng đến ma thuật, cầu đồng bóng – là điều Chúa kết án. Và cuối cùng ông đã chết cách nhục nhã trong trận chiến với kẻ thù (1 Sa-mu-ên 28:3-25; 31:1-6). Lẽ ra Sau-lơ phải học tập khiêm nhường trước mặt Chúa và lắng nghe lời khuyên giải của Sa-mu-ên, nhưng ông đã làm ngược lại.

 

Đa-vít – từ khiêm nhường đến sự tôn trọng. Khi còn là một thanh niên trẻ tuổi, Đa-vít đã đầu phục Đức Chúa Trời, vâng phục cha, các anh em trong gia đình và vua Sau-lơ. Đa-vít nhận được sự tôn trọng qua những chiến công như: chinh phục sư tử, gấu, tiêu diệt kẻ thù khổng lồ Gô-li-át. Khi còn là một binh sĩ trong đạo quân của Sau-lơ, Đa-vít có tài chơi nhạc khí để làm giảm căng thẳng của vua. Khi trở thành sĩ quan trong quân đội, Đa-vít chiến thắng nhiều trận đánh làm cho dân sự ca ngợi ông và uy thế của Sau-lơ bị giảm xuống. Vì lòng ganh tị Sau-lơ tìm cách giết Đa-vít. Trong khoảng mười năm Đa-vít cùng một toán quân nhỏ phải trốn tránh Sau-lơ để bảo tồn mạng sống. Đó cũng là khoảng thời gian Đa-vít kiên nhẫn chờ đợi để trở thành vua chính thức của tuyển dân. Là một con người khiêm nhường (Thi thiên 131) và rồi Đức Chúa Trời đã ban cho Đa-vít sự tôn trọng theo đúng thời điểm của Ngài (Thi. 78:67-72). “Đức Chúa Trời chống cự kẻ kiêu ngạo, mà ban ơn cho kẻ khiêm nhường.  Vậy, hãy hạ mình xuống dưới tay quyền phép của Đức Chúa Trời, hầu cho đến kỳ thuận hiệp Ngài nhắc anh em lên” (1 Phi-e-rơ 5:5-6; Châm. 3:34)

 

Áp-sa-lôm – từ kiêu ngạo đến sỉ nhục. Là một trong những con trai của Đa-vít, Áp-sa-lôm đẹp trai và mang nhiều tham vọng. Con người này không có đức tin nơi Đức Chúa Trời, và anh ta lại tự hào về điều đó! Ngày hôm nay mẫu người như Áp-sa-lôm không thiếu trong các hội đoàn. Những tham vọng ích kỷ, và mưu đồ cá nhân khiến cho Áp-sa-lôm đi đến sự sỉ nhục. Anh ta muốn trở thành vua bằng phương cách bất chính, muốn tấn công chính cha mình để cướp lấy ngai vàng. Đa-vít yêu thương Áp-sa-lôm, nhưng lại không thể kiểm soát hay hướng dẫn con trai mình đi con đường ngay thẳng. Cuối cùng Áp-sa-lôm đã kết thúc đời sống mình trong cái chết đắng cay hổ thẹn (2 Sa-mu-ên 18:10-17).

 

Chúa Giê-su – hạ mình xuống và nhận lấy vinh dự. Có hai từ tóm lược cho sự khiêm nhường của Chúa Cứu thế là: Hy sinh và Phục vụ. “Chính Ngài đã tự bỏ mình đi, lấy hình tôi tớ và trở nên giống như loài người; Ngài đã hiện ra như một người, tự hạ mình xuống, vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên cây thập tự.  Cũng vì đó nên Đức Chúa Trời đã đem Ngài lên rất cao, và ban cho Ngài danh trên hết mọi danh” (Phi-líp 2:7-9). Sự giáng sinh và đời sống của Ngài bày tỏ sự khiêm nhường thiên thượng. Chúa chúng ta phán dạy, “Ai lớn hơn hết trong các ngươi, thì sẽ làm đầy tớ các ngươi.  Kẻ nào tôn mình lên thì sẽ bị hạ xuống, còn kẻ nào hạ mình xuống thì sẽ được tôn lên” (Ma-thi-ơ 23:11-12). Sự hạ mình xuống hay khiêm nhường là “đất” để sản sinh các phẩm chất tốt đẹp của đời sống Cơ đốc. Trong khi sự kiêu ngạo là “đất” ươm mầm cho những điều tội lỗi xấu xa. Hiện nay Chúa Cứu thế đã “ngồi bên hữu Đức Chúa Trời tại các nơi trên trời,  cao hơn hết mọi quyền, mọi phép, mọi thế lực, mọi quân chủ cùng mọi danh vang ra, không những trong đời nầy, mà cũng trong đời hầu đến nữa.  Đức Chúa Trời đã bắt muôn vật phục dưới chân Đấng Christ, và ban cho Đấng Christ làm đầu Hội thánh,” (Ê-phê-sô 1:20-22). Thống Khổ Nhân khiêm nhường phục vụ là Vua của các vua, là Chúa của các Chúa!

 

 

 

 

 

 

 

Bài 60

(Tấm) Lòng vui mừng vốn một phương thuốc hay;

Còn trí nao sờn làm xương cốt khô héo.

Châm Ngôn 17:22

Chúng ta hãy đặt một số câu hỏi về câu Kinh Thánh trên để khám phá những bài học mà câu Kinh Thánh này đem lại.

 

Tại sao lại là tấm lòng? Trọng tâm của sách Châm Ngôn đó là về sự khôn ngoan; trong bản văn tiếng Hê-bơ-rơ, từ khôn ngoan được lặp lại gần một trăm lần. Tuy nhiên từ tấm lòng cũng xuất hiện gần một trăm lần! Đa số mọi người liên kết sự khôn ngoan với việc giáo dục tâm trí, tuy nhiên Kinh Thánh liên kết sự khôn ngoan với cả tâm trí lẫn tấm lòng. Giáo dục là sự học hỏi, tuy nhiên khôn ngoan là việc áp dụng những điều học được và gặt hái thành công. “Người có lòng khôn ngoan, nhận tiếp những điều răn” (Châm Ngôn 10:8); “Ai có lòng khôn ngoan được gọi là thông sáng” (Châm Ngôn 16:21). Học về lẽ thật vẫn chưa đủ; chúng ta cũng phải yêu mến lẽ thật và sự khôn ngoan. Biết về Kinh Thánh không có nghĩa là tiếp nhận những lẽ thật sâu sắc, là những điều bày tỏ sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời. “Có phải Đức Chúa Trời đã làm cho sự khôn ngoan của thế gian ra rồ dại không?” (1 Cô-rinh-tô 1:20). Các thê thiếp của Sa-lô-môn đã khiến tấm lòng của ông quay lưng lại với Chúa (1 Các vua 11:3-4), và ông quên đi điều mình đã ghi rằng: “Khá cẩn thận giữ tấm lòng của con hơn hết, Vì các nguồn sự sống do nơi nó mà ra” (Châm Ngôn 4:23). Sự sống của chúng ta tuôn ra từ sự phong phú trong tấm lòng (Ma-thi-ơ 12:34), và nếu chúng ta không cẩn thận gìn giữ tấm lòng, chúng ta sẽ không học được sự khôn ngoan của Chúa.

 

Tại sao lại là tấm lòng vui mừng? Chúng ta sẽ biết rất nhiều về tính cách và tham vọng của một người khi biết được điều gì khiến họ hạnh phúc. Tuy nhiên hạnh phúc không phải là điều chúng ta theo đuổi, mà đó là kết quả phụ khi chúng ta vâng theo ý muốn của Chúa. Nếu chúng ta bước đi cùng Chúa và vâng theo Ngài, Đức Thánh Linh sẽ ban cho chúng ta tấm lòng vui mừng, và “sự vui vẻ của Đức Giê-hô-va là sức lực của các ngươi.” (Nê-hê-mi 8:10). Quan điểm của một người thường quyết định kết quả mà họ nhận được, chính vì thế khi bắt đầu một ngày với thái độ tiêu cực sẽ cướp đi khỏi chúng ta phước hạnh của Chúa. “Trái của Thánh Linh, ấy là lòng yêu thương, sự vui mừng, [và] bình an” (Ga-la-ti 5:22). Sự vui mừng thật trong Chúa không phụ thuộc vào hoàn cảnh hoặc sự quan tâm của người khác. Phao-lô và Si-la đầy lòng vui mừng khi ở trong tù (Công vụ 16:25), và Đức Chúa Giê-su hát thánh ca trước khi Ngài đến khu vườn để chịu nộp mình (Ma-thi-ơ 26:30). Không phải lúc nào Đức Chúa Trời cũng thay thế nỗi đau và gánh nặng bằng sự vui mừng; nhưng Ngài thường biến nỗi đau và gánh nặng trở thành niềm vui! Một đứa trẻ có thể khiến người mẹ trải qua sự đau đớn khi sanh nở, nhưng cùng một đứa trẻ ấy cũng đem lại cho người mẹ niềm vui (Giăng 16:20-24).

 

Tấm lòng vui mừng đem lại điều tốt gì? Sa-lô-môn viết rằng: “lòng vui mừng vốn một phương thuốc hay” (Châm Ngôn 17:22). Đơn thuốc không thay đổi chúng ta, nhưng chính dược phẩm mới là điều khiến chúng ta lành bệnh. “Ngài ra lệnh chữa họ lành” (Thi Thiên 107:20). Sự sửa phạt của Chúa lúc đầu không phải là niềm vui, nhưng về sau sẽ sản sinh “bông trái bình an” (Hê-bơ-rơ 12:11). Hãy suy ngẫm Lời Chúa, cầu nguyện và có mối thông công với những con người cầu nguyện, thì sự vui mừng của Chúa sẽ thẩm thấu và bắt đầu chữa lành tấm lòng của bạn. Đức Chúa Trời không được tôn vinh bởi những Cơ Đốc Nhân hay chỉ trích, hay hờn dỗi và thường than phiền. Nhưng Ngài được tôn vinh qua những con người chấp nhận ý muốn Chúa và tìm thấy niềm vui đem lại sự chữa lành của ân điển Ngài. Thư tín của Phao-lô gửi cho người Phi-líp tràn ngập niềm vui, song ông đã viết bức thư ấy khi bị giam cầm tại Rô-ma, trong thời gian chờ đợi để bị hành hình!

 

Chúng ta bắt đầu thế nào? Bằng cách không nhìn vào chính mình, cũng không nhìn vào hoàn cảnh, nhưng bởi đức tin mà nhìn xem Đức Chúa Giê-su (Hê-bơ-rơ 12:1-2). Chúng ta sẽ ngừng hờn dỗi, không còn phàn nàn, và chúng ta bắt đầu dành thời gian để suy ngẫm Kinh Thánh và để những lời hứa của Chúa lấp đầy chúng ta giống như “dược phẩm.” Trọng tâm của mỗi một vấn đề đó chính là vấn đề của tấm lòng. Nếu chúng ta cầu xin, Chúa có thể phục hồi niềm vui cứu rỗi của Ngài trong chúng ta (Thi Thiên 51:12). Không gì có thể thay thế việc chờ đợi Chúa và yên nghỉ nơi lời hứa của Ngài.

Hãy phó thác đường lối mình cho Đức Giê-hô-va,

Và nhờ cậy nơi Ngài,

Thì Ngài sẽ làm thành việc ấy.

Thi Thiên 37:5

 

 

 

 

Bài 61

 

Kẻ biếng nhác nói: “Có con sư tử ở ngoài đó; Tôi sẽ bị giết tại giữa đường.”

Châm Ngôn 22:13

Trong Kinh Thánh có hai từ cổ là uể oảibiếng nhác dùng để nói về người biếng nhác. Từ uể oải bắt nguồn từ cách chuyển động chậm chạp của con lười, còn từ biếng nhác bắt nguồn từ cách di chuyển chậm chạp của con ốc sên trong thế giới động vật thân mềm. Ngày nay chúng ta có thể dùng những từ ngữ khác như kẻ lười nhác hoặc kẻ trốn việc.

 

Những kẻ biếng nhác đều rất lười biếng. Nếu có một người nào mà Sa-lô-môn không thể chịu đựng nổi thì đó là người lười biếng, người luôn luôn không coi trọng công việc – hoặc thậm chí không xuất hiện để làm việc! Những người trong Kinh Thánh được Chúa ban phước và sử dụng đều là những người chăm chỉ. Thật vậy, rất nhiều người trong số họ được Đức Chúa Trời kêu gọi khi đang làm việc. Đức Chúa Trời kêu gọi trong lúc Môi-se và Đa-vit đang chăn chiên; Ghi-đê-ôn đang đập lúa; Ê-sai đang thờ phượng trong đền thờ; và Phi-e-rơ, Anh-rê, Gia-cơ và Giăng đang đánh cá. Trong ẩn dụ về các ta-lâng, Đức Chúa Giê-su gọi người đầy tớ nhận một ta-lâng là kẻ ác, biếng nhác và không có ích bởi vì người đầy tớ ấy không làm việc, cũng không dùng ta-lâng của mình để sản sinh kết quả (Ma-thi-ơ 25:14-30). Phao-lô dạy dỗ dân sự của Chúa tại Rô-ma rằng “chớ làm biếng; phải có lòng sốt sắng; phải hầu việc Chúa” (Rô-ma 12:11), ông bảo những người đầy tớ tại Hội Thánh Cô-lô-se rằng: “Hễ làm việc gì, hãy hết lòng mà làm, như làm cho Chúa, chớ không phải làm cho người ta” (Cô-lô-se 3:23).

 

Những kẻ biếng nhác là những người nói dối. Dường như chẳng có con sư tử nào ở ngoài đường; thậm chí nếu có thì người ta đã xua đuổi hoặc giết nó đi. Đa-vít khi còn là một thiếu niên đã giết một con sư tử và một con gấu để bảo vệ đàn chiên của mình (1 Sa-mu-ên 17:33-37), nhiều năm sau, một trong số các tướng lãnh cao nhất của Đa-vít trong một ngày kia đã giết một con sư tử trong một cái hang (2 Sam-mu-ên 23:20). Kẻ biếng nhác chỉ tìm cách biện minh cho hành động của mình, và những người vụng chèo thì khéo chống. Nhà truyền giáo người Mỹ Billy Sunday định nghĩa lời bào chữa là “một lời nói dối ẩn dưới lớp vỏ bọc của lý lẽ.” Người lười biếng không cày ruộng bởi vì bên ngoài trời giá rét (Châm Ngôn 20:4), nhưng đến mùa gặt anh ta sẽ chẳng có gì (Châm Ngôn 20:30-34). Thay vì biện hộ, người ấy phải xưng tội mình và cầu xin Chúa giúp anh ta trở nên một người làm công trung tín.

 

Những kẻ biếng nhác là những người thua cuộc. Họ không chỉ đánh mất mùa gặt của mình (đánh mất sự thu nhập), và chắc chắn điều đó sẽ tác động đến gia đình của họ, nhưng họ còn đánh mất những ích lợi cho thân thể và linh hồn mà người làm công trung tín có được. Làm việc không phải là hình phạt đối với tội tỗi, bởi vì tổ phụ của chúng ta đã làm việc trong vườn Ê-đen trước khi tội lỗi đến thế gian (Sáng Thế Ký 2:15). Làm việc là một đặc ân, một cơ hội để học hỏi và lớn lên, để dùng những khả năng và các nguồn tài nguyên Chúa ban để chúng ta tự tạo ra ích lợi cho chính mình, cho người khác và dâng hiến cho Chúa (Ê-phê-sô 4:28). Công việc phải đem lại cho chúng ta niềm vui và sự giàu có (2 Ti-mô-thê 2:17), cho dù vào cuối ngày chúng ta có thể cảm thấy mệt mỏi. Đó là lý do Đức Chúa Trời ban cho chúng ta giấc ngủ! Đức Chúa Giê-su cảm thấy quá mệt mỏi khi thi hành chức vụ đến nỗi Ngài ngủ trên chiếc thuyền giữa biển khơi đầy bão tố. “Giấc ngủ của người làm việc là ngon” (Truyền Đạo 5:12). Kẻ biếng nhác cả về vật chất lẫn tâm linh (Hê-bơ-rơ 6:12) sẽ đánh mất phước hạnh mà Chúa dành cho họ.

 

Những kẻ biếng nhác không phải là lãnh đạo. Những người tạo nên lịch sử trong xã hội hoặc tôn giáo đều là những con người hy sinh, phục vụ và không biện hộ. Nếu bạn muốn được đánh thức, hãy đọc tự truyện của Phao-lô trong 2 Cô-rinh-tô 11:22-33! Đức Chúa Giê-su cầu nguyện lúc sáng sớm và Ngài lao động cả ngày cho đến tối – Ngài chính là tấm gương cho chúng ta. Vâng, Ngài dành thời gian nghỉ ngơi cùng với các môn đồ, nhưng đó là lúc Ngài và các học trò có thể lấy lại sức lực để phục vụ nhiều hơn.

Tôi đồng ý với câu nói của Tiến sĩ Bob Cook, người đã nói rằng: “Làm việc chăm chỉ là một niềm vui khi bạn đang làm theo ý muốn Chúa.”

Hỡi kẻ biếng nhác, hãy đi đến loài kiến;

Khá xem xét cách ăn ở nó mà học khôn ngoan.

Châm Ngôn 6:6-7

 

 

 

 

 

 

Bài 62

Phàm sự gì có thì tiết; mọi việc dưới trời có kỳ định.

Truyền Đạo 3:1

Khi A-đam và Ê-va đặt tên cho đứa con trai thứ hai của mình là A-bên (A-bên có nghĩa là hư không), họ đã mở ra cho vua Sa-lô-môn một từ khóa để viết nên sách Truyền Đạo; trong tiếng Hê-bơ-rơ từ hebel có nghĩa là “hư không,” và từ này được sử dụng ba mươi tám lần trong sách Truyền Đạo. Sa-lô-môn xem xét nhiều khía cạnh của đời sống để biết cuộc sống đáng giá như thế nào, và càng suy ngẫm, ông càng kết luận rằng cuộc sống là vô nghĩa. Cuộc sống là hư không. Đến chương hai, Sa-lô-môn nói rằng: “Vậy, ta ghét đời sống” (2:17), một câu nói đáng phải suy nghĩ đối với một người có hiểu biết rộng và có được mọi thứ như ông. Đôi khi chúng ta cũng cảm thấy giống như vậy, đặc biệt khi chúng ta đọc hoặc xem tin tức, hoặc khi những kế hoạch mơ ước của chúng ta trở thành ác mộng. Tuy nhiên câu Kinh Thánh trên cho chúng ta ba lẽ thật để khích lệ chúng ta có cái nhìn tích cực về đời sống.

 

Trong đời sống, chúng ta trải qua một chuỗi các sự kiện. Sa-lô-môn gọi đó là “thì tiết” và “kỳ định.” Từ “kỳ định” xuất hiện bốn mươi lần trong sách Truyền Đạo. Đức Chúa Trời sống trong cõi đời đời, và Ngài đã đặt sự đời đời ở trong lòng chúng ta (3:11), chính vì thế chúng ta không thỏa lòng với “những sự việc” và “sự kiện” nhưng khát khao điều gì nhiều hơn thế. Và “điều nhiều hơn thế” chính là sự sống dư dật mà Đức Chúa Giê-su đã nói (Giăng 10:10), điều đó chỉ có thể được tìm thấy khi chúng ta tin cậy Chúa là Đấng Cứu Rỗi và hầu việc Ngài. Sa-lô-môn cũng đã viết về sự tận hưởng cuộc sống (Truyền Đạo 2:24; 3:12-15, 22; 5:18-20; 8:15; 9:7-10), tuy nhiên những điều đó chỉ nằm trong phạm vi con người: vui thích công việc, tận hưởng thức ăn, vui thích người phối ngẫu và gia đình. Nhưng đó là những điều mà bất cứ người ngoại đạo nào cũng có thể tận hưởng! Dù những điều trên là tốt, chúng ta muốn nhiều hơn thế, một điều gì đó để chuẩn bị chúng ta cho sự chết và cõi đời đời. Sa-lô-môn thường đề cập đến sự chết, và sự chuẩn bị đích thực cho cái chết đó chính là nhận biết Đức Chúa Giê-su Christ (Giăng 11:25-26).

 

Những sự kiện giúp hoàn thành mục đích của Chúa. Các nhà khoa học và các sử gia tài ba đã nỗ lực tìm kiếm mục đích từ vũ trụ và trong lịch sử nhân loại, tuy nhiên họ đều thất bại, lý do chính đó là họ đã loại bỏ Chúa ra khỏi vấn đề. Chúng ta là những tạo vật của thời gian và chỉ có thể nhìn thấy các chuỗi sự kiện. Việc đó giống như nhìn vào ba mảnh ghép và cố đoán ra hình ảnh của bức tranh là gì. Đức Chúa Trời nhìn thấy toàn bộ bức tranh, còn trái đất này giống như “rạp hát” của vũ trụ, nơi Chúa thực hiện mục đích và bày tỏ các kế hoạch của Ngài. “Đất và muôn vật trên đất, thế gian và những kẻ ở trong đó, đều thuộc về Đức Giê-hô-va” (Thi Thiên 24:1). Có những thời điểm trong cuộc sống chúng ta tự hỏi Chúa đang làm gì vậy, tuy nhiên chúng ta có thể công bố Rô-ma 8:28 và biết rằng mọi việc xảy đến là vì ích lợi cho chúng ta và đem lại sự vinh quang cho Chúa. “Phàm vật Đức Chúa Trời đã làm nên đều là tốt lành trong thì nó” (Truyền Đạo 3:11). Trong đời sống này, Cơ Đốc Nhân sống dựa trên lời hứa từ Kinh Thánh chứ không dựa vào sự giải thích. Chúng ta sẽ nhận được sự giải thích khi đời sống này kết thúc và chúng ta bước vào cõi đời đời. Lời của Đức Chúa Giê-su phán cùng Phi-e-rơ ngày nay cũng có thể được áp dụng cho chúng ta: “Hiện nay ngươi chẳng biết sự ta làm; nhưng về sau sẽ biết” (Giăng 13:7). Khi chúng ta cầu nguyện rằng: “Ý Cha được nên, ở đất cũng như trời,” nghĩa là chúng ta đang cầu xin ý muốn Chúa được thực hiện, chứ chúng ta không cầu xin sự giải thích hoặc lý do.

 

Mục đích của Chúa đến từ tấm lòng yêu thương của Ngài. Hãy suy ngẫm Thi Thiên 33:10-11 và vui mừng. Đức Chúa Trời có mục đích cho từng quốc gia lẫn mỗi một cá nhân; mục đích của Ngài bắt nguồn từ tấm lòng và chúng sẽ được thực hiện! Mỗi một người tin Chúa đều có thể nói rằng: “Đức Giê-hô-va sẽ làm xong việc thuộc về tôi. Hỡi Đức Giê-hô-va, sự nhân từ Ngài còn đến đời đời; Xin chớ bỏ công việc của tay Ngài” (Thi Thiên 138:8). Vấn đề của chúng ta đó là chúng ta quá vội vã hoàn thành ý muốn của mình ngay, thay vì sẵn lòng chờ đợi Chúa. Áp-ra-ham và Sa-ra đã chờ đợi đứa con trai của mình là Y-sác trong hai mươi lăm năm, và Giô-sép đã chờ đợi mười ba năm để trở thành người lãnh đạo lớn thứ hai tại Ai Cập, cả hai câu chuyện đều thể hiện tình yêu thương của Đức Chúa Trời và sự hoàn thành ý muốn khôn ngoan của Ngài.

Hãy trông đợi Đức Giê-hô-va!

Thi Thiên 27:14

 

 

 

Bài 63

Hãy rửa đi, hãy làm cho sạch! Hãy tránh những việc ác khỏi trước mắt ta. Đừng làm dữ nữa.

Ê-sai 1:16

Chúng ta cảm thấy quen thuộc với việc cầu xin Chúa tẩy thanh chúng ta sau khi đã phạm tội (Thi thiên 51:2, 7), tuy nhiên câu Kinh Thánh hôm nay dạy chúng ta phải tự làm sạch chính mình! Điều này không có nghĩa chúng ta có thẩm quyền và khả năng để tự xóa bỏ tội lỗi khỏi chính mình, tuy nhiên thay vào đó chúng ta cần phải ăn năn và loại khỏi đời sống những điều dễ khiến chúng ta phạm tội. Tôi đã nghe một thuộc viên trong Hội Thánh cầu nguyện rất lâu trong mỗi buổi nhóm cầu nguyện và thường kết lại bằng câu: “Và lạy Chúa, xin hãy đem khỏi đời sống con những sợi dây tơ nhện.” Một người trong nhóm cầu nguyện cảm thấy mệt mỏi với điều này và một ngày kia, anh ta la lên rằng: “Và lạy Chúa, nếu Ngài đang ở tại cái mạng nhện ấy, xin hãy giết con nhện đi!” Đó chính là điều mà câu Kinh Thánh này muốn nói.

 

Tội lỗi làm ô uế chúng ta. Kinh Thánh dùng nhiều cách để khắc họa tội lỗi – sự tối tăm, bệnh tật, sự trói buộc, và thậm chí là sự chết – nhưng hình ảnh quen thuộc nhất chính là sự ô uế. Luật pháp Môi-se dạy người Do Thái phải phân biệt giữa những điều sạch và những điều không sạch, điều này không chỉ nói về thức ăn nhưng cũng chỉ về những sự đụng chạm trong cuộc sống hằng ngày. Chẳng hạn như đụng vào xác một người chết hoặc chạm vào người có vết thương lở loét thì đó là ô uế. Những luật lệ này không chỉ giúp cho dân sự khỏe mạnh nhưng còn nhắc nhở họ giữ gìn đời sống tinh sạch để tận hưởng những ơn phước của Chúa. Nếu thầy tế lễ thực hiện trách nhiệm trong đền thờ mà không giữ cho mình tinh sạch thì họ sẽ chết (Xuất Ê-díp-tô ký 30:17-21). Có thể chúng ta đã không coi trọng vấn đề tội lỗi như chúng ta đáng phải làm, tuy nhiên Chúa nhìn thấy sự ô uế trong tấm lòng của chúng ta. “Nếu lòng tôi có chú về tội ác, ắt Chúa chẳng nghe tôi” (Thi Thiên 66:18). Không ai trên thế giới này hoàn toàn không phạm tội, tuy nhiên chúng ta cần phải nỗ lực trở nên tinh sạch nhất có thể ở trước mặt Chúa. 1 Giăng 1:5-10 gọi điều này là bước đi trong sự sáng.

 

Tôn giáo tạo cho chúng ta lớp vỏ bọc ngụy trang. Việc cố gắng che đậy tội lỗi trước mặt Chúa và trước mặt người khác nghĩa là chúng ta đang phạm thêm một tội lỗi khác: tội giả hình. Khi bạn đọc Ê-sai 1, bạn sẽ thấy bức tranh ảm đạm về những con người đầy tội lỗi đổ xô đến đền thờ, họ dâng của tế lễ cho Đức Chúa Trời, giơ tay lên và cầu nguyện – nhưng khi rời khỏi đền thờ, họ tiếp tục trở lại phạm tội. Họ trung tín giữ các ngày lễ thánh của người Do Thái. Họ tin rằng lời cầu nguyện và của tế lễ của họ đủ làm vui lòng Chúa và khiến những người nhìn thấy có ấn tượng rằng họ là người tin kính Chúa. Nhưng họ đã sai. Chắc chắn chúng ta không thể lừa gạt Đức Chúa Trời bằng những nghi lễ tôn giáo, và dù bạn có lừa được những người xung quanh thì điều đó cũng không giúp ích gì cho bạn. Cuối cùng khi sự thật được phơi bày, và thậm chí nếu như những tội lỗi kín giấu của chúng ta không bị phơi bày, chúng ta vẫn chỉ đang xa lánh Chúa và bước đi trong sự tối tăm.

 

Duy Đức Chúa Trời giải cứu chúng ta. Ngài mời gọi chúng ta rằng: “Bây giờ hãy đến” và Ngài hứa rằng: “Dầu tội các ngươi như hồng điều, sẽ trở nên trắng như tuyết; dầu đỏ như son, sẽ trở nên trắng như lông chiên” (Ê-sai 1:18). Đức Chúa Trời tha thứ tội lỗi, nhưng Ngài cũng truyền cho chúng ta phải từ bỏ những điều dễ khiến chúng ta phạm tội. “Kẻ ác khá bỏ đường mình” (55:7) và bước đi trên con đường chính đáng với những con người công chính. Để vâng theo mệnh lệnh này, một số Cơ Đốc Nhân cần phải dọn dẹp lại các kệ sách và tạp chí, hoặc bộ sưu tập âm nhạc của mình. “Hỡi những kẻ rất yêu dấu của tôi, chúng ta đã có lời hứa dường ấy, thì hãy làm cho mình sạch khỏi mọi sự dơ bẩn phần xác thịt và phần thần linh, lại lấy sự kính sợ Đức Chúa Trời mà làm cho trọn việc nên thánh của chúng ta” (2 Cô-rinh-tô 7:1). Hãy lưu ý sự kiện nào chỉ xảy ra một lần (“làm cho mình sạch”) và điều nào là quá trình xảy ra sau sự kiện ấy (“làm cho trọn việc nên thánh”). “Vậy anh em đã từ bỏ mọi điều độc ác, mọi điều gian giảo, mọi thứ giả trá, lòng ghen ghét và sự nói hành” (1 Phi-e-rơ 2:1).

Chúng ta cần phải làm sạch và giữ chính mình được tinh sạch như là bằng chứng thể hiện chúng ta nghiêm túc sống một đời sống thánh khiết. Đức Chúa Trời sẽ làm mới chúng ta nếu chúng ta ăn năn và từ bỏ những tội lỗi làm ô uế mình.

Hãy đến gần Đức Chúa Trời, thì Ngài sẽ đến gần anh em. Hỡi kẻ có tội, hãy lau tay mình, có ai hai lòng, hãy làm sạch lòng đi.

Gia-cơ 4:8

 

 

 

 

 

Bài 64

Hãy cẩn thận, ở yên lặng; đừng sợ chi, lòng ngươi chớ bủn rủn vì cớ hai đuôi đuốc có khói, tức là vì cơn giận dữ của Rê-xin và Sy-ri, và của con trai Rê-ma-lia.

Ê-sai 7:4

Một thời gian tràn ngập nỗi sợ hãi. A-cha, vua Giu-đa, bị đặt trong một tình thế rất khó khăn. Rê-xin, vua Sy-ri và Phê-ca vua Y-sơ-ra-ên hiệp nhau lại đánh Giu-đa với mưu đồ đặt một vua mới lên cai trị vương quốc này. Tuy nhiên đền thờ và chức tế lễ đều nằm ở Giu-đa, còn A-cha thuộc về dòng dõi vua Đa-vít mà từ dòng dõi này Đấng Mê-si sẽ đến. “Bấy giờ A-cha và dân sự người trong lòng kinh động, như cây trên rừng bị gió lay” (c. 2). Việc làm khôn ngoan khi chúng ta cảm thấy sợ hãi đó là mở Kinh Thánh, lắng nghe tiếng Chúa, và nhận lấy cái nhìn của Ngài. Đức Chúa Trời không nhìn thấy Rê-xin và Phê-ca như những ngọn đuốc rực cháy đáng sợ nhưng chỉ là những ngọn đuốc gần tàn. Khi Môi-se sai các thám tử vào vùng đất Ca-na-an, mười người đã mô tả rất đúng về vùng đất tuy nhiên họ không nhìn thấy Chúa trong bức tranh ấy! Chỉ hai thám tử, Ca-lép và Giô-suê, nhìn vùng đất bằng cái nhìn của Chúa và khích lệ dân sự tiến vào để chiếm lấy đất. Mười thám tử không có đức tin đã chết, và dân Y-sơ-ra-ên đã lang thang trong suốt ba mươi tám năm sau, hễ ai từ hai mươi tuổi trở lên đều chết trong đồng vắng ngoại trừ Ca-lép và Giô-suê. Không có đức tin là một tội lỗi rất nguy hiểm (Dân số ký 13-14).

