Mục sư Nguyễn Văn Huệ
Tại sao người Tin Chúa không tin Thuyết Luân Hồi?
Nhiều tôn giáo Á Đông như Phật giáo và Ấn độ giáo tin rằng khi loài người chết thì linh hồn của họ sẽ được tái sinh vào thế giới nầy bằng một thân thể khác. Thân thể mới nầy có thể là hình thể của người, của súc vật, thực vật hay khoáng chất, tùy theo hình thức luân hồi mà người đó tin. Mục đích tối hậu của sự luân hồi là giải thoát linh hồn một người thoát khỏi vòng luân hồi. Để đạt được sự giải thoát nầy, một người phải bảo đảm cố gắng hết sức mình để sống thật tốt đời sống hiện tại của mình. Thuyết luân hồi không giải đáp được câu hỏi, “Ai điều khiển sự luân hồi, ai quyết định luân hồi với hình thức nào và khi nào chấm dứt luân hồi?” Thuyết luân hồi cũng không trả lời được nhiều câu hỏi khác liên quan đến niềm hy vọng vững chắc ở đời sau. Tuy nhiên, thuyết luân hồi đã an ủi được một số người chấp nhận và cam chịu cuộc sống của mình, mình làm mình chịu, không trách móc ai. Thuyết luân hồi cũng đem lại một hy vọng mong manh về một kiếp sau khá hơn kiếp nầy. “Kiếp sau xin chớ làm người. Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.” (Nguyễn Công Trứ)
Người Tin Lành tin sự sống lại của thân thể chứ không tin sự luân hồi chuyển kiếp. Nhiều người lầm tưởng sự sống lại và sự luân hồi là một. Tuy nhiên đây là hai niềm tin hoàn toàn khác nhau. Đối với người tin Chúa, sự tin tưởng Chúa Giê-su phục sinh là thiết yếu cho sự cứu rỗi. Rô-ma 10:9-10 nói rằng, “Nếu miệng ngươi xưng Giê-su là Chúa và lòng ngươi tin rằng Đức Chúa Trời đã khiến Ngài từ kẻ chết sống lại, thì ngươi sẽ được cứu.” Sự phục sinh của Chúa Giê-su là trọng tâm của Tin Lành vì người tin Chúa sẽ được sống lại giống như sự sống lại của Chúa Giê-su.
Có ba lý do quan trọng cho thấy việc tin Chúa sống lại là cần thiết.
- Thứ nhất, một người chết không thể cưú được ai cả. Chỉ có người sống mới ban sự sống và tha thứ tội.
- Thứ hai, một người không chiến thắng sự chết sẽ không thể giúp một ai chiến thắng sự chết.
- Thứ ba, nếu Chúa Giê-su không sống lại từ cõi chết với chính thân thể trước đó của Ngài, thì Sa-tăng thắng trận, mọi người tin Chúa đều hư mất, vì thân thể Ngài vẫn còn nằm trong mồ mả như bao nhiêu giáo chủ khác.
Việc Chúa Giê-su sống lại với chính thân thể đã chết của Ngài rất quan trọng. Điều nầy cho thấy Đức Chúa Trời muốn cứu cả thể xác lẫn linh hồn chúng ta. Đây cũng là lý do chính đáng để chúng ta tin rằng Đức Chúa Trời không chỉ quan tâm đến linh hồn nhưng Ngài quan tâm đến thể xác nữa. Điều nầy phân biệt thuyết luân hồi của các tôn giáo Á Đông và tín lý phục sinh của Cơ-đốc giáo. Người theo thuyết luân hồi tin rằng thân thể gây trở ngại cho đời sống tâm linh. Trong khi đó người Tin Lành tin rằng thân thể và linh hồn hình thành một con người và người đó có thể sử dụng đời sống mình để vui hưởng Chúa, làm vinh hiển danh Chúa và làm các việc lành.
Có những đặc điểm khác nhau giữa một thân thể theo thuyết luân hồi và một thân thể phục sinh theo Kinh Thánh.
- Thân thể phục sinh không bao giờ chết trở lại. Thân thể luân hồi sẽ chết trở lại.
- Thân thể phục sinh là từ thân thể trước. Ta vẫn là người đó. Thân thể luân hồi là sự thay đổi thành thân thể khác. Ta đổi thành người khác hay sinh vật khác.
- Thân thể sống lại là siêu nhiên và thuộc về trời. Thân thể luân hồi là thuộc về đất và tự nhiên.
- Người Tin Lành tin sự cứu rỗi toàn vẹn cả thể xác lẫn linh hồn. Người theo thuyết luân hồi tin rằng nhờ luân hồi mà một người giải thoát được linh hồn khỏi thể xác.
Người theo thuyết luân hồi gặp một số vấn đề nan giải.
