Chủ Nhật , 22 Tháng Mười Hai 2024
Home / Giới thiệu sách / Đây Là Sự Sống

Đây Là Sự Sống

VIETNAMESE MISSIONARY INSTITUTE

SỐNG TRƯỞNG THÀNH
This is the Life!
Warren W. Wiersbe
Đây là Sự Sống!
Tận hưởng sự chúc phước và đặc quyền của niềm tin trong Đấng Christ.

images

Lời Tựa
“Sự sống của anh em là chi?” Gia-cơ 4:14
Một trong những tranh biếm họa nổi tiếng mà tôi thích là có hai con bò trên bãi cỏ nhìn qua hàng rào cạnh đường quốc lộ. Một cái xe tải chở sữa chạy ngang qua với dòng chữ quảng cáo: “Sữa Johnson – tiệt trùng – thuần nhất bổ sung Vitamin C và D.”
Chú bò nọ nói với chú bò kia, “Mày có thấy quảng cáo này láo không hả?” Sau khi nghe những lời phản đối và đọc nhiều lời chỉ trích trên các trang sách báo. Tôi nhận ra rằng đúng là ngu như bò và tôi tự hỏi tại sao con người không có được sự lạc quan để quan tâm đến cuộc sống tốt lành mà người tin Chúa đang được hưởng.
Nhưng không phải ai cũng có cái nhìn lạc quan về cuộc sống. Một nhà văn người Do Thái Shalom Aleichem (Ông là cha đẻ của nhân vật Tevye, người giao sữa trong tác phẩm Fiddle on the Roof) nói rằng cuộc sống là “Một vết phồng trên đỉnh khối u và đang loét ra.” James M. Barrie người viết Peter Pan nói rằng cuộc sống là một bài học dài về sự khiêm nhường và nhà thơ người Mỹ Carl Sandburg so sánh cuộc sống với củ hành tây, “Mỗi khi bạn bóc một lớp vỏ, bạn sẽ phải ứa nước mắt một lần.” Một luật sư thực tập nổi tiếng Clarence Darrow gọi cuộc sống là, “Một khoảng thời gian mà một nửa của nó bị phá hỏng bởi cha mẹ và nửa còn lại bị phá hỏng bởi con cái.”
Kinh Thánh không phủ nhận rằng cuộc sống không những có những trận chiến và gánh nặng mà còn có cả những phước lành. Một vài trước giả của Kinh Thánh thấy cuộc sống là một lò luyện kim (Gióp 23:10), một cơn bão dữ dội (Thi Thiên 42:7), một trận chiến (2 Ti-mô-thê 2:3), hay là một cuộc chạy đua khó khăn (Giê-rê-mi 12:5). Những trước giả này không chỉ nói với chúng ta rằng cuộc sống là khó khăn mà họ còn cảnh báo chúng ta rằng cuộc sống là chóng qua và hay hư nát. Khi Đức Chúa Trời dựng nên A-đam, Ngài “Hà sinh khí vào lỗ mũi, thì người trở nên một loài sinh linh.” (Sáng Thế Ký 2:7). Hơi thở làm ta liên tưởng tới sự ngắn ngủi, yếu ớt. Vua Đa-vít viết rằng: “Đời người chỉ như hơi thở.”
“Kìa, Chúa khiến ngày giờ tôi dài bằng bàn tay,
Và đời tôi như không không trước mặt Chúa;
Phải, mỗi người, dầu đứng vững, chỉ là hư không.” (Thi Thiên 39:5)
Còn Gia-cơ hỏi rằng: “Sự sống của anh em là chi?”
Gia-cơ 4:14 chép, “Song ngày mai sẽ ra thế nào, anh em chẳng biết! Vì, sự sống của anh em là chi? Chẳng qua như hơi nước, hiện ra một lát rồi lại tan ngay.” Đời người bắt đầu bằng hơi thở, tiếp tục bằng hơi thở và kết thúc là khi chúng ta ngừng thở. Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp là ông tổ của đức tin nhưng cả ba đều “trút hơi thở cuối cùng” (Sáng Thế Ký 25:8,35:29;49:33). Và có vẻ như họ ra đi sớm hơn chúng ta nghĩ.
