Thứ Ba , 24 Tháng Mười Hai 2024
Home / Trang Chủ / Bê-rít-sin và A-qui-la

Bê-rít-sin và A-qui-la

Tại tỉnh Bông của Đế quốc La Mã có một khu định cư của người Do Thái, họ đến đây hơn hai trăm năm trước, ngay sau khi vua Sê-lêu-kít ở Sy-ri chiếm xứ Pa-lét-tin. Chủ ngôi Nhà Hội là ông A-mốt, có vợ là bà Na-ô-mi, gia đình họ sinh sống bằng nghề may trại. Các ngư phủ vùng Biển Đen thường đến mua vải bạt về dựng các túp lều tạm ven bờ biển, tiện cho việc đánh cá. Công việc làm ăn khá ổn định, ông A-mốt thuê thêm năm nhân công phụ giúp, dù là người Do Thái hay ngoại bang, ông đều cho họ nghỉ việc vào ngày Sa-bát, nhưng vẫn trả lương trong các ngày nghỉ. Chuyện này được cộng đồng người Do Thái tại tỉnh Bông hoan nghênh. Bà Na-ô-mi là một phụ nữ nhân hậu, thường giúp đỡ những người đồng hương nghèo khổ, để họ không phải sống trong tình cảnh đói kém. Gia đình ông A-mốt có ba người con: Cô chị Phê-bê, cậu em kế A-qui-la và cậu em út Ô-nê-si-phô-rơ.

A-qui-la là một thiếu niên chăm học và chăm làm. Cậu học tiếng Hê-bơ-rơ tại Nhà Hội, tiếng Hi Lạp và La-tinh tại trường học địa phương. Năm lên mười tuổi, cậu từng theo cha lên Giê-ru-sa-lem dự lễ Ngũ Tuần. Trong lần đó, cậu đã tận mắt nhìn thấy các lưỡi lửa đậu trên đầu các môn đệ của Chúa Giê-su, kỳ lạ hơn là cậu đã nghe những người Ga-li-lê ấy nói thổ ngữ của xứ Bông—một nơi xa lạ mà họ chưa từng đặt chân đến—Sau khi nghe ông Phi-e-rơ giảng, cả hai cha con cậu đều xin qui Đạo và chịu lễ báp tem, cùng với ba ngàn người khác.

Lúc hai mươi tuổi, A-qui-la phải đứng trước một bước ngoặt lớn trong cuộc đời, cậu phân vân trước ba sự lựa chọn: Một là ở nhà gánh vác công việc may trại của cha, hai là lên Giê-ru-sa-lem theo học trường của các ra-bi (đạo sĩ Do Thái), ba là sang La Mã tiếp tục học thêm về văn hóa và triết học. Theo truyền thống của người Do Thái, A-qui-la muốn lên Giê-ru-sa-lem để học Kinh Thánh, nhưng ông A-mốt khuyên can:

– Ba không muốn con lên Giê-ru-sa-lem vào lúc này. Nơi đó đang cơn bách hại Đạo dữ tợn lắm. Phần lớn các ra-bi đều thuộc phái Pha-ri-si, họ mù quáng chối từ Chúa Giê-su là Đấng Cứu Thế của nhân loại.

Bà Na-ô-mi đề nghị:

– Thôi thì… cứ để nó ở nhà phụ việc. Ông đã già rồi, nên giao dần việc quản lý xưởng may cho nó.

Ông A-mốt kiên quyết phản bác:

– Không được! Nó còn trẻ cần phải học hành cho đến nơi đến chốn. Việc cỏn con ở nhà, tôi vẫn lo được.

Rồi ông quay lại dặn dò A-qui-la:

– Con thu xếp hành lý. Tuần sau lên đường sang La Mã tiếp tục việc học. Ba có mấy người bạn quen bên đó, ba sẽ viết thư nhờ họ lo chỗ ăn chỗ ở và việc nhập học cho con.

Vâng lời cha, cậu khăn gói lên đường đến kinh thành La Mã.

***

Vừa đặt chân đến La Mã, A-qui-la ngỡ ngàng trước quang cảnh nguy nga sầm uất của kinh đô, cậu bỏ ra ba ngày để dạo xem phố xá và cung điện, tìm hiểu thêm về lối sống của dân chúng nơi đây. Lòng cậu buồn rười rượi vì khắp nơi đầy dẫy hình tượng, dân chúng bị lôi kéo vào chuyện đi xem và cổ vũ cho các trò tiêu khiển của vua quan như đua ngựa, bắn cung, giác đấu giữa người và thú hay giữa người và người,… Bình tâm lại, cậu cố quên đi mọi chuyện, chỉ chuyên chú vào việc học hành.