 

Thời gian của đức tin. Nhận lấy cái nhìn của Chúa nghĩa là bước đi bởi đức tin. “Người nào để trí mình nương dựa nơi Ngài, thì Ngài sẽ gìn giữ người trong sự bình yên trọn vẹn, vì người nhờ cậy Ngài” (Ê-sai 26:3). Tuy nhiên chúng ta không được hai lòng khi tìm kiếm sự giúp đỡ của Chúa rồi sau đó dựa vào kế hoạch của bản thân (Gia-cơ 1:5-8); chúng ta phải hoàn toàn tin cậy Chúa. Đức tin là sống không mưu toan. Tuy nhiên, vua A-cha đã bí mật lập một hiệp ước cùng vua A-sy-ri, cầu xin viện trợ trong trường hợp Giu-đa bị tấn công (2 Các vua 16:5-9). “Kẻ nầy nhờ cậy xe cộ, kẻ khác nhờ cậy ngựa, Nhưng chúng tôi nhờ cậy danh Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời chúng tôi” (Thi Thiên 20:7). Một trong các danh xưng của Đức Chúa Trời chính là Giê-hô-va Ni-si, nghĩa là “Đức Giê-hô-va là cờ xí của tôi.” Danh xưng này giúp tưởng nhớ đến chiến trận đầu tiên mà người Y-sơ-ra-ên đã chiến thắng sau khi ra khỏi Ai-cập (Xuất Ê-díp-tô ký 17:15-16). Nếu chúng ta nhớ lại những điều Chúa đã làm cho chính mình trong quá khứ, chúng ta sẽ được khích lệ để tin cậy nơi Ngài trong hôm nay. Đôi khi chúng ta phải nói cùng Chúa giống như lời người cha buồn rầu có đứa con bị quỷ ám, rằng: “Tôi tin, xin Chúa giúp đỡ trong sự không tin của tôi!” (Mác 9:24), và ghi nhớ rằng Đức Chúa Giê-su trân quý lời cầu nguyện ấy.

 

Thời gian cho sự trung tín. Con trai của Ê-sai, người đồng đi với ông gặp vua A-cha có tên là Sê-a-Gia-súp, nghĩa là “dân sót lại sẽ trở về.” Ý tưởng về một số ít những người Do Thái trung tín xuất hiện xuyên suốt trong Cựu Ước từ thời Nô-ê và gia đình của ông (Sáng thế ký 7:23) đến thời Giô-sép (Sáng thế ký 45:7) và mãi đến Ma-la-chi 3:16; cuối cùng chính Phao-lô đã nêu lên ý tưởng này trong Rô-ma 11:5. (Xem Ê-sai 1:9; 37:31-32; Lu-ca 12:32.) Đức Chúa Trời chưa từng nhờ cậy vào số đông để hoàn thành ý muốn của Ngài trên đất, ngày nay bạn và tôi là một phần của nhóm dân sót lại ấy. Ma-la-chi 3:16-18 mô tả rõ ràng những người còn sót lại là một nhóm nhỏ những người kính sợ Chúa, có mối thông công với nhau, cầu nguyện cùng nhau, suy ngẫm về những vấn đề thuộc linh, dạy dỗ lẫn nhau, và có sự tỉnh thức thuộc linh qua việc làm chứng cho những người chưa tin. Lời nhắc nhở của Đức Chúa Trời dành cho chúng ta đó là: “vậy xin hãy vì những người còn lại đây mà cầu nguyện” (Ê-sai 37:4).

 

Thay vì sợ hãi và lo lắng, hãy “cẩn thận, ở yên lặng,” nhận biết rằng mọi việc đều do Chúa tể trị.

Ráng tập ăn ở cho yên lặng.

1 Tê-sa-lô-ni-ca 4:11

 

 

 

 

 

Bài 65

Đàn bà há dễ quên con mình cho bú, không thương đến con trai ruột mình sao? Dầu đàn bà quên con mình, ta cũng chẳng quên ngươi.

Ê-sai 49:15

Dân Y-sơ-ra-ên luôn than phiền về số phận của họ và cho rằng Đức Chúa Trời đã quên và lìa bỏ họ. Đây không phải là phản ứng bất thường khi cuộc sống gặp khó khăn, lời cầu nguyện của chúng ta không được đáp lời, và chúng ta không nhìn thấy lối thoát. Thậm chí vị vua vĩ đại là Đa-vít đã hơn một lần cảm thấy bị bỏ mặc. “Đức Giê-hô-va ôi! Ngài sẽ hằng quên tôi cho đến chừng nào?” (Thi Thiên 13:1). Thậm chí con cháu Cô-rê, những người phục vụ trong đền thờ, cũng đã nhiều lần cảm thấy bị bỏ mặc. “Cớ sao Chúa giấu mặt đi, quên nỗi hoạn nạn và sự hà hiếp chúng tôi?” (Thi Thiên 44:24). Tuy nhiên câu Kinh Thánh hôm nay nói rõ rằng Cha Thiên Thượng sẽ không bao giờ từ bỏ con cái của Ngài.

 

Đức Chúa Trời nhớ đến dân sự của Ngài. Dân Y-sơ-ra-ên rơi vào hoàn cảnh khó khăn bởi vì họ bất tuân lời Chúa nên Ngài sửa phạt họ. Tuy nhiên thậm chí sự kỷ luật ấy cũng chứng minh rằng Ngài ở cùng họ và chăm sóc cho họ. Đôi khi chúng ta như những đứa trẻ hờn dỗi đi vòng quanh và lằm bằm rằng: “Không ai yêu tôi,” tuy nhiên chúng ta chỉ làm cho vấn đề thêm trầm trọng. Khi Kinh Thánh viết rằng Đức Chúa Trời “nhớ đến” điều gì nào đó hoặc một ai đó, điều này không có nghĩa Ngài mất trí và rồi trí nhớ được khôi phục trở lại. Đức Chúa Trời là Đấng toàn tri và Ngài không quên điều gì. Điều đó đơn giản nghĩa là Ngài sắp hành động. Ngài nhớ đến Nô-ê và giải cứu ông khỏi cơn nước lụt (Sáng Thế Ký 8:1). Đức Chúa Trời nhớ đến lời cầu nguyện của Áp-ra-ham và giải cứu Lót khỏi thành Sô-đôm (19:29). Ngài nhớ đến lời cầu nguyện của Ra-chên xin một đứa con và đã ban cho bà Giô-sép (30:22), và Ngài cũng nhớ đến lời cầu nguyện của An-ne và ban cho bà Sa-mu-ên (1 Sa-mu-ên 1:11, 19). Đức Chúa Trời luôn luôn làm điều phải vào đúng thời điểm, khi những sự chuẩn bị của Ngài đã được hoàn thành.

 

Đức Chúa Trời nhớ đến những lời hứa trong giao ước của Ngài. Khi dân Y-sơ-ra-ên chịu cực khổ tại Ai Cập, “Ngài nghe tiếng than thở chúng, nhớ đến sự giao ước mình kết lập cùng Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp” (Xuất Ê-díp-tô ký 2:24; xem 6:5). Giao ước của Đức Chúa Trời là thành tín và không thay đổi cũng như những đặc tính của Ngài, chính vì thế chúng ta có thể nương dựa nơi lời hứa của Ngài. Đức Chúa Giê-su Christ, Ngài là Chúa và là Đấng Cứu Chuộc chúng ta, ngày nay Ngài là “Đấng trung bảo của giao ước mới” (Hê-bơ-rơ 12:24) và dân sự của Đức Chúa Trời tôn cao giao ước mới ấy qua việc giữ lễ Tiệc Thánh. Tiệc Thánh nhắc chúng ta nhớ về cái giá phải trả cho giao ước, chính là huyết quý báu của Đức Chúa Giê-su, cũng như lời hứa về sự tha tội của Đức Chúa Trời và Đức Chúa Giê-su sẽ trở lại. Mỗi một lời hứa mà Đức Chúa Trời ban cho chúng ta qua Lời Ngài đều được dựa trên công việc của Đức Chúa Giê-su trên thập giá!

 

Đức Chúa Trời không nhớ đến tội lỗi của chúng ta. Vua Đa-vít cầu nguyện trong Thi Thiên 25:7 rằng: “Xin chớ nhớ các tội lỗi của buổi đang thì tôi, hoặc các sự vi phạm tôi; Hỡi Đức Giê-hô-va xin hãy nhớ đến tôi tùy theo sự thương xót và lòng nhân từ của Ngài.” Sa-tan là kẻ kiện cáo dân sự của Đức Chúa Trời trước mặt Ngài (Khải Huyền 12:10) và các thuộc hạ của hắn rất ưa kiện cáo chúng ta trong tâm trí và tấm lòng mình; tuy nhiên giao ước của Đức Chúa Trời hứa rằng: “Ta sẽ tha sự gian ác của họ, và không nhớ đến tội lỗi họ nữa” (Hê-bơ-rơ 8:12; 10:17). Điều này nghĩa là tội lỗi của chúng ta đã không còn được ghi lại, cũng không chống lại chúng ta nữa. Những tội nhân được cứu rỗi không giống như những tội nhân được tạm tha và sẽ bị bắt trở lại nếu phạm thêm một tội nào khác. Mọi tội lỗi của chúng ta đã được tha thứ và lãng quên hoàn toàn (Cô-lô-se 2:13-14). Nếu phạm một lỗi lầm nào, chúng ta xưng tội cùng Chúa và được thanh tẩy (1 Giăng 1:9). Đừng cho phép kẻ kiện cáo làm bạn bối rối (Xa-cha-ri 3:1-5).

Chúng ta chớ quên Đức Chúa Trời! Hãy suy ngẫm Phục Truyền 8:11; 32:18 và Giê-rê-mi 2:12; 3:21.

 

Ấy chính Ta, là Đấng vì mình Ta mà xóa sự phạm tội ngươi;

Ta sẽ không nhớ đến tội lỗi ngươi nữa.

Ê-sai 43:25

 

 

 

 

 

 

 

Bài 66
Hỡi con cái bội nghịch, hãy trở lại! Ta sẽ chữa sự bội nghịch cho.

Giê-rê-mi 3:22

Tiên tri Giê-rê-mi thi hành chức vụ tại Giu-đa trong thời kỳ bốn mươi năm cuối của vương quốc, ông đã chứng kiến thành Giê-ru-sa-lem sụp đổ và dân sự bị lưu đày. Nếu những người cai trị đất nước lắng nghe ông và quay về với Chúa thì bi kịch đã không xảy ra. Tuy nhiên những gì đã xảy đến cho dân Giu-đa cũng có thể xảy đến cho chúng ta, chính vì vậy chúng ta cần phải cẩn thận.

 

Chúng ta đối diện với tình thế nguy hiểm. Ngoại trừ số ít những người trung tín sót lại, dân Giu-đa bị đau ốm về mặt thuộc linh nhưng họ không nhận biết điều ấy. Họ bội nghịch và cách xa Chúa, tuy nhiên họ không thừa nhận cũng không có hành động sửa đổi nào. Như một căn bệnh truyền nhiễm, sự sa đọa thuộc linh bắt đầu một cách âm thầm, sau đó dần dẫn đến sự suy sụp và cuối cùng là sụp đổ hoàn toàn. Dân sự công khai quay mặt khỏi Chúa, họ bắt đầu thờ hình tượng, không ăn năn và không xưng nhận tội lỗi của họ. Vì muốn làm vui lòng dân chúng, các tiên tri giả bảo đảm với dân sự rằng Chúa sẽ không bao giờ cho phép người Ba-by-lôn ngoại giáo có thể hủy phá đền thờ, tuy nhiên họ đã sai (Giê-rê-mi 6:14; 18:11, 22). Không chỉ có việc đền thờ và thành phố bị phá hủy, mà rất nhiều người đã bị bắt lưu đày đi Ba-by-lôn trong vòng bảy mươi năm. Ngày nay, rất có thể các Hội Thánh và Cơ Đốc Nhân đang phạm phải sai lầm của người Giu-đa khi xưa. Chúng ta có thể ngoảnh mặt làm ngơ trước hoàn cảnh đang xảy đến, lắng nghe những lời khuyên giả dối, và phải chịu sự sửa trị của Đức Chúa Trời.

 

Chúng ta lắng nghe lời mời của ân điển. “Hỡi con cái bội nghịch, hãy trở lại.” Trong bản văn tiếng Hê-bơ-rơ, từ trở lại được dùng hơn một trăm lần trong sách Giê-rê-mi – riêng chương 3 đã có mười lần xuất hiện từ này. Những người bội nghịch không đột ngột rơi vào cạm bẫy; họ quay lưng lại với Chúa và dần đi xa khỏi ý muốn và mối thông công với Ngài. Chúa luôn nhẫn nại và không từ bỏ chúng ta. Ngài ban cho chúng ta có Lời Chúa và nếu cần, Ngài sử dụng những biện pháp sửa trị đầy yêu thương để tỉnh thức chúng ta thoát khỏi hiểm nguy. Vậy nếu chúng ta vâng theo, Chúa sẽ tha thứ và phục hồi cho chúng ta. Tuy nhiên nếu chúng ta cứ tiếp tục tin vào những sự lừa dối (“Bạn sẽ thoát khỏi hình phạt”), thì chúng ta càng lâm vào tình trạng tồi tệ hơn và Chúa sẽ phải sửa trị chúng ta. Nếu ngay từ ban đầu chúng ta dừng lại và nhận ra con đường mà chúng ta đang đi sẽ tác động thế nào với Đấng Christ, với chính mình, với những người thân yêu của mình, và với lời chứng về Chúa, chúng ta sẽ ngay lập tức xưng tội và quay về với Chúa để nhận sự tha thứ của Ngài. Càng chờ đợi lâu thì sự việc càng xấu đi.

 

Chúng ta có thể kinh nghiệm sự biến đổi diệu kỳ. “Ta sẽ chữa sự bội nghịch cho.” Quả là một lời hứa đầy khích lệ! Thật là một ngày tuyệt vời khi bác sĩ nói với chúng ta rằng: “Chúng tôi đã xác định được vấn đề của bạn và có một phương cách cứu chữa.” Một số người xưng là Cơ Đốc Nhân không muốn được chữa lành sự bội nghịch, thế nên chúng ta tự hỏi liệu họ đã thật sự được tái sinh chưa? Sự thánh khiết không tự động đến với chúng ta dù chúng ta có cố gắng đến thế nào. Chúng ta phải đến với Người Bác Sĩ Vĩ Đại, xưng tội với Ngài, và để Ngài làm sạch và chữa lành cho chúng ta. Hãy đọc Thi Thiên 32 nếu bạn muốn biết điều gì xảy đến cho những người muốn che giấu sự bội nghịch của họ và phước hạnh nào cho những ai xưng tội mình. “Người nào giấu tội lỗi mình sẽ không được may mắn; Nhưng ai xưng nó ra và lìa bỏ nó sẽ được thương xót” (Châm Ngôn 28:13).

 

Người Bác Sĩ Vĩ Đại luôn luôn ở bên. Chẩn đoán của Ngài là hoàn toàn chính xác, sự chữa trị của Ngài luôn luôn hữu hiệu – và Ngài sẽ đến với bạn bất cứ khi nào bạn kêu gọi Ngài. Và Ngài cũng là người trả chi phí chữa trị cho bạn.

Đức Chúa Trời ơi, xin hãy tra xét tôi, và biết lòng tôi;

Hãy thử thách tôi, và biết tư tưởng tôi;

Xin xem thử tôi có lối ác nào chăng,

Xin dắt tôi vào con đường đời đời.

Thi Thiên 139:23-24

 

 

 

 

 

 

Bài 67

Vả, Đức Giê-hô-va phán cùng người Giu-đa và cùng Giê-ru-sa-lem như vầy: Hãy cày mở ruộng mới các ngươi, chớ gieo trong gai gốc.

Giê-rê-mi 4:3

Trong Kinh Thánh, gặt hái là hình ảnh “thu lấy kết quả,” dù là tốt hay xấu, từ những điều chúng ta nói hoặc làm. Chúa muốn đời sống của chúng ta kết quả (Ga-la-ti 5:22-23) và Ngài muốn một “mùa gặt những linh hồn” sau sự lao tác của chúng ta (Giăng 4:34-38). Chúng ta luôn gặt được những gì đã gieo. Đức Chúa Giê-su muốn “trái… lắm trái… nhiều trái” (Giăng 15:1-8).

 

Mùa gặt thành công cần sự chuẩn bị. “Ruộng mới” là mảnh đất bị bỏ không bởi vì nó không được cải tạo. Đất đó chưa được cày cũng chưa được gieo giống, chính vì thế không thể đem lại mùa gặt. Một lý do vì sao mảnh đất bị để không đó là “con gặt thì ít” (Lu-ca 10:2); và Lu-ca 9:57-62 cho chúng ta biết lý do vì sao con gặt ít: những người được Đức Chúa Trời kêu gọi viện cớ để từ chối lời kêu gọi của Ngài! Đức Chúa Giê-su tìm kiếm con gặt chứ không tìm những người đi la cà luôn luôn tìm cách biện hộ để từ chối.

 

Để chuẩn bị cần phải cày ruộng. Dựa trên ví dụ về người gieo giống (Ma-thi-ơ 13:1-9, 18-23), hạt giống tốt là Lời Chúa sẽ đi vào lòng người nếu mảnh đất được vỡ ra bằng sự ăn năn và xưng tội. Những tấm lòng cứng cỏi không thể tiếp nhận lẽ thật của Đức Chúa Trời bởi vì ma quỷ đến cướp lấy hạt giống. “Hãy gieo cho mình trong sự công bình, hãy gặt theo sự nhân từ; hãy vỡ đất mới! Vì là kỳ tìm kiếm Đức Giê-hô-va, cho đến chừng nào Ngài đến và sa mưa công bình trên các ngươi” (Ô-sê 10:12). Mảnh đất được chuẩn bị thì có tiềm năng rất lớn, tuy nhiên nếu đất lòng của chúng ta không được cải tạo thì đó thật là một bi kịch lớn.

 

Cày ruộng cần phải có sự kiên nhẫn. “Ai đã tra tay cầm cày, còn ngó lại đằng sau, thì không xứng đáng với nước Đức Chúa Trời” (Lu-ca 9:62). Nếu chúng ta trung tín phục vụ, một ngày trong tương lai “nếu chúng ta không trễ nải, thì đến kỳ, chúng ta sẽ gặt” (Ga-la-ti 6:9). Nếu người cày ruộng không ngừng quay về phía sau và chỉ suy nghĩ về việc thoái lui thì người ấy sẽ gặt hái được gì? Thừa nhận rằng việc cày cấy là rất khó nhọc, tuy nhiên khi Đức Chúa Trời kêu gọi thì Ngài cũng ban cho năng lực. “Tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi” (Phi-líp 4:13). Kẻ thù đem đến cho chúng ta nhiều lý do để rẽ sang con đường dễ chịu, tuy nhiên Đức Chúa Trời đã noi gương và khích lệ chúng ta kiên trì làm việc cho đến khi công tác được hoàn thành.

 

Sự kiên nhẫn đến từ đức tin. Đức Chúa Trời không muốn chúng ta “trễ nải, nhưng cứ học đòi những kẻ bởi đức tin và lòng nhịn nhục mà được hưởng lời hứa.” (Hê-bơ-rơ 6:12). Đức tin và lòng nhịn nhục là hai đức tính tuyệt vời! Trong mỗi một khía cạnh của đời sống và sự phục vụ Cơ Đốc, chúng ta phải sống bởi đức tin, và từ đó chúng ta sẽ phát triển đức tính nhịn nhục. Nếu không có lòng nhịn nhục, chúng ta sẽ học được rất ít và dường như không thể hoàn thành công việc nào. Gia-cơ nhắc nhở chúng ta rằng sự thử thách đức tin sanh lòng nhịn nhục (Gia-cơ 1:4), đồng thời ông dùng ví dụ về người nông dân để khích lệ chúng ta. “Hãy xem kẻ làm ruộng: họ bền lòng chờ đợi sản vật quí báu dưới đất cho đến chừng nào đã được mưa đầu mùa và cuối mùa” (5:7). “Chúng tôi là bạn cùng làm việc với Đức Chúa Trời” (1 Cô-rinh-tô 3:9), vậy nếu chúng ta làm phần việc của mình thì Chúa sẽ làm phần việc của Ngài. Đức Chúa Giê-su phán rằng: “vì ngoài Ta, các ngươi chẳng làm chi được” (Giăng 15:5).

 

Đức tin đến từ việc sống trong Lời Chúa. “Như vậy, đức tin đến bởi sự người ta nghe, mà người ta nghe, là khi lời của Đấng Christ được rao giảng” (Rô-ma 10:17). Hãy đọc Hê-bơ-rơ 11 để nhìn thấy công tác của Đức Chúa Trời trong lòng những ai tiếp nhận Lời Chúa và tin cậy nơi Ngài. Là những người làm công, chúng ta phải sống trong Lời Chúa và để Đức Thánh Linh hướng dẫn và ban cho chúng ta có năng lực. Chúng ta tiếp lấy công tác của những người khác, và họ cũng tiếp lấy công tác của chúng ta (Giăng 4:38), tuy nhiên chính Chúa là Đấng ban cho mùa gặt.

Song ta nói với các ngươi: Hãy nhướng mắt lên và xem đồng ruộng, đã vàng sẵn cho mùa gặt.

Giăng 4:35

 

 

 

 

Bài 68

Hỡi Đức Giê-hô-va, chẳng ai giống như Ngài! Ngài là lớn, danh Ngài có sức mạnh lớn lắm. Hỡi Vua các nước! Ai chẳng nên sợ Ngài? Ấy là điều Ngài đáng được. Vì trong những người khôn ngoan của các nước, tỏ ra sự vinh hiển mình, chẳng có ai giống như Ngài.

Giê-rê-mi 10:6-7

Các tiên tri Do Thái không ngừng nhắc nhở dân Y-sơ-ra-ên rằng Đức Giê-hô-va chính là Đức Chúa Trời chân thật và hằng sống duy nhất, còn các hình tượng của dân ngoại thì không hề có giá trị, song dân Y-sơ-ra-ên nhiều lần tìm kiếm sự giúp đỡ nơi các hình tượng ấy và phải chịu sự sửa phạt của Chúa. Các tín hữu trong Hội Thánh đầu tiên cũng rơi vào cạm bẫy của hình tượng, và những người tin Chúa ngày nay cũng thế! Không như các hình tượng ngoại giáo, thần tượng ngày nay không xấu xí cũng không đồi bại nhưng đẹp đẽ và đầy cuốn hút – đó là những người nổi tiếng, tiền bạc, sức mạnh, quyền lực, tình dục, giải trí, thức ăn – đó là sự chết chóc đầy nguy hiểm để thế chỗ của Đức Chúa Trời hằng sống. Bất kỳ điều gì trong cuộc sống đang chiếm lấy vị trí của Đức Chúa Trời và giam cầm chúng ta, bất kỳ điều gì mà chúng ta hy sinh để đổi lại sự thõa mãn thì đó chính là thần tượng và cần bị vứt bỏ. Không hình tượng nào có thể làm điều mà Chúa đã làm cho chúng ta qua Đức Chúa Giê-su Christ!

 

Duy Đức Chúa Trời là Đấng cứu chúng ta khỏi tội lỗi. “Hỡi các ngươi hết thảy ở các nơi đầu cùng đất, hãy nhìn xem ta và được cứu! Vì ta là Đức Chúa Trời, chẳng có Chúa nào khác” (Ê-sai 45:22). Vào một buổi sáng Chủ Nhật đầy tuyết, chàng trai trẻ Charles Haddon Spurgeon lắng nghe một bài giảng về câu Kinh Thánh trên, anh đã tin Đức Chúa Giê-su Christ và được cứu! “Chẳng có sự cứu rỗi trong đấng nào khác; vì ở dưới trời, chẳng có danh nào khác ban cho loài người, để chúng ta phải nhờ đó mà được cứu” (Công vụ 4:12).

 

Duy Đức Chúa Trời là Đấng xứng đáng để chúng ta thờ phượng, hiến dâng và phục vụ. Vào lễ cung hiến đền thờ, vua Sa-lô-môn đã bắt đầu lời cầu nguyện như sau: “Lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên! Hoặc trên trời cao kia, hoặc dưới đất thấp nầy, chẳng có một thần nào giống như Chúa” (1 Các vua 8:23). An-ne, một phụ nữ tin kính Chúa, đã cầu nguyện tha thiết xin một đứa con và Chúa đã đáp lời bà. Khi đem đứa con trẻ Sa-mu-ên đến đền thờ để dâng cho Chúa, bà cầu nguyện rằng: “Đức Giê-hô-va khiến lòng tôi khấp khởi vui mừng, và đỡ cho mặt tôi ngước lên… Chẳng ai thánh như Đức Giê-hô-va; chẳng có Chúa nào khác hơn Ngài! Không có hòn đá nào như Đức Chúa Trời của chúng ta” (1 Sam-mu-ên 2:1-2). Nếu trong lòng của chúng ta có thần tượng thì lòng kính mến và sự trung thành của chúng ta dành cho Chúa sẽ không còn nguyên vẹn và chúng ta không thể làm vui lòng Ngài. Trong Kinh Thánh, thờ phụng thần tượng được gọi là “phạm tội tà dâm” (Thi Thiên 106:39; Ô-sê 4:12; Gia-cơ 4:4).

 

Duy Đức Chúa Trời là Đấng giải cứu chúng ta khỏi sự trói buộc. Đức Chúa Trời giáng tai họa xuống đất Ai-cập (Xuất Ê-díp-tô ký 7-12) nhằm chống lại các thần tượng tại Ai Cập để qua đó Pha-ra-ôn có thể nhận biết không có thần nào như Đức Chúa Trời (Xuất Ê-díp-tô ký 8:10). Sau khi được tự do, người Do Thái ca ngợi Đức Chúa Trời vĩ đại của họ. “Hỡi Đức Giê-hô-va! Trong vòng các thần, ai giống như Ngài? Trong sự thánh khiết, ai được vinh hiển như Ngài, đáng sợ, đáng khen, hay làm các phép lạ?” (Xuất Ê-díp-tô ký 15:11). Nếu một người nào hoặc một điều nào đó bước vào đời sống tôi và xứng đáng với sự ca ngợi ấy nghĩa là tôi đang thờ hình tượng. Nếu tôi không tôn vinh Chúa xứng đáng Danh Ngài thì tôi cũng đang thờ hình tượng. Hãy đọc 1 Cô-rinh-tô 8 và suy ngẫm về điều Phao-lô đã viết.

 

Duy Đức Chúa Trời là Đấng xây dựng nhân cách và khiến chúng ta giống Đức Chúa Giê-su. Tác giả Thi Thiên 115 chế nhạo sự thờ lạy hình tượng bằng cách nêu lên sự đối lập giữa hình tượng chết và Đức Chúa Trời hằng sống, cuối cùng tác giả cảnh báo rằng: “Phàm kẻ nào làm hình tượng, và nhờ cậy nơi nó, đều giống như nó.” (c. 8). Chúng ta sẽ trở nên giống như hình tượng mà chúng ta đang thờ lạy. Tuy nhiên sự tin kính nghĩa là trở nên “giống Chúa.” Ai muốn trở thành một hình tượng không có sự sống trong khi chúng ta có thể trở nên giống Đức Chúa Giê-su hơn, là Đức Chúa Trời hằng sống của chúng ta (2 Cô-rinh-tô 3:18)?

Hỡi các con cái bé mọn, hãy giữ mình về hình tượng!

1 Giăng 5:21

 

 

 

 

 

Bài 69

Cái bình đã nắn ra bằng đất sét bị hư trong tay người thợ gốm, thì nó lấy mà nắn cái bình khác, tùy ý mình muốn làm.

Giê-rê-mi 18:4

Bài học ngày hôm nay nhắc nhở chúng ta là đất sét. Cuộc sống là một món quà và sự chết không phải là số phận của chúng ta trên đất. “Vì ngươi là bụi, ngươi sẽ trở về bụi” (Sáng thế ký 3:19). Đất sét là một vật liệu yếu mềm nhưng có tiềm năng. Mỗi một em bé được sinh ra trong thế giới này đều yếu ớt, song không ai biết trước đứa bé ấy sau này sẽ trở nên như thế nào. Chiếc bình trống không thì không có giá trị, nhưng vật mà nó chứa đựng có thể rất giá trị; và chúng ta được tạo dựng theo hình ảnh của Đức Chúa Trời. Ngoài Chúa, chúng ta sẽ không bao giờ khám phá được tất cả những khả năng hoặc đạt đến tiềm năng trọn vẹn của chính mình. Đất sét yếu ớt cần phải có sức mạnh và sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời.

 

Điều này nhắc chúng ta rằng Đức Chúa Trời là người thợ gốm. “Giê-hô-va Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người” (Sáng thế ký 2:7), đây chính là hình ảnh người thợ gốm đang làm việc. Đức Chúa Trời là Đấng tể trị, Ngài có kế hoạch và khiến chúng ta trở nên điều làm đẹp lòng Chúa. Điều này không có nghĩa chúng ta là nạn nhân bất lực trong một thế giới bị kiểm soát, bởi vì khi tạo dựng nên sự sống, Đức Chúa Trời đã truyền lệnh cho chúng ta cùng đồng công với Ngài. Đức Chúa Giê-su phán rằng: “Hỡi Giê-ru-sa-lem, Giê-ru-sa-lem… nhiều lần ta muốn nhóm họp con cái ngươi… mà các ngươi chẳng muốn” (Lu-ca 13:34). Và hãy nhớ rằng “Đức Chúa Trời là tình yêu thương” (1 Giăng 4:8); mệnh lệnh của Chúa là bằng chứng cho tình yêu của Ngài dành cho chúng ta, qua đó chúng ta không còn sợ hãi trước ý muốn của Ngài. Chúng ta không xoay chiếc bàn xoay của người thợ gốm nhưng phó chính mình trong tay Ngài. Tôi đã nghe nhiều người tự mãn tuyên bố rằng “tôi tự trở nên con người như thế này đây,” nhưng tôi muốn nói với họ rằng: “anh đáng bị khiển trách.” Được Chúa tạo dựng tốt hơn nhiều so với việc tự mình tạo nên con người của chính mình.

 

Chiếc bàn xoay của người thợ gốm là hình ảnh về cuộc sống. Đức Chúa Trời sắp đặt các sự kiện trong cuộc sống để chúng ta nhận biết Ngài, nhận biết chính mình và người khác, cũng như nhìn thấy các cơ hội mà cuộc sống đem lại. “Vì chúng ta là việc Ngài làm ra, đã được dựng nên trong Đức Chúa Jêsus Christ để làm việc lành mà Đức Chúa Trời đã sắm sẵn trước cho chúng ta làm theo” (Ê-phê-sô 2:10). Khi chúng ta vâng theo ý muốn Chúa, Ngài sẽ chuẩn bị chúng ta để thực hiện điều mà Ngài đã chuẩn bị trước. Đất sét trên chiếc bàn xoay mà Giê-rê-mi đang nhìn thấy không muốn hợp tác và nhiều lần chống đối, người thợ gốm lẽ ra đã lấy đất sét đó ra khỏi chiếc bàn mà vứt đi – song Ngài vẫn tiếp tục công việc “mà nắn cái bình khác.” Đức Chúa Trời không bao giờ từ bỏ chúng ta. Hãy nghĩ về Môi-se, Đa-vít, Giô-na, Phi-e-rơ, Giăng Mác, và những nhân vật khác trong Kinh Thánh là những người từng thất bại nhưng về sau được thành công. Người Thợ Gốm nắm quyền kiểm soát, chính vì thế nếu chúng ta phó chính mình trong tay Ngài, Ngài sẽ đảm bảo chúng ta hoàn thành điều mà Ngài đã định cho chúng ta.