Trong những hoàn cảnh khó khăn làm chúng ta không phải lúc nào cũng có thể làm chủ những vấn đề và những yêu cầu của cuộc sống, và từ xa xưa, con người đã kêu ca về “những thời khắc nhất định”. Đa-vít than thở trong Thi Thiên 11 rằng “khi tất cả nền móng của sự sống bị hủy diệt” (câu 3) và trong Thi Thiên 12 rằng “kẻ thành tín đã biến mất khỏi thế gian” (câu 1-2). Ngày 23 tháng 3 năm 1783, Nhà văn người Anh Samuel Johnson đã nói với bạn mình là James Boswell rằng: “Tôi đã chứng kiến nhiều điều trở nên xấu xa kinh khủng.” Cùng thời điểm đó, Thomas Jefferson viết trong cuốn “Notes on the State of Virginia”: “Quả thực tôi run sợ cho đất nước của tôi vì tôi biết Chúa là Đấng Công Bình.” Nhà soạn kịch George Bernard Shaw lại than phiền rằng, “Nếu có thể sống trên các hành tinh khác, họ sẽ dùng Trái Đất làm nhà thương điên.”
Có quá nhiều quan điểm bi quan về cuộc sống. Trái tim của mọi vấn đề là vấn đề của trái tim, và chỉ Chúa mới có thể thay đổi trái tim của con người. Quyển sách này nói về cách sống mà Chúa ban cho chúng ta và chúng ta nhận nó nhờ ân điển và quyền năng của Ngài.
Quan điểm đó ràng buộc chúng ta, thái độ tiêu cực đó khiến ta chán nản, mọi người làm phiền lòng chúng ta, những nhu cầu cuộc sống khiến ta lo lắng và những thách thức khiến ta lo sợ, tất cả đều có thể được giải quyết nếu ta để Chúa hành động.
Hãy đọc và suy nghĩ kỹ về chương 1 và xác quyết mối tương giao với Chúa. Sau đó bạn đọc mục lục và quyết định chương nào phù hợp nhất với hoàn cảnh của bạn. Bắt đầu đọc từ chương đó. Mỗi chương là một đơn vị hoàn chỉnh, vì vậy lựa chọn là của bạn. Đừng đọc lướt qua các chương mà hãy đọc chúng cách riêng tư như tôi và bạn đang thảo luận với nhau một cách bình tĩnh cùng với quyển Kinh Thánh để trước mặt. Hãy để thời gian cầu nguyện và suy nghĩ để Chúa có cơ hội dạy dỗ (hay nhắc nhở) bạn về điều bạn cần lúc này. Khi tôi dẫn chứng các câu Kinh Thánh mà không trưng dẫn nó ra sách, bạn hãy giữ địa chỉ các câu Kinh Thánh nầy để tra cứu tìm kiếm mối liên quan và đọc nó cẩn thận.
Cuối cùng bạn hãy nhờ Chúa giúp bạn thực hành theo những nguyên tắc mà bạn học được. Vâng phục mạng lệnh của Chúa chính là biến lời nói thành hành động, và đó là cách tốt nhất để trải nghiệm sự trưởng thành thuộc linh. Học mà không hành tạo ra một cái đầu to nhưng trái tim băng giá và ý chí yếu ớt. Phao-lô cảnh báo chúng ta rằng, “Song sự hay biết sanh kiêu căng, còn sự yêu thương làm gương tốt.” (I Cô-rinh-tô 8:1)
“Tôi vừa nghe những lời Ngài, thì đã ăn lấy rồi; lời Ngài là sự vui mừng hớn hở của lòng tôi vậy. Hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời vạn quân, vì tôi được xưng bằng danh Ngài!” (Giê-rê-mi 15:16)
Warren W. Wiersbe
CHƯƠNG 1

Sự Sống Đời Đời

Trong vòng người Pha-ri-si, có người tên là Ni-cô-đem, là một người trong những kẻ cai trị dân Giu-đa. Ban đêm, người nầy đến cùng Đức Chúa Giê-su mà nói rằng:“Thưa thầy, chúng tôi biết thầy là giáo sư từ Đức Chúa Trời đến; vì những phép lạ thầy đã làm đó, nếu Đức Chúa Trời chẳng ở cùng , thì không ai làm được”. Đức Chúa Giê-su cất tiếng đáp rằng: “Quả thật, quả thật, ta nói cùng ngươi, nếu một người chẳng sanh lại, thì không thể thấy được nước Đức Chúa Trời.”