Một hôm đi học về, cậu bị một con ngựa chiến do một viên sĩ quan La Mã đang cưỡi lồng lên giẫm đạp. Cậu mê man bất tỉnh. May thay! Một nhà quí tộc đi ngang qua, thấy vậy, thương tình mang về nhà chăm sóc dưỡng thương. Nằm trong dinh thự của ông An-tô-ni-a cả tháng trời, hằng ngày cô con gái ông là Bê-rít-sin tận tình lo từng muỗng thuốc, từng chén cháo. Nhờ thế, thân thể của A-qui-la dần dần hồi phục, vượt qua cơn nguy kịch đến tính mạng.

Một vấn đề nan giải xẩy ra. Dù biết A-qui-la là người Do Thái, nhưng Bê-rít-sin vẫn đem lòng yêu thương cậu, còn A-qui-la thì không nỡ nào từ chối ân nhân cứu mạng mình. Ông bà An-tô-ni-a là những người có lòng rộng rãi bao dung, lại yêu quí cô con gái của mình nên không hề ngăn cản. A-qui-la đem chuyện này hỏi ý kiến cộng đồng Do Thái tại La Mã. Nói chung, những người bảo thủ cố chấp cực lực phản đối, họ cho rằng cần phải bảo vệ sự thuần chủng của dân tộc Do Thái như dưới thời E-xơ-ra và Nê-hê-mi; còn những người có khuynh hướng tiến bộ thì giải thích rằng Phúc Âm của Chúa Cứu Thế được rao truyền cho dân ngoại nên dân I-sơ-ra-ên và dân ngoại hiệp thành một dân tộc mới của Chúa, miễn là người ngoại phải tin nhận Chúa Cứu Thế. Vượt lên trên thành kiến của cả hai bên (bên nữ và bên nam), một đám cưới đã diễn ra. A-qui-la và Bê-rít-sin hạnh phúc được ở bên nhau. Nhờ của hồi môn của ông bà An-tô-ni-a cho, họ mua một căn nhà nhỏ để tạo lập một tổ ấm mới, với hai trái tim “bằng vàng”.

Cộng đồng Do Thái tại La Mã chăm chỉ làm ăn, không hoang phí tiền bạc vào những cuộc vui vô bổ như dân địa phương nên cuộc sống của họ ngày càng khấm khá. Điều này dẫn đến sự phân bì ghen tức của dân cư thành phố La Mã. Họ tìm cách kiện cáo lên Hoàng đế: Nào là dân Do Thái không chịu thờ lạy tượng Hoàng đế, nào là chúng làm nội gián cho bọn phản loạn ở Giê-ru-sa-lem, nào là chúng đầu cơ tích trữ hàng hóa và cho vay nặng lãi gây thảm họa cho thành phố,… Không cần phải mất công điều tra cho rõ sự tình, Hoàng đế Cơ-lốt ra lệnh trục xuất tất cả người Do Thái ra khỏi kinh thành La Mã. Dân Do Thái đành lòng bỏ lại nhà cửa và công việc kinh doanh lũ lượt ra đi. Đau lòng xót dạ nhất là đôi vợ chồng trẻ A-qui-la và Bê-rít-sin. A-qui-la rất thương vợ nên trằn trọc thâu đêm để suy nghĩ: “Nếu đem Bê-rít-sin theo thì nàng sẽ lìa xa gia đình mình, lại chịu nhiều sự hiểm nguy dọc đường; còn nếu nàng ở lại thì chao ôi! Buồn biết mấy, biết đến khi nào mới gặp lại nhau” Cậu giãi bày nỗi lòng với vợ:

– Thôi em cứ tạm ở lại đây với cha mẹ. Anh ra đi một thời gian, khi tình hình lắng dịu sẽ quay trở lại ngay.

Bê-rít-sin gắt gỏng:

– Anh nói gì nghe lạ vậy! Anh đi đâu em sẽ đi theo đó, khó khăn cùng chịu, vui sướng cùng hưởng. Phận gái có chồng rồi thì phải theo chồng, gánh vác giang sơn nhà chồng.

A-qui-la nghe vợ nói thế thì an lòng. Sau khi từ giã gia đình ông bà An-tô-ni-a, hai vợ chồng lên chuyến tàu đi Cô-rinh-tô, thủ phủ của tỉnh A-chai. Tại thành phố đông đúc nhộn nhịp này, họ thuê một căn nhà rồi mở một xưởng may lều trại để sinh sống. Chừng mười ngày sau, họ vô cùng sung sướng được gặp Sứ đồ Phao-lô – người mà họ từng nghe danh tiếng từ lâu – Sau một lúc trò chuyện, hai vợ chồng chủ nhà mời Phao-lô ở lại. Phao-lô vốn biết về nghề may lều trại nên ưng thuận ở đây, vừa làm việc để kiếm chi phí sinh hoạt, vừa làm địa bàn để tiếp tục công cuộc truyền giáo tại thành phố Cô-rinh-tô.