 

Trải nghiệm của Giê-rê-mi giúp chúng ta hiểu thế nào là thành công. Thành công không có nghĩa là danh tiếng, quyền lực, hoặc giàu có. Thành công là đầu phục Chúa và vâng theo ý muốn của Ngài (Rô-ma 12:1-3), cho phép Chúa uốn nắn chúng ta theo ý Ngài. Khi thất bại, chúng ta cầu xin Chúa một lần nữa uốn nắn và chúng ta tiếp tục phục vụ Ngài. Chiếc bình hỏng vẫn trong tay người thợ gốm! Đức Chúa Trời là Đấng tạo dựng, tội lỗi làm hư hỏng, nhưng Người Thợ Gốm có thể sửa chữa và tiếp tục hành động trên chúng ta. Một tín hữu sa ngã hỏi mục sư rằng: “Tại sao Chúa đã làm cho tôi ra thể này?” Vị mục sư trả lời: “Chúa vẫn chưa hoàn thành công tác của Ngài – Ngài đang tạo dựng nên bạn!” Người thợ gốm lấy chiếc bình đất và đặt vào trong lửa, tại đó chúng trở nên cứng rắn và hoàn thiện. Nếu không được nung trong lò lửa, chiếc bình chỉ là một thứ vô ích. Chúng ta không thích lò lửa, nhưng đó là điều chúng ta cần.

Giu-đa không giao phó chính mình vào tay người thợ gốm nên phải nhận cái chết đầy ô nhục. Các lãnh đạo tôn giáo đã mua một “mảnh ruộng của người thợ gốm” bằng chính tiền của Giu-đa trả lại và họ xây một nghĩa trang, nơi mà những người xa lạ được chôn cất. Phải chi Giu-đa học được bài học đầu phục Người Thợ Gốm! Bạn sẽ là một sự thành công trước mặt Chúa nếu bạn đầu phục Người Thợ Gốm và tin rằng Ngài có thể uốn nắn bạn một lần nữa.

Đức Giê-hô-va sẽ làm xong việc thuộc về tôi.

Hỡi Đức Giê-hô-va, sự nhân từ Ngài còn đến đời đời;

Xin chớ bỏ công việc của tay Ngài.

Thi Thiên 138:8

 

 

 

 

 

Bài 70

Vì ta biết ý tưởng ta nghĩ đối cùng các ngươi, là ý tưởng bình an, không phải tai họa, để cho các ngươi được sự trông cậy trong lúc cuối cùng của mình.

Giê-rê-mi 29:11

Khi đánh chiếm thành Giê-ru-sa-lem, quân đội Ba-by-lôn đã phá hủy thành phố này, cướp lấy của báu trong đền thờ, và bắt nhiều người dân đi lưu đày đến Ba-by-lôn. Tiên tri Giê-rê-mi chọn ở lại thành phố đổ nát với những người còn sót ở lại, song ông viết một bức thư cho những người bị lưu đày để dạy họ phải sống xứng đáng là một dân tộc của Đức Chúa Trời ở một nơi xa lạ mà cư dân ở đó không thờ phượng Chúa. Dân sự của Đức Chúa Trời ngày nay đang sống trong một môi trường mà phần lớn là những người không tin Chúa, chính vì thế chúng ta có thể học được những trách nhiệm của mình từ Giê-rê-mi.

 

Hãy tiếp nhận ý muốn Chúa. Các tiên tri giả trong vòng tuyển dân tại Ba-by-lôn nói với dân sự rằng trong vòng hai năm nữa dân Do Thái sẽ hồi hương cùng với các châu báu của họ (Giê-rê-mi 28:1-11), tuy nhiên Giê-rê-mi nói rằng thời gian là bảy mươi năm (29:10)! Nhìn lại lịch sử tuyển dân, chúng ta biết rằng rất nhiều lần Chúa đã sai phái các tiên tri của Ngài để cảnh báo dân sự, song họ không nghe theo. Họ không thể thay đổi quá khứ, nhưng họ có thể học được các bài học từ quá khứ. Từ tai họa được dịch trong câu Kinh Thánh hôm nay có nghĩa là “điều gây nguy hại.” Đức Chúa Trời đang khiến cho dân sự chịu đau khổ, nhưng không gây nguy hiểm cho họ. Đôi khi các bác sĩ làm cho tôi cảm thấy đau, nhưng họ không bao giờ muốn cho tôi gặp nguy hiểm. Khi những người lưu đày ngồi thẫn thờ, than phiền và kiếm cách phục hận (Thi Thiên 137), khi ấy họ chẳng có thể làm được gì mà chỉ khiến cuộc sống thêm đau khổ. Ngày nay dân sự của Đức Chúa Trời có thể lâm vào hoàn cảnh khó khăn bởi vì tội lỗi của chính họ hoặc cũng có thể là tội lỗi của những người khác, tuy nhiên trong hoàn cảnh nào, chúng ta cũng đều phải đầu phục ý muốn Chúa. Ngài biết điều mà Ngài đang hành động, và nơi an ninh nhất trên thế giới này chính là ở trong ý muốn của Chúa. Hãy chấp nhận ý muốn Chúa. Ngài luôn nhớ đến, luôn yêu thương và Ngài có ý muốn tốt đẹp nhất cho dân sự của Ngài.

 

Hãy vâng theo sự hướng dẫn của Chúa. Giê-rê-mi không dạy dân chúng phải phản kháng, ông cũng không tổ chức những cuộc biểu tình hoặc xây dựng một phong trào chống đối ngầm, song ông dạy họ cứ sống cuộc sống bình thường, nuôi dưỡng gia đình, và chuẩn bị cho tương lai. Ông nài xin họ hãy cầu nguyện cho thành Giê-ru-sa-lem (Giê-rê-mi 29:7) cũng như cầu nguyện cho chính họ (c. 12). Cả Phao-lô và Phi-e-rơ đều nhắc nhở Hội Thánh đầu tiên về điều này (Rô-ma 13; 1 Ti-mô-thê 2:1-4; 1 Phi-e-rơ 2:13-15), và ngày nay lời dạy này cần được lưu tâm đến. Cơ đốc nhân phải là những con người đem lại sự hòa bình chứ không phải là những người gây ra rắc rối. Nếu vấn đề khó khăn xảy đến bởi vì chúng ta làm chứng cho Đấng Christ, thì trước hết chúng ta phải vâng phục Chúa (Công vụ 4:19-20), nhưng thậm chí việc làm chứng ấy cũng phải đi kèm sự mềm mại và tình yêu thương. Người Do Thái bị lưu đày đã lắng nghe lời khuyên của Giê-rê-mi. Bảy mươi năm sau, hàng ngàn người trong số họ đã hồi hương, tái thiết thành Giê-ru-sa-lem và đền thờ, và tiếp tục gia tăng dân số trong vùng đất. Nhờ tấm gương của họ, ngày nay chúng ta có được sự hiểu biết về một Đức Chúa Trời chân thật và hằng sống, hiểu biết về Kinh Thánh và về Đấng Cứu Rỗi, Đức Chúa Giê-su Christ.

 

Hãy tin cậy lời hứa của Chúa. Nếu bạn tiếp nhận Đức Chúa Giê-su Christ là Đấng Cứu Rỗi và là Chúa đồng thời lưu tâm đến Lời Chúa thì bạn sẽ có một tương lai chắc chắn. Khi Đức Chúa Trời đặt chúng ta vào trong lò lửa, Ngài luôn nhìn vào nhiệt độ của chiếc lò và tay Ngài đặt trên nút điều khiển nhiệt độ. Chúa biết quá trình đó cần phải có cường độ như thế nào trong thời gian bao lâu. Chúa sẽ không phá vỡ giao ước Ngài với Áp-ra-ham, Y-sác, Gia-cốp và Đa-vít, Ngài cũng không quên những lời hứa của Ngài với các tiên tri (Giê-rê-mi 24:6; 30:10-11; 31:10-14). Mỗi một người sống thì đều có một tương lai cho đến lúc họ lìa đời, song không phải ai cũng có một tương lai cùng với sự hy vọng. “Vả, mọi sự đã chép từ xưa đều để dạy dỗ chúng ta, hầu cho bởi sự nhịn nhục và sự yên ủi của Kinh thánh dạy mà chúng ta được sự trông cậy” (Rô-ma 15:4).

Hiện tại sẽ đầy đắc thắng nếu chúng ta sống mỗi một ngày, học bài học của quá khứ, nhìn về tương lai, và vâng theo ý muốn của Đức Chúa Trời. Hãy nhớ rằng, Đức Chúa Trời luôn nghĩ đến bạn và Ngài có kế hoạch tốt đẹp dành cho bạn.

Đáng khen ngợi Đức Giê-hô-va… về các lời tốt lành mà Ngài đã cậy miệng Môi-se, kẻ tôi tớ Ngài, phán ra, chẳng có một lời nào không ứng nghiệm.

1 Các Vua 8:56

 

 

 

Bài 71

Đức Giê-hô-va phán như vầy: Dân sót lại thoát khỏi gươm dao, tức là Y-sơ-ra-ên, đã được ơn trong đồng vắng, khi ta đi khiến chúng nó được yên nghỉ.

Giê-rê-mi 31:2

Nếu không có Chúa đi cùng, bạn sẽ không mong tìm thấy ân điển trong đồng vắng; tuy nhiên Chúa có thể dùng những “trải nghiệm trong đồng vắng” để dạy dỗ chúng ta những bài học thuộc linh quý báu.

Đối với người Y-sơ-ra-ên, đồng vắng là nơi thử thách. Đức Chúa Trời dẫn dân sự đi trong đồng vắng suốt bốn mươi năm để khiến họ khiêm nhường và để thử thách họ (Phục truyền luật lệ ký 8:2); nhưng dân sự thường thất bại trước những thử thách ấy. Đức Chúa Trời ngày đêm dẫn dắt họ, Ngài ban cho họ thức ăn và nước uống, và Ngài giúp họ đánh bại kẻ thù – song nhiều lần họ lại muốn quay về với sự trói buộc tại đất Ai Cập. Họ chọc giận cả Đức Chúa Trời lẫn Môi-se, nhưng Chúa vẫn giúp đỡ họ vượt qua khó khăn. Đó chính là ân điển! Đức Chúa Trời biết tấm lòng của dân sự Ngài, nhưng họ thì không, chính vì thế những sự thử thách của Chúa đã giúp họ nhận thấy mình nghèo thiếu như thế nào.

 

Đồng vắng là nơi huấn luyện Đa-vít, Ê-li, và Giăng Báp-tít. Tại đồng vắng, Đa-vít trốn khỏi vua Sau-lơ (Thi Thiên 63), cũng tại đó Ê-li học bài học không được lẩn trốn khỏi trách nhiệm của mình (1 Các vua 19). Tiên tri Ê-li khi ấy đã mệt mỏi và đói bụng, nhưng lời đe dọa giết người của hoàng hậu Giê-sa-bên khiến ông sợ hãi, và Đức Chúa Trời đã ban cho ông được nghỉ ngơi, ban thức ăn và sai ông quay trở lại với chiến trận. Giăng Báp-tít lớn lên trong đồng vắng và học lắng nghe tiếng Chúa (Lu-ca 1:80; Ma-thi-ơ 3:1, 3). Chính trong những lúc khó khăn của cuộc sống mà chúng ta khám phá ân điển của Chúa dành cho đầy tớ của Ngài, dù họ đang trải qua những cung bậc cảm xúc như thế nào. “Nầy, Đức Chúa Trời là sự cứu rỗi tôi; tôi sẽ tin cậy và không sợ hãi” (Ê-sai 12:2).

 

Đối với Đức Chúa Giê-su, đồng vắng là nơi cám dỗ, song Ngài đã biến nơi ấy thành nơi đắc thắng (Ma-thi-ơ 4:1-11), là nơi mà Ngài có thể tương giao với Đức Chúa Cha (Lu-ca 5:16). Ngài thường đến đồng vắng để tránh khỏi đoàn dân đông và có thời gian rất cần thiết cho sự cầu nguyện và tĩnh nguyện (Ê-sai 50:4-5). Đã bao giờ bạn có “thời gian nghỉ ngơi phước hạnh” khi bạn ở một mình và yên lặng chờ đợi trước Chúa? Tôi khuyên bạn nên có thời giờ ấy.

Tại Sa-ma-ri, khi đang có những cuộc gặp mặt đầy tuyệt vời thì Đức Chúa Trời kêu gọi nhà truyền giáo Phi-líp vào đồng vắng để chia sẻ phúc âm cho một người, và chính đồng vắng ấy trở thành nơi chứng đạo (Công vụ 8:5-8, 26-40). Người đang đi trên con đường ấy là một quan chức cấp cao tại Ê-thi-ô-bi. Đối với người Do Thái thì ông là một người cải đạo, và Phi-líp đã giới thiệu ông đến với Chúa Cứu Thế. Phao-lô và Si-la cũng trải qua kinh nghiệm tương tự trong tù giam tại xứ Phi-líp. Khi họ cầu nguyện và thờ phượng Chúa thì người cai ngục và gia đình ông đã tin đạo, và rất có thể một số tù nhân khác cũng vậy (Công vụ 16:25-34). Ngợi khen Chúa trong những thời gian “đồng vắng”, đau đớn và thử thách có thể mở ra những cánh cửa, những tấm lòng và đem lại cho chúng ta một mùa gặt. Nói về Phao-lô, khi liệt kê ra những thử thách của mình ông nhắc chúng ta rằng ông đối diện với những “hiểm nguy trong các đồng vắng” (2 Cô-rinh-tô 11:26). Ông không giải thích những hiểm nguy ấy là gì, nhưng việc đi lại trong thời ấy không hề bình an, cũng không hề dễ chịu, và Phao-lô thì phải đi lại rất nhiều.

Thế giới ngày nay là một hoang mạc lớn khiến cho thiên trình của chúng ta không dễ dàng. Phi-e-rơ mô tả thế giới là “nơi tối tăm,” và từ tối tăm được dịch có nghĩa là “dơ bẩn, âm u, khốn khổ, sa đọa,” như một đầm lầy đầy nguy hiểm (2 Phi-e-rơ 1:19). Nhưng chúng ta có Lời Chúa chiếu sáng trong thế giới tối tăm buồn thảm và cho chúng ta nhìn thấy con đường, cũng như trụ mây và trụ lửa dẫn đường cho dân Y-sơ-ra-ên khi xưa. Hãy tập trung vào Kinh Thánh thì thế gian sẽ không thể khiến bạn lạc đường. Vùng đất hoang sẽ trở nên vùng đất tuyệt vời khi Đức Chúa Trời đổ ân điển Ngài trên bạn.

Lời Chúa là ngọn đèn cho chân tôi,

Ánh sáng cho đường lối tôi.

Thi Thiên 119:105

 

 

 

 

Bài 72

Đức Giê-hô-va phán: Nầy là giao ước mà ta sẽ lập với nhà Y-sơ-ra-ên sau những ngày đó. Ta sẽ đặt luật pháp ta trong bụng chúng nó và chép vào lòng. Ta sẽ làm Đức Chúa Trời chúng nó, chúng nó sẽ làm dân ta.

Giê-rê-mi 31:33

Ý nghĩ Đức Chúa Trời vĩ đại và thánh khiết sẵn lòng trở thành Đức Chúa Trời của chúng ta và Ngài chia sẻ chân lý cho chúng ta bằng việc Đức Thánh Linh viết những chân lý ấy trong tâm trí và tấm lòng mình, thật suy nghĩ ấy nên tràn ngập trong con người và khiến chúng ta đầy lòng cảm tạ, vui mừng và vâng phục. Hãy cùng suy ngẫm Đức Chúa Trời của chúng ta là ai!

 

Ngài là Đức Chúa Trời của tình yêu thương (2 Cô-rinh-tô 13:11). Các quốc gia ngoại giáo tự tạo dựng nên các thần đòi hỏi những ai thờ phượng các thần ấy phải dâng con cái của họ trên bàn thờ, nhưng Đức Chúa Trời của chúng ta thì sai Con một của Ngài trở nên một con trẻ để lớn lên và trở thành của hy sinh chuộc tội lỗi của chúng ta. Ngài chào đón các thiếu nhi, ôm các cháu trong tay và ban phước cho các cháu (Ma-thi-ơ 19:13-15). Đức Chúa Giê-su yêu thương và tiếp đón các tội nhân đến với Ngài để nhận ơn cứu rỗi (Lu-ca 19:10). Tình yêu thương của Đức Chúa Trời là tình yêu thương vĩ đại (Ê-phê-sô 2:4).

 

Ngài là Đức Chúa Trời của mọi ân điển (1 Phi-e-rơ 5:10). Bởi ân điển, Đức Chúa Trời ban cho chúng ta điều mà chúng ta không xứng đáng nhận lấy, và chúng ta nhận lấy ân điển của Chúa bởi đức tin để có thể hầu việc Chúa và làm việc lành. Phao-lô viết rằng: “Nhưng tôi nay là người thể nào, là nhờ ơn Đức Chúa Trời” (1 Cô-rinh-tô 15:10), và Chúa phán cùng Phao-lô rằng: “Ân điển ta đủ cho ngươi rồi” (2 Cô-rinh-tô 12:9). Ân điển Chúa cũng đủ cho chúng ta!

 

Ngài là “Đức Chúa Trời, duy Ngài có sự khôn ngoan” (1 Ti-mô-thê 1:17). Chúng ta đang sống giữa một thế giới “bùng nổ tri thức” khi thông tin điện tử lan truyền cách nhanh chóng, nhưng lại thiếu sự khôn ngoan. Con người dường như không biết phải sử dụng thông tin mà họ nhận được như thế nào. Dân sự của Đức Chúa Trời có thể cầu xin sự khôn ngoan (Gia-cơ 1:5) và tìm thấy sự khôn ngoan trong Kinh Thánh. “Kính sợ Đức Giê-hô-va, ấy là khởi đầu sự khôn ngoan” (Châm Ngôn 9:10).

 

Ngài là Đức Chúa Trời vinh hiển (Công vụ 7:2). Trước khi Áp-ra-ham và Sa-ra tin Đức Chúa Trời chân thật và hằng sống, họ đã thờ phượng nữ thần mặt trăng tại U-rơ xứ Cha-ran. Các thần tượng chết thì không có sự vinh hiển và ông bà nhận thấy điều đó. Đức Chúa Giê-su tạm rời khỏi sự vinh quang của Ngài để đến thế gian làm người, nhưng khi Ngài trở về thiên đàng, Ngài có lại sự vinh quang và chia sẻ sự vinh quang ấy cho dân sự của Ngài (Giăng 17:22). Một phần của sự vinh quang ấy chiếu ra từ gương mặt Ê-tiên khi ông trình bày trước hội đồng Do Thái (Công vụ 6:15). “Ai khoe mình, hãy khoe mình trong Chúa.” (1 Cô-rinh-tô 1:31).

 

Ngài là Đức Chúa Trời hằng sống (1 Tê-sa-lô-ni-ca 1:9). Không như những thần tượng chết do bàn tay con người lập nên, Đức Chúa Trời mà chúng ta thờ phượng và hầu việc là Đức Chúa Trời hằng sống và không bao giờ chết. Đức Chúa Trời có thể đi cùng chúng ta, phán với chúng ta, giúp đỡ chúng ta giải quyết những vấn đề, chiến đấu trong các chiến trận của chúng ta và Ngài không bao giờ chán việc chăm sóc cho con cái của Ngài. Đức Thánh Linh là Thánh Linh của Đức Chúa Trời hằng sống (2 Cô-rinh-tô 3:3) và dân sự của Đức Chúa Trời là “Hội thánh của Đức Chúa Trời hằng sống” (1 Ti-mô-thê 3:15). Nếu chúng ta thật tâm nhận biết Đức Chúa Trời qua đức tin nơi Đức Chúa Giê-su Christ, thì sự sống của Chúa sẽ tỏa soi qua chúng ta trong bước đi mỗi ngày, trong sự thờ phượng và phục vụ của chúng ta.

 

Ngài là Đức Chúa Trời bình an (Phi-líp 4:9). Đức Chúa Trời không tuyên chiến với con người; nhưng chính con người đã tuyên chiến cùng Chúa (Rô-ma 1:18). Lời đầu tiên mà Chúa phán cùng các môn đồ của Ngài sau khi phục sinh đó là “Bình an cho các ngươi” (Giăng 20:19, 21).

Ngài là Đức Chúa Trời của sự hy vọng (Rô-ma 15:13). Những ai không có Chúa thì không có sự hy vọng; những ai tin cậy nơi Đấng Christ thì có sự hy vọng sống (1 Phi-e-rơ 1:3). Một ngày trong tương lai, chúng ta sẽ đến thiên đàng và nhìn thấy Đức Chúa Giê-su!

Chúng ta có thể tiếp tục suy ngẫm về sự vĩ đại của Đức Chúa Trời, tuy nhiên bài học hôm nay đã đủ để làm xúc động tấm lòng của mỗi một Cơ Đốc Nhân chân thật. Và Ngài đã thiết lập giao ước với chúng ta!

Vì Đức Chúa Trời nầy

là Đức Chúa Trời chúng tôi đến đời đời vô cùng;

Ngài sẽ dẫn chúng tôi

cho đến kỳ chết.

Thi Thiên 48:14

 

 

 

 

 

Bài 73

Vậy tôi mua ruộng ở A-na-tốt của Ha-na-mê-ên, con trai chú tôi, và tôi cân mười bảy siếc-lơ bạc cho người.

Giê-rê-mi 32:9

Tôi nghĩ nhiều người sẽ cho rằng Giê-rê-mi thật ngu ngốc khi mua một mảnh ruộng cách thành Giê-ru-sa-lem khoảng 5 km và đã bị quân đội Ba-by-lôn vây hãm và chiếm lấy. Tuy nhiên Giê-rê-mi biết tại sao mình làm điều đó: Đức Chúa Trời đã truyền cho ông phải làm. Đó chính là một bài giảng bằng hành động. Tiên tri Giê-rê-mi trước đó đã công bố rằng những người Do Thái bị bắt lưu đày tại Ba-by-lôn sau bảy mươi năm sẽ được hồi hương (25:11-12; 29:10; 32:15, 37-44), và giờ đây Giê-rê-mi đang củng cố lời tuyên bố của mình bằng hành động. Đức tin không có việc làm là đức tin chết (Gia-cơ 2:17). Chiếc bình chứa đựng công việc của người thợ gốm sẽ là một sự nhắc nhở về lời hứa của Đức Chúa Trời. Giê-rê-mi sẽ không bao giờ lấy mảnh đất ấy, nhưng một thành viên trong gia đình ông có thể lấy tờ khế và sở hữu mảnh đất.

Đức Chúa Trời dùng nhiều phương cách để nhắc nhở dân sự của Ngài về phước hạnh trong tương lai và qua đó ban cho họ có lòng tin trong những thời gian thử thách. Khi Giô-sép gần lìa đời, ông đảm bảo cho các anh em của mình rằng họ sẽ rời Ai Cập để đi đến miền đất đã hứa cho Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp. Ông truyền cho họ hãy nói cho các thế hệ kế tiếp hãy đem xác của ông trong quan tài và chôn cất cùng với các tổ phụ trong Đất Hứa (Sáng thế ký 50:22-26) – và họ đã thực hiện điều ấy (Xuất Ê-díp-tô ký 13:19; Giô-suê 24:32; Công vụ 7:15-16). Trong thời gian làm nô lệ tại Ai Cập, chiếc quan tài của Giô-sép chắc hẳn đã đem lại cho người Do Thái niềm hy vọng. Khi viếng thăm mộ phần của một người tin Chúa, chúng ta thường nhìn xuống nấm mồ với sự đau buồn, nhưng chúng ta nên nhìn lên Chúa với sự vui mừng và nói rằng: “Khi Ngài trở lại, Ngài sẽ khiến cho ngôi mộ này trống! Ha-lê-lu-gia!”

 

Một ngôi mộ đã khích lệ các nô lệ Do Thái tại Ai Cập, một chiếc bình gốm đã khích lệ những người Do Thái bị lưu đày tại Ba-by-lôn, nhưng Chúa ban cho dân sự của Ngài ngày nay một bữa ăn đơn giản để khích lệ họ chờ đợi sự trở lại của Chúa (Ma-thi-ơ 26:26-30). Trong bữa ăn lễ Vượt Qua cuối cùng với các môn đồ, Đức Chúa Giê-su đã thiết lập Tiệc Thánh và dạy họ phải giữ lễ ấy để tưởng nhớ đến Ngài và chờ đợi ngày Chúa tái lâm (1 Cô-rinh-tô 11:23-26). Người tin Chúa tham gia vào bữa ăn gia đình này, họ nhìn về thập giá, nhìn vào tấm lòng của chính mình, và hướng đến sự trở lại của Đức Chúa Giê-su. “Ai có sự trông cậy đó trong lòng, thì tự mình làm nên thanh sạch, cũng như Ngài là thanh sạch” (1 Giăng 3:3). Ngày nay, mỗi Hội Thánh đều có một lịch cử hành Tiệc Thánh riêng, tuy nhiên các tín hữu đầu tiên đã giữ lễ này vào mỗi Chủ Nhật khi họ nhóm nhau lại và họ cũng thường cử hành Tiệc Thánh khi kết thúc một bữa ăn thông thường trong tuần.

 

Thân thể của mỗi một người tin Chúa giống như một chiếc bình gốm, là nơi ngự của Đức Thánh Linh (2 Cô-rinh-tô 4:7). Tại sao Ngài ngự tại đó? Ngài có rất nhiều mục vụ, nhưng theo Ê-phê-sô “Thánh Linh lời hứa” ấn chứng để chúng ta biết rằng mình thuộc về Chúa, và Ngài sẽ trở lại để đem chúng ta về với cơ nghiệp của chúng ta trên thiên đàng (Ê-phê-sô 1:13-14). Thánh Linh của Đức Chúa Trời mãi mãi ở cùng chúng ta (Giăng 14:16), điều này đem lại cho chúng ta có niềm tin và sự can đảm, dù cuộc sống có trở nên khó khăn như thế nào. Thánh Linh lời hứa hướng đôi mắt đức tin của chúng ta vào những lời hứa của Đức Chúa Trời, đặc biệt là những lời hứa về sự tái lâm của Đấng Christ, đồng thời đảm bảo cho chúng ta rằng Đức Chúa Giê-su sẽ giữ lời hứa Ngài. Vậy hãy cứ tiếp tục nhìn lên! Đừng nản lòng và đừng từ bỏ.

Có lời Đức Giê-hô-va được phán cho Giê-rê-mi như vầy: Nầy, Ta là Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của mọi xác thịt; có sự gì khó quá cho Ta chăng?

Giê-rê-mi 32:26-27

 

 

 

 

 

Bài 74

Giê-rê-mi bèn lấy một cuốn khác đưa cho thơ ký Ba-rúc, con trai Nê-ri-gia; Ba-rúc cứ miệng Giê-rê-mi mà chép lại mọi lời trong cuốn mà Giê-hô-gia-kim, vua Giu-đa, đã đốt đi trong lửa. Có nhiều lời giống nhau đã thêm vào đó.

Giê-rê-mi 36:32

 

Một thế hệ mới. Giê-hô-gia-kim, con trai của Giô-si-a, lên ngôi làm vua Giu-đa. Cha của ông là một con người vĩ đại về đức tin và lòng can đảm, nhưng Giê-hô-gia-kim thì ngược lại. Ông không lắng nghe lời khuyên của tiên tri Giê-rê-mi nhưng “làm điều ác tại trước mặt Đức Giê-hô-va” (2 Các vua 23:37). Thay vì hy sinh những lợi ích cá nhân để chăm lo cho dân chúng đang thiếu thốn, Giê-hô-gia-kim tự xây cho mình cung điện xa hoa rộng lớn vào thời điểm mà Giu-đa cần một hình mẫu lãnh đạo tốt hơn (Giê-rê-mi 22:13-19). Trong thời trị vì của Giô-si-a, quyển sách luật pháp được tìm thấy trong đền thờ, và khi quyển sách ấy được đọc cho Giô-si-a, ông đã xé áo mình, xưng tội, và kêu gọi cả đất nước hãy ăn năn (2 Các vua 22). Nhưng khi con mình là Giê-hô-gia-kim lắng nghe Kinh Thánh, ông đã cắt và đốt Kinh Thánh! Thật đáng buồn thay khi một thế hệ mới đã từ bỏ đức tin của cha ông mình. Nếu noi theo gương cha mình thì Giê-hô-gia-kim đã có thể thoát khỏi sự chiến bại và cái chết đầy hổ thẹn.

 

Sự cám dỗ từ đời xưa. Một sự dối trá từ rất xa xưa đã chiếm lấy tâm trí và tấm lòng của Giê-hô-gia-kim, lời nói dối ấy lần đầu tiên được ma quỷ nói ra trong Vườn Ê-đen: “Đức Chúa Tri há có phán…?” (Sáng thế ký 3:1). “Bạn thật sự có thể tin vào điều Chúa phán?” Vua Giê-hô-gia-kim không tin lời của tiên tri Giê-rê-mi chính là lời của Đức Chúa Trời, ông cũng không tin những lời ấy là một thông điệp dành cho chính ông. Một số quan chức nhà vua khi nghe đọc cuộn Kinh Thánh thì run sợ, nhưng nhà vua thì không hề quan tâm. Ông đốt cuộn Kinh Thánh. Bàn tay con người có thể hủy hoại các bản sao Lời Chúa, nhưng họ không bao giờ có thể hủy hoại Lời Chúa. “Hỡi Đức Giê-hô-va, lời Ngài được vững lập đời đời trên trời” (Thi Thiên 119:89). Đức Chúa Giê-su phán rằng: “Trời đất sẽ qua, nhưng lời ta nói chẳng bao giờ qua đi” (Ma-thi-ơ 24:35). Giê-hô-gia-kim tin vào những lời lẽ dối trá của các cố vấn và các tiên tri giả, nhưng ông không tin vào chân lý của Đức Chúa Trời được nói ra từ một tiên tri chân thật. Các lãnh đạo thế giới thường mắc phải lỗi lầm này, nhưng “lời của Đức Chúa Trời bền vững đời đời” (1 Phi-e-rơ 1:23).

 

Ân điển đem lại sự phục hồi. Khi thơ ký Ba-rúc báo lại rằng vua Giê-hô-gia-kim đã phá hủy cuộn Kinh Thánh, tiên tri Giê-rê-mi “lấy một cuốn khác” mà đọc để chép lại một bản Kinh Thánh khác. Đối với quốc gia, đây là một hành động đầy ân điển của Chúa, nhưng đối với nhà vua, số phận của ông đã được định đoạt. Phá hủy bằng chứng không giúp cho phạm nhân được tự do! Bản ký thuật ghi lại rằng Giê-hô-gia-kim chối bỏ ý muốn của Đức Chúa Trời và phải trả giá đắt cho sự ngu ngốc của mình, và ngày nay chúng ta đọc thấy câu chuyện này trong Kinh Thánh và học bài học từ đó. Thế giới sa ngã ghét bỏ Kinh Thánh bởi vì Kinh Thánh chiếu ánh sáng vào sự xấu xa trong lòng người. Đồng thời Kinh Thánh bày tỏ tấm lòng ân điển của một Đức Chúa Trời yêu thương. “Bởi vì phàm ai làm ác thì ghét sự sáng và không đến cùng sự sáng, e rằng công việc của mình phải trách móc chăng” (Giăng 3:20).

 

Nghĩa vụ vinh dự. Những nhà cầm quyền có thể làm ngơ trước Kinh Thánh hoặc thậm chí muốn phá hủy chúng, nhưng dân sự của Đức Chúa Trời có nghĩa vụ phải yêu mến, đọc, học và vâng theo Lời Chúa. Chúng ta phải chào đón Lời Chúa “không coi như lời của loài người, bèn coi như lời của Đức Chúa Trời, vì thật là lời Đức Chúa Trời, cũng hành động trong anh em có lòng tin” (1 Tê-sa-lô-ni-ca 2:13).Tin vào Kinh Thánh thôi chưa đủ, nhưng chúng ta phải tiếp nhận Lời Chúa vào chính mình cũng như việc ăn uống vậy. Chúng ta có đang tận dụng vinh dự này hay không?

Người ta sống chẳng phải chỉ nhờ bánh mà thôi, song nhờ mọi lời nói ra từ miệng Đức Chúa Trời.

Ma-thi-ơ 4:4

 

 

Bài 75

[Nê-bu-xa-ra-đan, làm đầu thị vệ, Nê-bu-sa-ban, làm đầu hoạn quan, Nẹt-gan-Sa-rết-sê, làm đầu bác sĩ, và hết thảy các quan tướng của vua Ba-by-lôn] sai tìm Giê-rê-mi trong hành lang lính canh, rồi trao người cho Ghê-đa-lia… đặng đưa người về trong nhà. Người bèn ở giữa dân sự.