Giăng 3:1-3

Ni-cô-đem là một thành viên hội Giu-đa lúc bấy giờ theo Giăng 3:1-21. Chúa Giê-su gọi ông là giáo sư của dân Do Thái, (Giăng 3:10), vì vậy chắc hẳn ông phải biết rất rõ về những lời dạy trong Kinh Thánh. Ông xuất hiện như một người đàn ông giàu có và ngoan đạo. Là người Do Thái, ông là thành viên của tuyển dân Đức Chúa Trời mà Ngài đã lựa chọn để trở nên “một dân thuộc riêng về Ngài” (Phục Truyền 7:6). Ông khao khát được biết về chân lý và từ tấm lòng của mình, ông ao ước yêu mến và vâng phục Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Y-sác, và Gia-cốp. Ni-cô-đem là một người đàn ông có nghị lực và can đảm; tuy vậy, ông biết mình còn thiếu điều gì đó trong cuộc sống. Ông đã đến tìm sự giúp đỡ từ Chúa Giê-su, người thầy đã cho ông biết điều mà ông còn thiếu: “Các ngươi phải sanh lại” (Giăng 3:7). Ni-cô-đem chưa từng biết đến “sự sanh lại” và đời sống mới là gì? Những phước hạnh về thuộc thể có được khi chúng ta được sanh ra bởi xác thịt, và nếu chúng ta muốn có được những phước hạnh thuộc linh, chúng ta phải trải nghiệm được sự tái sanh bởi Đức Thánh Linh. Chính lúc đó chúng ta nhận được sự sống đời đời.

Sự Sống Đời Đời Là Sự Sống Thật Từ Đức Chúa Trời.
Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh là đời đời; không có điểm bắt đầu và kết thúc. Môi-se đã nói với Chúa rằng Ngài hằng có “từ trước vô cùng cho đến đời đời” (Thi thiên 90:2). Ông cũng đã gọi Ngài là “Đức Chúa Trời hằng sống” (Phục Truyền 33:27), và tiên tri Ê-sai gọi Đức Chúa Trời là “Đấng cao cả, ở nơi đời đời vô cùng” (Ê-sai 57:15). Phao-lô xưng Chúa là “Vua muôn đời” (I Ti-mô-thê 1:17). Sự sống mà ta đang có là bởi cha mẹ sinh ra, nhưng Đức Chúa Trời thì có “sự sống trong mình” (Giăng 5: 26) và sự sống đó được truyền đến cho những ai ăn năn tội lỗi và tin nhận Chúa Giê-su Christ là Đấng Cứu Chuộc và Vua của cuộc đời mình (Giăng 10:27-28; Rô-ma 6: 23).
Mỗi ngày trôi qua, chúng ta đã quen với việc nhìn thấy mọi vật và con người xung quanh chúng ta dần đi đến hồi kết, hoặc thình lình hoặc là từ từ, và chúng ta luôn lo lắng về sự sống đời đời và bất diệt sau đó. Trong quyển The Knowledge of the Holy của A.W. Tozer, tác giả đã nói về sự đời đời của Đức Chúa Trời rằng, “trái tim chúng ta vui mừng thừa nhận những điều mà lý trí không thể nhận thức được thấu đáo.” Bất cứ ai hay bất cứ điều gì tồn tại mà không có sự bắt đầu cũng như kết thúc là một điều mà óc suy nghĩ hạn hẹp của chúng ta không thể hiểu thấu được. Sự đời đời là “ban đầu”, khi Chúa tạo dựng nên loài người, Ngài đã “khiến cho sự đời đời ở nơi lòng loài người” (Truyền đạo 3:11). Điều này lý giải vì sao loài người chúng ta, là loài được dựng nên theo ảnh tượng của Đức Chúa Trời, luôn khao khát những điều vượt quá những thứ mà thế giới này đem đến cho chúng ta. Trước khi tin Chúa Giê-su, chúng ta thường nói rằng, “Chắc hẳn phải có điều gì đó tốt hơn!” Augustine đã đúng khi ông viết, “vì Ngài đã dựng nên chúng con cho Ngài nên lòng chúng con không yên cho đến khi nghỉ yên trong Ngài.”
Sự Sống Đời Đời Là Món Quà Của Đức Chúa Trời.