Cứ đến ngày Sa-bát, cộng đồng Do Thái tập trung tại Nhà Hội. Phao-lô giảng luận, cố thuyết phục người Do Thái lẫn người Hi Lạp hãy tin nhận Chúa Giê-su là Đấng Cứu Thế. Tại đây A-qui-la và Bê-rít-sin đã học hỏi nhiều điều từ sự giảng dạy uyên thâm của vị Sứ đồ này. Khi Si-la và Ti-mô-thê từ tỉnh Ma-xê-đoan đến, có đem theo số tiền lạc hiến do các Hội Thánh gửi, thì Phao-lô thôi không may lều trại nữa, ông chuyên lo giảng dạy hằng ngày. Vì gặp sự chống đối dữ tợn từ người Do Thái bảo thủ nên ông chuyển sang giảng dạy cho cả người ngoại chưa tin. Công việc truyền giáo theo chiều hướng mở rộng phát triển tốt, nhiều người tin nên A-qui-la, Si-la và Ti-mô-thê cũng tham gia vào việc dạy Kinh Thánh, còn Bê-rít-sin thì chuyên dạy Kinh Thánh cho các phụ nữ mới tin Đạo.

Một hôm Ti-mô-thê nhận xét:

– Cô Bê-rít-sin và Rê-bê-ca có nhiều nét tương đồng: Cả hai đều xinh đẹp hơn người, cả hai đều từ bỏ quê hương và gia đình để ra đi lưu lạc nơi đất khách quê người. Nên từ nay, cháu xin phép không gọi cô là Bê-rít-sin nữa mà gọi là Bê-rít-ca nhé! Một đằng là để rút gọn dễ nghe, một đằng là để gợi nhớ chuyện tích ngày xưa.

A-qui-la cười:

– Ấy chết! Cháu đừng quá khen mà cô ấy nở phồng lỗ mũi to như quả cà chua chín đỏ. Không chừng nhớ nhà, bỏ chú mà lặng lẽ ra đi.

Bê-rít-sin e thẹn:

– Làm gì có chuyện đó!

Kể từ thời điểm này, cái tên Bê-rít-ca được dùng lẫn lộn với tên Bê-rít-sin để bày tỏ lòng mến mộ một người phụ nữ quí phái I-ta-li-a xinh đẹp, nhân hậu và có tinh thần truyền giáo, không ngại khó ngại khổ.

Sau một năm rưỡi ở lại Cô-rinh-tô, Phao-lô bàn với hai vợ chồng A-qui-la và Bê-rít-sin lên đường trở về Sy-ri, luôn tiện để Bê-rít-sin đến thăm xứ Thánh I-sơ-ra-ên. Họ di chuyển đến Sen-cơ-rê, lưu trú năm ngày tại nhà bà Phê-bê, chị ruột của A-qui-la, cũng là nữ chấp sự của Hội Thánh tại đây. Một đêm kia Phao-lô nhớ lại chuyện mình (và Si-la) bị bỏ tù tại thành phố Phi-líp, bị vu cáo tại thành phố Cô-rinh-tô. Sáng ngày mai, ông quyết định cạo tóc để tỏ lòng tạ ơn Chúa đã cứu mình vượt qua hoạn nạn, theo đúng như phong tục truyền thống của người Do Thái. Sau đó, cả ba người từ giã các anh chị em trong Hội Thánh Sen-cơ-rê rồi đáp tàu thẳng đến thành phố Ê-phê-sô.Vì công việc Chúa tại Ê-phê-sô cần người giảng dạy và chăm sóc nên hai vợ chồng A-qui-la và Bê-rít-sin phải lưu lại, còn Phao-lô thì tiếp tục lên đường về Giê-ru-sa-lem.

Ê-phê-sô là một thành phố ăn chơi trụy lạc, dân chúng mê muội thờ lạy nữ thần Ạc-tê-mít (người La Mã gọi là Đi-anh). Hai vợ chồng nhà truyền giáo vô cùng vất vả, vừa may lều trại kiếm sống, vừa tích cực rao giảng Phúc Âm cho những người xung quanh. Một hôm họ đến Nhà Hội của người Do Thái thì gặp A-bô-lô, một người gốc Do Thái sinh trưởng tại thành phố cảng A-léc-xan-đơ thuộc Ai Cập. Ông này “có tài hùng biện và am hiểu Kinh Thánh. Ông đã học Đạo Chúa, có tinh thần sốt sắng rao giảng và dạy dỗ một cách chính xác những điều về Đức Chúa Giê-su, mặc dù ông chỉ biết phép báp-tem của Giăng mà thôi” (trích dẫn Công Vụ 18:24,25) Khi Bê-rít-sin và A-qui-la nghe ông giảng, thấy có sự thiếu sót cần bổ trợ thêm. Họ mời ông về nhà để trao đổi, chỉ rõ rằng phép báp-tem của Giăng mới là bước khởi đầu cho người ăn năn trong giai đoạn Chúa Giê-su còn tại thế; hiện nay phải làm phép báp-tem nhân danh Chúa Cứu Thế Giê-su thì mới nhận lãnh Đức Thánh Linh (Ngài được Đức Chúa Cha ban xuống khi Đức Chúa Giê-su về trời). Ở tại Ê-phê-sô một thời gian ngắn, A-bô-lô chuyển hướng truyền giáo sang tỉnh A-chai, mà trung tâm hoạt động là thành phố Cô-rinh-tô đông đúc và trù phú.