Giê-rê-mi 39:14

 

Thời gian đầu trong chức vụ, Giê-rê-mi muốn tìm một nơi trong đồng vắng để được sống cách biệt và không phải chứng kiến những hành động không kính sợ Chúa của dân sự (Giê-rê-mi 9:1-6). Tuy nhiên chúng ta đừng quá khắc khe đối với ông, bởi vì Môi-se cũng đã từng quá đau buồn vì dân Y-sơ-ra-ên đến nỗi ông đã muốn chết (Dân số ký 11:10-15), còn Đa-vít thì cầu nguyện xin có được đôi cánh để có thể bay khỏi Giê-ru-sa-lem để tìm sự bình an (Thi Thiên 55:6-8). Bởi ân điển Chúa, cả ba nhân vật trên đều trung kiên với công tác phục vụ Chúa và phục vụ dân sự. Đội trưởng người Ba-by-lôn đề nghị đưa Giê-rê-mi sang Ba-by-lôn, nơi ông có thể được chăm sóc, tuy nhiên ông chọn ở lại với dân sự của mình. Khi bạn cảm thấy muốn trốn tránh khỏi thực tại, hãy suy nghĩ đến những yếu tố khiến Giê-rê-mi trụ lại giữa lúc việc tiếp tục dường như quá khó khăn.

 

Ông có mối tương giao mật thiết với Đức Chúa Trời. Khi kêu gọi Giê-rê-mi bước vào chức vụ, Đức Chúa Trời đã phán cùng ông rằng: “Đừng sợ vì cớ chúng nó; vì Ta ở với ngươi đặng giải cứu ngươi, Đức Giê-hô-va phán vậy” (Giê-rê-mi 1:8; xem 17-19). Giê-rê-mi tin vào lời hứa của Chúa và Ngài không bao giờ từ bỏ ông. Vua cùng các quan chức Giu-đa muốn từ bỏ dân sự mà tìm cách trốn khỏi kinh đô, song họ bị bắt và bị xử phạt (39:1-10). Họ trốn chạy bởi vì họ chỉ là người làm công chứ không phải người chăn (Giăng 10:12-13). Giê-rê-mi khóc vì dân sự, thậm chí ông ước ao có thể được khóc nhiều hơn nữa (Giê-rê-mi 4:19; 9:1; 23:9). Ông là một nhà yêu nước chân chính, một người yêu tổ quốc và hết mình nỗ lực để cứu đất nước khỏi sụp đổ, và tình yêu đó đến từ bước đi mật thiết với Đức Chúa Trời, bởi vì Chúa yêu thương Y-sơ-ra-ên bằng một tình yêu đời đời (31:3). Chữ tấm lòng xuất hiện bảy mươi lăm lần trong sách Giê-rê-mi và Ca Thương.

 

Ông tiếp nhận sự kêu gọi của mình. Giê-rê-mi biết rằng công tác của ông sẽ không hề dễ dàng. Ông phải nhận từ Chúa Lời chỉ dẫn trước khi có thể trồng và xây (1:9-10). Các lãnh đạo không kính sợ Chúa sẽ chống đối ông, nhưng Chúa sẽ khiến ông trở nên một thành vững chắc, một trụ cột bằng sắt, và tường bằng đồng (1:17-19). Cách duy nhất để tiếp tục tiến về phía trước đó là tiếp nhận vai trò của mình. Đức Chúa Trời khiến ông trở thành một người phân kim để ông tách tạp chất ra khỏi vàng (6:27-30), nhưng dân sự không muốn điều đó. Các tiên tri giả là các bác sĩ giả dối, họ nói dối về hiện trạng của quốc gia và kê những phương thuốc không tốt (6:13-14; 8:21-22). Giê-rê-mi như một con chiên bị dắt đến hàng làm thịt (11:19), hay một người chăn đang cố dẫn dắt một đàn chiên phản nghịch (13:17; 23:1-6). Ông phải mang chiếc ách (chương 27-28), nhưng Đức Chúa Trời cùng mang chiếc ách ấy và giúp đỡ ông vác lấy gánh nặng.

 

Chúng ta cũng tuyên bố cùng một đặc ân ấy khi phục vụ Chúa (Ma-thi-ơ 11:28-30). Giê-rê-mi nổi tiếng là một “tiên tri than khóc” (Giê-rê-mi 9:1; 13:17; 14:17), nhưng Đức Chúa Giê-su cũng khóc khi thi hành chức vụ (Lu-ca 19:41; Giăng 11:35) và Phao-lô cũng thế (Công vụ 20:19).

Ông chăm lo cho dân sự của Chúa. Dù có thể sống một cuộc sống thoải mái tại Ba-by-lôn, Giê-rê-mi chọn sống cùng dân sự, cầu nguyện cho họ, và chia sẻ lời hứa của Chúa cho họ. Ông luôn luôn nói ra lẽ thật cho dân chúng. Nếu các lãnh đạo tiếp nhận Lời Chúa thì thành phố và dân sự sẽ được giải cứu khỏi sự sụp đổ. Cũng như Đa-vít và Đức Chúa Giê-su, Giê-rê-mi nhìn dân chúng giống như đàn chiên không có người chăn, ông yêu thương họ dù họ không hiểu và chối bỏ thông điệp của ông (2 Sam-mu-ên 24:17; Ma-thi-ơ 9: 36; xem 2 Cô-rinh-tô 2:15). “Tình yêu thương chẳng hề hư mất bao giờ” (1 Cô-rinh-tô 13:8) dù cho chúng ta đã thất bại đau đớn, bởi vì tình yêu thương có thể khiến chúng ta trở nên giống Đức Chúa Giê-su hơn; Ngài đã đến ở giữa dân sự và giúp đỡ họ.

 

Ta thương xót đoàn dân nầy: Vì đã ba ngày nay, không rời bỏ ta, và chẳng có gì ăn.

Mác 8:2

 

 

 

 

Bài 76

Còn ngươi, ngươi còn tìm việc lớn cho mình hay sao? Chớ có tìm kiếm, vì nầy, ta sẽ giáng tai vạ cho mọi loài xác thịt; nhưng ngươi, hễ đi đến đâu, ta cũng sẽ ban mạng sống cho ngươi làm của cướp, Đức Giê-hô-va phán vậy.

Giê-rê-mi 45:5

Các sự kiện trong chương Kinh Thánh ngắn ngủi này có lẽ đã xảy ra vào khoảng giữa câu 8 và câu 9 chương 36. Thơ ký Ba-rúc đã viết “cuộn sách về sự phán xét” và ông đã đọc cuộn sách này cho Vua Giê-hô-gia-kim cùng các quan chức cấp cao, nhưng vua đã tiêu hủy cuộn sách ấy. Sau đó Giê-rê-mi đã đọc cho Ba-rúc viết một cuộn sách khác. Tất cả công việc nặng nhọc này, cùng với hành động và thái độ của nhà vua, đã khiến Ba-rúc cảm thấy phiền não và nản chí. Nhưng Đức Chúa Trời đã phán cùng Giê-rê-mi, và Giê-rê-mi nói với Ba-rúc để tháo gỡ vấn đề. Khi bạn ở trong hoàn cảnh tương tự, hãy nhớ những điều sau đây.

 

Đức Chúa Trời hiểu cảm giác của bạn. Tên Ba-rúc có nghĩa là “được phước từ Đức Chúa Trời,” song sau những gì đã xảy ra, ông không hề cảm thấy mình được phước. Theo chương 36, Ba-rúc đã đọc cuộn sách cho dân sự tại đền thờ và sau đó là cho các quan chức nhà vua tại trong cung. Khi nhà vua nghe đọc cuộn sách, ông đã cắt cuộn sánh thành từng mảnh, đốt chúng đi và muốn bắt giữ Ba-rúc, nhưng Chúa đã giấu ông. Sau những việc đã xảy ra, Ba-rúc phải viết lại cuộn sách, chính vì thế mà ông thở than mệt mỏi, ngất đi và không được nghỉ ngơi! Chúng ta không chán ngán công việc Chúa, nhưng chúng ta có thể mệt mỏi trong công tác Chúa. Ba-rúc sẵn sàng hỏi Giê-rê-mi những lời mà Phi-e-rơ đã hỏi Chúa: “Nầy, chúng tôi đã bỏ mọi sự mà theo thầy; vậy thì chúng tôi sẽ được chi?” (Ma-thi-ơ 19:27). Sa-tan đang thì thầm vào tai Ba-rúc rằng: “Ngươi sẽ nhận được gì? Ta có điều tốt hơn cho ngươi đây!” Đức Chúa Trời biết điều đó và Ngài có một giải pháp tốt hơn.

 

Đức Chúa Trời hiểu chúng ta muốn gì. Tâm điểm của mỗi một vấn đề đó chính là vấn đề của tấm lòng. Ba-rúc mắc phải một vấn đề nghiêm trọng trong tấm lòng và Đức Chúa Trời biết đó là vấn đề gì: Ba-rúc muốn tìm kiếm những công việc lớn lao hơn là những việc mà ông nhận được từ Giê-rê-mi. Ba-rúc xuất thân từ một gia đình rất được quý trọng tại Giu-đa. Ông nội của ông là Ma-a-xê-gia, một vị quan cai thành Giê-ru-sa-lem dưới thời vua Giô-si-a (2 Sử ký 34:8), và anh trai của Ba-rúc là Sê-ra-gia là một quan đại thần của Vua Giê-hô-gia-kim (Giê-rê-mi 32:12; 36:4; 51:59).

Với những “mối quan hệ” như thế, Ba-rúc đã có thể được bổ nhiệm vào trong cung vua và tránh được sự bắt bớ. Nhưng nơi an toàn nhất trong thế gian này đó chính là ở trong ý muốn của Chúa. Rất có thể Ba-rúc nghĩ rằng các lãnh đạo sẽ tiếp nhận lời cảnh báo của Chúa mà ăn năn, và rồi ông sẽ có chỗ đứng tốt giữa vòng dân sự và trong triều đình. Có lẽ đất nước sẽ xảy ra một cuộc phấn hưng như đã xảy ra dưới thời vua Giô-sia và Đức Chúa Trời sẽ giải cứu dân sự. Niềm hy vọng của Ba-rúc ra vô ích, nhưng Đức Chúa Trời biết và Ngài đảm bảo rằng tính mạng của ông sẽ không bị nguy hiểm.

 

Đức Chúa Trời muốn điều tốt nhất. Chúng ta không cần “những việc lớn và khó” cho bản thân mình; nhưng nhiệm vụ của chúng ta đó là cầu xin Chúa làm “những việc lớn và khó” để Danh Ngài được tôn cao (Giê-rê-mi 33:3). Nếu chúng ta đầu phục tất cả cho Chúa, cũng như Ma-ri khi xưa, thì một ngày trong tương lai chúng ta cũng sẽ có thể nói như bà rằng: “Bởi Đấng Toàn năng đã làm các việc lớn cho tôi” (Lu-ca 1:49). Phá hủy Giu-đa, phá hủy Giê-ru-sa-lem và bắt dân chúng đi lưu đày không khiến Chúa vui lòng, nhưng đó là việc phải xảy ra. Đức Chúa Trời đã ban đất và ban phước cho dân sự, nhưng vì phạm tội, dân sự đã vi phạm giao ước với Ngài nên Chúa phải kỷ luật họ (Giê-rê-mi 45:4). Hơn thế nữa, Giê-rê-mi đã trả giá nhiều hơn Ba-rúc, bởi vì ông đã bị lừa dối, bị cầm tù và bị đánh. Ông thường đau buồn và than khóc cho dân sự là những người sẽ bị lưu đày. Phần thưởng của ông là gì? Ông là một người rất kính sợ Chúa, đến nỗi có người  đã nghĩ rằng Đức Chúa Giê-su chính là Giê-rê-mi (Ma-thi-ơ 16:14)! Đó là một lời khen ngợi rất lớn dành cho Giê-rê-mi!

Trong vòng anh em phải ở cho hiệp ý nhau; đừng ước ao sự cao sang, nhưng phải ưa thích sự khiêm nhượng. Chớ cho mình là khôn ngoan.

Rô-ma 12:16

 

 

 

 

Bài 77

 

Ấy là nhờ sự nhân từ Đức Giê-hô-va mà chúng ta chưa tuyệt. Vì sự thương xót của Ngài chẳng dứt; Mỗi buổi sáng thì lại mới luôn, sự thành tín Ngài là lớn lắm.

Ca thương 3:22-23

Trên bàn làm việc kề chiếc máy tính của tôi là một bức tranh sao chép của bức: “Tiên tri Giê-rê-mi than khóc về sự sụp đổ thành Giê-ru-sa-lem” (The Prophet Jeremiah Lamenting the Destruction of Jerusalem” của họa sĩ Rembrandt. Bức tranh thể hiện nỗi buồn của Giê-rê-mi được mô tả qua sách Ca thương. Câu Kinh Thánh ngày hôm nay theo sau mười tám câu Kinh Thánh khác diễn tả nỗi đau buồn và rồi mở ra một phần về sự thương xót của Chúa mà ngày nay chúng ta có thể học được từ đó dù cuộc sống có khó khăn đến đâu.

Mỗi buổi sáng, hãy vui mừng! Hoàn cảnh có thể thay đổi và những cảm xúc của chúng ta đối với những hoàn cảnh đó cũng có thể thay đổi, nhưng Cha chúng ta trên thiên đàng không bao giờ thay đổi! “Ta là Đức Giê-hô-va, Ta không hề thay đổi” (Ma-la-chi 3:6). Mỗi một lần mặt trời mọc có nghĩa là chúng ta lớn thêm một ngày, nhưng Đức Chúa Trời không bao giờ già đi bởi vì Ngài là Đấng đời đời. Điều này có nghĩa là mỗi một bản tính thiêng liêng của Chúa không hề thay đổi, chính vì thế, chúng ta có thể nương dựa nơi sự thương xót, tình yêu thương và sự thành tín của Chúa (Ca thương 3:22-23). Bởi sự yêu thương của Ngài, Đức Chúa Trời không cho chúng ta nhận điều mà chúng ta đáng phải nhận lấy, và bởi ân điển và tình yêu thương, Ngài ban cho chúng ta điều mà chúng ta không xứng đáng nhận. Chữ sự thương xót trong câu Kinh Thánh hôm nay có thể được dịch là “tình yêu thương của giao ước” và “sự nhân từ đầy lòng yêu thương.” Mỗi một ngày trôi qua, chúng ta không biết những người thân trong gia đình, thầy giáo, bạn bè hoặc cấp trên sẽ trở nên như thế nào, nhưng chúng ta biết Đức Chúa Trời là ai, chính vì thế chúng ta hãy vui mừng.

 

Mỗi buổi sáng, hãy ghi nhớ. Những người Do Thái cùng than khóc với Giê-rê-mi biết điều gì đã xảy ra mỗi buổi sáng trong lịch sử Do Thái và tại đền thờ của họ. Họ biết rằng suốt thời gian lang thang trong đồng vắng, mỗi buổi sáng ma-na từ trời rơi xuống để cung cấp thức ăn cho dân sự (Xuất Ê-díp-tô ký 16); và mỗi buổi sáng chúng ta cần được ăn nuốt Lời Chúa để có sức mạnh thuộc linh cho những công tác trong ngày. “Người ta sống chẳng phải chỉ nhờ bánh mà thôi, song nhờ mọi lời nói ra từ miệng Đức Chúa Trời” (Ma-thi-ơ 4:4). Mỗi buổi sáng, các thầy tế lễ sẽ lấy củi chụm lửa thêm trên bàn thờ (Lê-vi-ký 6:12) để có thể tiếp tục dâng các sinh tế, và Phao-lô dùng hình ảnh này để khích lệ Ti-mô-thê nhen lại ngọn lửa trong lòng ông (2 Ti-mô-thê 1:6). Mỗi buổi sáng, các thầy tế lễ dâng của lễ thiêu (Xuất Ê-díp-tô ký 29:38-46), và mỗi buổi sáng chúng ta cũng phải dâng chính mình cho Chúa (Rô-ma 12:1-2). Việc xông hương vào mỗi sáng (Xuất Ê-díp-tô ký 30:7) nói về lời cầu nguyện (Thi Thiên 141:1-2), và chúng ta phải bắt đầu một ngày bằng lời cầu nguyện và tương giao với Chúa. Và cũng hãy ngợi khen và cảm tạ Đức Chúa Trời trước khi giao phó cho Ngài những gánh nặng (1 Sử ký 23:30). Khi còn là một sinh viên thần học, mỗi mùa hè tôi đều nhận một công việc toàn thời gian và làm việc theo ca, chính vì thế mỗi tuần tôi đều phải điều chỉnh thời gian biểu của mình; tuy nhiên điều đó không gây ảnh hưởng đến tôi vì dù giờ làm việc có thay đổi, tôi vẫn có thể gặp gỡ Chúa mỗi ngày.

 

Mỗi buổi sáng, hãy tiếp nhận. Trong Ca thương 3:22-24, Giê-rê-mi nhắc đến bốn đặc tính của Đức Chúa Trời: tình yêu thương, lòng thương xót, sự thành tín và niềm hy vọng. Tình yêu thương nói về sự tha thứ của Chúa, chính vì thế chúng ta đừng mang những tội lỗi trong quá khứ vào ngày mới. Lòng thương xót nói về sự chu cấp của Chúa cho những nhu cầu của chúng ta, vậy hãy cầu xin và tiếp nhận: “lại hãy trao mọi điều lo lắng mình cho Ngài, vì Ngài hay săn sóc anh em” (1 Phi-e-rơ 5:7). Mỗi buổi sáng, hãy cầu nguyện về lịch trình của bạn trong ngày và cầu xin Chúa những điều gì bạn cần. Ngày hôm đó sẽ đến với bạn tốt hơn. Sự thành tín của Chúa đảm bảo rằng chúng ta có thể nương dựa nơi Ngài và những lời hứa của Chúa. Về niềm hy vọng, chúng ta cần điều đó, bởi vì cuộc sống thường không xảy ra như dự định.

Gặp gỡ Chúa mỗi ngày chính là bí mật của cuộc “đời mới” mà mỗi một ngày đòi hỏi chúng ta (Rô-ma 6:4), vậy hãy bắt đầu bước đi trên con “đường mới và sống” (Hê-bơ-rơ 10:20).

Đức Giê-hô-va ban sự nhân từ cho những kẻ trông đợi Ngài,

Cho linh hồn tìm cầu Ngài.

Ca thương 3:25

 

 

 

 

 

Bài 78

Nầy, ta thấy có luồng gió bão đến từ phương bắc, một đám mây lớn bọc lửa giãi sáng khắp tư bề; từ giữa nó, thấy như loài kim bóng nhoáng ra từ chính giữa lửa.

Ê-xê-chi-ên 1:4

 

Một nơi ở mới. Thầy tế lễ Ê-xê-chi-ên bị bắt sang Ba-by-lôn trong đợt lưu đày thứ hai. Vì không còn ở tại đền thờ và các khí cụ trong đền thờ, Ê-xê-chi-ên không thể tiếp tục mục vụ thường ngày của mình. Khi Chúa đem chúng ta đến một nơi khác, rất có thể chúng ta sẽ kết luận rằng mục vụ của mình đã chấm dứt, tuy nhiên điều đó có thể không đúng. Giô-sép có một mục vụ trong tù tại Ai Cập, và mục vụ đó đã đưa ông đến vị trí là nhà cầm quyền lớn thứ hai của quốc gia này và giải cứu dân tộc Do Thái. Trong thời chiến, nhiều Cơ Đốc Nhân mặc quân phục đã tìm thấy những cơ hội để hầu việc Chúa tại những vùng đất xa lạ. Dù Chúa đưa chúng ta đến nơi đâu, Ngài đã đến nơi đó trước và đã chuẩn bị con đường cho chúng ta. Đức Chúa Trời ở khắp mọi nơi và Ngài có thể hành động qua chúng ta dù chúng ta đang ở đâu trong ý muốn của Ngài. Nếu Chúa đưa bạn đến một vùng đất mới và bạn cảm thấy bị bỏ rơi hoặc cảm thấy cô đơn, hãy được khích lệ! Ngài có công tác dành cho bạn, vậy hãy sẵn sàng!

 

Một công việc mới. Đức Chúa Trời kêu gọi Ê-xê-chi-ên từ chức vụ là một thầy tế lễ trở thành một tiên tri, đó là một sự kêu gọi rất khó khăn. Giê-rê-mi và Giăng Báp-tít đều có cùng một trải nghiệm như thế, họ đều có cha là thầy tế lễ. Công việc của thầy tế lễ lặp đi lặp lại hằng ngày, bởi vì mọi công việc của họ đều đã được chép trong năm sách đầu tiên của Cựu Ước. Tuy nhiên công việc của một tiên tri thì không thế. Thật vậy, một tiên tri có thể bị tấn công, bị cầm tù, hoặc thậm chí có thể bị xử tử. Thầy tế lễ Do Thái thì được đảm bảo an ninh, nhưng tiên tri phải đối mặt với sự chống đối và hiểm nguy. Mục vụ của thầy tế lễ đó là duy trì và bảo vệ quá khứ để mỗi một thế hệ mới đều biết Đức Chúa Trời và có mối thông công với Ngài. Nhiệm vụ của tiên tri đó là thách thức thực tại khi các vị vua, thầy tế lễ và dân chúng bất trung với Chúa và họ cần phải ăn năn. Đó là lý do tại sao tiên tri thường không phổ biến; nhưng nếu không có đức tin và lòng can đảm của họ thì đất nước sẽ không có tương lai hạnh phúc. Mục vụ tại đền thờ đòi hỏi sự hợp tác giữa các thầy tế lễ và người Lê-vi, nhưng các tiên tri thường phải đi một mình. Chí ít, Ê-xê-chi-ên có một người vợ để san sẻ gánh nặng, nhưng bà đã mất – và Ê-xê-chi-ên dùng chính tang lễ của vợ để giảng cho dân sự! Ông không có một cuộc sống dễ dàng, nhưng ông đã trung tín cho đến cuối cùng.

 

Một cuộc viếng thăm đáng kinh sợ. Thông điệp của Chúa đến với Ê-xê-chi-ên qua khải tượng về một cơn bão đến từ phương bắc. Giữa đám mây bọc lửa, ông nhìn thấy một ngôi đặt trên một nền trong suốt có các bánh xe đầy mắt ở mỗi góc nền, các bánh xe cùng lúc có thể rẽ đi bất kỳ hướng nào. Bốn sinh vật sống, mỗi sinh vật có bốn mặt, được đặt ở dưới nền và có trách nhiệm cho sự chuyển động của nền ấy. Đó chính là khải tượng của Đức Chúa Trời đang ngự trên ngôi và hành động trong thế giới để hoàn thành mục đích của Ngài. Cơn bão từ phương bắc đang kéo đến, đem theo sự đoán phạt cho dân sự và sự phá hủy cho Giê-ru-sa-lem và đền thờ. Cũng có một cầu vòng xuất hiện quanh ngôi nói về ân điển của Chúa giữa những cơn bão trong cuộc sống. Đức Chúa Trời đoán xét dân sự, nhưng nơi nào tội lỗi tràn ngập thì ân điển của Chúa cũng đầy dư (Rô-ma 5:20), và trong cơn thạnh nộ, Đức Chúa Trời sẽ nhớ đến tình yêu thương của Ngài (Sáng thế ký 9:8-17; Ha-ba-cúc 3:2).

 

Mỗi một thế hệ trong lịch sử đều trải qua những cơn bão, chúng ta cũng vậy. Trong mỗi một thế hệ, các tiên tri giả tiên đoán về “bình hòa và an ninh,” nhưng cơn bão không bớt đi sự phá hủy của chúng (1 Tê-sa-lô-ni-ca 5:3), và sự đoán xét bắt đầu từ nhà của Chúa (Ê-xê-chi-ên 9:4-6; Giê-rê-mi 25:29; 1 Phi-e-rơ 4:17-18). Chúng ta đã sẵn sàng chưa?

 

Hỡi lửa và mưa đá, tuyết và hơi nước,

Gió bão vâng theo mạng Ngài.

Thi Thiên 148:8

 

 

 

 

 

Bài 79

Ánh sáng thấy chung quanh đó giống như ánh sáng của cái mống trong mây khi đương mưa. Ấy là tỏ ra hình trạng của sự vinh quang Đức Giê-hô-va.

Ê-xê-chi-ên 1:28

Bạn có ngạc nhiên khi nhìn thấy vinh quang của Chúa trong cơn bão không? Chúng ta thường gắn liền cơn bão với bóng tối và sự hủy hoại, vậy tại sao Đức Chúa Trời lại đặt sự vinh quang của Ngài tại đó? Mọi điều thuộc về Đức Chúa Trời đều là vinh quang: Danh của Ngài (Thi Thiên 72:19), công việc của Ngài (111:3), năng quyền của Ngài (Cô-lô-se 1:11), ngôi Ngài (Giê-rê-mi 17:12), sự sáng tạo của Ngài (Thi Thiên 19:1) – và cả sự phán xét của Chúa. Ngài có sự vinh quang khi đoán xét tội lỗi cũng như khi Ngài đáp lời cầu nguyện. Trong Thi Thiên 29, Đa-vít mô tả về cơn bão mà ông nhìn thấy trong sa mạc, và ông đã bốn lần nói từ “vinh quang.” Dân sự tại Giu-đa cách xa Đức Chúa Trời, những nhà lãnh đạo đất nước không mảy may đến việc thay đổi con đường của họ, chính vì thế Đức Chúa Trời đem “cơn bão Nê-bu-cát-nết-sa” đến với họ và quân đội Ba-by-lôn đã hủy phá Giu-đa và thành Giê-ru-sa-lem. Đức Chúa Trời được tôn vinh khi chúng ta vâng phục Ngài (Ma-thi-ơ 5:16), nhưng nếu chúng ta khăng khăng bất tuân với Chúa, Ngài sẽ được tôn vinh qua những kỷ luật mà Ngài ban xuống. Sự đau khổ lớn lao nhất mà Đức Chúa Trời giáng xuống cho một con người đó là khi Ngài đặt mọi tội lỗi của thế gian trên Đức Chúa Giê-su (Ê-sai 53:6), song thập giá mang lấy sự vinh quang vĩ đại của Chúa Cứu thế. Phao-lô viết rằng: “Còn như tôi, tôi hẳn chẳng khoe mình, trừ ra khoe về thập tự giá của Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta” (Ga-la-ti 6:14). Nếu chúng ta tin cậy Chúa, Ngài có thể được tôn vinh qua những cơn bão trong cuộc sống của chúng ta cũng như khi chúng ta được bình an, thành công.

 

Bạn có bất ngờ khi nhìn thấy vinh quang Chúa trong sự hiện diện của các hình tượng? Tại Ba-by-lôn, Ê-xê-chi-ên nhận biết điều gì đang xảy ra tại Giê-ru-sa-lem rõ ràng hơn bất cứ người dân nào đang sống tại đó! Đức Chúa Trời khiến ông nhìn thấy tội lỗi của các thầy tế lễ khi họ thờ lạy hình tượng trong đền thờ của Đức Chúa Trời (Ê-xê-chi-ên 8). Tại những nơi kín trong đền thờ, cũng như tại các sân trong đền thờ, các thầy tế lễ đang thờ lạy hình tượng, từ thờ lạy mặt trời cho đến những loài bò sát đáng ghê tởm trên đất. Thờ lạy hình tượng luôn là tội lỗi lớn nhất của người Do Thái và Đức Chúa Trời thường kỷ luật họ vì tội bất trung, tuy nhiên việc thờ lạy hình tượng trong chính đền thờ của Đức Chúa Trời là điều quá sức tưởng tượng! “Họ tự xưng mình là khôn ngoan, mà trở nên điên dại; họ đã đổi vinh hiển của Đức Chúa Trời không hề hư nát lấy hình tượng của loài người hay hư nát” (Rô-ma 1:22-23). Đức Chúa Trời sẽ không chia sẻ sự thờ phượng với các thần tượng. “Ta là Đức Giê-hô-va: ấy là danh ta. Ta chẳng nhường sự vinh hiển ta cho một đấng nào khác, cũng không nhường sự tôn trọng ta cho những tượng chạm” (Ê-sai 42:8). Đức Chúa Trời cất sự vinh quang Ngài khỏi đền thờ (Ê-xê-chi-ên 8:4; 9:3; 10:4, 18; 11:22-23) và Ngài cho phép quân đội Ba-by-lôn phá hủy đền thờ.

 

Phải chăng bạn đã quen thuộc với việc nhìn thấy vinh quang của Chúa trong nhà thờ? Sự vinh quang của Đức Chúa Trời đã ngự trong đền tạm (Xuất Ê-díp-tô ký 40:34), nhưng vì tội lỗi của các thầy tế lễ mà sự vinh quang ấy mất đi, chính vì thế dân sự nói rằng: “Y-ca-bốt – sự vinh hiển đã lìa khỏi” (1 Sam-mu-ên 4:19-22). Khi Sa-lô-môn cung hiến đền thờ, sự vinh quang của Đức Chúa Trời ngự đến (1 Các vua 8:1-11), nhưng giờ đây sự vinh quang của Chúa không còn ở tại đền thờ cũng như trong dân sự của Ngài. Trong thân vị là Đức Thánh Linh, sự vinh quang của Đức Chúa Trời ngự trong mỗi một Cơ Đốc Nhân, khiến cho thân thể của chúng ta trở nên đền thờ của Chúa (1 Cô-rinh-tô 6:19-20). Ngài cũng ngự trong mỗi một Hội Thánh địa phương trung tín (1 Cô-rinh-tô 3:9-17). “Anh em há chẳng biết mình là đền thờ của Đức Chúa Trời, và Thánh Linh Đức Chúa Trời ở trong anh em sao?” (1 Cô-rinh-tô 3:16). Hãy lưu ý rằng lời cảnh báo ấy được tiếp nối trong câu 17: “Ví có ai phá hủy đền thờ của Đức Chúa Trời, thì Đức Chúa Trời sẽ phá hủy họ; vì đền thờ của Đức Chúa Trời là thánh, mà chính anh em là đền thờ.” Phao-lô cầu nguyện, “nguyền Ngài được vinh hiển trong Hội thánh” (Ê-phê-sô 3:21) là kết quả công việc của Đức Thánh Linh trong đời sống của Hội Thánh tận hiến cho Ngài. Nhưng nếu Hội Thánh không trung tín, Đức Chúa Giê-su sẽ đứng ngoài mà gõ cửa (Khải Huyền 3:14-20). Thật là một bi kịch khi Hội Thánh địa phương không làm vinh hiển Danh Chúa. Vinh quang của Đức Chúa Trời sẽ trở lại đền thờ của người Do Thái (Ê-xê-chi-ên 43:1-5), và khi một Hội Thánh địa phương đã chuẩn bị chính mình, Đức Thánh Linh sẽ trở lại và đem theo năng quyền và phước hạnh – khi ấy Đức Chúa Giê-su sẽ được tôn vinh.

Vinh quang của Đức Giê-hô-va vào trong nhà do hiên cửa hướng đông. Thần cất ta lên và đem ta vào nơi hành lang trong; và, nầy, vinh quang của Đức Giê-hô-va đầy nhà.

Ê-xê-chi-ên 43:4-5

 

 

 

 

 

Bài 80

 

Ta thấy thì sấp mặt xuống và nghe tiếng của một Đấng phán cùng ta.

Ê-xê-chi-ên 1:28

Đức Chúa Trời kêu gọi Ê-xê-chi-ên trở thành người phát ngôn của Ngài cho những người tù chiến tranh Do Thái đang sống tại Ba-by-lôn, trong khi đó tiên tri Giê-rê-mi phục vụ những người còn sót lại tại Giu-đê. Bước đầu tiên trong việc “thụ phong” cho Ễ-xê-chi-ên đó là ông được nhìn thấy ngôi vinh quang của Đức Chúa Trời giữa cơn bão. Mục đích đời sống và sự phục vụ của Cơ Đốc Nhân đó là khiến cho người khác nhìn thấy sự vinh quang của Đức Chúa Trời, dù họ đang ở trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Nếu chúng ta không được Chúa trang bị thì công khó của chúng ta sẽ trở nên vô ích. Ê-xê-chi-ên đã đáp ứng thế nào?