Sứ đồ Giăng đã viết về Chúa Giê-su, “Trong Ngài có sự sống, sự sống là sự sáng của loài người” (Giăng 1:4). Chúa Giê-su đã đắc thắng sự chết và quyền lực của sự tối tăm khi Ngài chịu đóng đinh trên thập tự giá như một tế lễ chuộc tội. “Qua ngày sau, Giăng thấy Đức Chúa Giê-su đến cùng mình, thì nói rằng: Kìa, Chiên con của Đức Chúa Trời, là Đấng cất tội lỗi thế gian đi” (Giăng 1:29). “Ta là người chăn hiền lành; người chăn hiền lành vì chiên mình phó sự sống mình” (Giăng 10:11). Trong suốt lịch sử của người Do Thái, chiên thường hy sinh cho người chăn, nhưng khi Chúa Giê-su đến, Ngài là người chăn đã chịu chết vì chiên mình! “Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời” (Giăng 3:16). Câu Kinh Thánh quen thuộc này là một trong những câu đầu tiên mà khi còn bé chúng ta được học thuộc trong các lớp Trường Chúa Nhật, nhưng chúng ta đã hiểu rất ít về ý nghĩa thật sự của nó. Nó chỉ là văn tự. Nhưng cho đến khi làm một người cha hay người mẹ lần đầu tiên được ôm đứa con của mình vào lòng, chúng ta mới bắt đầu hiểu tình yêu Đức Chúa Trời dành cho Chúa Giê-su và cho cả chính chúng ta! Theo Giăng 17:23, chúng ta biết Đức Chúa Cha đã yêu thương những đứa con yêu dấu của Ngài là mỗi chúng ta nhiều như Ngài đã yêu chính Con Một của Ngài vậy!
Chúa Giê-su đã phó sự sống của Ngài cho chúng ta, để khi chúng ta tin nhận Ngài, Ngài ban cho chúng ta chính sự sống của Ngài, là điều vượt xa khỏi sự hiểu biết của chúng ta. Sứ đồ Giăng đã gồm tóm lại điều kỳ diệu này một cách ngắn gọn: “Đấng Christ sống trong tôi” (Ga-la-ti 2:20). Khi Đức Thánh Linh ngự vào lòng chúng ta, làm chủ đời sống chúng ta, mọi thứ sẽ thay đổi! “Vậy, nếu ai ở trong Đấng Christ, thì nấy là người dựng nên mới; những sự cũ đã qua đi, nầy mọi sự đều trở nên mới (II Cô-rinh-tô 5:17). Thân thể chúng ta trở thành đền thờ của Đức Thánh Linh và những chi thể là công cụ mà Đức Thánh Linh sử dụng bởi vì Ngài cho chúng ta đặc ân được phục vụ Chúa và làm sáng danh Ngài (I Cô-rinh-tô 6:19-20). Bạn có một đời sống mới, giá trị mới và một ước vọng mới là hầu việc Đức Chúa Trời và phục vụ những người quanh mình. Thánh Linh ở trong chúng ta sẽ ban cho quyền phép để khiến chúng ta trở nên giống Chúa Giê-su càng hơn trong tư tưởng (Phi-líp 2:5) và trong cách sống của chúng ta (Ga-la-ti 2:20), và chúng ta được nếm trải những ngày của thiên đàng ngay trên đất này bởi vì sự sống thiên đàng đang ở ngay trong chính chúng ta.

Sự Sống Đời Đời Khiến Chúng Ta Làm Theo Ý Muốn Ngài Và Hầu Việc Ngài.

Khả năng chơi thể thao được di truyền ở trong gia đình chúng tôi – nhưng đến khi tôi sinh ra, thì tôi không được thừa hưởng điều đó. Khi còn học tiểu học, tôi luôn là cậu bé cuối cùng được chọn vào các đội ở trường. Các đội trưởng thường hay đấu với nhau và người thua sẽ phải chọn tôi vào đội của họ. Đến khi vào trung học, tôi luôn ở vị trí dự bị và giữ những tài sản cá nhân của học viên đang chơi ở ngoài sân. Thỉnh thoảng tôi cũng được gọi vào khi đến lượt đấu của tôi, tôi ước gì lúc đó Babe Ruth (tên một cầu thủ chơi bóng chày nổi tiếng ở Mỹ) đã nhập vào tôi và giúp tôi ghi điểm thành công. Tôi đã không nhận ra rằng có một Đấng vĩ đại hơn Babe Ruth – đó chính là Đức Thánh Linh – Ngài đã chiếm hữu tôi khi tôi đặt đức tin mình nơi Chúa Cứu Thế vào một đêm tại đại hội Thanh niên Tin Lành, và Ngài sẵn ban cho tôi mọi điều tôi cần để sống một đời sống Cơ Đốc làm sáng danh Chúa. “Quyền phép Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta mọi điều thuộc về sự sống và sự tin kính” (II Phi-e-rơ 1:3).