Sau khi về đến Giê-ru-sa-lem, Phao-lô thực hiện chuyến hành trình truyền giáo lần thứ ba, ông ghé lại Ê-phê-sô kể cho vợ chồng A-qui-la và Bê-rít-sin những chuyện đã xẩy ra sau khi họ chia tay lần trước. Thế rồi, cả ba người cùng thảo luận công tác rao truyền Phúc Âm tại Ê-phê-sô và vùng phụ cận: Nhiều Hội Thánh non trẻ cần chăm sóc, việc huấn luyện thêm cho các chấp sự, việc chọn lựa các trưởng lão và khuyến khích một số người tham gia vào đoàn truyền giáo… Một ngày kia, người nhà ông Cơ-lô-ê đến thăm, báo tin cho Phao-lô biết về sự bất hòa xẩy ra tại Hội Thánh Cô-rinh-tô. Ông liền viết thư khuyên nhủ Hội Thánh này (đây là thư thứ nhất, về sau còn viết một thư thứ hai nữa). Cuối thư có dòng: “Các Hội Thánh tại vùng A-si-a chào thăm anh em; A-qui-la, Bê-rít-sin và Hội Thánh nhóm trong nhà họ gửi lời thăm anh em trong Chúa”. Mục đích là nhắc tín hữu Cô-rinh-tô nhớ đến công lao khó nhọc của A-qui-la và Bê-rít-sin lúc trước, tình cảm sâu đậm của ông bà dù xa cách nhưng luôn luôn nhớ về họ. Chừng một năm sau, khi các Hội Thánh tại Ê-phê-sô tương đối vững vàng và khi hay tin việc bài trừ người Do Thái tại thủ đô La Mã đã mờ nhạt thì vợ chồng A-qui-la và Bê-rít-sin quyết định chia tay Phao-lô để trở về La Mã, là quê nhà của bà Bê-rít-sin, sau bảy năm ròng xa cách.

Vừa đặt chân đến đây, hai vợ chồng vội vã về thăm cha mẹ vợ. Họ đau lòng khi biết tin bà An-tô-ni-a vì thương nhớ con gái mình là Bê-rít-sin mà lâm bệnh, rồi qua đời vào tháng trước. A-qui-la đứng lặng thinh không biết nói gì trong khi vợ mình tuôn tràn dòng lệ. Một hồi lâu, ông An-tô-ni-a lên tiếng:

– Thôi! Sự việc đã rồi. Các con nên nuốt lệ làm vui, nén nỗi đau thương mà sống. Hãy nhìn về phía trước, chứ đừng quanh quẩn mãi ở đằng sau.

Vâng lời cha. Vợ chồng A-qui-la và Bê-rít-sin quyết tâm xây dựng lại sự nghiệp. Nhờ ông An-tô-ni-a giúp vốn liếng, họ mua một ngôi nhà nhỏ ở vùng ngoại ô La Mã, mở một xưởng may lều trại và khởi động lại công tác truyền giáo tại đây. Khác với các thành phố đã đến, việc rao giảng Phúc Âm tại thủ đô La Mã vô cùng khó khăn và nguy hiểm: Cộng đồng người Do Thái thì vừa sống trong tình trạng nơm nớp lo sợ chính quyền Đế quốc La Mã vừa ra sức chống đối Đạo Chúa; còn cộng đồng dân ngoại thì ham chuộng vật chất, ít ai quan tâm mấy đến vấn đề tâm linh. Dù vậy, hai vợ chồng vẫn kiên trì âm thầm truyền rao Lời Chúa. Bà Bê-rít-sin phụ trách việc cứu tế xã hội, giúp đỡ những người nghèo khổ, những người vô gia cư trong thành phố… nên tạo được một sự thiện cảm, thuận lợi trong việc truyền giáo cho thành phần thấp kém trong xã hội.

Cũng trong thời gian này Phao-lô trở lại thăm viếng các Hội Thánh tại tỉnh Ma-xê-đoan, nơi mà ông đã mở mang trong hành trình truyền giáo lần thứ hai, cách đây tám năm. Các tín hữu vui mừng chào đón Sứ đồ Phao-lô trong tình yêu thương nồng nàn quyến luyến. Nhân dịp này, ông dùng Lời Chúa an ủi và khích lệ họ vững vàng trong đức tin. Sau đó, ông di chuyển xuống phía Nam là khu vực chính yếu của nước Hi Lạp trước đây (nay gọi là tỉnh A-chai thuộc Đế quốc La Mã). Tại Cô-rinh-tô, Phao-lô viết một bức thư quan trọng gửi tín hữu tại La Mã, giãi bày kỹ càng về niềm tin trong Chúa Cứu Thế, đồng thời báo tin rằng mình sẽ đến thăm Hội Thánh tại đây. Cuối thư này, ông không quên dành vài lời để gửi đến hai người bạn đồng chí hướng: “Xin cho tôi kính lời chào thăm Bê-rít-ca và A-qui-la, những người cùng làm việc với tôi trong Chúa Cứu Thế Giê-su”.