 

Ông sấp mình trước sự vinh quang của Đức Chúa Trời. Trong ngôn ngữ hiện đại, từ “sấp mặt xuống” có nghĩa là “ngã một cách đau đớn và xấu hổ mà không có lời nào bào chữa được.” Tuy nhiên trong thuật ngữ Kinh Thánh, cụm từ này có nghĩa là hạ mình trước Chúa và giao phó tất cả cho Ngài, bị choáng ngợp trước sự vĩ đại và vinh quang của Chúa đến mức chúng ta thấy mình thật nhỏ bé. Như Giăng Báp-tít đã nói rằng: “Ngài phải dấy lên, ta phải hạ xuống” (Giăng 3:30). Áp-ra-ham phủ phục trước Chúa (Sáng Thế Ký 17:3, 17), ngoài ra cũng có Môi-se và A-rôn (Dân số ký 14:5), Đa-ni-ên (Đa-ni-ên 8:17), và sứ đồ Giăng (Khải Huyền 1:17) cũng không khác gì. Trong vườn Ghết-sê-ma-nê, để chuẩn bị bước đến con đường thập giá, Đức Chúa Giê-su đã sấp mặt xuống đất và cầu nguyện với Đức Chúa Cha (Ma-thi-ơ 26:36-39). Ít nhất sáu lần trong quyển sách của mình, Ê-xê-chi-ên ghi lại rằng ông sấp mặt trước Chúa. “Sự kiêu ngạo đi trước, sự bại hoại theo sau, Và tánh tự cao đi trước sự sa ngã” (Châm Ngôn 16:18). D. L. Moody đã nói rằng: “Kẻ thù lớn nhất của một người chính là bản thân họ. Sự kiêu ngạo và tự tin thường làm cho người ấy sa ngã.” “Đức Chúa Trời chống cự kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho người khiêm nhường.” (Gia-cơ 4:6).

 

Ông đứng trên chân mình bởi sức lực của Chúa (Ê-xê-chi-ên 2:1-2). Khi Đức Chúa Trời ban mệnh lệnh thì Ngài cũng ban cho năng lực. “Ngài vừa phán cùng ta như vậy, thì Thần vào trong ta, làm cho chân ta đứng lên, và ta nghe Đấng đã phán cùng ta.” (c. 2). Ngày nay chúng ta cũng có thể công bố năng quyền của Đức Thánh Linh như tiên tri Ê-xê-chi-ên ngày xưa. “Hãy hạ mình xuống trước mặt Chúa, thì Ngài sẽ nhắc anh em lên.” (Gia-cơ 4:10). Năm lần Ê-xê-chi-ên ghi lại rằng Chúa đã nâng đỡ và khiến ông có thể thực hiện công tác của mình. Chính năng quyền của Đức Thánh Linh là quyền năng nâng cao ngôi vinh quang của Đức Chúa Trời cũng sẽ nâng đỡ đầy tớ khiêm nhường của Ngài (Ê-xê-chi-ên 1:19-21). Lần cuối cùng Ê-xê-chi-ên được “nâng lên” đó là lần Đức Thánh Linh đưa ông đến đền thờ mới, tại đó sự vinh quang của Đức Chúa Trời được phục hồi (43:1-5). Vị tiên tri này bắt đầu với sự vinh quang và kết thúc cũng với sự vinh quang, và đó chính là đời sống mà Cơ Đốc Nhân cần đi theo – “từ vinh hiển qua vinh hiển” (2 Cô-rinh-tô 3:18). Để thi hành mục vụ đòi hỏi Cơ Đốc Nhân phải có chỗ đứng của mình, dù người ấy có những yếu đuối hoặc đối diện với sự chống đối của kẻ thù. “Ấy chẳng phi là bởi quyền thế, cũng chẳng phải là bởi năng lực, bèn là bởi Thần Ta, Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy.” (Xa-cha-ri 4:6).

 

Ông làm cho gương mặt mình trở nên dạn dĩ trong ý muốn của Chúa (Ê-xê-chi-ên 3:8-11). Chín lần Chúa phán cùng Ê-xê-chi-ên hãy xây mặt nghịch cùng một “đối tượng” và nói những lời mà Chúa đã truyền cho ông (6:2; 13:17; 20:46; 21:2; 25:2; 28:21; 29:2; 35:2; 38:2). Điều này nghĩa là ông phải can đảm truyền đạt sứ điệp của Đức Chúa Trời trong năng quyền của Ngài, không nao núng hoặc yếu ớt trước kết quả có thể xảy đến là gì. “Nầy, ta làm cho mặt ngươi dạn nghịch cùng mặt chúng nó.” (3:8). Ông đã nói một điều tương tự như Giê-rê-mi rằng: “Đừng sợ vì cớ chúng nó; vì ta ở với ngươi đặng giải cứu ngươi.” (Giê-rê-mi 1:8). Cũng giống như khi Đức Chúa Giê-su tiến vào thành Giê-ru-sa-lem, Ê-xê-chi-ên đã làm cho mặt ông trở nên dạn dĩ và vâng theo lời của Đức Chúa Trời (Lu-ca 9:51). Thông điệp của Ê-xê-chi-ên không hề dễ dàng truyền tải và người nghe thì không đồng cảm với ông, tuy nhiên ông đã làm công tác mà Đức Chúa Trời đã kêu gọi ông phải làm, chúng ta cũng phải như thế. Lời của Đức Chúa Giê-su cầu nguyện với Đức Chúa Cha nhắc nhở chúng ta:

 

Con đã tôn vinh Cha trên đất, làm xong công việc Cha giao cho làm.

Giăng 17:4

 

 

 

Bài 81

Nhưng, hỡi con người, hãy nghe điều ta phán cùng ngươi, chớ bạn nghịch như nhà nổi loạn ấy; hãy mở miệng, ăn lấy vật ta ban cho.

Ê-xê-chi-ên 2:8

Khi Ê-xê-chi-ên ăn cuộn sách, ông được gia nhập vào mối thông công của những người tin Chúa là những người được nuôi dưỡng tâm linh bởi Lời Chúa. Danh sách những người này bắt đầu từ Gióp, là người đã nói: “Vẫn vâng theo lời của miệng Ngài hơn là ý muốn lòng tôi” (Gióp 23:12). Môi-se truyền cho dân Y-sơ-ra-ên rằng: “loài người sống chẳng phải nhờ bánh mà thôi, nhưng loài người sống nhờ mọi lời bởi miệng Đức Giê-hô-va mà ra” (Phục truyền 8:3). Đức Chúa Giê-su đã trích dẫn những lời trên khi Ngài đối diện với Sa-tan trong đồng vắng và chiến thắng sự cám dỗ của Sa-tan (Ma-thi-ơ 4:1-4). Tác giả Thi Thiên đã viết: “Lời Chúa ngọt họng tôi dường bao! Thật ngọt hơn mật ong trong miệng tôi” (Thi Thiên 119:103). Giê-rê-mi, một người bạn cùng là tiên tri với Ê-xê-chi-ên, đã nói rằng: “Tôi vừa nghe những lời Ngài, thì đã ăn lấy rồi; lời Ngài là sự vui mừng hớn hở của lòng tôi vậy. Hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời vạn quân, vì tôi được xưng bằng danh Ngài” (Giê-rê-mi 15:16). Sứ đồ Giăng cũng đã ăn một cuộn sách (Khải Huyền 10:8-11), cuộn sách ấy ngọt như mật ở nơi miệng nhưng trở nên đắng trong bụng.

Đọc và lắng nghe Lời Chúa cần là một trải nghiệm vui thích đối với chúng ta như khi dùng một bữa tiệc ngon. Điều quan trọng nhất đó là việc tiếp nhận Lời Chúa vào lòng (Ê-xê-chi-ên 3:10) không phải là một hình phạt nhưng là sự nuôi dưỡng và vui sướng. Một triệu chứng đầu tiên của việc suy giảm bước đi thuộc linh đó là mất đi niềm vui thích đối với Kinh Thánh. Người ta thường so sánh việc học tập với ăn uống. Người bình thường có thể nói với nhân viên bán hàng cấp cao hoặc một chính trị gia rằng: “những điều anh nói tôi không thể nuốt được,” hoặc “tôi sẽ phải mất thời giờ để tiêu hóa những điều anh nói.” Chúng ta thường nói với Mục sư diễn giả rằng: “Ông đã cho tôi ăn những ý tưởng” hoặc có thể chúng ta nói rằng: “Mục sư trẻ kia có quá nhiều tư tưởng chưa chín chắn.” Một người bạn đã nói với tôi rằng: “Tôi ngấu nghiến quyển sách ấy.” Tiếp nhận lẽ thật thuộc linh cũng giống như ăn thức ăn, lẽ thật đi vào tâm trí, tấm lòng và dần dần thay đổi con người bề trong của chúng ta.

 

Mỗi Cơ Đốc Nhân cần dành thời gian mỗi ngày để đọc, suy ngẫm và tiêu hóa Kinh Thánh, và để Lời Chúa làm cho tâm linh tăng trưởng. Nhiều Cơ Đốc Nhân bận rộn nuốt “thức ăn tạp của tôn giáo” là thứ chỉ khiến họ yếu hơn chứ không phải khỏe hơn. Sau thời gian tĩnh lặng hằng ngày, chúng ta cần bước ra với vị ngọt mật ong nơi miệng và sự ấm áp của tình yêu thương Chúa nơi tấm lòng (Lu-ca 24:32), và chúng ta cần suy ngẫm những ơn phước ấy suốt cả ngày. Tác giả Thi Thiên 119 gặp Chúa vào buổi sáng (c. 147) và với sự giúp đỡ của Đức Thánh Linh, ông đã đem trải nghiệm ngọt ngào ấy đi với ông trong suốt một ngày (c. 97, 164). Hơn thế nữa, trong lúc ban đêm ông trò chuyện cùng Chúa trong Lời Ngài (c. 55, 62). Đã nhiều lần Chúa đánh thức tôi dậy lúc ban đêm và dạy dỗ tôi những lẽ thật mà tôi chưa bao giờ nhìn thấy khi đọc Kinh Thánh tại bàn làm việc. “Trường Kinh Thánh ban đêm” của Đức Chúa Trời rất đáng để tham dự.

 

Đức Chúa Giê-su là tấm gương hoàn hảo của việc sống theo Lời Chúa. Lúc mười hai tuổi, Ngài đã nán lại đền thờ và bàn luận về Kinh Thánh với các thầy Do Thái (Lu-ca 2:41-50). Trong chức vụ, Chúa đã trích dẫn Kinh Thánh một cách đầy hiệu quả để hướng dẫn những người đi theo Ngài và bắt bẻ những người chống lại. Bí quyết của Ngài là gì? Mỗi ngày Chúa đều lắng nghe Đức Chúa Cha. “Chúa Giê-hô-va đã ban cho ta cái lưỡi của người được dạy dỗ, hầu cho ta biết dùng lời nói nâng đỡ kẻ mệt mỏi.Ngài đánh thức ta mỗi buổi sớm mai, đánh thức tai ta để nghe lời Ngài dạy, như học trò vậy” (Ê-sai 50:4). Đôi tai bạn có thức dậy mỗi sáng để lắng nghe lời Chúa phán? Lời của Chúa có đem lại cho bạn niềm vui trong tấm lòng mỗi ngày? Hãy mở đôi mắt của bạn đối với Lời Chúa và lắng nghe Ngài phán gì với bạn.

 

Chứng cớ Chúa là cơ nghiệp tôi đến đời đời; Vì ấy là sự mừng rỡ của lòng tôi.

Thi Thiên 119:111

 

 

 

Bài 82.

Ta bèn nói: Ôi! hỡi Chúa Giê-hô-va, nầy linh hồn tôi chẳng hề bị ô uế. Từ lúc còn nhỏ đến bây giờ, tôi chẳng hề ăn con vật đã chết tự nhiên, hoặc bị thú vật xé; và chẳng có thịt gớm ghiếc nào đã vào trong miệng tôi.

Ê-xê-chi-ên 4:14

Đức Chúa Trời chuẩn bị cho các đầy tớ của Ngài. Khi nhìn lại hơn sáu mươi năm qua trong chức vụ, tôi có thể thấy rõ thế nào Chúa đã chuẩn bị tôi cho công tác hầu việc Chúa đồng thời Ngài đã dự bị sẵn những công tác ấy cho tôi như thế nào. Việc Ê-xê-chi-ên được chuẩn bị được ghi lại trong ba chương đầu tiên của quyển sách này. Đầu tiên, Đức Chúa Trời bày tỏ cho ông thấy ngôi vinh quang của Ngài và một số công việc lớn lao của Ngài. Động cơ phục vụ của chúng ta đó là làm sáng danh Chúa, và phương pháp thực hiện mục vụ đó là vâng theo ý muốn của Ngài. Chúa biết những công việc mà Ngài đang hành động. Chúng ta chỉ có thể “cai trị trong sự sống” khi Đấng Christ cai trị cuộc đời mình (Rô-ma 5:17). Tuy nhiên, Đức Chúa Trời cũng bày tỏ cơn bão sẽ xảy đến, nghĩa là sự phán xét trên Giê-ru-sa-lem. Ngài truyền cho Ê-xê-chi-ên phải làm một người canh gác trung tín và cảnh báo dân sự về cơn thạnh nộ sẽ đến (Ê-xê-chi-ên 4:16-21). Sau đó, Thánh Linh của Đức Chúa Trời kiểm soát vị tiên tri này (2:1-2) và Ngài truyền cho ông ăn lấy Lời Chúa và để Lời Ngài trở nên một phần trong chính thân thể của ông. Ông phải công bố Lời Chúa trong năng quyền của Đức Thánh Linh (3:4-15) và Chúa sẽ làm những việc còn lại. Kinh Thánh và Đức Thánh Linh phải luôn luôn hành động cùng nhau, và người đầy tớ phải luôn luôn phục tùng Đấng Cứu Rỗi.

 

Đức Chúa Trời hướng dẫn đầy tớ của Ngài. Khi bắt đầu mục vụ trong chương 4, Ê-xê-chi-ên được Đức Chúa Trời phán bảo chính xác những điều gì ông cần phải làm: ông phải “dựng cảnh chiến tranh” trước mặt dân sự! Việc này quả là quá trẻ con đối với một thầy tế lễ cao quý như ông! Có nhiều công tác mục vụ lạ thường được ghi lại trong quyển sách này; tôi gọi những công tác ấy là “bài giảng bằng hành động.” Những người bị lưu đày tại Ba-by-lôn thật không nhìn thấy Đức Chúa Trời và đường lối của Ngài đến nỗi vị tiên tri phải đối đãi với họ như con trẻ, vừa minh họa vừa công bố lẽ thật. Ông “chơi trò” chiến tranh và cũng “đóng vai” thợ cắt tóc (chương 5). “Bài giảng bằng hành động” đắt giá nhất đối với ông đó là khi người vợ của ông qua đời nhưng ông không được than khóc (24:15-27). Những “bài giảng bằng hành động này” nhắc nhở chúng ta rằng đời sống của chứng nhân là một phần rất quan trọng đối với nội dung lời chứng. Dù sự hướng dẫn của Chúa có phần khác lạ như thế nào, chúng ta đều phải chấp nhận và làm theo, bởi vì “sự rồ dại của Đức Chúa Trời là khôn sáng hơn người ta” (1 Cô-rinh-tô 1:25).

 

Đức Chúa Trời thử nghiệm đầy tớ của Ngài. Đức Chúa Trời muốn thử thách Ê-xê-chi-ên khi Ngài truyền cho ông phải nấu “khẩu phần ăn của chiến binh” trên chất thải của con người. Hãy nhớ rằng, Ê-xê-chi-ên là một thầy tế lễ nên ông phải được sạch sẽ theo luật pháp, nếu không được sạch thì ông sẽ không được phục vụ trong đền thờ. Thầy tế lễ phải biết phân biệt “sạch” và “không sạch” và phải dạy điều đó cho dân sự (Ê-xê-chi-ên 44:23; Lê-vi ký 10:10). Người Y-sơ-ra-ên không thể giữ chuẩn mực này nên họ phải bị đuổi ra khỏi đất (Lê-vi ký 18:24-30). Thật vậy, họ đã bị đuổi ra khỏi đất vì chối bỏ sự thánh khiết và lựa chọn sự bất khiết. Là một thầy tế lễ, Ê-xê-chi-ên phải vâng theo luật pháp của Đức Chúa Trời chống lại các nghi thức sai trật, nhưng trong trường hợp này ông phải dùng phân bò làm nhiên liệu để nấu bữa ăn của mình. “Ai trung tín trong việc rất nhỏ, cũng trung tín trong việc lớn” (Lu-ca 16:10). Cơ Đốc Nhân ngày nay không cần phải lo lắng về thức ăn nữa bởi vì “chẳng có vật gì vốn là dơ dáy” (Rô-ma 14:14), chúng ta không bị ô uế bởi những điều gì đi vào miệng nhưng bởi những điều ở miệng mà ra (Ma-thi-ơ 15:11; Mác 7:18-23). Nếu lạm dụng sự tự do này, có thể chúng ta không làm hại chính mình nhưng sẽ làm cho một anh chị em yếu đuối vấp ngã (Rô-ma 4). Nếu Ê-xê-chi-ên dùng phân người để đốt lò, dân sự sẽ biết, vị tiên tri này sẽ đánh mất tiếng tăm lẫn cơ hội dạy dỗ dân sự. “Bài giảng bằng hành động” của ông sẽ mất đi ý nghĩa. Luật pháp yêu thương dạy chúng ta phải nghĩ về người khác chứ không chỉ nghĩ về chính mình.

Vậy chúng ta hãy tìm cách làm nên hòa thuận và làm gương sáng cho nhau. Chớ vì một thức ăn mà hủy hoại việc Đức Chúa Trời.

Rô-ma 14:19-20

 

 

 

Bài 83

“Nào già cả, nào trai trẻ, nào gái đồng trinh, nào con nít, đàn bà, hãy giết hết; nhưng chớ lại gần một kẻ nào là kẻ đã có ghi dấu; và khá bắt đầu từ nơi thánh ta.” Vậy các người ấy bắt đầu từ các người già cả ở trước mặt nhà.

Ê-xê-chi-ên 9:6

Chúa truyền lệnh cho sáu người nam (thiên sứ?), họ được chỉ định để giết dân sự tại Giê-ru-sa-lem là những người thờ hình tượng. Một người thứ bảy đi trước họ và đặt một dấu trên trán của những người tin kính, những người này sẽ được cứu, nhưng những người còn lại sẽ bị giết. Nếu chúng ta ở tại chỗ ấy, Chúa sẽ phân loại chúng ta vào nhóm nào?

 

Chúng ta có không vâng phục những lãnh đạo dẫn dắt người khác đến chốn lầm lạc? Vua Ma-na-se đã đem hình tượng vào đền thờ, thế nên Chúa công bố rằng sự đoán phạt sẽ đến với Giê-ru-sa-lem nếu dân sự không ăn năn và quay về với Ngài (2 Các vua 21). Bởi sống lâu nơi Ai Cập, người Y-sơ-ra-ên có một điểm yếu đó là thờ hình tượng. Ê-xê-chi-ên 8 ghi lại công việc của các thầy tế lễ không tin kính và dân sự khi họ thờ phượng mặt trời, các loại bò sát và những con thú kinh tởm. Nhà vua, các hoàng tử và tiên tri giả đều ủng hộ cho loại tôn giáo mới này, một tôn giáo nghịch lại với Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp. Chúng ta phải dẫn dắt dân sự của Đức Chúa Trời đến với sự thờ phượng Chúa dựa trên Lời Ngài và được Đức Thánh Linh ban năng quyền.

 

Chúng ta có phải là những Cơ Đốc Nhân yếu đuối, những người đi theo đám đông? Môi-se cảnh báo dân sự tại núi Si-nai rằng: “Ngươi chớ hùa đảng đông đặng làm quấy” (Xuất Ê-díp-tô ký 23:2). Môi-se hẳn sẽ nhìn thấy “văn hóa đám đông” của ngày hôm nay! Khi ông đang còn ở trên núi cùng với Đức Chúa Trời thì người anh của mình là A-rôn đã đi theo theo đám đông mà làm nên một thần để dân sự thờ phượng trong lúc Môi-se vắng mặt (Xuất Ê-díp-tô ký 32). Khi bị Môi-se quở trách, A-rôn đã đổ lỗi cho dân sự. Tại Ca-đe, lối vào xứ Ca-na-an, đám đông dân sự đã không tin Đức Chúa Trời, không nghe lời Ca-lép và Giô-suê, bởi vì tội này, dân tộc của họ đã lang thang trong đồng vắng trong ba mươi tám năm cho đến khi thế hệ những người trưởng thành qua đời tất cả. Vua Sau-lơ không kính sợ Đức Chúa Trời nhưng lại nghe lời dân sự (1 Sa-mu-ên 15:24). Ông quan tâm đến tiếng tăm của mình ở giữa dân sự hơn là làm đẹp lòng Chúa. Phải chăng chúng ta đang đi trên con đường hẹp đầy gian khó, một con đường dẫn đến sự sống, hay là chúng ta đang đi trên con đường rộng rãi được nhiều người biết đến là con đường dẫn đến sự chết (Ma-thi-ơ 7:13-14)?

 

Chúng ta có phải là những người đau buồn than khóc cho tình trạng của Hội Thánh? Chúa truyền cho người cầm hủ mực hãy đặt một dấu trên trán của những ai nhìn thấy và than khóc cho những tội lỗi xảy ra trong đền thờ của Chúa, họ sẽ thoát khỏi sự đoán phạt (Ê-xê-chi-ên 9:4-5). Thật dễ để trở nên tự mãn về những hoàn cảnh xấu, tuy nhiên nếu chúng ta thật sự yêu Chúa, chúng ta sẽ khóc than và cầu nguyện kêu cầu Chúa ban sự phấn hưng. Ê-xê-chi-ên là một trong số những người than khóc (6:11-14), noi theo tấm gương của vua Giô-si-a (2 Các Vua 22:13-20), Ê-xơ-ra (Ê-xơ-ra 9), Giê-rê-mi (Giê-rê-mi 13:15-17), và Đa-ni-ên (Đa-ni-ên 9). Đức Chúa Giê-su khóc cho thành Giê-ru-sa-lem (Lu-ca 19:41-42) và Phao-lô khóc cho những người thế tục tự xưng là Cơ Đốc Nhân trong Hội Thánh (Phi-líp 3:17-19; 2 Cô-rinh-tô 12:21). “Những suối lệ chảy từ mắt tôi, bởi vì người ta không giữ luật pháp của Chúa” (Thi Thiên 119:136).

 

Chúng ta có đang đối diện với sự chết? Cách chúng ta đối đãi với Hội Thánh của Đức Chúa Trời hằng sống sẽ quyết định cách Chúa đối đãi với chúng ta (1 Cô-rinh-tô 3:17). Đức Chúa Trời giết Na-đáp và A-bi-hu (Lê-vi ký 10) bởi vì họ làm ô uế đền tạm, Ngài giết A-na-nia và Sa-phi-ra vì lừa dối Hội Thánh (Công vụ 5:1-11). Các tín hữu trong Hội Thánh Cô-rinh-tô đang đối diện với bệnh tật và cái chết bởi vì họ lạm dụng Tiệc Thánh (1 Cô-rinh-tô 11:27-34). Một bài học nghiêm túc đó là sự đoán phạt của Đức Chúa Trời bắt đầu từ nhà Chúa. Chúng ta được ban cho nhiều thì cũng sẽ bị đòi lại nhiều (Lu-ca 12:48).

 

Vì thời kỳ đã đến, là khi sự phán xét sẽ khởi từ nhà Đức Chúa Trời; vả, nếu khởi từ chúng ta, thì sự cuối cùng của những kẻ chẳng vâng theo Tin Lành Đức Chúa Trời sẽ ra thế nào?

1 Phi-e-rơ 4:17

Bài 84

 

Hỡi con người, những kẻ nầy mang thần tượng mình vào trong lòng, và đặt trước mặt mình sự gian ác mình làm cho vấp phạm; vậy ta há để cho chúng nó cầu hỏi ta một chút nào sao?

Ê-xê-chi-ên 14:3

Ê-xê-chi-ên có một người vợ sống trong căn nhà của ông, chính vì vậy mà bà làm theo những chỉ dẫn mà Giê-rê-mi đã gửi cho những người bị lưu đày một lá thư (Giê-rê-mi 29:5-6). Các trưởng lão Do Thái đến thăm Ê-xê-chi-ên trong căn nhà này, bề ngoài tỏ ra quan tâm nhưng trong lòng họ lại thờ lạy hình tượng. Ê-xê-chi-ên là người có tấm lòng tận hiến, hoàn toàn đầu phục Chúa. Cũng như Đa-ni-ên, ông “quyết định trong lòng rằng không chịu ô uế” bởi noi theo lối sống của người Ba-by-lôn (Đa-ni-ên 1:8). Đức Chúa Trời ban cho Ê-xê-chi-ên một thông điệp cho dân sự, nhưng họ không chuẩn bị để lắng nghe và vâng lời. Hơn thế nữa, họ có thần tượng trong lòng mình. “Đức Giê-hô-va kết bạn thiết cùng người kính sợ Ngài, tỏ cho người ấy biết giao ước của Ngài” (Thi Thiên 25:14). Đầy tớ của Chúa biết điều gì đang diễn ra. Môi-se biết con đường của Chúa, còn dân sự thì biết các công việc của Ngài (Thi Thiên 103:7). Các đầy tớ trong tiệc cưới tại Ca-na biết rượu ngon đến từ đâu (Giăng 2:9) và đầy tớ của quan thị vệ biết khi nào đứa con trai của chủ mình được chữa lành (Giăng 4:51-52). Đức Chúa Giê-su phán rằng: “Ta đã gọi các ngươi là bạn hữu Ta, vì Ta từng tỏ cho các ngươi biết mọi điều Ta đã nghe nơi Cha Ta” (Giăng 15:15).

 

Các trưởng lão ngồi trước mặt Ê-xê-chi-ên là những người hai lòng, chính vì vậy Chúa phán cùng tiên tri của Ngài rằng họ không xứng đáng để nghe Ngài phán (Ê-xê-chi-ên 14:3). Những con người này vờ như làm theo Luật pháp Môi-se, nhưng lòng họ thuộc về hình tượng và đã vi phạm hai điều răn đầu tiên (Xuất Ê-díp-tô ký 20:1-6). Vì thờ lạy hình tượng mà dân Do Thái giờ đây bị lưu đày tại Ba-by-lôn trong khi đó Giê-ru-sa-lem và đền thờ thì bị tấn công. Có người đã nói rằng: “một sự thay đổi trong hoàn cảnh không thắng hơn một thói xấu trong tính cách.” Đức Chúa Trời trục xuất dân Do Thái đến Ba-by-lôn nhưng họ đã đem theo bên mình tấm lòng xấu xa của họ! Hai lòng là điều rất nguy hiểm, bởi vì “ấy là một người phân tâm, phàm làm việc gì đều không định” (Gia-cơ 1:8). Tôi đã đọc về câu chuyện một người dẫn bạn mình không tin Chúa đến với một buổi nhóm của Hội Thánh Anh Em, tại buổi nhóm đó mọi người ngồi im cho đến khi Thánh Linh thôi thúc một trong số họ phát biểu, tuy nhiên ngày hôm ấy không ai phát biểu cả. Khi hai người ra về, anh chàng này xin lỗi bạn mình vì dường như đã làm lãng phí thời gian của bạn, tuy nhiên người bạn đáp rằng: “Không đâu! Đừng xin lỗi! Ngồi im lặng tại nơi đó tôi đã nghĩ ra nhiều cách kiếm tiền hơn là ngồi tại văn phòng của tôi!”

 

Chúa là Đấng thấy rõ tấm lòng, Ngài “dò xét tấm lòng, và phân biệt các ý tưởng” (1 Sử ký 28:9). Nếu những gì có trong lòng của chúng ta khi ngồi trong nhà thờ được trình chiếu trên màn ảnh, liệu chúng ta có cảm thấy hổ thẹn? Trong lòng chúng ta có những hình tượng nào? Những anh hùng thể thao ư? Ngôi sao điện ảnh và ngôi sao truyền hình? Tiền? Xe? Nhà? Thành tựu trong kinh doanh? Sự nổi danh? Thú vui trần thế? Vận may? Được người khác ca ngợi? Đức Chúa Giê-su phán rằng: “Nhưng trước hết, hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa” (Ma-thi-ơ 6:33). Những điều mà người ta gọi là tốt lành trong cuộc sống này chỉ là những “phúc lợi phụ” nếu chúng ta đặt Đức Chúa Giê-su lên trên hết trong cuộc sống mình. Thờ phượng và hầu việc “loài chịu dựng nên thế cho Đấng dựng nên” điều đó chỉ dẫn chúng ta đến bi kịch (Rô-ma 1:25).

 

“Khá cẩn thận giữ tấm lòng của con hơn hết, Vì các nguồn sự sống do nơi nó mà ra” (Châm ngôn 4:23). Khi đặt lòng tin nơi Đức Chúa Giê-su, chúng ta đã tiếp nhận tấm lòng mới và phó dâng chính mình cho Chúa (Ê-xê-chi-ên 11:19; 18:31; 36:26), vậy tại sao chúng ta lại làm ô uế chính mình bởi những tội lỗivấn vương? Khi Đức Chúa Giê-su ngự trị trong tấm lòng, những hình tượng xưa phải đi ra (1 Phi-e-rơ 3:15)!

Hỡi con, hãy dâng lòng con cho cha,

Và mắt con khá ưng đẹp đường lối của cha.

Châm Ngôn 23:26

 

 

 

Bài 85

 

Ta đã tìm một người trong vòng chúng nó, đặng xây lại tường thành, vì đất mà đứng chỗ sứt mẻ trước mặt ta, hầu cho ta không hủy diệt nó; song ta chẳng tìm được một ai.

Ê-xê-chi-ên 22:30

Ê-sai, Giê-rê-mi và Ê-xê-chi-ên đều đã cảnh báo vương quốc Giu-đa rằng Chúa sẽ đoán phạt họ bởi vì sự thờ lạy hình tượng. Cần phải khiển trách các lãnh đạo đất nước, các thầy tế lễ cùng những tiên tri giả đã gây ra thảm họa này, tuy nhiên dân thường lại vui lòng đi theo họ (Ê-xê-chi-ên 22:23-29). Vẫn còn một số ít những con người tin kính vâng theo Chúa, nhưng họ cần một người đứng lên để dẫn dắt họ. Bối cảnh ngày nay có khác hơn khi xưa không? Dường như chúng ta không có nhiều những lãnh đạo trưởng thành, cả nam lẫn nữ, những người có thể đem lại sự khác biệt cho quốc gia, cho thành phố, và cho Hội Thánh. Chúng ta thiếu những người có thể biến sự ngủ mê trở thành hành động, và biến thất bại thành chiến thắng. Phải chăng bạn là người mà Chúa đang tìm kiếm! Nếu phải, sau đây là một số hướng dẫn quan trọng.

 

Hãy tỉnh thức và cầu nguyện. Chúa đã lập Ê-xê-chi-ên làm người canh giữ (3:17) và là người lựa chọn những người khác để cùng ông canh giữ (33:1-11). Mỗi một người trong chúng ta cần phải tỉnh thức và cầu nguyện (Nê-hê-mi 4:9; Mác 14:38) và luôn tỉnh táo, không chỉ vì sự trở lại của Chúa nhưng cũng vì Sa-tan cùng những thiên sứ của hắn đã đến để “truyền những đạo dối làm hại” làm vấy bẩn Hội Thánh (2 Phi-e-rơ 2:1).

Phao-lô cảnh báo các trưởng lão tại Hội Thánh Ê-phê-sô phải trông chừng bầy sói dữ tợn có thể gây hại cho bầy chiên (Công vụ 20:28-31), và ngày nay chúng ta lưu ý đến cảnh báo ấy. Phao-lô không khuyên Hội Thánh tại Ê-phê-sô treo bảng “Chào đón mọi người” – bởi vì các giáo sư giả dối lừa gạt sẽ không được chào đón.