Khi tôi nghiên cứu Kinh Thánh, đọc các sách bồi linh và lắng nghe những bài chia sẻ, tôi bắt đầu hiểu ra rằng khi Đức Thánh Linh ngự vào lòng, Ngài đã làm phép Báp-Têm cho tôi để được hiệp làm một thân trong Đấng Christ và Ngài ban cho tôi món quà thuộc linh để giúp tôi sống một đời sống Cơ Đốc và phục vụ (I Cô-Rinh-Tô 12:1-13). Khi ấy tôi cũng khám phá ra sự đầy dẫy Đức Thánh Linh. Phép Báp-Têm thì chỉ có một lần trong đời nhưng sự đầy dẫy Đức Thánh Linh là những trải nghiệm được lặp đi lặp lại mỗi khi chúng ta đầu phục Chúa. Và tôi hiểu rằng mình phải thay đổi đời sống bên trong (suy nghĩ, động cơ, trí tưởng tượng, …) để xứng đáng với sự sống đời đời, còn nếu không e rằng tôi sẽ phạm tội nói dối nghịch cùng Đức Thánh Linh (Công Vụ 5:1-11), làm buồn lòng (Ê-phê-sô 4:25-32), và dập tắt Thánh Linh của Đức Chúa Trời chăng (I Tê-sa-lô-ni-ca 5:19). Tôi thấy thật thú vị và được khích lệ khi khám phá ra rằng tôi sẽ luôn luôn nhận được sự hướng dẫn và giúp đỡ từ nơi Chúa miễn là tôi “bước theo Thánh Linh” và “sống nhờ Thánh Linh” vậy (Ga-la-ti 5:16-26). Và tôi đã không cần đến Babe Ruth!
Bạn và tôi có thể được yên nghỉ hoàn toàn dựa trên lời Chúa Giê-su đã nói với các môn đồ của Ngài: “Ta lại sẽ nài xin Cha, Ngài sẽ ban cho các ngươi một Đấng Yên Ủi khác, để ở với các ngươi đời đời” (Giăng 14:16). Trong nguyên bản Hy lạp, chữ khác có nghĩa là “khác nhưng cùng một bản chất”. Tất nhiên, Chúa Giê-su đang nói về Thánh Linh của Đức Chúa Trời, và quả quyết rằng Đức Thánh Linh sẽ giúp đỡ các môn đồ của Chúa như là Ngài đã giúp đỡ họ. Đức Thánh Linh là Đấng giúp đỡ chúng ta cũng như Chúa Giê-su đã giúp đỡ các môn đồ của Ngài vậy. Trong thời Cựu Ước, Đức Thánh Linh đã đến trên những người được chọn và giúp đỡ họ hoàn thành những sứ mạng đặc biệt; nhưng từ ngày Đức Thánh Linh giáng lâm (Công Vụ 2), Thần Lẽ Thật đã ngự vào trong lòng những ai tin Chúa và giúp đỡ họ chu toàn những công tác mà Cha giao phó hàng ngày. Chữ “Đấng Giúp Đỡ” (Đấng Yên Ủi) trong nguyên bản Hy Lạp có nghĩa là “Đấng được kêu gọi ở bên cạnh chúng ta để giúp đỡ”. Nó cũng được dịch là Đấng Yên Ủi, Đấng Khuyên Bảo, và Đấng Biện Luận. Chữ yên ủi trong tiếng Anh đến từ tiếng La-tinh và có nghĩa “với sức mạnh”, và chữ biện luận được nói đến như một luật sư chuyên nghiệp đứng bên bị cáo của mình để bào chữa cho người đó (Mác 13:11). Đức Thánh Linh đã làm tất cả những điều này và còn nhiều hơn thế nữa cho con dân của Ngài vậy.
