em ra đi mùa thu
mùa thu không trở lại..
Cuối tháng 11, mùa thu chỉ còn là lá vàng khô đầy trên đất, trên cỏ, nhưng vẫn còn mùa thu với dăm ba hàng cây sang thu muộn cố nắm níu chút trễ nãi thương tiếc. Tang lễ di chuyển một cách chậm rãi trong không gian và thời gian mùa thu, chậm bởi vì không còn gì vội vã nữa, gồm một chiếc limousine đen chạy rất chậm phía trước, một nhóm người mặc áo đen, gồm những người có liên hệ gần, rất gần, có thể va chạm được, chầm chậm theo sau, một số người theo sau nữa cầm những vòng hoa, một số xe chầm chậm chạy sau cùng, gồm những người già, đàn bà trẻ con không dám thi gan với cơn gió lạnh se sắt của mùa thu. Ít thấy bây giờ những tang lễ có người đi bộ chầm chậm theo sau, trong không gian lạnh lẽo và ánh nắng vàng nhạt, trông như một đoạn phim cũ kỹ nhiều chục năm. Khu vực nghĩa trang đầy lá vàng, như một lời chia buồn. Bầu trời sáng mai dường như cũng nhuộm vàng. Mầu vàng đôi khi là mầu kiêu sa vương giả của áo dài hoàng hậu, có đôi khi là sắc mầu tàn úa trên khuôn mặt của một người vừa mới qua đời, là những bông hoa hồng vàng phủ kín trên quan tài như chút gửi gấm cuối cùng, cho người đang ra đi trong mùa thu.
Khu vực mà người ra đi sẽ nằm lại có tên Eternity, vĩnh viễn, đã được chọn trước, một cách ý tứ, tế nhị, đầy xúc cảm, nằm dưới bóng rộng của một cây cao, vào xuân sẽ nở những nụ hoa lấm tấm hồng, sang hè sẽ xanh ngắt lá, mùa thu nhuộm vàng những khắc khoải và khẳng khiu trơ trọi sang đông. Nhưng thế nào thì cũng không thể so sánh với nơi ở mới mà người đã về, đã được mua với biết bao năm tháng miệt mài trong nhà thờ, với biết bao sự phục vụ dâng hiến không tên, với một niềm tin đơn giản mà dai dẳng không gì có thể tách rời. Nơi ở ấy được mô tả ở giữa phố thành và trên hai bờ sông có cây sự sống trổ mười hai mùa, mỗi tháng một lần ra trái, và những lá cây đó dùng chữa lành cho các dân. Chẳng còn có sự nguyền rủa nữa, ngôi của Đức Chúa Trời và Chiên Con sẽ ở trong thành, các tôi tớ Ngài sẽ hầu hạ Ngài, chúng sẽ được thấy mặt Chúa, và danh Chúa sẽ ở trên trán mình. Đêm không còn có nữa, và chúng sẽ không cần đến ánh sáng đèn hay ánh sáng mặt trời, vì Chúa là Đức Chúa Trời sẽ soi sáng cho, và chúng sẽ trị vì đời đời.
Những nghi thức tiễn biệt cuối cùng cũng chầm chậm, như không có gì vội vàng, vội vàng chi nữa, chỉ còn dăm phút nữa thôi. Những tiếng nói cũng được tự nguyện giảm bớt và vặn nhỏ lại, loáng thoáng đâu đó tiếng chim hót, lẻ loi, nhưng đâu có lẻ loi đâu, vì Đức Chúa Trời đang ở gần, rất gần, đang vỗ về những trái tim đang nứt rạn có thể tan vỡ bất cứ lúc nào. Quan tài được đưa đến phần mộ, xung quanh bao phủ bằng những vòng hoa tang nhiều mầu sắc như cố gắng an ủi chút nào những tấm lòng đang nặng nề sắc xám của nỗi buồn. Người Mục sư chủ lễ đọc đoạn Kinh Thánh cuối, nói vài lời cuối, cầu nguyện lần cuối, ra hiệu cho những người làm công việc kế tiếp. Người đàn ông đến gần, đưa máy vào khung sắt, cái ròng rọc chầm chậm đưa quan tài xuống lòng đất. Tiếng rè rè của máy móc, của sự di chuyển cuối.