***

Vì Hoàng đế Nê-rô rất tàn ác, luôn nghi kỵ người Do Thái; nên sau sáu năm ở tại kinh thành La Mã, vợ chồng A-qui-la và Bê-rít-ca lại phải một lần nữa ra đi, càng xa càng tốt. Lần này họ đáp tàu đến tỉnh A-si-a, nơi mà ảnh hưởng của Hi Lạp vẫn còn bền bỉ và ảnh hưởng của La Mã có phần lỏng lẻo. Khi đặt chân đến đây, họ mới biết Phao-lô đã bị nhà cầm quyền Do Thái bắt tại Đền Thờ Giê-ru-sa-lem và đang bị quân đội La Mã giam cầm tại hải cảng Sê-sa-rê (bản doanh của tổng trấn miền Giu-đê). Trong tình thế này, công cuộc truyền giáo tại tỉnh A-si-a đặt nặng trên hai đôi vai của vợ chồng A-qui-la và Bê-rít-ca, họ chỉ biết vâng phục ý Chúa, hết lòng hết sức làm tròn sứ mạng thiêng liêng, dù phải đương đầu với nghịch cảnh vây quanh. Lúc này hai vợ chồng không ở cố định lâu ngày một chỗ, nhưng luôn di chuyển từ nơi này sang nơi khác, nhằm tránh sự dòm ngó của những người Do-Thái cực đoan. Ngược lên hướng Bắc, họ trở về thăm lại quê nhà chồng tại tỉnh Bông. Cả hai ông bà A-mốt và Na-ô-mi đều đã qua đời, xưởng may lều trại giao lại cho con trai út Ô-nê-si-phô-rơ quản lý. Cũng như người anh A-qui-la, Ô-nê-si-phô-rơ vừa làm việc sinh sống vừa rao giảng Lời Chúa trong cộng đồng Do Thái. Sau một tháng ở lại với gia đình em trai, vợ chồng A-qui-la và Bê-rít-ca lại lên đường thăm viếng và chăm sóc các Hội thánh nằm về phía Đông của Đế quốc La Mã. Tình cờ khi đặt chân đến Ê-phê-sô thì gặp lại Ti-mô-thê. Anh ta cho họ biết Phao-lô đã được giải đến kinh thành La Mã. Ti-mô-thê còn đưa cho hai vợ chồng xem bức thư mà Phao-lô mới gửi cho anh: Đây là lời trăn trối của một người thầy sắp đi xa dành cho một người học trò yêu quí. Trong phần kết, có dòng viết:”Kính gửi lời chào Bê-rít-ca và A-qui-la cùng gia quyến Ô-nê-si-phô-rơ”. Đọc xong thư, bà Bê-rít-ca nghẹn ngào:

– Anh Phao-lô thật là tốt bụng. Đến giờ phút cuối cùng vẫn còn nhớ đến vợ chồng chúng ta.

Ông A-qui-la cảm động, ngập ngừng giọng nói:

– Ti-mô-thê, cháu à! Chúng ta phải noi gương Sứ đồ Phao-lô, tận tụy phục vụ Chúa cho đến hơi thở cuối cùng.

Chia tay Ti-mô-thê tại Ê-phê-sô, hai vợ chồng di chuyển xuống phía Nam. Đến Hội Thánh nào, họ cũng đem tình thương và ân phúc của Chúa Cứu Thế an ủi và khích lệ mọi tín hữu.

Đây là hai nhà truyền giáo đi tiên phong, dấn thân vào vùng “đất lạ” với muôn ngàn gian khổ khó khăn. Trong mười ba bức thư của Phao-lô thì có tới ba bức thư đề cập đến họ với những lời lẽ ân cần quí mến, mà không cần căn dặn hay chỉ bảo bất cứ chuyện gì (ưu ái hơn so với nhiều người khác). A-qui-la và Bê-rít-sin là hai tấm gương sáng chói cho mọi nhà truyền giáo từ xưa đến nay phải học hỏi và noi theo.

THANH NGUYÊN

Cổ sử La mã có ghi chép Bê-rít sin thuộc gia đình quí tộc La mã, nhưng vì kết hôn cùng A-qui-la, người Do-thái, bà bị gia tộc xua đuổi, loại bỏ.

Sách Công vụ 18:1-6 nói rằng người Do thái bị sê-sa Cơ-lau-đe đuổi khỏi kinh thành Rô-ma, trong đó có vợ chồng bà. Ông bà di trú đến thủ phủ Cô-rinh-tô, gặp sứ đồ Phao-lô. Ông bà tin Chúa và học lời Chúa theo Phao-lô. Từ đó ông bà làm cộng sự viên của Phao lo cho đến cuối đời. Có khi Kinh thánh chép tên Bê-rít sin trước, vì bà mạnh mẽ, sốt sắng thuộc linh hơn ông.