Thế thì làm sao chúng ta có thể “bước đi” với Đức Thánh Linh và không đánh mất đi quyền tể trị vĩ đại của Ngài? Trước hết, chúng ta phải dành thời gian để suy gẫm mọi lời dạy trong Thánh Kinh mà Đức Thánh Linh đã hà hơi, chỉ cho chúng ta biết về Chúa Giê-su và dạy chúng ta mọi điều mà chúng ta có trong Ngài. Tiếp đó, chúng ta phải hết lòng làm sáng danh Chúa Giê-su Christ trong mọi điều chúng ta nói hay làm và với tất cả những gì chúng ta có, bởi vì nhiệm vụ của Đức Thánh Linh không phải là tự tôn Ngài hay chúng ta lên cao mà là làm vinh hiển Chúa Giê-su. Giê-su, người thầy của chúng ta đã nói, “Ấy chính Ngài (Thần Lẽ Thật) sẽ làm sáng danh Ta, vì Ngài sẽ lấy điều thuộc về Ta mà rao bảo cho các ngươi” (Giăng 16:14). Tôi nhớ có lần tiến sĩ J. Sidlow Baxter đã chia sẻ về câu Kinh Thánh này và ông nhiều lần nhắc đi nhắc lại, “Bất cứ điều gì khởi đầu bởi Đức Thánh Linh sẽ luôn luôn kết thúc tại Đức Chúa Giê-su Christ. Chính Ngài – Thần Lẽ Thật – sẽ làm sáng danh Ta, Đấng Cứu Thế”. Nếu chúng ta muốn mọi việc chúng ta làm, mọi cách chúng ta sống làm sáng danh Chúa Giê-su mà không phải chúng ta, thì chúng ta phải đầu phục Đức Thánh Linh và để cho Ngài điều khiển chúng ta. Giống như những môn đồ đầu tiên, “chúng ta sẽ cứ chuyên lo về sự cầu nguyện và chức vụ giảng đạo” (Công Vụ 6:4).
Trong các chương sau, mỗi chương sẽ nói về những khía cạnh của cuộc sống Cơ Đốc Nhân mà bạn sẽ trải nghiệm và tận hưởng, nhưng nếu những điều mà tôi viết trong chương đầu không phù hợp với cuộc sống của bạn, thì những chương kế tiếp sẽ không thật sự ý nghĩa cho bạn. Điều mà Chúa Giê-su nói với Ni-cô-đem, cũng là điều mà Ngài nói với chúng ta ngày hôm nay: “Các ngươi phải sanh lại” (Giăng 3:7). Bước đầu tiên trong “cách sống” của một Cơ Đốc Nhân đó là “nhận lấy” sự sống đời đời. “Vì tiền công của tội lỗi là sự chết; nhưng sự ban cho của Đức Chúa Trời là sự sống đời đời trong Đức Chúa Giê-su Christ, Chúa chúng ta.” (Rô-ma 6:23). Lời hứa của Đức Chúa Trời đó là, “Vả lại ai cầu khẩn danh Chúa thì sẽ được cứu” (Công Vụ 2:21).

Chương 2
Một Đời Sống Tin Cậy
Nầy, lòng người kiêu ngạo, không có sự ngay thẳng trong nó; song người công bình thì sống bởi đức tin mình. -Ha-ba-cúc 2:4
Ha-ba-cúc 2:4 là một câu Kinh Thánh đặc biệt quan trọng bởi vì những chữ cuối cùng của câu được trích đến ba lần trong Kinh Thánh Tân Ước: Rô-ma 1:17; Ga-la-ti 3:11, và Hê-bơ-rơ 10:38. Sách Rô-ma nhấn mạnh về người công bình và làm thế nào những tội nhân lạc mất có thể được biện hộ (được xưng công bình) trước mặt Đức Chúa Trời. Ga-la-ti nhấn mạnh về cách sống của những Cơ Đốc Nhân, không căn cứ trên luật pháp Môi-se nhưng hoàn toàn bởi sự thương xót của Đức Chúa Trời. Sách Hê-bơ-rơ nhấn mạnh về chữ “bởi đức tin”, và cụm từ này được tìm thấy ít nhất 19 lần trong thư tín Hê-bơ-rơ.
Tiên tri Ha-ba-cúc đã so sánh hai loại người vào thời của ông và của chúng ta ngày nay: những người kiêu ngạo, tự mãn không tin đến Đức Chúa Trời, và những người được cứu chuộc cũng như được xưng công bình bởi vì họ tin nơi Đấng Christ và kinh nghiệm được ân điển cứu chuộc của Đức Chúa Trời dành cho họ. Một Cơ Đốc Nhân thật thì được cứu bởi đức tin (Ê-phê-sô 2:8-9) và sống bởi đức tin. “Vì chúng ta bước đi bởi đức tin, chớ chẳng phải bởi mắt thấy” (II Cô-rinh-tô 5:7).
Đức tin là gì?