 

Hãy đứng vào chỗ khuyết. Phần Kinh Thánh này vẽ nên hình ảnh một người lính canh gác nơi tường thành trước sự tấn công của quân địch. Người lính ấy nhìn thấy một phần tường thành bị suy yếu và sắp phải sập đổ, chính vì thế anh ta đã đứng vào chỗ khuyết và trở nên bức tường thành. Người lính đã trở nên “người đứng vào chỗ khuyết” để giữ cho kẻ thù không tiến vào trong thành. Vâng, một người có thể tạo nên sự khác biệt. Rất nhiều lần Môi-se, Đa-vít, và Phao-lô đã đứng vào chỗ khuyết, ngoài ra còn có Đê-bô-ra (Giu-đe 4-5), An-ne (1 Sa-mu-ên 1-2), và Ma-ri mẹ Đức Chúa Giê-su (Lu-ca 1:26-56). Trong Ê-phê-sô 6, Phao-lô không chỉ mô tả về bộ áo giáp của người lính Cơ Đốc nhưng nói về tư thế của họ: chúng ta phải đứngtrụ vững (c. 11, 13, 14). “Người đứng vào chỗ khuyết” phải trở nên bức tường thành!

 

Hãy tin cậy Chúa. “Sự thắng hơn thế gian, ấy là đức tin của chúng ta” (1 Giăng 5:4). Không phải là niềm tin vào chính mình – tin vào sự huấn luyện, kinh nghiệm của bản thân, sự tự tin – nhưng niềm tin vào Chúa và lời hứa của Ngài. “Vả, những khí giới mà chúng tôi dùng để chiến tranh là không phải thuộc về xác thịt đâu, bèn là bởi quyền năng của Đức Chúa Trời, có sức mạnh để đạp đổ các đồn lũy: Nhờ khí giới đó chúng tôi đánh đổ các lý luận, mọi sự tự cao nổi lên nghịch cùng sự hiểu biết Đức Chúa Trời, và bắt hết các ý tưởng làm tôi vâng phục Đấng Christ” (2 Cô-rinh-tô 10:4-5). Chúng ta phải hướng đôi mắt đức tin vào Đức Chúa Giê-su (Hê-bơ-rơ 12:1-2). So với Đa-vít, Gô-li-át là một người to lớn hơn, khỏe mạnh hơn, nhiều kinh nghiệm hơn và được trang bị với những vũ khí tốt hơn, tuy nhiên Đa-vít có niềm tin vững chắc nơi Chúa và đã chiến thắng kẻ khổng lồ (1 Sa-mu-ên 17).

 

Hãy chiến đấu đến cùng. “Anh em hãy tỉnh thức, hãy vững vàng trong đức tin, hãy dốc chí trượng phu và mạnh mẽ” (1 Cô-rinh-tô 16:13). Dường như “người đã chiến đấu và bỏ chạy thì sống mỗi ngày như chiến đấu với một cuộc chiến,” và điều chắc chắn là người ấy không bao giờ thắng cuộc, cũng không phải là người đã đuổi được kẻ thù. Phao-lô viết rằng: “Tôi đã đánh trận tốt lành” (2 Ti-mô-thê 4:7) sau đó ông kể những tin tức đáng buồn về nhiều Cơ Đốc Nhân đã bỏ cuộc và rời khỏi ông (c. 9-16). Điều quan trọng đó là chúng ta cần phải kết thúc một cách tốt đẹp và có thể nói như Phao-lô rằng: “Ta đã xong sự chạy, đã giữ được đức tin” (c. 7). Đức Chúa Giê-su chính là chỉ huy đội quân của Đức Chúa Trời (Giô-suê 5:13-15) và Ngài đang tìm kiếm “những con người đứng vào chỗ khuyết” để đứng vào bức tường thành và chiến thắng kẻ thù.

Bạn sẽ tình nguyện chứ?

Ta đã xem, chẳng có ai đến giúp ta;

Ta lấy làm lạ vì chẳng có ai nâng đỡ ta!

Ê-sai 63:5

 

 

 

Bài 86

Các quan trấn thủ, lãnh binh, các người cai trị và các nghị viên của vua đều nhóm lại, thấy lửa không có quyền làm hại thân thể ba người ấy được, cũng chẳng có một sợi tóc nào trên đầu họ bị sém; áo xống họ chẳng bị si sứt chút nào, và mùi lửa cũng chẳng qua trên họ.

Đa-ni-ên 3:27

Thế gian muốn chúng ta làm theo họ. Về mặt thuộc linh, câu chuyện lịch sử này thể hiện một thế giới rất giống với xã hội của chúng ta ngày nay, đó là một thế giới muốn người tin Chúa phải sống giống như họ. Hơn thế nữa, chúng ta đang sống trong một thế giới mà các lãnh đạo đầy quyền lực muốn được tôn như các vị thần và sẽ trở nên đầy giận dữ nếu họ không có được điều mình muốn. Các lãnh đạo này biết giá trị của những đám đông lớn và họ cũng biết rằng hầu hết mọi người đều sẽ không sẵn sàng chơi trò “làm theo lãnh đạo.” Những người nổi tiếng thì biết giá trị đầy cám dỗ của âm nhạc và quyền lực kiểm soát của sự sợ hãi khiến cho các đám đông làm theo sự điều khiển một cách mù quáng. Từ khi đến Ba-by-lôn, Đa-ni-ên và ba người bạn chịu áp lực phải làm theo xã hội tại đó. Họ được ban cho tên mới, được dạy về các thần mới, bị đòi hỏi phải ăn thức ăn mới và được truyền lệnh phải vâng theo một chúa mới là Nê-bu-cát-nết-sa. Nếu họ không làm theo, họ sẽ bị quăng vào lò lửa hực và chết. Tuy nhiên là những người tin Chúa, chúng ta phải vâng theo Rô-ma 12:1-2, không làm theo thế gian này nhưng được biến đổi bởi sự đổi mới từ bên trong của Đức Thánh Linh. Sứ đồ Giăng truyền rằng: “Chớ yêu thế gian, cũng đừng yêu các vật ở thế gian nữa” (1 Giăng 2:15), và Gia-cơ viết rằng: “anh em há chẳng biết làm bạn với thế gian tức là thù nghịch với Đức Chúa Trời sao?” (Gia-cơ 4:4). Chúa của chúng ta đã nói rõ rằng chúng ta “không thuộc về thế gian” (Giăng 17:14). Làm theo thế gian đồng nghĩa với việc chối bỏ ý muốn của Đức Chúa Trời.

 

Ma quỷ muốn chúng ta thỏa hiệp. Ba người bạn Do Thái không chỉ là công dân bình thường, nhưng họ là quan chức trong vương quốc này (Đa-ni-ên 3:12), và hiển hiên Sa-tan đã nhắc nhở cho họ về điều này. Xét cho cùng, họ là tù nhân chiến tranh và phải chịu sự kỷ luật nghiêm khắc. Họ có thể dễ dàng thỏa hiệp bằng cách chỉ quỳ gối nhưng trong lòng thì không vâng theo, như vậy thì ai có thể biết được? Nhưng Chúa biết! Có thể họ chỉ cần làm rơi vật gì đó xuống đất và cúi xuống để nhặt lên. Hoặc họ có thể làm bộ bị bệnh và ở nhà. Tuy nhiên đức tin là sống không mưu toan! Tại sao chúng ta lại thích nghi với thủ đoạn của ma quỷ? Nếu chúng ta thắt lưng bằng lẽ thật (Ê-phê-sô 6:14), chúng ta phải bước đi trong lẽ thật (3 Giăng 3-4). Thỏa hiệp là một sự dối trá có thể mất nhiều thời gian hơn để phơi bày, tuy nhiên một khi sự dối trá này bị vạch trần thì sẽ gây ra sự tổn hại to lớn và không giúp xây dựng tính cách của chúng ta, cũng chẳng làm sáng danh Chúa. Thỏa hiệp là thanh gươm cong quẹo của người hèn nhát.

 

Chúa muốn chúng ta đắc thắng. Đức Chúa Giê-su phán rằng: “Các ngươi sẽ có sự hoạn nạn trong thế gian, nhưng hãy cứ vững lòng, ta đã thắng thế gian rồi” (Giăng 16:33). Chúa cũng đã chiến thắng ma quỷ (Cô-lô-se 1:13). Nhờ đức tin quả cảm, nỗi sợ hãi của ba người bạn tan biến và Chúa cùng ở với họ trong đám lửa hừng! “Đừng sợ, vì ta đã chuộc ngươi. Ta đã lấy tên ngươi gọi ngươi; ngươi thuộc về ta… Khi ngươi bước qua lửa, sẽ chẳng bị cháy, ngọn lửa chẳng đốt ngươi” (Ê-sai 43:1-2). Thậm chí ngọn lửa chẳng làm cho quần áo của họ bị cháy xém! (Đức Chúa Trời rất quan tâm đến từng chi tiết.) Đức Chúa Trời không dập tắt ngọn lửa; Ngài vẫn để cho ngọn lửa cháy nhưng không gây hại. Ba người bạn này của Đa-ni-ên được nhắc lại trong Hê-bơ-rơ 11:32-35 cùng các anh hùng đức tin khác trong Kinh Thánh.

 

Phi-e-rơ nhắc nhở chúng ta rằng dân sự của Đức Chúa Trời vẫn sẽ đối diện với “lò lửa thử thách” tuy nhiên Chúa sẽ giúp chúng ta chiến thắng (1 Phi-e-rơ 4:12-19). Hãy vâng theo ý muốn của Chúa, hãy tin cậy nơi Ngài và để Đức Thánh Linh vận hành trong cuộc sống của chúng ta. Tất cả những điều này sẽ có giá trị khi chúng ta gặp Đức Chúa Giê-su.

Trái lại, trong mọi sự đó, chúng ta nhờ Đấng yêu thương mình mà thắng hơn bội phần.

Rô-ma 8:37

 

 

 

Bài 87

Dân ta hỏi tượng gỗ nó, thì gậy nó trả lời; vì lòng dâm làm lầm lạc chúng nó, và chúng nó phạm tội tà dâm mà lìa bỏ Đức Chúa Trời mình.

Ô-sê 4:12

Trong mắt Đức Chúa Trời, thờ lạy hình tượng tương đương với tội ngoại tình hoặc tà dâm, cũng như giận dữ tương đương với tội giết người (Ma-thi-ơ 5:21-30). Đức Chúa Trời tạo dựng chúng ta theo hình ảnh của Ngài để chúng ta có thể nhận biết, yêu mến và hầu việc Ngài và qua đó được trở nên giống Ngài hơn. Tuy nhiên từ rất sớm trong lịch sử nhân loại, con người đã lập nên các thần theo hình ảnh của họ và thờ phượng các thần tượng không thể nhìn thấy, không thể lắng nghe và cũng không thể giúp đỡ cho con người. Ngày nay, thần tượng có thể là một chiếc ô-tô đẹp, một căn nhà, công việc, tiền bạc, danh vọng, một tổ chức mà chúng ta thuộc về, hoặc thậm chí là một học thuyết mà chúng ta tin theo. Thần tượng có thể chi phối chúng ta nhiều hơn người ta có thể nhận ra, và việc này tinh vi đến nỗi người ta dường như không thể nhìn ra sự chi phối này.

 

Trong thời đại của Ô-sê, sự thờ lạy hình tượng phát triển cực thịnh trong dân Do Thái. Khi vương quốc bị chia đôi trong thời trị vì của Rô-bô-am, vương quốc Giu-đa ở phía nam có đền thờ và hệ thống các thầy tế lễ nên họ có thể tiếp tục thờ phượng Chúa; tuy nhiên Giê-rô-bô-am, vua của vương quốc phía bắc, không muốn dân sự của ông đến Giu-đa để thờ phượng Chúa vì e rằng họ sẽ không quay trở về nữa. Chính vì thế ông đã dựng nên hai con bò vàng, một con đặt tại Đan và một con đặt tại Bê-tên, rồi ông truyền cho dân chúng thờ lạy hai con bò ấy (1 Các vua 12:21-33). Điều này đã vi phạm hai điều răn đầu tiên trong luật pháp (Xuất Ê-díp-tô ký 20:1-6). Đức Chúa Trời đã lập một “hôn ước” với dân Y-sơ-ra-ên tại núi Si-nai và dân sự đã tuyên thệ vâng theo Ngài (Giê-rê-mi 2:1-3; 3:1-14; Ô-sê 2; Ê-sai 54:5). Khi dân sự đi theo thần tượng, họ đã phạm tội ngoại tình và “phạm tội tà dâm.”

 

Hội Thánh được ví sánh như nàng dâu là một phép ẩn dụ quen thuộc trong Tân Ước. “Hỡi người làm chồng, hãy yêu vợ mình, như Đấng Christ đã yêu Hội thánh, phó chính mình vì Hội thánh” (Ê-phê-sô 5:25). Phao-lô viết cho Hội Thánh tại Cô-rinh-tô rằng: “Vì về anh em, tôi rất sốt sắng như sự sốt sắng của Đức Chúa Trời, bởi tôi đã gả anh em cho một chồng mà thôi, dâng anh em như người trinh nữ tinh sạch cho Đấng Christ” (2 Cô-rinh-tô 11:2). Khi Hội Thánh địa phương noi theo thế gian trong cách thờ phượng và mục vụ đồng thời tìm cách làm vui lòng thế gian thay vì vâng theo Kinh Thánh và làm đẹp lòng Chúa, khi ấy họ đang “phạm tội tà dâm” và vi phạm mối quan hệ yêu thương với Đấng Christ. Đó chính là vấn đề của Hội Thánh tại Ê-phê-sô: các tín hữu đã từ bỏ tình yêu thương ban đầu. Nếu động cơ của chúng ta là những con số mà chúng ta có thể khoe khoang, hoặc các mục sư, ca sĩ mà chúng ta có thể khen ngợi, hoặc sự giải trí trong tôn giáo mà chúng ta vui thích thay vì tình yêu của chúng ta dành cho Đức Chúa Giê-su, khi ấy chúng ta đang thờ lạy hình tượng. Đám đông có thể thích thú với điều ấy, nhưng Đức Chúa Giê-su sẽ đứng ngoài cửa mà gõ (Khải huyền 3:20).

 

Dân Y-sơ-ra-ên thờ lạy hình tượng, một số Hội Thánh cũng thờ lạy hình tượng, và một số Cơ Đốc Nhân cũng có thể phạm tội thờ lạy những điều khác ngoài Chúa. Chúng ta phải cẩn thận không để đánh mất “tình yêu mới cưới” với Đấng Cứu Chuộc (Giê-rê-mi 2), đó là tình yêu trong những ngày ban đầu chúng ta bước đi với Đức Chúa Giê-su. Chúng ta đã dành thời gian để đọc và suy ngẫm Lời Chúa, cầu nguyện và thờ phượng Chúa. Chúng ta đến với dân sự của Đức Chúa Trời để cùng thờ phượng Chúa trong niềm vui và sự phấn khởi, tuy nhiên có lẽ giờ đây những điều ấy trở nên một thói quen và thậm chí là nhàm chán. Đến một lúc nào đó, chúng ta bắt đầu lướt nhanh qua thời gian tĩnh nguyện hằng ngày, chỉ trích những buổi thờ phượng, và thậm thí tìm lý do để không đến với Hội Thánh. Các thần tượng bắt đầu bước vào và đẩy Đức Chúa Giê-su ra bên ngoài. Hội Thánh đã “kết hôn với Đấng Christ,” (Rô-ma 7:1-4; Khải Huyền 19:6-10), nhưng nhiều khi chúng ta đã phớt lờ Ngài. “Tình yêu thương chẳng hề thất bại bao giờ” (1 Cô-rinh-tô 13:8), nhưng chúng ta có thể thất bại trong hành động bày tỏ tình yêu của mình dành cho Đức Chúa Giê-su.

Hỡi kẻ yêu dấu của tôi, vậy nên hãy tránh khỏi sự thờ lạy hình tượng.

1 Cô-rinh-tô 10:14

 

 

 

Bài 88

Ép-ra-im xen lộn với các dân khác; Ép-ra-im khác nào bánh chưa quay.

Ô-sê 7:8

Bánh là thức ăn chính của thế giới cổ đại. Họ thường nấu bánh trên một vỉ nướng với lửa nhỏ, điều đó đồng nghĩa với việc người đầu bếp phải theo dõi và trở bánh vào đúng thời điểm. Nếu không trở bánh, một mặt của chiếc bánh sẽ hóa ra tro còn mặt còn lại thì không chín. Nếu điều này xảy ra, chiếc bánh không thể ăn được và phải bị bỏ đi. Tiên tri Ô-sê gọi Ép-ra-im (vương quốc phía bắc) là một dân sự chưa được nướng chín. Họ không “hoàn toàn” thuộc về Chúa nhưng được nướng chỉ một nửa, họ không thật tâm thờ phượng Chúa nhưng tấm lòng của họ đã dành cho thần tượng. Cơ Đốc Nhân ngày nay có thể phạm tội lỗi như trên khi vấp phải chính sai lầm mà người Ép-ra-im đã phạm phải.

 

Lỗi đầu tiên của họ đó là không toàn tâm với Chúa. Một châm ngôn Phương Đông nói rằng: “Kẻ đạo đức giả giống như chiếc bánh được nướng trên vỉ – họ là những kẻ hai mặt.” Bột không thể tự trở mình nhưng cần người đầu bếp làm điều đó để được nấu chín. Vậy bột có hai nghĩa vụ: (1) “nhận lấy sức nóng” và (2) phó mình trong tay người đầu bếp. Nếu bột chống lại sức nóng hoặc không chịu trở mình, kết quả nhận được sẽ là một miếng bột chín một nửa và hoàn toàn vô dụng. Chúng ta không ưa thích những thử thách trong cuộc sống, tuy nhiên chúng ta cần điều ấy. Chúng ta muốn sống cuộc sống của riêng mình và tránh né “sức nóng,” nhưng kết quả là chúng ta không chín chắn và vô dụng. Chúa muốn chúng ta trở nên những chiếc bánh ngon đầy bổ dưỡng để có thể cung cấp thức ăn cho đám đông đang đói, điều này đòi hỏi chúng ta phải hoàn toàn đầu phục Chúa.

 

Lỗi thứ hai của người Ép-ra-im đó là thỏa hiệp với thế gian. Đức Chúa Trời truyền cho dân Y-sơ-ra-ên không được trộn lẫn với các nước khác và bắt chước cách sống không tin kính của họ. Dân Do Thái phải là “một dân ở riêng ra, sẽ không nhập số các nước” (Dân số ký 23:9). Khi chiếm lấy Đất Hứa, họ được hướng dẫn phải phá hủy toàn bộ hình tượng và đền thờ các thần ngoại giáo. Hai thế hệ người Do Thái đầu tiên đã vâng lời Chúa, tuy nhiên đến thế hệ thứ ba, họ bắt đầu làm theo các dân tộc xung quanh bằng việc thờ phượng hình tượng cùng vi phạm tất cả các tội lỗi gắn liền với sự thờ phượng đó, chính vì vậy Đức Chúa Trời phải sửa trị họ (Các quan xét 2:7-23). “Nhưng tuyển dân lại pha lộn với các dân, tập theo công việc chúng nó, và hầu việc hình tượng chúng nó, là điều gây làm cái bẫy cho mình” (Thi Thiên 106:35-36). “Các dân ngoại đã nuốt sức mạnh nó, mà nó không biết” (Ô-sê 7:9). Mưu chước của Sa-tan tinh vi đến nỗi Cơ Đốc Nhân tái phạm thường không nhận ra điều gì đang xảy đến với họ.

 

Lỗi thứ ba đó là không chuẩn bị để hầu việc Chúa. Y-sơ-ra-ên phải là sự sáng cho dân ngoại, chỉ cho dân ngoại thấy Đức Chúa Trời hằng sống và chân thật (Ê-sai 49:6); ngược lại, sự tối tăm của dân ngoại đã bao phủ người Do Thái và họ sống trong sự tối tăm. Thầy tế lễ, người Lê-vi, và các tiên tri đã dạy cho dân sự biết thế nào là sạch và không sạch cũng như cảnh báo họ rằng Đức Chúa Trời sẽ không dung thứ cho việc họ kết bạn với thế gian. Ngày nay Đức Chúa Trời cũng cảnh báo với dân sự của Ngài (1 Giăng 2:15-17; 2 Cô-rinh-tô 6:14-7:1; Gia-cơ 4:1-10). Thầy tế lễ và người Lê-vi đã hết lòng với Chúa để họ có thể làm đẹp lòng Chúa và phục vụ dân sự. Từ ban đầu họ không “chín một nửa” nhưng tận hiến và được chuẩn bị để phục vụ, tuy nhiên nhiều năm trôi qua, một số người bắt đầu “chín một nửa” và hoàn toàn không được chuẩn bị để phục vụ trong đền thánh. Đức Chúa Trời không thể ban phước và sử dụng những con người không được chuẩn bị, song ngày nay vẫn có những mục sư, giáo sư, ca sĩ, lãnh đạo, cha, mẹ, và những người phục vụ khác là những người không thích hợp để phục vụ nhưng qua sự “phục vụ” của họ đã làm suy yếu công tác của Đấng Christ.

 

Chúng ta cần phải “nhận lấy sức nóng” và phó thác vào tay Đấng Cứu Chuộc để trở nên những đầy tớ sẵn lòng có khả năng phục vụ.

Trong một nhà lớn, không những có bình vàng bình bạc mà thôi, cũng có cái bằng gỗ bằng đất nữa, thứ thì dùng việc sang, thứ thì dùng việc hèn. Vậy, ai giữ mình cho khỏi những điều ô uế đó, thì sẽ như cái bình quí trọng, làm của thánh, có ích cho chủ mình và sẵn sàng cho mọi việc lành.

2 Ti-mô-thê 2:20-21

 

 

 

Bài 89

 

Hỡi Y-sơ-ra-ên, vậy nên ta sẽ đãi ngươi dường ấy; hỡi Y-sơ-ra-ên, vì ta sẽ đãi ngươi dường ấy, nên ngươi khá sửa soạn mà gặp Đức Chúa Trời ngươi.

A-mốt 4:12

A-mốt mở đầu quyển sách với lời công bố về sự phán xét sẽ xảy đến trên các nước ngoại bang bởi vì cách mà họ đã đối đãi với người Do Thái, chắc hẳn điều này sẽ làm cho vương quốc Y-sơ-ra-ên và vương quốc Giu-đa rất vui mừng. Tuy nhiên sau đó vị tiên tri thông báo rằng Y-sơ-ra-ên và Giu-đa sẽ bị đoán phạt bởi vì những tội lỗi mà họ đã phạm chống lại Chúa. Đức Chúa Trời đã kỷ luật dân sự của Ngài bằng hạn hán và đói kém, gió nóng và sâu lúa, chiến tranh và dịch lệ, nhưng giờ đây, sự đoán phạt cuối cùng sẽ đến – sự chết. Họ sẽ không gặp “lằn roi” của Chúa nhưng sẽ gặp chính Ngài! Quân đội A-si-ry sẽ chiếm vương quốc phía bắc là Y-sơ-ra-ên và rất nhiều người sẽ chết. Nếu bạn và tôi biết rằng trong tuần tới mình sẽ chết, chúng ta sẽ phản ứng thế nào? Nếu chúng ta đột nhiên phải sắp xếp lại và thay đổi đáng kể cuộc sống của mình, điều đó có nghĩa là cuộc sống của chúng ta có vấn đề. Chúng ta phải sống cho Chúa để Ngài có thể kêu gọi chúng ta bất kỳ khi nào và chúng ta đều đã được chuẩn bị. Vì nhiều lý do, dân Y-sơ-ra-ên đã không được chuẩn bị.

 

Họ đã quên giao ước của Đức Chúa Trời. Trước khi thế hệ mới của người Y-sơ-ra-ên tiến vào Đất Hứa, Môi-se đã ôn lại giao ước của Đức Chúa Trời và dạy họ phải sống như thế nào (Phục Truyền Luật Lệ Ký 27-28). Sau khi dân Y-sơ-ra-ên tiến vào đất hứa, Giô-suê đã ôn lại giao ước ấy lần thứ hai (Giô-suê 8:30-35). Đức Chúa Trời phán rằng Ngài sẽ chu cấp và bảo vệ dân sự nếu họ vâng theo lời Ngài, tuy nhiên nếu họ không vâng phục và trở nên như dân ngoại thì Chúa sẽ sửa trị họ. Ngài đã giáng xuống chính những tai họa mà Chúa nói đến trong giao ước, tuy nhiên dân sự không nhận thấy thông điệp từ Chúa. Thay vì thờ phượng Chúa như lời Ngài truyền, họ bắt đầu thờ phượng các thần tượng chết của các dân tộc khác, và Chúa chỉ còn cách sửa phạt họ. “Chúa sẽ xét đoán dân mình” (Hê-bơ-rơ 10:30). Bởi vì Cơ Đốc Nhân tại Hội Thánh Cô-rinh-tô không giữ Tiệc Thánh một cách đúng đắn, nên rất nhiều người bị đau ốm và một số người chết (1 Cô-rinh-tô 11:27-32). Đức Chúa Trời sẽ thực hiện những gì Ngài phán!

 

Họ phớt lờ sự kêu gọi của Chúa. Sự đoán phạt mà Chúa giáng xuống trên vùng đất giống như “những tiếng gọi cảnh tỉnh” mà các lãnh đạo và dân sự đã bỏ qua. Năm lần trong A-mốt 4, Chúa phán cùng họ rằng: “các ngươi không trở về cùng Ta” (c. 6-11), nhưng họ không lắng nghe. Họ đã đặt lòng vào các thần tượng ngoại giáo và quay lưng lại với Đức Chúa Trời. A-mốt kêu nài dân sự hãy tìm kiếm Chúa và được sống (5:4, 6, 14), nhưng họ phớt lờ và chịu chết. (Môi-se đã đưa ra lời cảnh báo tương tự trong Phục Truyền Luật Lệ Ký 30:11-20, và chúng ta đoán chắc rằng Giô-suê cũng đã nhắc nhở dân chúng.) Kinh nghiệm của tôi đó là Đức Chúa Trời luôn luôn uốn nắn mỗi khi tôi không vâng lời và không lắng nghe Ngài. Tuy nhiên tôi rất vui lòng được Ngài sửa trị, bởi vì cánh tay uốn nắn chứng tỏ tấm lòng yêu thương của Ngài và là bằng chứng thể hiện tôi thật sự là con của Đức Chúa Trời (Hê-bơ-rơ 12:3-11). Đức Chúa Trời không đánh con của hàng xóm, đó là lý do vì sao những tội nhân dường như “thoát khỏi tai họa.”

 

Họ không nghiêm túc trước sự chết. Chết là sự đoán phạt cao nhất mà Chúa giáng xuống trên con người, trong đó có cả con cái của Ngài (1 Giăng 5:16-17). Nếu chúng ta cố ý phạm tội và mong sẽ được tránh khỏi tai họa, đó là điều đi ngược với lời dạy của Kinh Thánh. Đức Chúa Trời không vui trong sự chết của kẻ ác (Ê-xê-chi-ên 18: 23, 32), Ngài cũng không vui lòng khi phải lấy đi mạng sống của con cái của Ngài. Thật đáng buồn khi những người xưng là Cơ Đốc Nhân sống một đời sống như thể Đức Chúa Giê-su chưa từng chết, Đức Thánh Linh chưa từng giáng xuống, và sự đoán phạt sẽ không bao giờ xảy đến; tuy nhiên A-mốt thốt lên rằng: “khá sửa soạn mà gặp Đức Chúa Trời ngươi” (A-mốt 4:12). Bạn có cần Chúa cảnh báo thêm điều gì nữa không?

 

Theo như đã định cho loài người phải chết một lần, rồi chịu phán xét.

Hê-bơ-rơ 9:27

 

 

 

 

 

Bài 90

Nhưng Giô-na chỗi dậy đặng trốn qua Ta-rê-si, để lánh khỏi mặt Đức Giê-hô-va.

Giô-na 1:3

Sách Giô-na viết về vấn đề gì? Có bốn lần con cá lớn được nhắc đến, tuy nhiên quyển sách này không nói về một con cá. Tên Giô-na được nhắc đến mười tám lần, nhưng Danh Đức Chúa Trời được nhắc đến ba mươi bảy lần! Quyển sách này nói về Đức Chúa Trời và cách mà Ngài giải quyết với những người muốn làm theo ý mình và từ bỏ ý Chúa. Giô-na chắc chắn biết mình không thể trốn khỏi Chúa. “Tôi sẽ đi đâu xa Thần Chúa? Tôi sẽ trốn đâu khỏi mặt Chúa?” (Thi Thiên 139: 7). Nếu chúng ta có ý muốn trốn khỏi mặt Chúa thì hậu quả sẽ thật đau đớn.

 

Cuộc đời đi xuống. Giô-na xuống cảng Gia-phô sau đó xuống một con tàu (Giô-na 1:3), và rồi xuống nơi thấp nhất của con tàu để ngủ (c. 5). Có thể bạn nghĩ rằng lương tâm tội lỗi đang cáo trách cộng với cơn bão sẽ có thể khiến Giô-na thức tỉnh, nhưng không, ông ngủ thật yên giấc. Rất thường khi không vâng theo Chúa, chúng ta sẽ có một thời gian yên lặng bí mật ru ngủ chúng ta vào một sự bình an giả tạo. Đây là một sự lừa dối của Sa-tan. Nhưng đó không phải là cái kết. Mặc dù được các thủy thủ người ngoại cố gắng giữ mạng sống, Giô-na nài nỉ họ quăng ông xuống biển, và thế là ông xuống lòng biển nơi một con cá lớn đang chờ đợi ông. Con cá nuốt chửng Giô-na, ông xuống dạ dày của con cá. Xuống, xuống, xuống và xuống! Trước đó Giô-na đã nhận một sứ điệp từ Đức Chúa Trời, một sứ điệp có thể cứu sống một triệu dân tại thành Ni-ni-ve, tuy nhiên là một người Do Thái yêu nước và ghét ngoại bang, Giô-na muốn cho họ phải chết.

 

Cuộc sống đầy giông bão. Đức Chúa Trời kêu gọi người Do Thái để họ trở nên một nguồn phước cho thế giới (Sáng thế ký 12:1-3), tuy nhiên mỗi khi không vâng lời Chúa, họ đều gây ra tai họa thay vì phước hạnh. Tên Giô-na có nghĩa là bồ câu, tuy nhiên ông không hề đem sự bình an lên con tàu. Một con cái Chúa khi không vâng lời có thể gây ra tai họa lớn hơn cả một đoàn người ngoại đạo khi không vâng lời. Khi Giô-na đã bước đi nghịch cùng Chúa, Ngài không còn phán với ông được nữa nhưng phải dùng đến cơn bão để thu hút sự chú ý của ông. Giô-na cũng đánh mất năng quyền cầu nguyện (Giô-na 1:6) cũng như mất đi lời chứng của ông trước các thủy thủ người ngoại (c. 7-9), và vì cố gắng lánh mặt Chúa, ông đã gần như đánh mất mạng sống của chính mình và khiến cho thủy thủ đoàn gặp nguy hiểm. Tuy nhiên khi Giô-na bị quăng khỏi con tàu, cơn bão liền yên lặng! Tôi đã nhìn thấy những gia đình đi từ bão tố đến phước hạnh yên ổn khi tội lỗi trong gia đình ấy được xưng ra và được tha thứ – điều này cũng xảy ra trong Hội Thánh.