  1. Hội thánh Co-rinh-tô nhóm họp trong nhà ông bà:

Công 18:11, 1 Cor. 16:19-20, “Phao-lô ở lại đó một năm sáu tháng, dạy Lời Đức Chúa Trời cho họ.– A-qui-la và Bê-rít-sin với Hội thánh trong nhà họ chào thăm anh em cách nồng nàn trong Chúa”.

Phao lô ở Corinhto một năm rưỡi. Hội thánh Corinhto ra đời, và Hội Thánh đó nhóm họp trong nhà ông bà. Ông bà tiếp đãi Phao-lô, Ti-mô-thê, Si-la… và Hội thánh Corinhto. Ngày nay có phụ nữ tốt như vậy 0?

  • Hội Thánh tại Êpheso nhóm họp trong nhà ông bà:

Khi Phao lo chấm dứt cuộc hành trình truyền giáo lần hai, trên đường về, Phao lô có đem ông bà theo. Ông bà bán nhà cửa ở Corinhto ra đi theo Phao lô. Phao lô ghé thăm thủ phủ Epheso. Công vụ 18:18, 24-26.. Ông bà ở lại Epheso, mua nhà cửa, sống nghề may trại và chờ Phao-lô trở lại hầu việc Chúa.

Trước khi Phao-lô trở lại Epheso có A-bô-lô, là người có tài hùng biện, nhưng thiếu hiểu biết lẽ thật, được ông bà mời A-bô-lô về nhà mình và giúp đỡ cho A-bô-lô.

Ít tháng sau Phao-lô trở lại Epheso hầu việc Chúa 3 năm, có ông bà trợ lực. Các bạn nghĩ rằng một phần Hội thánh Corinhto có nhóm họp trong nhà ông bà chăng? Vào thời đó họ chưa xây giảng đường, nên dân Chúa nhóm trong tư gia.

Trong vụ thợ thuyền Đê mê triu nổi loạn, ông bà đưa cổ ra thế mạng cho Phao-lô khi các hung thủ định thanh toán Phao-lô, xông vào nhà ông bà tìm Phao-lô.

Khi gởi thơ cho hội thánh La mã, Phao lô nhắc lại sự việc Đê mê triu– Xem Rô ma 16:3-4, Công vụ 19. “Xin chào thăm Bê-rít-sin và A-qui-la, bạn đồng công với tôi trong Christ Jêsus. Họ vì mạng sống tôi mà đưa cổ ra, nên chẳng những chỉ một mình tôi cảm tạ họ nhưng cả các Hội thánh Ngoại bang cũng vậy”.

  • Hội thánh La mã nhóm họp trong nhà ông bà:

Vì Phao lô ước ao và có gánh nặng đi La mã giảng đạo, ông bà bán nhà cửa ở Epheso và đi La mã trước Phao lô, để mua nhà đón tiếp Phao-lô. Đây cũng là sự trở lại kinh thành La mã của ông bà sau nhiều năm bị trục xuất. Hội thánh La mã đã có rồi, nên một phần Hội thánh La mã đã nhóm trong tư gia ông bà. Phao lô nói như vậy, xem Rô ma 16:3, 5, “Xin chào thăm Bê-rít-sin và A-qui-la, bạn đồng công với tôi trong Christ Jêsus. -cũng chào thăm Hội thánh nhóm họp tại nhà họ nữa”.

Hai ba năm sau, Phao lô bị ở tù và đến La Mã. Các bạn nghĩ rằng Ông Bà Beritsin có chăm sóc Phao lô và hiệp tác công việc Chúa với Phao-lô không?

Kết luận:

Tôi chưa thấy người phụ nữ nào bán nhà hai lần vì Chúa và Hội thánh.

Minh Khải 

VỢ CHỒNG HẦU VIỆC CHÚA

Trong thời gian qua, trong chức vụ lưu hành truyền đạo, đến các Hội Thánh khác nhau ở Mỹ cũng như ở Việt Nam, tôi đã gặp, đã thấy có nhiều cặp vợ chồng đồng tâm đồng ý hầu việc Chúa. Đây thật là một hình ảnh rất đẹp về gia đình hầu việc Chúa mà Hội Thánh nào cũng thích.

Đây là nhu cầu hiệp tác truyền giáo của những nhà truyền giáo. Cả nhà hầu việc Chúa là sức mạnh của Hội Thánh chúng ta.

Ông Phao-lô là nhà truyền giáo thế giới. Ông biết rõ nhu cầu về các gia đình truyền giáo có cả vợ cả chồng hiệp tác với nhau làm xong việc Chúa giao. Ông viết để biện minh:

 Tôi chẳng được tự do sao? Tôi chẳng phải là sứ đồ sao? Tôi há chẳng từng thấy Đức Chúa Jêsus là Chúa chúng ta sao? Anh em há chẳng phải là công việc tôi trong Chúa sao?  Nếu tôi không phải là sứ đồ cho kẻ khác, ít nữa cũng là sứ đồ cho anh em; vì chính anh em là ấn tín của chức sứ đồ tôi trong Chúa.  Ấy là lẽ binh vực của tôi đối với kẻ kiện cáo mình.  Chúng tôi há không có phép ăn uống sao?  Há không có phép dắt một người chị em làm vợ đi khắp nơi với chúng tôi như các sứ đồ khác cùng các anh em Chúa và Sê-pha đã làm, hay sao? » (1 Co-rinh-to 9 :1-5).