Người đàn ông đeo khăn tang đứng gần quan tài hơn hết, vì chỗ đó để dành cho một người gần gũi nhất của người vừa qua đời, chợt khuỵu xuống bên thành quan tài, nắm lấy thành quan tài, như cố gắng ngăn sự di chuyển của tiếng ròng rọc đang quay tròn, không chủ ý, nhưng là trái tim bảo hãy làm thế, không ai có thể ngăn chặn tiếng gọi của trái tim, gục đầu xuống thành quan tài, và nước mắt làm phận sự cuối cùng. Những lời cuối, chỉ người đang nói nghe mình nói, và hy vọng người trên cao kia sẽ nghe nói, là những lời thì thầm của trái tim đang sầu khổ, chỉ là những se sắt không thành lời.
Quan tài đã nằm yên đáy mộ. Người chủ lễ ném bông hồng vàng đầu tiên xuống mộ, nói một lời của nghi thức: cát bụi trả lại cho các bụi. Nhưng thần linh trở về nơi Đức Chúa Trời, là Đấng đã ban nó. Những bông hoa khác lần lượt rơi xuống, rồi những vành khăn tang cũng được tháo gỡ gởi vào theo với lòng đất. Vành khăn tang trên đầu bây giờ không còn quan trọng nữa, vì những tiếc thương sẽ được dồn chặt vào đáy lòng. Rồi tất cả lùi lại, công việc cuối cùng của xe chở đất phủ lấp, của tiếng nện đất, của một thảm cỏ đắp lên, những vòng hoa làm phận sự cuối cùng là lấp đầy mặt cỏ mới. Một vùng hoa lá sạch sẽ, tinh khôi, mầu sắc ấm, trong không gian lạnh lẽo.
Em đã ra đi mùa thu, với tôi, mùa thu từ đây sẽ còn mang thêm một từ ngữ khác: kỷ niệm.
Mục sư Lữ Thành Kiến
Sáng thế ký 23 tường thuật câu chuyện Áp-ra-ham chịu tang cho Sa-ra và than khóc vợ mình. Lần đầu tiên trong Kinh Thánh sự kiện một người qua đời và những giọt nước mắt được đề cập. Sa-ra là người phụ nữ duy nhất trong Kinh Thánh mà tuổi thọ của bà được ghi nhận. Sa-ra là một người nữ của đức tin cũng giống như Áp-ra-ham là người nam của đức tin (Hêb 1:11). Cặp vợ chồng này là một đội hình cùng hầu việc Chúa.
Những giọt nước mắt của Áp-ra-ham không đánh dấu cho sự vô tín hay thất bại, nhưng nó là bằng chứng của tình yêu của ông dành cho Sa-ra – người vợ yêu dấu. Dân sự của Đức Chúa Trời đi qua những đau khổ nhưng họ không mất hy vọng (1 Tê-sa-lô-ni-ca 4:13). Áp-ra-ham đã nêu một gương mẫu tốt cho chúng ta trong hành động tôn trọng Sa-ra và mai táng vợ mình, và ông cũng sử dụng cơ hội này để làm chứng cho những người ngoại bang hàng xóm chung quanh.
Cái hang đá mà Áp-ra-ham đã mua làm mộ địa cho Sa-ra trở thành nơi mai táng cho cả: Áp-ra-ham; Y-sác, Rê-bê-ca, Lê-a và Gia-cốp. Sách Sáng thế ký kết thúc với một ngôi mộ tập thể (Sáng 49:29-32). Nhưng đức tin của chúng ta đặt nền tảng trên một ngôi mộ trống, bởi vì Chúa Jesus đã bước ra khỏi hầm mộ và chiến thắng sự chết (1 Cô-rin-tô 15: 12-28, 54).
Càng sống lâu trên đất, chúng ta càng chứng kiến bạn bè và những người chúng ta yêu mến sẽ qua đời, chia tay với chúng ta. Nếu Chúa chưa tái lâm trong thời đại này, chúng ta cũng sẽ gia nhập chung với họ. Nhưng chúng ta không hề sợ hãi. Lời hứa trong Kinh Thánh là:
“Vì Đức Chúa Trời nầy là Đức Chúa Trời chúng tôi đến đời đời vô cùng;
Ngài sẽ dẫn chúng tôi cho đến kỳ chết.” (Thi 48:14).
https://huongdionline.com/2017/11/23/phu-duc-tin/