- Thứ nhất, thuyết luân hồi không được chứng minh là thật. Không có bằng chứng nào tỏ ra sự sống con người bắt đầu trước khi thụ thai. Các nhà khoa học chứng tỏ rằng sự sống bắt đầu khi tinh trùng người cha nhập vào cái trứng của người mẹ. Người theo thuyết luân hồi cố gắng chứng minh lý thuyết của mình bằng cách chỉ ra rằng có người đã nhớ lại tiền kiếp của mình. Người Tin Lành không tin những tin tức đó là thật.
- Thứ hai, sự luân hồi ngăn cản lòng thương xót. Người theo thuyết luân hồi tin rằng tình trạng hiện nay của một người, như giàu nghèo, mạnh yếu, tật nguyền đói khổ … là hậu quả trực tiếp do kiếp trước của người đó. Người ta không nên can dự vào. Hãy để người đó trả nợ của mình đã làm trong kiếp trước. Ngay khi người đó trả được nợ là người đó tiến lên được bậc cao hơn. Mỗi người phải tự nổ lực để cứu rỗi mình. Không ai bên ngoài cứu được mình cả.
- Thứ ba, nếu thuyết luân hồi là đúng thì loài người hoàn toàn vô vọng. Tội lỗi con người càng ngày càng tăng chứ không giảm bớt. Loài người biết mình bất toàn. Không một người nào nhờ tu luyện mà thoát khỏi án phạt, quyền lực và sự hiện diện của tội lỗi. Không ai biết chắc mình phải làm lành đến mức nào mới được giải thoát. Bảo một người què hãy tự đứng dậy đi là việc bất năng. Bảo một người chết hãy tự cứu sống mình là điều tuyệt vọng.
- Thứ tư, theo lý luận thông thường, nếu có luân hồi, tại sao không ai nhớ đến kiếp trước của mình. Nếu không nhớ kiếp trước của mình đã làm điều gì sai quấy thì làm sao mà tu sửa.
- Cuối cùng, luân hồi chỉ là một lý thuyết tôn giáo. Không ai thực sự tin và sống với thuyết luân hồi trong thực tế. Những dân tộc tin tưởng thuyết luân hồi hơn hai mươi thế kỷ qua đã chẳng hưởng được một đời sống khá hơn các dân tộc khác chút nào. Thực tế là ngược lại. Nếu luân hồi để thoát khỏi kiếp người mà có hiệu quả thì dân số những nước theo thuyết luân hồi phải giảm thiểu càng ngày càng hơn mới đúng. Thực tế là khác hẳn.
Kinh Thánh khẳng định: “Theo như đã định cho loài người phải chết một lần, rồi chịu phán xét” (Hê-bơ-rơ 9:27). Câu nầy khẳng định hai sự kiện: 1. Mỗi người phải chết một lần. 2. Mỗi người sẽ được Đức Chúa Trời phán xét . Đây là sự thật. Sự thật sẽ giải thoát chúng ta. Loài người chỉ có cơ hội trên đời nầy và không có cơ hội nào để sửa đổi gì sau khi chết. Phải giải quyết mọi việc khi ta còn sống. Phải tin cậy công lao cứu rỗi của Chúa Giê-su để được cứu rỗi linh hồn. Phải đón nhận ơn cứu rỗi của Chúa để khỏi bị phán xét.
Một người anh em Công Giáo Việt Nam đang sống tại Mỹ đã làm chứng với tôi câu chuyện thật như sau: “Tôi có một người anh họ, trước theo đạo Phật , sau anh đã về đạo Chúa. Tôi hỏi anh tại sao anh theo đạo Chúa. Anh cho biết như sau:
“Bởi mình không biết đạo Phật đúng hay đạo Chúa đúng. Nhưng theo lẽ khôn ngoan buộc mình phải theo đạo Chúa cho chắc ăn. Bởi đạo Chúa dạy người ta chỉ sống trên đời này có một lần. Nếu đúng thế, không theo đạo Chúa, nghĩa là không sống “đúng nghĩa làm người” thì sẽ bị phạt đời đời trong hỏa ngục. Nếu ngược lại đạo Phật đúng, không theo Phật kiếp này, sẽ còn kiếp sau, kiếp sau nữa… Nhưng nếu đạo Chúa đúng mà không theo… ôi thôi, mất mát đời đời, không lấy gì chuộc lại được. Nên nếu theo đạo Chúa, lợi, thì lợi vô cùng, lợi đời đời; còn nếu có thiệt; giả sử đạo Chúa sai, đạo Phật đúng, mà mình theo đạo Chúa, thì chỉ chậm có mấy năm, không vào niết bàn sớm mà thôi. Nhưng ai ham vào niết bàn sớm, mà ai “ham” vào sớm là chưa diệt dục xong. Đó là lý do mình đã bỏ Phật, theo Chúa.”
Sống hy vọng hay sống vô vọng, tùy nhận định và quyết đinh của bạn hôm nay.
Mục sư Nguyễn Văn Huệ