Các anh em của Chúa có lẽ là Gia-cơ, Giu-đe, và Sê-pha ở đây là Phi-e-rơ là những nhà truyền giáo lưu hành, họ đi truyền giáo đều mang vợ theo. Kinh Thánh không có chép về vợ của Phao-lô nhưng Kinh Thánh ghi lại về rất nhiều người hiệp tác với Phao-lô, chúng ta biết đều nầy qua danh sách các bạn hữu, đồng công của Phao-lô đã được nhắc đến trong chương cuối của sách Rô-ma.

Trong số rất nhiều người được Phao-lô nhắc đến, tôi thấy có một cặp vợ chồng đáng cho chúng ta học tập noi gương và yêu mến. Đó ông bà Aquila và Priscilla (hay còn gọi Beritsin).

Cổ sử La-mã có chép bà Beritsin là người thuộc gia đình quý tộc, nhưng vì bà kết hôn với ông Aquila là người Do Thái nên bà đã bị gia đình từ bỏ. Bà vẫn cứ yêu ông và trọn đời đi theo ông.

Công vụ 18 :1-6 nhắc đến việc người dân Do Thái đã bị Sêsa Claude trục xuất khỏi thành phố Rô-ma. Trong số đó có gia đình Ông bà Aquila và Beritsin. Ông bà dọn đến ở tại thành phố Co-rinh-tô và tại đây ông và bà đã tin Chúa qua chức vụ của Phao-lô. Ông bà cùng học lời Chúa và hiệp tác hầu việc Chúa với Phao-lô.

Điều lý thú về ông bà Aquila và Beritsin là lúc đầu Kinh Thánh ghi thứ tự ông A bà B, nhưng về sau, có lẽ do bà hăng hái hầu việc Chúa hơn, nên sử gia Lu-ca đã ghi về bà B ông A. Hay cặp vợ chồng BA. Đặc điểm nữa của ông bà AB là họ đi đến đâu thì mua nhà tới đó. Và khi có nhà họ đã lập Hội Thánh tại nhà để cùng nhóm lại thờ phượng Chúa. Phao-lô gọi đó là Hội Thánh nhóm tại nhà.

  1. Hội Thánh Co-rinh-tô nhóm tại nhà ông bà AB.
  2. Hội Thánh Ê-phê-sô nhóm tại nhà ông bà AB.
  3. Hội Thánh Rô-ma nhóm tại nhà ông bà AB.
  1. HỘI THÁNH CÔ-RINH-TÔ

Công vụ 18 :11 chép, Phao-lô ở lại thành Cô-rinh-tô một năm rưỡi. Ông ở đâu ? Có lẽ ở chung nhà với ông bà AB.

 1 Corinhto 16 : 19-20 chép : Các Hội thánh ở xứ A-si chào thăm anh em. A-qui-la và Bê-rít-singởi lời chào anh em trong Chúa, Hội thánh hiệp trong nhà hai người ấy cũng vậy. Hết thảy anh em đây chào thăm các anh em. Hãy lấy cái hôn thánh mà chào nhau.  Tôi là Phao-lô, chính tay tôi viết chào thăm anh em.

  1. HỘI THÁNH Ê-PHÊ-SÔ

Truyền thuyết cho biết ông bà AB bán nhà ở Corinhto và đi theo Phao-lô đến mở Hội Thánh ở Ê-phê-sô.

Công vụ 18 :18-19a chép: Phao-lô ở lại thành Cô-rinh-tô ít lâu nữa, rồi từ giã anh em, xuống thuyền đi với Bê-rít-sin và A-qui-la qua xứ Sy-ri, sau khi đã chịu cạo đầu tại thành Sen-cơ-rê, vì người có lời thề nguyện. Kế đó, ba người tới thành Ê-phê-sô, Phao-lô để đồng bạn mình lại đó. Còn người, thì vào nhà hội, nói chuyện với những người Giu-đa;

Ông bà AB hiệp tác chương trình đào tạo môn đồ. Ông bà AB dạy cho A-bô-lô.