Nhà phê bình H. L. Mencken đã định nghĩa đức tin như là “một niềm tin phi lý về những điều không chắc sẽ xảy ra”, và nhà văn khôi hài Mark Twain qua nhân vật của mình đã nói rằng, “đức tin là tin vào điều mà bạn biết không phải như vậy.” Tuy vậy, dầu biết hay không, thì mỗi ngày mọi người trên trái đất này đều sống bằng đức tin! Họ tin vào những lời chẩn đoán của bác sĩ, những toa thuốc và chuyên môn của các dược sĩ trong việc kết hợp các loại thuốc với nhau. Dầu vậy, đã là con người, thì ai cũng có thể phạm sai lầm. Một bác sĩ đã điều trị cho vợ tôi về bệnh viêm phổi, trong khi cơn đau trong lồng ngực của cô ấy thực chất là do dây chằng bị tổn thương. Và tất cả chúng tôi đều sai lầm. Cô ấy đã đi đến bác sĩ chuyên khoa để chữa bệnh đến hai lần. Sứ đồ Giăng đã viết: “Ví bằng chúng ta nhận chứng của loài người, thì chứng của Đức Chúa Trời trọng hơn; vả, chứng của Đức Chúa Trời, ấy là chứng mà Ngài làm về Con Ngài” (I Giăng 5:9). Nếu bạn đã từng đi thang máy, hỏi sự hướng dẫn từ một người lạ, ăn thử những thức ăn mẫu trong siêu thị, hay đầu tư tiền vào những người môi giới kinh doanh, bạn đã hành động bằng đức tin, bởi vì chúng ta hoàn toàn không có sự bảo đảm nào về những điều đã hứa hay những điều chúng ta mong đợi sẽ thật sự xảy ra.
Đức tin không phải là những trải nghiệm mơ hồ về “niềm tin không cần bằng chứng.” Điều nầy chẳng là gì ngoài một niềm tin hết sức mê tín và tin như thế là ngớ ngẩn. Niềm tin Cơ Đốc là sự tin chắc cách cá nhân vào danh Đức Chúa Trời và tin cậy hoàn toàn vào lời hứa của Chúa cũng như vâng theo ý muốn của Ngài. Chúng ta có rất nhiều bằng chứng minh chứng Kinh Thánh là xác thực và những lời hứa của Ngài đã được ứng nghiệm. Hãy nhớ rằng, “lời chứng của Đức Chúa Trời là trọng hơn” và luôn luôn là như vậy. Đức tin trong Chúa khiến chúng ta vâng phục Ngài mặc cho những cảm giác bên trong, những hoàn cảnh xung quanh chúng ta, hay những kết quả đã xảy ra trước đó. Áp-ra-ham đã tin Đức Chúa Trời sẽ dẫn ông vào đất hứa, và Ngài đã làm. Khi Áp-ra-ham không còn tin cậy và bắt đầu làm theo ý riêng của mình, Đức Chúa Trời đã uốn nắn ông. Đức tin không phải là một công cụ đặc biệt mà khi gặp trường hợp khẩn cấp chúng ta mới sử dụng đến, bởi vì chúng ta phải “bước đi bởi đức tin” suốt cả ngày và trọn cả đời sống mình.
Chúng ta phải học tập tin cậy Chúa trong mọi hoàn cảnh và trong mọi nhu cầu của đời sống chúng ta. Khi mẹ vợ tôi đi mua sắm, bà ấy đã cầu nguyện cho việc đỗ xe; khi tôi dời đến Chicago với gia đình mình, tôi đã cầu nguyện cho việc đỗ xe! Bạn hãy tỉnh thức và cầu nguyện khi bạn lái xe, bạn suy gẫm và cầu nguyện khi bạn mua sắm, và bạn cầu hỏi sự giúp đỡ từ Đức Chúa Trời khi bạn ra đi và thi hành chức vụ Chúa giao phó.