 

Ăn năn là hy vọng sống. Có thể Giô-na mong muốn một cái chết nhanh chóng, tuy nhiên Đức Chúa Trời có một kế hoạch khác. Giô-na phải mất đến ba ngày để đi đến chỗ cầu nguyện và cầu xin sự tha thứ, tuy nhiên khi ông đã ăn năn, Đức Chúa Trời giải cứu ông và đưa ông về với đất liền. Trong lời cầu nguyện của Giô-na có trích dẫn nhiều câu Kinh Thánh trong sách Thi Thiên, việc ghi nhớ Kinh Thánh giờ đây lại rất hữu ích cho Giô-na. Khi con cá lớn nhả Giô-na ra nơi đất khô, những ai nhìn thấy điều đó chắc hẳn sẽ rất kinh ngạc và hoảng sợ, và việc này nhanh chóng truyền đến Ni-ni-ve. Khi Giô-na đến nơi, họ đã sẵn sàng lắng nghe, ăn năn tội lỗi, và được thoát khỏi sự hình phạt. Chúa đã cho Giô-na một cơ hội mới, cũng như Ngài đã từng tạo cơ hội cho Áp-ra-ham, Gia-cốp, Môi-se, Đa-vít, Phi-e-rơ và….

 

Chỉ duy một Đức Chúa Trời đầy ân điển là Đấng mà chúng ta thờ phượng mới có thể tiếp nhận một đầy tớ đầy ương ngạnh, bất tuân và sử dụng đầy tớ ấy để đem lại sự tỉnh thức tâm linh cho một thành phố lớn. Đức Chúa Giê-su dùng trải nghiệm của Giô-na để nói về sự phục sinh của Ngài và nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc lắng nghe lời Chúa và ăn năn (Ma-thi-ơ 12:38-41; 16:4). Tôi tin rằng bạn không trốn khỏi mặt Chúa. Nhưng nếu bạn đang ở trong trường hợp này, hãy đổi hướng và chạy về với Ngài, Ngài sẽ ban cho bạn một khởi đầu mới.

Đến ngày phán xét, dân thành Ni-ni-ve sẽ đứng dậy với dòng dõi nầy mà lên án nó, vì dân ấy đã nghe lời Giô-na giảng và ăn năn; mà đây nầy, có một người tôn trọng hơn Giô-na!

Ma-thi-ơ 12:41

 

 

 

Bài 91

Hỡi người! Ngài đã tỏ cho ngươi điều gì là thiện; cái điều mà Đức Giê-hô-va đòi ngươi há chẳng phải là làm sự công bình, ưa sự nhân từ và bước đi cách khiêm nhường với Đức Chúa Trời ngươi sao?

Mi-chê 6:8

Mi-chê 6:1-5 là một khung cảnh xử án, nơi đó Đức Chúa Trời xét đoán dân sự của Ngài. Chúa bảo gọi họ hãy đưa ra bất kỳ bằng chứng thể hiện Ngài từng quên họ, nhưng không có bằng chứng nào. Sau đó dân sự hỏi Chúa rằng họ có thể dâng điều gì để nhận được sự tha thứ của Ngài, tuy nhiên không có của tế lễ nào là đủ cả (c. 6-7). Phần Kinh Thánh này bày tỏ điều làm đẹp lòng Đức Chúa Trời và điều mà Ngài muốn trong cuộc đời của chúng ta.

 

Chúng ta phải cư xử đúng đắn với người khác. Điều làm đẹp lòng Chúa đó là chúng ta hành xử công bằng và yêu thương. Thoạt nghe, hai điều này giống như dầu và nước, chúng không thể nào hòa tan vào nhau, tuy nhiên nhờ thập giá của Đấng Christ, điều này là có thể. Tại thập giá, Đức Chúa Giê-su đã nhận lấy hình phạt mà chúng ta đáng phải nhận vì tội lỗi của mình, và giờ đây Đức Chúa Trời có thể bày tỏ lòng thương xót của Ngài cho chúng ta mà không vi phạm luật pháp của Ngài. Đấng Christ đã chết cho chúng ta, đáp ứng yêu cầu công chính trong luật pháp của Đức Chúa Trời, và Ngài sống lại từ cõi chết để tha thứ cho chúng ta bởi ân điển Ngài. Đức Chúa Trời là Đấng công chính và cũng là Đấng khiến cho những ai tin nơi Đức Chúa Trời được công chính. Phao-lô luận về lẽ thật này trong Rô-ma 3:21-31. Bởi vì Chúa đã tha thứ cho chúng ta, nên chúng ta có thể tha thứ cho người khác. Trong sự yêu thương, Đức Chúa Trời không ban cho chúng ta điều chúng ta đáng phải nhận, nhưng bởi ân điển, Ngài ban cho chúng ta điều chúng ta không xứng đáng nhận lấy; điều này mở ra cánh cổng để chúng ta tha thứ cho người khác. Chúng ta không thể có mối tương giao thật với Chúa nếu chúng ta không có mối tương giao với người khác (Ma-thi-ơ 5:21-26).

 

Chúng ta phải muốn phát triển tâm linh. Bước đi với Chúa nghĩa là lớn lên trong ân điển, vượt qua những yếu đuối và tội lỗi, nương dựa nơi sự dẫn dắt và năng quyền của Chúa. Nếu chúng ta không thật sự muốn trả giá cho việc phát triển tâm linh thì bài học ngày hôm nay không thể giúp đỡ cho chúng ta được. Đức Chúa Giê-su hỏi một người bệnh nơi ao Bê-tết-đa rằng: “Ngươi có muốn lành chăng?” tuy nhiên người ấy chỉ đáp lại bằng một lời biện hộ (Giăng 5:1-7). Mặc dù vậy, Đức Chúa Giê-su đã chữa lành cho ông và nói rằng: “Hãy đứng dậy, vác giường ngươi và đi” (c. 8). Đời sống mới nghĩa là bước đi mới, và bước đi mới ấy cho phép chúng ta trải nghiệm những thách thức mới và lớn lên trong Chúa. Bạn có sẵn sàng theo Chúa Giê-su không?

 

Chúng ta phải đồng ý hẹn gặp. Nếu cá nhân bạn không nhận biết Đức Chúa Giê-su là Đấng Cứu Rỗi và là Chúa, thì nơi duy nhất mà bạn có thể gặp Ngài đó là tại Gô-gô-tha, nơi mà Chúa đã chết vì bạn. Nếu bạn đã nhận biết Đức Chúa Giê-su, thì bạn sẽ gặp Ngài mỗi ngày tại ngôi ân điển (Hê-bơ-rơ 4:16). Tiên tri A-mốt đã hỏi rằng: “Nếu hai người không đồng ý với nhau, thì há cùng đi chung được sao?” (A-mốt 3:3). Bản dịch NASB viết câu này như sau: “Làm sao hai người có thể đi chung nếu họ không hẹn nhau?” Đức Chúa Cha muốn chúng ta hẹn gặp Ngài mỗi ngày, khi ấy Ngài có thể phán với chúng ta qua Kinh Thánh và chúng ta có thể trò chuyện với Ngài qua lời cầu nguyện. Quả là một vinh dự cho chúng ta được tương giao với Đức Chúa Trời của hoàn vũ!

 

Chúng ta phải bước đi trong sự khiêm nhường. Nếu chúng ta đi chung với một người hàng xóm thân thiện, thì ngoài đường sẽ ít có ai để ý đến; nhưng nếu chúng ta đi chung với một thị trưởng hoặc một lãnh đạo nhà nước, khi ấy sẽ có nhiều người chú ý đến chúng ta hơn. Đức Chúa Trời là Đấng vĩ đại nhất trong cả hoàn vũ và chúng ta nên cùng đi với Ngài! Dĩ nhiên không ai có thể nhìn thấy Chúa, tuy nhiên người khác có thể nhìn thấy chúng ta, và họ có thể thấy chúng ta khác biệt. Nhưng làm thế nào chúng ta có thể “khiêm nhường” bước đi khi người đồng hành với chúng ta chính là Chúa? Đó là bằng cách nhận ra Chúa vĩ đại như thế nào và chúng ta nhỏ bé như thế nào! Tại sao Đức Chúa Trời rủ lòng bước đi cùng với tôi và giúp đỡ tôi? Tôi là ai mà Chúa muốn tôi đi cùng? Dù đó là lò lửa hực (Đa-ni-ên 3:25), những dòng nước sâu (Ê-sai 43:2), hoặc trong thung lũng tối tăm (Thi Thiên 23:4), Chúa sẽ đi cùng chúng ta. Tận hưởng sự hiện diện của Chúa giúp chúng ta có được một tấm lòng khiêm nhường, và Chúa sẽ ban ơn cho người khiêm nhường (1 Phi-e-rơ 5:5-6).

Quả thật Ngài nhạo báng kẻ hay nhạo báng;

Nhưng Ngài ban ơn cho người khiêm nhường.

Châm Ngôn 3:34

 

 

 

Bài 92

Hỡi Đức Giê-hô-va! Xin Ngài lại khiến công việc Ngài dấy lên giữa các năm, Tỏ ra cho biết giữa các năm; Khi Ngài đương giận, xin hãy nhớ lại sự thương xót!

Ha-ba-cúc 3:2

Ha-ba-cúc nghĩa là “vật lộn” hoặc “ôm lấy” và trong quyển sách của mình, ông đã làm cả hai điều trên. Trong chương đầu tiên, ông vật lộn cùng Chúa bởi vì ông không thể hiểu tại sao một Đức Chúa Trời thánh khiết lại cho phép những người Ba-by-lôn chiếm lấy Giu-đa. Đức Chúa Trời phán rằng: “Vì ta đang làm ra trong ngày các ngươi một việc, mà dầu có ai thuật lại cho các ngươi, các ngươi cũng không tin” (Ha-ba-cúc 1:5). Trong chương 2, Ha-ba-cúc nhận lấy cái nhìn của Chúa về bối cảnh thời ấy, và trong chương 3, ông “ôm lấy” Chúa và cầu nguyện xin Chúa tiếp tục công tác của Ngài! Ông cầu nguyện rằng: “Xin công việc Chúa cứ tiếp tục.” Dù chúng ta đang hầu việc Chúa như thế nào, chúng ta không bao giờ được quên rằng đó là công việc của Chúa chứ không phải là của chúng ta. Đức Chúa Giê-su bày tỏ rõ ràng rằng Ngài đang làm công tác của Đức Chúa Cha (Giăng 4:32-34) và Phao-lô đã noi theo gương Chúa (1 Cô-rinh-tô 15:58; 16:10; Phi-líp 1:6). Khi nhận ra rằng chúng ta đang làm công tác của Chúa chứ không phải của chính mình, mục vụ của chúng ta sẽ có những thay đổi rất khích lệ.

 

Chúng ta sẽ đi từ tranh luận về ý muốn Chúa đến tiếp nhận ý muốn Chúa. Trong chương đầu tiên, tiên tri Ha-ba-cúc đã bước đi bởi mắt thấy, ông cố gắng dùng sức mình để hiểu kế hoạch của Chúa. Chắc chắn Chúa sẽ không cho phép những người Ba-by-lôn không tin kính đánh bại tuyển dân của Ngài, tuy nhiên Chúa đã cho phép điều đó xảy ra. Ngài cũng cho phép họ hủy phá thành Giê-ru-sa-lem và đền thờ, cùng với những nơi mà tuyển dân của Chúa đang thờ cúng thần tượng. Vì là một dân mù lòa, không nhận biết Chúa, nên người Ba-by-lôn thờ cúng thần tượng; tuy nhiên người Do Thái biết Đức Chúa Trời chân thật và hằng sống, chính vì vậy việc họ thờ cúng thần tượng là điều rất tồi tệ. Tiên tri Ha-ba-cúc biết những giao ước giữa Đức Chúa Trời với dân sự của Ngài, chính vì vậy mà lẽ ra ông đã không bất ngờ. Nhiệm vụ của chúng ta không phải là giải thích nhưng là tin cậy và vâng lời. Chúng ta sống trên lời hứa của Chúa, không phải trên những sự giải thích.

 

Chúng ta sẽ ngừng than phiền và bắt đầu vui mừng (Ha-ba-cúc 3:17-18). Khi tiên tri Ha-ba-cúc đã đầu phục Chúa, thái độ của ông được thay đổi. “Đức Giê-hô-va phán: Ý tưởng ta chẳng phải ý tưởng các ngươi, đường lối các ngươi chẳng phải đường lối ta” (Ê-sai 55:8). Giờ đây ông cầu nguyện rằng: “Xin ý Chúa được nên. Xin công việc Chúa được tiếp tục!” Trong chương 3 Ha-ba-cúc nhìn thấy Chúa diễu hành đầy chiến thắng qua lịch sử, và thoạt tiên ông bị giữ chặt trong sợ hãi (c. 16). Tuy nhiên khi nhận ra Đức Chúa Trời đang hành động dân sự của Ngài chứ không nghịch cùng họ, Ha-ba-cúc bắt đầu thờ phượng Chúa và vui mừng. Ông không thể vui mừng trong hoàn cảnh đang diễn ra, nhưng ông có thể vui mừng trong Chúa (c. 18).

 

Chúng ta sẽ nhờ cậy nơi sức Chúa chứ không phải sức lực của riêng mình (c. 19). “Chớ buồn thảm, vì sự vui vẻ của Đức Giê-hô-va là sức lực của các ngươi” (Nê-hê-mi 8:10). Chúng ta đang làm chính công tác của Chúa và Ngài sẽ chu cấp cho mọi nhu cầu của chúng ta, kể cả sức lực và sự khôn ngoan mỗi ngày. Mỗi ngày chúng ta sống và làm việc, và “đời ngươi lâu bao nhiêu, sức mạnh ngươi lâu bấy nhiêu” (Phục truyền luật lệ ký 33:25). Đã rất nhiều lần tôi nhìn vào thời khóa biểu hằng tuần của mình và tự hỏi liệu mình có thể hoàn thành được không – nhưng với sự giúp đỡ của Chúa, tôi đã làm được! “Ân điển ta đủ cho ngươi rồi, vì sức mạnh của ta nên trọn vẹn trong sự yếu đuối” (2 Cô-rinh-tô 12:9).

 

Chúng ta sẽ không làm vui lòng chính mình nhưng dâng vinh quang cho Chúa. Khi nhìn về phía trước, chúng ta sẽ nói rằng: “Vì sự nhận biết vinh quang Đức Giê-hô-va sẽ đầy dẫy khắp đất như nước đầy tràn biển” (Ha-ba-cúc 2:14). Khi nhìn lại, chúng ta sẽ nói rằng: “Điều ấy là việc của Đức Giê-hô-va, Một sự lạ lùng trước mặt chúng tôi” (Thi Thiên 118: 23). Khi công tác Chúa được hoàn thành, đường lối Chúa cho sự vinh quang của Ngài, tất cả đều tốt đẹp.

Vì muôn vật đều là từ Ngài, bởi Ngài, và hướng về Ngài. Vinh hiển cho Ngài đời đời vô cùng! A-men.

Rô-ma 11:36

 

 

 

Bài 93

Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi ở giữa ngươi; Ngài là Đấng quyền năng sẽ giải cứu ngươi: Ngài sẽ vui mừng cả thể vì cớ ngươi; vì lòng yêu thương mình, Ngài sẽ nín lặng; và vì cớ ngươi Ngài sẽ ca hát mừng rỡ.

Sô-phô-ni 3:17

Chúng ta không cần phải buồn phiền, bởi Đức Chúa Trời nhìn thấy điều gì đang diễn ra. Tiên tri Sô-phô-ni viết về hai “ngày” trong tương lai liên quan đến dân tộc Do Thái: một ngày đoán xét khi các quốc gia tấn công Giê-ru-sa-lem (Sô-phô-ni 1:1-3:7), và một ngày vui mừng khi Chúa giải cứu dân sự của Ngài (3:8-20). Chúa phán cùng họ rằng: “chớ sợ” bởi vì Ngài sẽ ở cùng để giải cứu họ (c. 16). Chúng ta có thể nương dựa nơi tình yêu của Chúa, bởi vì tình yêu Ngài không bao giờ hư mất. “Quyết chẳng có điều sợ hãi trong sự yêu thương, nhưng sự yêu thương trọn vẹn thì cất bỏ sự sợ hãi” (1 Giăng 4:18). Tác giả Thi Thiên viết rằng: “Đức Chúa Trời là nơi nương náu và sức lực của chúng tôi, Ngài sẵn giúp đỡ trong cơn gian truân” (Thi Thiên 46:1).

Không chỉ giải cứu, nhưng Đức Chúa Trời của chúng ta cũng ca hát. Trong phần Kinh Thánh này chúng ta nhìn thấy Đức Chúa Cha là một người Cha yêu thương, Ngài ôm đứa con đầy ưu phiền vào trong lòng và ca hát để cho đứa trẻ chìm vào giấc ngủ. Hãy tưởng tượng hình ảnh ấy! Đức Chúa Cha dịu dàng ôm lấy và xoa dịu tấm lòng đầy muộn phiền của chúng ta. Trong Ma-thi-ơ 26:30, chúng ta thấy Đức Chúa Con ca hát tại buổi lễ Vượt Qua trước khi tiến vào khu vườn để cầu nguyện và sau đó là chịu chết tại đồi Gô-gô-tha. Chúng ta cũng nhìn thấy Đức Chúa Giê-su ca hát sau khi phục sinh vinh quang (Thi Thiên 22:22; Hê-bơ-rơ 2:12). Đức Thánh Linh ca hát trong và qua Hội Thánh của Đức Chúa Trời khi chúng ta nhóm họp để thờ phượng Chúa và đầu phục Ngài (Ê-phê-sô 5:18-21). Trong đời sống Cơ Đốc có những thời điểm dường như không tìm thấy sự bình an. Những hoàn cảnh cấp bách, con người dường như quá bận rộn để lắng nghe, và thậm chí lời cầu nguyện của chúng ta dường như không hiệu quả. Đó chính là lúc chúng ta cần yên lặng trước Chúa và để Ngài ca hát đưa bạn vào sự bình an. Đừng cố gắng giải thích, bởi vì sự bình an của Đức Chúa Trời “vượt quá mọi sự hiểu biết” (Phi-líp 4:7); hãy tận hưởng điều ấy.

 

Không chỉ có thế. Đức Chúa Trời không chỉ nhìn thấy điều gì đang xảy ra, giải cứu chúng ta khỏi sự đoán phạt, và ca hát cho chúng ta, nhưng Ngài cũng vui mừng vì cớ chúng ta. Chúng ta có thể làm vui lòng Đức Chúa Trời! Các phụ huynh yêu mến những lúc mà con cái của họ đem lại cho họ niềm vui bằng những hành động vâng lời, yêu thương hoặc bằng điều gì đó đặc biệt mà con cái của họ đã làm để làm vui lòng cha mẹ. Biết và làm theo ý muốn Chúa vẫn chưa đủ; chúng ta phải làm điều đó với mục đích là làm đẹp lòng Ngài. Cuối cùng Giô-na đã đi đến thành Ni-ni-ve và công bố sứ điệp của Đức Chúa Trời, tuy nhiên ông có thái độ không đúng đắn. Ông ghét dân tộc mà ông đang giảng đạo, chính vì thế ông đi ra ngoài thành và bĩu môi, hy vọng Đức Chúa Trời sẽ tiêu diệt thành ấy (Giô-na 4). Đức Chúa Giê-su phán rằng: “Ta hằng làm sự đẹp lòng Ngài” (Giăng 8:29). Đức Chúa Cha muốn chúng ta “hầu cho anh em ăn ở cách xứng đáng với Chúa, đặng đẹp lòng Ngài mọi đường” (Cô-lô-se 1:10). Đức Chúa Trời phán cùng các thầy tế lễ trong thời của Ma-la-chi rằng: “Ta chẳng lấy làm vui lòng nơi các ngươi” (Ma-la-chi 1:10). Đời sống của chúng ta cũng phải giống như những của lễ, “không phải phàn nàn hay là vì ép uổng; vì Đức Chúa Trời yêu kẻ dâng của cách vui lòng” (2 Cô-rinh-tô 9:7).

 

Một cách dịch khác cho câu Kinh Thánh Sô-phô-ni 3:17 đó là: “Ngài sẽ im lặng trong tình yêu thương.” Những người luôn miệng nói họ yêu chúng ta cũng dễ làm chúng ta phát cáu như những người ít khi nói lên điều đó, tuy nhiên khi tình yêu trở nên sâu đậm, tình yêu ấy sẽ được bày tỏ khi im lặng cũng như khi được nói lên. Khi Đức Chúa Trời không phán cùng chúng ta hoặc không làm điều gì đó vì chúng ta, Ngài vẫn yêu thương chúng ta; và chúng ta có thể tận hưởng “tình yêu lặng thinh” nhiều không kém những lời yêu thương được nói ra. Các em bé không biết nói thì có thể bày tỏ tình yêu của chúng cho cha mẹ, và các cha mẹ cũng có thể bày tỏ và nói ra tình yêu thương cho con cái kể cả khi họ im lặng. Những khoảng thời gian tĩnh lặng trong giờ thờ phượng khiến cho người ta cảm thấy căng thẳng. Với những người bạn lâu năm, sự im lặng nói lên nhiều điều hơn cả lời nói, và sự tình yêu im lặng của Đức Chúa Trời dành cho chúng ta cũng thế.

Đức Chúa Cha có đang vui lòng vì chúng ta hay không?

Bèn là đẹp lòng người kính sợ Ngài, và kẻ trông đợi sự nhân từ của Ngài.

Thi Thiên 147:11

 

 

 

Bài 94

Đức Giê-hô-va sẽ làm vua khắp đất; trong ngày đó, Đức Giê-hô-va sẽ là có một, và danh Ngài cũng sẽ là có một.

Xa-cha-ri 14:9

Khi còn là một chú bé trong lớp học Trường Chúa Nhật, tôi được dạy rằng khi Đức Chúa Giê-su còn tại thế, Ngài là một Tiên Tri, và giờ đây Ngài là Thầy tế lễ trên thiên đàng, nhưng khi Chúa tái lâm, Ngài sẽ làm Vua cai trị trái đất. Tuy nhiên phát biểu trên không hoàn toàn chính xác, bởi vì ngày hôm nay Đức Chúa Giê-su đang trị vì như một vị vua. Ngài là thầy tế lễ theo bang Mên-chi-xê-đéc, và Mên-chi-xê-đéc là một vị vua đồng thời cũng là một thầy tế lễ (Hê-bơ-rơ 6:20-7:3). Ngày nay, Đức Chúa Giê-su đang ngồi trên ngôi bên hữu Đức Chúa Cha trên thiên đàng (Ê-phê-sô 1:20; Hê-bơ-rơ 1:3; 8:1), và Ngài là Vua.

 

Vua đã tạo dựng nên chúng ta. Khi dựng nên A-đam và Ê-va, Chúa đã tạo dựng nên một hoàng tộc, khi ấy tổ tiên đầu tiên của chúng ta được ban cho quyền cai trị trên sự sáng tạo (Sáng thế ký 1:26, 28; Thi Thiên 8:6-8). Bi kịch xảy ra khi họ bất trung với Chúa và đánh mất quyền thống trị đó, họ đã ăn trái của cây tri thức và bị đuổi khỏi khu vườn (Sáng 3). Trong Rô-ma 5:12-21, Phao-lô giải thích rằng hậu quả tội lỗi khi xưa đã động chạm đến mỗi một con người được sinh ra trên trái đất. Bởi vì A-đam bất tuân, tội lỗi thống trị thế gian này (Rô-ma 5:21), và bởi vì tội lỗi đang thống trị nên sự chết cũng thống trị (5:14, 17); bởi vì “tiền công của tội lỗi là sự chết” (6:23). Sự sáng tạo của Vua đã bị tội lỗi và sự chết phá hoại.

 

Vua đã đến với chúng ta. Bởi tình yêu và ân điển, Chúa đã đặt ra một kế hoạch cứu rỗi để cứu vớt chúng ta khỏi tội lỗi và sự chết. Đức Chúa Cha sai Con Ngài giáng sanh tại Bết-lê-hem, trở nên Đấng Cứu Rỗi thế gian (1 Giăng 4:14). Ngài sinh ra làm “Vua dân Do Thái” (Ma-thi-ơ 2:1-2), và trong thời gian chức vụ của Chúa trên đất này, Ngài thực thi sự cai trị mà A-đam đã đánh mất. Ngài truyền lệnh cho loài cá (Ma-thi-ơ 17:24-27); Lu-ca 5:1-11; Giăng 21:1-14), loài chim (Ma-thi-ơ 26:31-34, 74-75), và muôn thú (Mác 1:12-13; Lu-ca 19:30). Ngài đã cai trị! Song chính dân sự của Chúa đã chối bỏ Ngài. Phi-lát, quan tổng quản người La-mã, đã hỏi Chúa rằng: “Chính ngươi là Vua dân Giu-đa, phải chăng?” Đức Chúa Giê-su đáp rằng: “Nước của Ta chẳng phải thuộc về thế gian nầy” (Giăng 18:33, 36). Nói cách khác, nước Chúa không phải là một thể chế chính trị nhưng là một cộng đồng thờ phượng và phục vụ. Một ngày trong tương lai, Đức Chúa Giê-su sẽ là “Vua của cả trái đất,” nhưng hôm nay vương quốc của Chúa đang hiện hữu ở bất cứ nơi đâu dân sự của Ngài vâng lời Chúa và cầu nguyện rằng: “Nước Cha được đến. Ý Cha được nên ở đất cũng như trời” (Ma-thi-ơ 6:10). Đám đông la lớn với Phi-lát rằng: “Đóng đinh hắn trên cây thập tự!” Các thầy tế lễ nói rằng: “Chúng tôi không có vua khác, chỉ Sê-sa mà thôi” (Giăng 19:15). Đức Chúa Giê-su đội một mão gai và bị đóng đinh trên cây thập tự vì cớ chúng ta với một tấm bảng trên đầu Ngài viết rằng: “Giê-su người Na-xa-rét, Vua dân Giu-đa.” Nhưng bởi sự chết và phục sinh, Đức Chúa Giê-su phá vỡ quyền lực của tội lỗi và sự chết; giờ đây ân điển cai trị, và những ai tin cậy nơi Đức Chúa Giê-su có thể “cai trị trong sự sống” (Rô-ma 5:17, 21). Ngài đã lập chúng ta làm “vua và thầy tế lễ” (Khải Huyền 1:5-6) và chúng ta được đồng ngồi cùng Chúa trên ngôi (Ê-phê-sô 2:1-7). Chúng ta có thể bước đi trong sự đắc thắng và phước hạnh bởi vì chúng ta “cại trị trong sự sống” qua Ngài (Rô-ma 5:17).

 

Vua sẽ trở lại! Đức Chúa Giê-su hứa sẽ trở lại và đem những ai tin cậy nơi Ngài về nhà của họ trên thiên đàng để cùng cai trị với Ngài đời đời (Giăng 14:1-6; Khải Huyền 22:5). Sẽ có trời mới đất mới. Trong thời gian chờ đợi, đặc quyền và nhiệm vụ của chúng ta đó là trung tín “thờ phượng Vua” (Xa-cha-ri 14:16-17) hầu việc Ngài. Đức Chúa Giê-su là Vua muôn vua và Chúa các chúa (Khải Huyền 17:14; 19:16), Ngài là Vua thiên đàng và Vua của cả trái đất.

Đức Chúa Cha “đã giải thoát chúng ta khỏi quyền của sự tối tăm, làm cho chúng ta dời qua nước của Con rất yêu dấu Ngài” (Cô-lô-se 1:13). Hiện nay chúng ta ở đang trong vương quốc của Chúa! Hãy thờ phượng Vua!

Ngài sẽ lau ráo hết nước mắt khỏi mắt chúng, sẽ không có sự chết, cũng không có than khóc, kêu ca, hay là đau đớn nữa; vì những sự thứ nhất đã qua rồi.

Khải Huyền 21:4

 

 

 

 

 

Bài 95

Vì từ nơi mặt trời mọc cho đến nơi mặt trời lặn, danh Ta sẽ là lớn giữa các dân ngoại. Trong khắp mọi nơi, người ta sẽ dâng hương và của lễ thanh sạch cho danh ta; vì danh ta sẽ là lớn giữa các dân ngoại, Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy.

Ma-la-chi 1:11

“Bước đi xuống đầu tiên của một Hội Thánh là khi họ không còn tôn cao Đức Chúa Trời.” A. W. Tozer đã viết trong quyển sách tuyệt vời của mình với tựa đề Hiểu biết về Đấng Thánh (The Knowledge of the Holy). Điều này cũng đúng với “Cơ Đốc Nhân” hoặc “giáo viên trường Chúa Nhật” hoặc “giáo sĩ”. Tiên tri Ma-la-chi chính là người lãnh đạo những người Do Thái lưu đày được hồi hương để tái thiết thành Giê-ru-sa-lem và đền thờ. Tiếc thay, mức độ thuộc linh của họ rất thấp. Lẽ ra họ phải tôn cao Danh Đức Chúa Trời trước dân ngoại, tuy nhiên họ chọn tranh luận cùng Chúa. Ngày nay, khi nói về các Danh xưng của Đức Chúa Trời, Cơ Đốc Nhân có ba nhiệm vụ sau.

 

Chúng ta phải nhận biết Danh Chúa. Trong thời Kinh Thánh, tên là sự biểu thị về tính cách và khả năng, chính vì thế Danh của Đức Chúa Trời cho chúng ta biết Ngài là ai và Ngài có thể làm điều gì. Giê-hô-va nghĩa là “Đấng tự hữu hằng hữu” (Xuất Ê-díp-tô ký 3:13-14). Ngài là Đức Chúa Trời từ trước khi sáng thế và cho đến mãi mãi vô cùng Ngài vẫn là Đức Chúa Trời. Giê-hô-va Sabaoth nghĩa là “Đức Giê-hô-va vạn quân, Chúa của các quân đội thiên đàng” (1 Sa-mu-ên 1:3, 11), Giê-hô-va Ra-pha nghĩa là “Đức Chúa Trời chữa lành” (Xuất Ê-díp-tô ký 15:22-27). Đối với những chiến trận trong cuộc sống, chúng ta phải biết Danh Giê-hô-va Ni-si, “Đức Chúa Trời là cờ xí của chúng ta” (Xuất Ê-díp-tô ký 17:8-15), Ngài là Đấng ban sự chiến thắng cho chúng ta. Giê-hô-va Sa-lom nghĩa là “Đức Chúa Trời là sự bình an của chúng ta” (Các quan xét 6:24), và Giê-hô-va Ra-pha nghĩa là “Đức Chúa Trời là Đấng chăn giữ tôi” (Thi Thiên 23:1). Tôi có thể tiếp tục nói về các Danh xưng của Đức Chúa Trời, tuy nhiên tôi đề nghị bạn hãy tự nghiên cứu đề tài này qua việc nghiên cứu Kinh Thánh. Càng biết về các Danh xưng của Chúa, chúng ta sẽ càng hiểu biết Chúa và chúng ta có thể kêu cầu Chúa trong những lúc cần giúp đỡ. “Hỡi Đức Giê-hô-va, phàm ai biết danh Ngài sẽ để lòng tin cậy nơi Ngài. Vì Ngài chẳng từ bỏ kẻ nào tìm kiếm Ngài” (Thi Thiên 9:10).

 

Chúng ta phải tôn vinh Danh Chúa. Các thầy tế lễ trong đền thờ đã không tôn vinh nhưng lại xem thường Danh Chúa bằng việc thi hành mục vụ một cách đầy bất cẩn và dâng các tế lễ không được Chúa chấp nhận (Ma-la-chi 1:6-10). Ma-la-chi dùng từ “đáng khinh dể” để nói về công việc của họ (1:7, 12; 2:9). Đức Chúa Trời đòi hỏi chúng ta dâng lên Ngài điều tốt nhất và hầu việc Ngài theo cách tôn vinh Danh Chúa (1 Sử ký 21:24). Chúa thà để người khác đóng cửa đền thờ hơn là cho phép dân sự dâng những của tế lễ rẻ tiền trên bàn thờ (Ma-la-chi 1:10; Lê-vi ký 22:20). Các thầy tế lễ khồng còn vui thích nhưng đã nhàm chán tất cả mục vụ mà họ đang hầu việc (Ma-la-chi 1:13). “Khá hầu việc Đức Giê-hô-va cách vui mừng, Hãy hát xướng mà đến trước mặt Ngài” (Thi Thiên 100:2). Chúng ta phải tôn vinh Danh Chúa (Ma-la-chi 2:2) và kính sợ Danh Ngài (1:14; 4:2). Tuy nhiên vẫn còn một số ít những người kính sợ Chúa và tôn vinh Danh Ngài (3:16-19), và họ chính là niềm hy vọng cho dân tộc.