Công vụ 18 :24-28 chép,

Bấy giờ có một người Giu-đa tên là A-bô-lô, quê tại thành A-léc-xan-tri, là tay khéo nói và hiểu Kinh thánh, đến thành Ê-phê-sô.  Người đã học đạo Chúa; nên lấy lòng rất sốt sắng mà giảng và dạy kỹ càng những điều về Đức Chúa Jêsus, dẫu người chỉ biết phép báp-têm của Giăng mà thôi.  Vậy, người khởi sự giảng cách dạn dĩ trong nhà hội. Bê-rít-sin và A-qui-la nghe giảng, bèn đem người về với mình, giải bày đạo Đức Chúa Trời cho càng kỹ lưỡng hơn nữa.  Người toan sang xứ A-chai, thì anh em giục lòng cho và viết thơ gởi dặn môn đồ phải tiếp đãi người tử tế. Khi tới rồi, người được nhờ ơn Đức Chúa Trời mà bổ ích cho kẻ đã tin theo.  Vì người hết sức bẻ bác người Giu-đa giữa thiên hạ, lấy Kinh thánh mà bày tỏ rằng Đức Chúa Jêsus là Đấng Christ.

Phao-lô đến Ê-phê-sô và ở lại đây 3 năm.

Ở đây Phao-lô mở trường dạy đạo hằng ngày tại Trường TARINU luôn 2 năm. Phép lạ xảy ra. Phục hưng xảy ra.

Công vụ 19: 13-20 chép: Bấy giờ có mấy thầy trừ quỉ là người Giu-đa đi từ nơi nầy sang chỗ kia, mạo kêu danh Đức Chúa Jêsus trên những kẻ bị quỉ dữ ám, rằng: Ta nhân Đức Chúa Jêsus nầy, là Đấng mà Phao-lô giảng, để truyền khiến chúng bay.  Các kẻ làm việc đó là bảy con trai của Sê-va, tức là một người trong bọn thầy tế lễ cả Giu-đa.  Song quỉ dữ đáp lại rằng: Ta biết Đức Chúa Jêsus, và rõ Phao-lô là ai; nhưng các ngươi là kẻ nào?  Người bị quỉ dữ ám bèn sấn vào chúng, thắng được hai người trong bọn và hành hạ dữ lắm, đến nỗi phải trần truồng và bị thương, trốn ra khỏi nhà.  Phàm người Giu-đa và người Gờ-réc nào ở tại thành Ê-phê-sô đều biết việc đó, thì sợ hãi, và danh Đức Chúa Jêsus được tôn trọng.  Phần nhiều kẻ đã tin, đến xưng tội và tỏ ra việc mình đã làm.  Có lắm người trước theo nghề phù phép đem sách vở mình đốt trước mặt thiên hạ; người ta tính giá sách đó, cộng là năm muôn đồng bạc.  Ấy vậy, nhờ quyền phép của Chúa, đạo bèn đồn ra, càng ngày càng được thắng.

  • HỘI THÁNH RÔ-MA

Truyền thuyết lại nói ông bà AB đã bán nhà ở Ê-phê-sô để trở về sống ở Rô-ma. Và tại đây ông bà cũng mở cửa mời Hội Thánh nhóm lại.

Viết thư cho Hội Thánh Rô-ma, Phao-lô gởi lời chào thăm ông bà AB. Nay là vợ chồng BA.

Rô-ma 16: 3-5 chép: Hãy chào Bê-rít-sin và A-qui-la, kẻ cùng làm việc với tôi trong Đức Chúa Jêsus Christ, là hai người liều chết để cứu sự sống tôi; ấy chẳng những một mình tôi tạ ơn hai người, nhưng cả các Hội thánh của dân ngoại nữa.  Cũng hãy chào Hội thánh nhóm tại nhà hai người.

Ông bà AB chia ngọt sẻ bùi với Phao-lô trên những chặng đường truyền giáo. Có lẽ ngọt bủi thì ít mà khó khăn thi nhiều. Con đường đức tin dù gồ ghề khó đi nhưng là con đường đi lên.

Hãy cùng tôi tưởng tượng trong 2 năm khi Phao-lô bị ở tù tại Rô-ma, nơi ông bà AB đang có nhà để ở và đang có Hội Thánh nhóm tại nhà. Họ đã làm gì để giúp Phao-lô trong khi ở tù? Họ đã nấu cơm cho ông ăn, giặt đồ cho ông, an ủi khích lệ ông. Ông Phao-lô  đã thuê nhà để ở. Phải chăng ông đã thuê nhà của ông bà AB?

Hãy học tinh thần yêu thương, trung tín, hy sinh, hiếu khách, bền lòng, thủy chung của ông bà AB. Ông bà AB là những người môn đồ trưởng thành đã được Chúa dùng.

Chúng ta biết ơn ông bà AB vì đã chẳng những hiệp tác, nuôi ăn mà còn liều chết để bảo vệ Phao-lô. Ông bà AB là ân nhân thuộc linh của chúng ta và của các dân tộc tin Chúa ngày nay. Dầu không cần ai phong thánh , họ vẫn là các thánh đồ yêu dấu của Chúa và của chúng ta. Những sách đạo chúng ta đọc qua ngòi bút của Phao-lô có công khó của ông bà AB.

Gia đình bạn có giống gia đình ông bà AB không?

photo (8)

MS Nguyễn Văn Huệ

   

Trả lời

Hướng Đi Ministries Hướng Đi Ministries
9/10 1521 bình chọn