 

Chúng ta phải loan truyền Danh Chúa ra bên ngoài. Đức Chúa Trời muốn Danh Ngài “là lớn ngoài cõi Y-sơ-ra-ên” (1:5). Tiên tri Ma-la-chi nhìn thấy một ngày những người Do Thái và dân ngoại sẽ trở nên một dân tộc của Đức Chúa Trời trong đức tin nơi Đức Chúa Giê-su Christ (Ê-phê-sô 2:11-22). Khi Đức Chúa Giê-su chết trên thập giá, Ngài đã xé toan tấm màn trong đền thờ, mở ra một con đường cho mọi dân tộc được đến cùng Đức Chúa Trời và phá vỡ bức tường ngăn cách người Do thái và dân ngoại (Ê-phê-sô 2:1-14) để chúng ta “thảy đều làm một trong Đức Chúa Giê-su Christ” (Ga-la-ti 3:28). Danh Đức Chúa Giê-su Christ và phúc âm của Ngài phải được chia sẻ cho thế giới, bởi vì không có biên giới nào giam giữ chúng ta. “Vậy, những kẻ đã bị tan lạc đi từ nơi nầy đến nơi khác, truyền giảng đạo Tin lành” (Công vụ 8:4). Bạn có đang thực hiện nhiệm vụ của mình?

 

“Vì danh ta sẽ là lớn giữa các dân ngoại,” Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy.

Ma-la-chi 1:11

 

 

 

 

Bài 96

Các ngươi đã làm phiền Đức Giê-hô-va bởi những lời nói mình.

Ma-la-chi 2:17

Trong cuộc sống, đã có ai từng nói quá nhiều đến nỗi bạn chán ngán lắng nghe người ấy? Có thể là đứa con nhỏ của bạn, hoặc một người anh em nào đó luôn luôn đặt câu hỏi từ sáng đến tối, hoặc một sinh viên không ngừng nói về một vấn đề nào đó, hoặc một đồng nghiệp cảm thấy họ có trách nhiệm phải kể cho bạn nghe mọi tin tức “nội bộ” của công ty. Trong mục vụ của tôi, tôi thường phải chịu đựng những cuộc điện thoại từ các tín hữu, những người nghĩ rằng họ đang gặp phải vấn đề và muốn tôi biết tường tận từng chi tiết. Tôi nhận ra rằng lắng nghe là một mục vụ quan trọng để người ta có thể nói ra vấn đề của mình, tuy nhiên thời gian thì quý báu mà lời nói thì dường như quá rẻ tiền.

 

Tuy nhiên, tại sao Đức Chúa Trời lại chán ngán lời nói của chúng ta khi Ngài đã biết trước ý tưởng trong trí và lòng của chúng ta rồi. Từ khi bắt đầu, Ngài đã nhìn thấy sự kết thúc và Ngài không bất ngờ với những bài diễn văn dài dòng của chúng ta. Đức Chúa Giê-su phán rằng chỉ những người ngoại đạo “tưởng vì cớ lời mình nói nhiều thì được nhậm,” nhưng Ngài dạy chúng ta không được bắt chước họ (Ma-thi-ơ 6:7-8). Đức Chúa Cha chán ngán lề thói thờ phượng, những của tế lễ và lời cầu nguyện của người Y-sơ-ra-ên, đó là những điều không đến từ tấm lòng của dân sự Ngài (Ê-sai 29:11). Trong thời Ma-la-chi, sau khi người Do Thái đã rời Ba-by-lôn để hồi hương và tái thiết đền thờ, dân sự tin chắc rằng Đức Chúa Trời sẽ thi hành phép lạ lớn để gây ấn tượng trước dân ngoại, nhưng phép lạ đã không xảy ra. Dân sự tranh luận cùng Chúa, song còn tệ hơn thế nữa, các thầy tế lễ cảm thấy ngán ngẩm mục vụ của họ trong đền thờ mới (Ma-la-chi 1:12-13). Mọi chất liệu dệt nên đời sống tôn giáo của họ giờ đây đã quá yếu mòn và họ tha thiết cần sự phấn hưng. Đức Chúa Trời chán phải nghe những lời cầu nguyện và các bài thánh ca không thành tâm. Ngày nay chúng ta có đang mắc phải vấn đề này không?

 

Đức Chúa Giê-su gặp cùng một vấn đề như trên với dân sự trong thời của Ngài và với chính các môn đồ của Ngài. Một người cha đầy muộn phiền đã đem đứa con bị quỷ ám của mình đến cho chín môn đồ là những người không lên núi hóa hình cùng Đức Chúa Giê-su, tuy nhiên các môn đồ này không thể đuổi được quỷ đó (Ma-thi-ơ 17:14-21). Khi Đức Chúa Giê-su xuống núi và chứng kiến cảnh tượng đáng xấu hổ, Ngài phán rằng: “Hỡi dòng dõi không tin và gian tà kia, ta sẽ ở với các ngươi cho đến chừng nào? Ta sẽ nhịn nhục các ngươi cho đến khi nào?” Đức Chúa Giê-su giải cứu và trả đứa bé về với cha mình. Nhưng tại sao chín môn đồ thất bại? Đức Chúa Giê-su phán cùng họ rằng: “Ấy là tại các ngươi ít đức tin” (c. 20). Họ “không có đức tin và nghi ngờ” và hiển nhiên họ đã không kiêng ăn và cầu nguyện (c. 21). Đức Chúa Giê-su đã ban cho họ năng quyền để đuổi quỷ (10:1), nhưng khi Ngài vắng mặt, chín môn đồ đã nới lỏng kỷ luật thuộc linh. Một hậu quả bi thương của đời sống tâm linh yếu đuối đó là: chúng ta không thể giúp đỡ người khác và cũng không tôn vinh Đức Chúa Giê-su.

Dân Y-sơ-ra-ên làm buồn Đức Chúa Cha, chín môn đồ chủ chốt đã làm buồn Đức Chúa Con, và Hội Thánh ngày nay đang làm buồn Đức Thánh Linh. “Anh em chớ làm buồn cho Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời, vì nhờ Ngài anh em được ấn chứng đến ngày cứu chuộc” (Ê-phê-sô 4:30). Đức Thánh Linh ngự trong lòng mỗi một Cơ Đốc Nhân chân thật và Ngài vui lòng khi chúng ta vâng lời và buồn lòng khi chúng ta không vâng lời. Trong thư tín gửi cho các tín hữu tại thành Ê-phê-sô và Cô-lô-se, Phao-lô viết ra một số tội lỗi làm buồn lòng Đức Thánh Linh và khiến Ngài không hành động trong và qua chúng ta như: lừa dối, không công chính, giận dữ, trộm cắp, nói lời tục tĩu, cay đắng, nói lời dữ, và hận thù. Có những thái độ bên trong mà Đức Chúa Trời nhìn thấy từ tấm lòng của chúng ta, và Ngài muốn xóa khỏi chúng ta những điều ấy trước khi chúng bùng nổ và gây ra rắc rối.

Phải chăng Đức Chúa Giê-su thất vọng với chúng ta? Phải chăng chúng ta khiến Ngài chán ngán với những lỗi lầm của chính mình? Phải chăng chúng ta đang tìm kiếm “phương cách tốt hơn” trong khi Đức Chúa Trời tìm kiếm con người tốt hơn, là những người không làm buồn lòng Chúa? Đức Chúa Giê-su phán rằng: “Ta hằng làm sự đẹp lòng Ngài” (Giăng 8:29). Hãy noi gương Chúa.

Phải bỏ khỏi anh em những sự cay đắng, buồn giận, tức mình, kêu rêu, mắng nhiếc, cùng mọi điều hung ác. Hãy ở với nhau cách nhân từ, đầy dẫy lòng thương xót, tha thứ nhau như Đức Chúa Trời đã tha thứ anh em trong Đấng Christ vậy.

Ê-phê-sô 4:31-32

 

 

 

 

Bài 97

Nầy, Ta sai sứ giả Ta, người sẽ dọn đường trước mặt Ta; và Chúa mà các ngươi tìm kiếm sẽ thình lình vào trong đền thờ Ngài, tức là thiên sứ của sự giao ước mà các ngươi trông mong. Nầy, Ngài đến, Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy.

Ma-la-chi 3:1

Câu Kinh Thánh này nói đến ba sứ giả.

Vị sứ giả thứ nhất chính là tiên tri Ma-la-chi, bởi vì tên Ma-la-chi nghĩa là “sứ giả của ta.” Quả thật là một vinh hạnh cho ông khi được làm sứ giả của Đức Chúa Trời, được lắng nghe tiếng Chúa, được nói và viết lời Chúa! Sứ điệp của Ma-la-chi cho dân sự không dễ dàng truyền tải, bởi vì dân sự bắt đầu trở nên lạnh nhạt và không quan tâm đến sự thờ phượng Đức Chúa Trời. Đối với họ, sự thờ phượng là một lề thói tẻ nhạt, một việc cần phải thực hiện. Các thầy tế lễ đáng ra phải là những sứ giả của Đức Chúa Trời (Ma-la-chi 2:7), tuy nhiên họ cảm thấy chán nản với công việc của đền thờ và không dâng cho Chúa điều tốt nhất. Họ không hề bận tâm khi dân sự đem đến những thú vật đui, què và bệnh tật để làm của sinh tế thay vì dâng cho Chúa những con vật tốt nhất. Thậm chí có người đã đem đến con vật mà họ ăn cắp (c. 13)! Họ đã quên lời vua Đa-vít nói rằng ông sẽ không dâng cho Chúa của lễ thiêu nào mà ông không phải trả giá để có (2 Sa-mu-ên 24:24). Của tế lễ rẻ tiền thì không phải là của tế lễ. Đã bao giờ chúng ta mắc phải lỗi này chưa?

 

Vị sứ giả thứ hai chính là Giăng Báp-tít. “Nầy, Ta sai sứ giả Ta, người sẽ dọn đường trước mặt Ta” (Ma-la-chi 3:1). Tiên tri Ê-sai viết về Giăng rằng: “Có tiếng kêu rằng: Hãy mở đường trong đồng vắng cho Đức Giê-hô-va; hãy ban bằng đường cái trong đất hoang cho Đức Chúa Trời chúng ta!” (Ê-sai 40:3; xem Ma-thi-ơ 3:3). Trong thời cổ đại, khi một vị vua dự định đến thăm một thành phố, sẽ có những người đi trước để đảm bảo đường đi bằng phẳng và không có chướng ngại vật. Giăng Báp-tít được ban cho sứ mệnh ấy. Ông không nói về chính mình; ông nói về Đức Chúa Giê-su, đó chính là điều mà mỗi một sứ giả của Chúa cần phải làm. Giăng loan báo rằng: “Kìa, Chiên con của Đức Chúa Trời, là Đấng cất tội lỗi thế gian đi” (Giăng 1:29). “Ngài phải dấy lên, ta phải hạ xuống” (3:30). Là những sứ giả nhà vua, chúng ta phải trung tín để tôn vinh Đức Vua chứ không phải tôn vinh chính mình, và chúng ta phải truyền tải sứ điệp mà Ngài đã ban. Đức Chúa Giê-su phán rằng: “Ta nói cùng các ngươi, trong những người bởi đàn bà sanh ra, không có ai lớn hơn Giăng Báp-tít đâu” (Lu-ca 7:28).  Khi Giăng bắt đầu chức vụ, dân Do Thái đã đáp ứng với sứ điệp, tuy nhiên khi Giăng bị cầm tù, dân chúng đã không làm gì để giải cứu ông; ông đã phó mạng sống mình cho Chúa.

 

Vị sứ giả thứ ba chính là Đức Chúa Giê-su Christ. “Và Chúa mà các ngươi tìm kiếm sẽ thình lình vào trong đền thờ Ngài, tức là thiên sứ của sự giao ước mà các ngươi trông mong” (Ma-la-chi 3:1). Ma-la-chi là một tiên tri chính thức, Giăng Báp-tít được sinh ra là một thầy tế lễ nhưng được kêu gọi để trở thành tiên tri, nhưng Đức Chúa Giê-su là Tiên Tri, Thầy Tế Lễ, và là Vua! “Đức Giê-hô-va sẽ làm vua khắp đất” (Xa-cha-ri 14:9). Đức Chúa Giê-su đến thế gian lần đầu tiên để công bố Lời Đức Chúa Trời và hoàn thành ý muốn của Cha qua việc chết trên thập giá vì tội lỗi của thế gian. Ngài sẽ trở lại lần thứ hai để đoán xét thế gian bằng lửa, để làm sạch dân tộc Y-sơ-ra-ên của Ngài, và để thiết lập vương quốc. Hãy đọc Xa-cha-ri 12-14 và lưu ý đến cụm từ “trong ngày đó” được lặp đi lặp lại nhiều lần.

Chúa muốn dân sự của Ngài là những sứ giả trung tín, những người nói tin mừng cứu rỗi cho người khác.

Những kẻ đem tin tốt, rao sự bình an,

đem tin tốt về phước lành,

rao sự cứu chuộc, bảo Si-ôn rằng:

Đức Chúa Trời ngươi trị vì,

chân của những kẻ ấy trên các núi xinh đẹp là dường nào!

Ê-sai 52:7

 

 

 

 

 

 

Bài 98

 

Người ta có thể ăn trộm Đức Chúa Trời sao? Mà các ngươi ăn trộm Ta. Các ngươi nói rằng: Chúng tôi ăn trộm Chúa ở đâu? Các ngươi đã ăn trộm trong các phần mười và trong các của dâng.

Ma-la-chi 3:8

Cơ Đốc Nhân là người được tha thứ, bởi vì họ tin nơi Đức Chúa Giê-su Christ và Ngài tha mọi tội lỗi của họ (Cô-lô-se 2:13). Bởi vì Cơ Đốc Nhân là những người được tha thứ nên họ cũng phải là những người biết tha thứ (Ê-phê-sô 4:30-32). Và những người được tha thứ và biết tha thứ cũng sẽ là những người ban cho! Ân điển mà Đức Chúa Trời đã hành động trong tấm lòng cũng phải tuôn tràn khi họ bày tỏ hành động ban cho người khác.

Đức Chúa Trời là Đấng rộng lòng ban cho; chúng ta không bao giờ được quên điều này. “Mọi ân điển tốt lành cùng sự ban cho trọn vẹn đều đến từ nơi cao và bởi Cha sáng láng mà xuống, trong Ngài chẳng có một sự thay đổi, cũng chẳng có bóng của sự biến cải nào” (Gia-cơ 1:17). “Ngươi há có điều chi mà chẳng đã nhận lãnh sao?” (1 Cô-rinh-tô 4:7).  Đức Chúa Trời ban “sự sống, hơi sống, muôn vật cho mọi loài” (Công vụ 17:25; xem 14:17). Đức Chúa Trời đã kết ước với tạo vật của Ngài rằng “mùa gieo giống cùng mùa gặt hái, lạnh và nóng, mùa hạ cùng mùa đông, ngày và đêm, chẳng bao giờ tuyệt được” (Sáng thế ký 8:22). Nếu đây không phải là sự thật thì sự sống trên thế giới sẽ đảo lộn, song chúng ta lại không coi trọng sự thật này. Đức Chúa Trời phán trong Thi Thiên 50:12 rằng: “Nếu Ta đói, Ta chẳng nói cho ngươi hay; Vì thế gian và muôn vật ở trong, đều thuộc về Ta.” Trước khi tạo nên con người đầu tiên, Chúa đã chuẩn bị một nơi ở giàu có và tuyệt đẹp dành cho họ, ở đó mọi vật đều tốt lành (Sáng thế ký 1:31). “Ngài khiến mặt trời mọc lên soi kẻ dữ cùng kẻ lành, làm mưa cho kẻ công bình cùng kẻ độc ác” (Ma-thi-ơ 5:45). Trải qua nhiều thế kỷ, con người đã gây tổn hại lớn trên thiên nhiên mà Đức Chúa Trời ban cho chúng ta, chính vì thế chúng ta phải ăn năn. Nếu chúng ta dừng lại và xem xét mọi điều Đức Chúa Cha đã ban cho mình, chúng ta sẽ trở nên rộng lượng hơn với người khác.

 

Đức Chúa Trời là Đấng rộng lòng ban cho; nhưng con người thường là những kẻ cắp ích kỷ. Con người vui hưởng món quà của Chúa, thậm chí là lãng phí chúng, song họ lại quên ban cho người khác hoặc thậm chí quên dâng hiến cho Chúa. Cướp của Đức Chúa Trời là tội lỗi đầu tiên được ghi trong Kinh Thánh, khi tổ phụ của chúng ta hái trái từ cây của Chúa và ăn chúng (Sáng thế ký 3); kể từ đó chúng ta đã luôn cướp đi của Chúa. Dân Y-sơ-ra-ên đặc biệt phạm tội lỗi này cách nặng nề. Trong luật pháp Môi-se, Đức Chúa Trời truyền do dân sự phải dâng một phần mười và các của dâng khác cho Chúa. Ngài hứa rằng Chúa sẽ ban phước nếu họ làm theo. “Hãy lấy tài vật và huê lợi đầu mùa của con, mà tôn vinh Đức Giê-hô-va; vậy, các vựa lẫm con sẽ đầy dư dật, và những thùng của con sẽ tràn rượu mới” (Châm Ngôn 3:9-10). Trong thời Ma-la-chi, người Do Thái cướp của Đức Chúa Trời bằng việc không dâng hiến cho Chúa, hoặc không dâng của tốt nhất, hoặc dâng với tấm lòng miễn cưỡng. Đức Chúa Trời nhìn thấy cùng một tội lỗi ấy trong dân sự của Ngài ngày hôm nay. Khi chúng ta cướp của Đức Chúa Trời, chúng ta cướp của người khác cũng cướp của chính mình! Đức Chúa Trời muốn ban phước cho chúng ta, nhưng khi chúng ta ích kỷ không vâng lời Chúa, chúng ta khiến Chúa buồn lòng và ngăn cản Ngài tuôn đổ phước hạnh trên chúng ta (Ma-la-chi 3:10).

 

Liệu có phương thuốc nào cho tấm lòng ích kỷ không? Có! Ân điển của Đức Chúa Trời. “Vì anh em biết ơn của Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, Ngài vốn giàu, vì anh em mà tự làm nên nghèo, hầu cho bởi sự nghèo của Ngài, anh em được nên giàu” (2 Cô-rinh-tô 8:9). Nếu chúng ta thật sự kinh nghiệm sự giàu có của ân điển Chúa, chúng ta không thể không muốn người khác kinh nghiệm điều ấy, và họ sẽ trải nghiệm điều ấy nếu chúng ta chia sẻ với họ những gì Chúa đã ban cho chúng ta. Bằng việc dâng hiến cho Chúa và ban cho người khác, chúng ta không còn là một bể chứa nhưng trở thành một kênh dẫn phước hạnh. “Đức Chúa Trời có quyền ban cho anh em đủ mọi thứ ơn đầy dẫy, hầu cho anh em hằng đủ điều cần dùng trong mọi sự, lại còn có rời rộng nữa để làm các thứ việc lành” (2 Cô-rinh-tô 9:8).

Đó thật là một sự sắp đặt tuyệt vời! Đủ mọi thứ ơn – đầy dẫy – đủ – điều cần dùng – trong mọi sự – dư dật – các thứ việc lành! Chúng ta không thể ban cho nhiều hơn Chúa!

 

Nhớ lại lời chính Đức Chúa Jêsus có phán rằng: Ban cho thì có phước hơn là nhận lãnh.

Công vụ 20:35

 

 

Bài 99

 

Bấy giờ những kẻ kính sợ Đức Giê-hô-va nói cùng nhau, thì Đức Giê-hô-va để ý mà nghe; và một sách để ghi nhớ được chép trước mặt Ngài cho những kẻ kính sợ Đức Giê-hô-va và tưởng đến danh Ngài.

Ma-la-chi 3:16

Dân Do Thái vui mừng rời Ba-by-lôn để trở về với quê cha đất tổ, tuy nhiên cuộc sống nơi quê nhà không hề dễ dàng. Chúa muốn ban phước cho họ nhưng Ngài không thể bởi vì dân sự không vâng lời Chúa, chính vì thế Ngài kêu gọi tiên tri Ma-la-chi để cáo trách dân sự về những tội lỗi của họ – ít nhất ba mươi sáu tội đã được ghi trong quyển sách này – và kêu gọi dân sự quay trở về thành tâm trung tín với Chúa. Tiên tri Ma-la-chi đặc biệt quở trách các thầy tế lễ vì đã không tận tụy làm các mục vụ. Ngày nay, điều quan trọng đối với chúng ta đó là nhìn thấy Chúa đối diện với dân sự của Ngài, bởi vì Hội Thánh ngày nay cần lắng nghe và lưu tâm đến lời của Ma-la-chi.

 

Đức Chúa Trời quan tâm đến dân sự của Ngài. Dù dân Do Thái nói chung thờ ơ đối với Chúa, nhưng vẫn có một nhóm nhỏ những người đặt Chúa lên trên hết và vâng theo Ngài. Họ kính sợ Chúa (điều này được nhắc đến hai lần) và thường nhóm lại để khích lệ lẫn nhau và suy ngẫm Danh Chúa. “Danh Đức Giê-hô-va vốn một ngọn tháp kiên cố; Kẻ công bình chạy đến đó, gặp được nơi ẩn trú cao” (Châm Ngôn 18:10). Dù dân sự của Chúa đã tự làm cho mình ra ô uế như thế nào, vẫn luôn có những người còn sót lại là những người tôn kính Chúa, và Đức Chúa Trời sử dụng số người sót lại này để hoàn thành ý muốn của Ngài.

 

Đức Chúa Trời không quan tâm đến số lượng. Ngài cắt giảm số lượng quân đội của Ghi-đê-ôn từ ba mươi hai nghìn người xuống còn ba trăm người để đánh bại dân Ma-đi-an (Các Quan Xét 7). Chỉ một mình Giô-na-than và người vác binh khí của ông đã chiến thắng đồn lũy của người Phi-li-tin, bởi vì “Đức Giê-hô-va khiến cho số ít người được thắng cũng như số đông người vậy” (1 Sa-mu-ên 14:6). Trong thế giới được vận hành trên những con số thống kê, chúng ta đã quên Xa-cha-ri 4:10: “Vì ai là kẻ khinh dể ngày của những điều nhỏ mọn?” Tôi thường nhắc các sinh viên mục vụ của mình rằng không có Hội Thánh “nhỏ”, cũng không có Mục sư “vĩ đại”, chỉ có một Đức Chúa Trời vĩ đại và đầy năng quyền.

 

Đức Chúa Trời nhớ và ghi lại những gì dân sự của Ngài nghĩ, nói và hành động. Đức Chúa Giê-su chính là Em-ma-nu-ên: “Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta” (Ma-thi-ơ 1:23), Ngài hứa sẽ ở giữa chúng ta khi chúng ta nhân danh Chúa mà nhóm lại (18:20). Ẩn dụ về việc Đức Chúa Trời lưu giữ các ghi chú của Ngài trong một quyển sổ thường được nhắc đến trong Kinh Thánh. Đa-vít viết rằng: “Chúa đếm các bước đi qua đi lại của tôi: Xin Chúa để nước mắt tôi trong ve của Chúa, Nước mắt tôi há chẳng được ghi vào sổ Chúa sao?” (Thi Thiên 56:8). Chúa ghi lại từng cá nhân được sanh tại đâu (87:6), và ghi lại tên của những người được tái sanh (Phi-líp 4:3; Lu-ca 10:20; Khải Huyền 21:27). Dù dân sự của Đức Chúa Trời nhân Danh Đấng Christ nhóm nhau lại trong nhà riêng, một nhà nguyện đơn giản, hay trong một vương cung thánh đường tráng lệ, chúng ta đều phải nhớ rằng Đức Chúa Trời ở giữa chúng ta và “chẳng có vật nào được giấu kín trước mặt Chúa, nhưng thảy đều trần trụi và lộ ra trước mắt Đấng mà chúng ta phải thưa lại” (Hê-bơ-rơ 4:13). Tại tòa án Đấng Christ, công việc của chúng ta sẽ được bày tỏ và chúng ta sẽ được ban thưởng tùy theo công việc của mình (Rô-ma 14:10-12). Điều rất quan trọng đó là chúng ta phải kính sợ Chúa khi chúng ta thờ phượng, lắng nghe đọc và giảng Kinh Thánh, và có mối thông công với người khác.

 

Đức Chúa Trời ban thưởng cho người trung tín. “Đức Giê-hô-va vạn quân phán: Những kẻ ấy sẽ thuộc về ta, làm cơ nghiệp riêng của ta trong ngày ta làm” (Ma-la-chi 3:17). Từ cơ nghiệp cũng có thể được dịch là “kho báu.” Thật vậy, dân tộc Y-sơ-ra-ên chính là một kho báu của Chúa, dẫu họ không luôn coi trọng điều đó hoặc không hành động như một kho báu của Chúa (Xuất Ê-díp-tô ký 19:5; Phục Truyền Luật Lệ Ký 7:6; 14:2). Hội Thánh cũng là một kho báu đặc biệt của Chúa, được mua bởi chính huyết báu của Đức Chúa Giê-su Christ (1 Phi-e-rơ 1:19). Có thể chúng ta thuộc về một nhóm người thiểu số, tuy nhiên đối với Cha trên thiên đàng, chúng ta có giá trị. Ngài yêu chúng ta, nhìn thấy chúng ta, lắng nghe chúng ta, nhìn vào tấm lòng của chúng ta, và một ngày trong tương lai sẽ ban thưởng cho chúng ta đến sự vinh quang của Con Ngài. Thật là một sự khích lệ khi biết rằng Chúa đang nhìn xem, lắng nghe, và Ngài biết tấm lòng của chúng ta.

 

Chính Chúa sẽ tỏ những sự giấu trong nơi tối ra nơi sáng, và bày ra những sự toan định trong lòng người; bấy giờ, ai nấy sẽ bởi Đức Chúa Trời mà lãnh sự khen ngợi mình đáng lãnh.

1 Cô-rinh-tô 4:5

 

 

 

Bài 100

 

Vì nầy, ngày đến, cháy như lò lửa. Mọi kẻ kiêu ngạo, mọi kẻ làm sự gian ác sẽ như rơm cỏ; Đức Giê-hô-va vạn quân phán: Ngày ấy đến, thiêu đốt chúng nó… Nhưng về phần các ngươi là kẻ kính sợ danh ta, thì mặt trời công bình sẽ mọc lên cho, trong cánh nó có sự chữa bịnh.

Ma-la-chi 4:1-2

Ngày nào đang đến? Ngày của Đức Chúa Trời, ngày mà Chúa sẽ phán xét mọi người trên thế gian. Cụm từ “trong ngày đó” được lặp lại mười sáu lần trong Xa-cha-ri 12-14 khi tiên tri Xa-cha-ri mô tả những sự kiện sẽ xảy ra khi “không còn có thì giờ nào nữa” (Khải Huyền 10:6). Hãy lưu ý những điểm đối lập trong câu Kinh Thánh này.

 

Người làm sự gian ác không tin vào Chúa và người công bình kính sợ Đức Chúa Trời. Ngôn ngữ Tân Ước dùng từ: “người lạc mất” và “người được cứu”, những người chối bỏ Đấng Christ và những người tiếp nhận Ngài. Đức Chúa Giê-su nói rõ rằng chỉ có hai “con đường” của cuộc sống: con đường hẹp là con đường đức tin nơi Đấng Christ, và con đường rộng, con đường phổ thông của thế gian chối bỏ Đấng Christ (Ma-thi-ơ 7:13-14). “Vì Đức Giê-hô-va biết đường người công bình, Song đường kẻ ác rồi bị diệt vong” (Thi Thiên 1:6).  Ai là người công bình? Họ là những người đã ăn năn tội lỗi và tin cậy Đấng Christ để nhận được sự cứu rỗi. Ai là kẻ ác? Họ là những người không tin Đấng Christ nhưng nhờ vào việc lành và các sinh hoạt tôn giáo để được cứu. Chúng ta không nhờ việc lành để được làm con của Đức Chúa Trời, nhưng nhờ vào đức tin nơi công việc của Đức Chúa Giê-su đã được hoàn thành trên thập giá. “Nhưng Đức Chúa Trời tỏ lòng yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là người có tội, thì Đấng Christ vì chúng ta chịu chết” (Rô-ma 5:8).

 

Lò lửa cháy và mặt trời đem lại sự chữa lành (Ma-la-chi 4:2). Đức Chúa Giê-su phán rằng: “Ta là sự sáng của thế gian; người nào theo Ta, chẳng đi trong nơi tối tăm, nhưng có ánh sáng của sự sống” (Giăng 8:12). Trong những ngày hoạn nạn, Đức Chúa Trời sẽ đổ cơn thạnh nộ của Ngài trên thế giới tội lỗi, bao gồm cái nóng dữ dội từ mặt trời. “Loài người bị lửa rất nóng làm sém, chúng nó nói phạm đến danh Đức Chúa Trời là Đấng có quyền trên các tai nạn ấy, và chúng nó cũng không ăn năn để dâng vinh hiển cho Ngài” (Khải Huyền 16:9). Mặt trời là hình ảnh của Đức Chúa Giê-su Christ (Ê-sai 9:1-2; Ma-thi-ơ 4:16). Ngài chữa lành dân sự của Ngài nhưng xét đoán những ai chối bỏ Chúa. “Trong lúc Chúa nổi giận, Chúa sẽ làm cho chúng nó như lò lửa hừng; Đức Giê-hô-va sẽ nuốt chúng nó trong khi nổi thạnh nộ, Và lửa sẽ thiêu đốt họ đi” (Thi Thiên 21:9). Đức Chúa Trời là tình yêu thương và Ngài cũng là ánh sáng (1 Giăng 1:5; 4:8); Ngài yêu thương tội nhân nhưng phải đoán phạt tội lỗi. Nếu chúng ta tin nơi Đức Chúa Giê-su thì bởi tình yêu thương thánh Chúa sẽ tha thứ và chữa lành chúng ta khỏi tội lỗi. Đức Chúa Giê-su là “mặt trời mọc lên từ nơi cao”, Đấng đã thăm viếng và chết vì chúng ta trên thập giá (Lu-ca 1:78). Điều gì sẽ xảy đến với bạn: lửa cháy hay là sự chữa lành?

 

Rơm rạ bị đốt cháy và con bê nhảy nhót (Ma-la-chi 4:3). Tiên tri Ma-la-chi phác họa người không tin Chúa giống như rơm rạ hoặc vỏ trấu bị thiêu đốt và giẫm đạp, ngược lại người tin Chúa thì giống như con bê đầy sức sống được thả ra khỏi chuồng và nhảy nhót đầy vui mừng quanh sân, giẫm đạp lên đám rơm rạ! Ngày nay, những tội nhân không tin vào Chúa nghĩ rằng họ là người thắng cuộc và Cơ Đốc Nhân là những kẻ ngốc, tuy nhiên sẽ đến ngày mà những người “vĩ đại” sẽ bị đốt cháy như rơm rạ và người khiêm nhường sẽ hưởng được đất. Con bê bị nhốt trong chuồng để làm thịt, tuy nhiên người của Đức Chúa Trời thì không như vậy! Họ được tự do để nô đùa dưới “mặt trời công bình… trong cánh nó có sự chữa bịnh” (c. 2).

Ma-la-chi kết lại quyển sách bằng một điềm báo từ Chúa: “kẻo ta đến lấy sự rủa sả mà đánh đất nầy” (c. 6). Tuy nhiên người tin Chúa thì không sợ hãi trước lời nầy bởi vì phần cuối Tân Ước, Chúa phán rằng: “chẳng còn có sự nguyền rủa nữa” (Khải Huyền 22:3).

“Vì nầy, ngày đến,” chúng ta hãy chuẩn bị chính mình.

Đức Giê-hô-va sẽ làm vua khắp đất;

Trong ngày đó,

Đức Giê-hô-va sẽ là có một,

và danh Ngài cũng sẽ là có một.

Xa-cha-ri 14:9

The end.

 

 

 

 

 

 

 

Trả lời

Hướng Đi Ministries Hướng Đi Ministries
9/10 1521 bình chọn