Hê-bơ-rơ 11 mô tả về hai dạng người tin Chúa, cả hai đều tin và kính sợ Đức Chúa Trời. Trong câu 1 – 35, tác giả nói về những con người mà nhờ đức tin của họ đã đem đến những chiến thắng vĩ đại và lạ lùng; nhưng ngay giữa câu 35 tác giả bắt đầu đề cập đến những anh hùng đức tin dường như chỉ nhận thất bại! Chữ “có kẻ khác” trong câu 35 có nghĩa là “khác nhưng cùng một bản chất”. Cả hai nhóm người này đều có đức tin thật nơi Chúa, nhưng nhóm người thứ hai khác hơn vì họ đã không nhận được sự đáp lời cách nhiệm mầu. Thay vào đó, họ phải chịu đau đớn cách nặng nề và một số họ thậm chí bị giết. Những con người này có đức tin không? Vâng, có! Và có phải Chúa đã đáp lời họ một cách lạ lùng không? Không! Nhưng Ngài giúp họ vững niềm tin để có thể chịu đựng những hoạn nạn hầu làm sáng danh Đức Chúa Trời trong sự tuận đạo của họ (Giăng 21:18-19). Cả hai nhóm người này đều có cùng một đức tin nhưng họ đã không nhận được sự đáp lời giống nhau; tuy nhiên, cả hai đều mang lại vinh hiển cho danh Đức Chúa Trời.
Khi tôi nghe những vị diễn giả cũng như các giáo viên dạy Kinh Thánh tuyên bố rằng Đức Chúa Trời luôn ban cho chúng ta mọi điều chúng ta cầu xin miễn là chúng ta có đức tin. Tôi đã lắc đầu và tự hỏi rằng không biết đã có bao nhiêu Cơ Đốc Nhân bị tổn thương sẽ thắc mắc về những đức tính của Đức Chúa Trời cùng những lẽ thật trong lời hứa của Ngài. Phao-lô đã có đức tin rất lớn khi ông cầu nguyện đến ba lần để “cái giằm xóc vào thịt” lìa xa ông, nhưng Chúa đã không làm (Giăng 21:18-19). Thay vào đó, Chúa ban cho ông ân điển để ông có thể chịu đựng được những hoạn nạn mà không than vãn, đó chính là sự ban cho mà ông cần. Sự thay đổi nhiệm mầu trong khi chúng ta chịu hoạn nạn thử thách có thể làm sáng danh Đức Chúa Trời hơn là khiến cho nó lìa xa chúng ta; trường hợp Chúa Giê-su chịu đóng đinh trên thập tự giá đã chứng minh điều đó. Được giải cứu khỏi những nan đề và hoạn nạn là những kinh nghiệm tuyệt vời, nhưng trải nghiệm qua những nan đề đó cũng tuyệt vời không kém.
Bằng cách trả lời thành thật bốn câu hỏi đơn giản sau, chúng ta có thể biết rõ liệu chúng ta có đã cầu xin phải lẽ và bước đi bởi đức tin hay không?
Câu hỏi đầu tiên, những lời cầu nguyện của chúng ta có phù hợp với những lời dạy trong Thánh Kinh hay không? “Như vậy, đức tin đến bởi sự người ta nghe, mà người ta nghe là khi lời của Đấng Christ được rao giảng” (Rô-ma 10:17). Khi tốt nghiệp trung học, tôi đã có sẵn một công việc tại một nhà máy địa phương, nhưng tôi đã hứa nguyện sẽ phục vụ một tuần tại lớp Thánh Kinh Mùa Hè ở Hội Thánh chúng tôi và tôi đã không thể đảm nhận được cả hai việc một lúc. Tôi đã cầu nguyện xin Chúa hướng dẫn tôi qua lời Kinh Thánh, và trong khi đọc Kinh Thánh hằng ngày tôi bắt gặp Ma-thi-ơ 6:33, “Nhưng trước hết, hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa.” Tin chắc nơi lời hứa này, tôi đã liên lạc đến nhà máy để hỏi xin liệu tôi có thể bắt đầu công việc một tuần sau đó không, và họ đã đồng ý. Nan đề đã được giải quyết!
Kinh nghiệm đó dường như rất bình thường khi tôi so sánh với những trải nghiệm sau đó. Khi vợ tôi và tôi hầu việc Chúa tại Hội Thánh đầu tiên, và khi Hội Thánh cần xây dựng nơi thờ phượng mới. Người tiền nhiệm của tôi đã rất khéo léo khi xây dựng khu Cơ Đốc Giáo Dục thật đơn sơ nhưng cũng đầy đủ tiện nghi gần bên cạnh nhà thờ, vì vậy mà chúng tôi đã có điều kiện dễ dàng để chăm lo cho các lớp Trường Chúa Nhật cũng như những công việc của Hội Thánh Chúa trong khi xây dựng nơi thờ phượng mới. Gia đình tôi và những người bạn thân thiết biết rằng tôi không phải là người có hiểu biết về cơ khí và máy móc, vì thế tôi đã có thời gian dành ra để học tiếng Hy Lạp hơn là tìm biết những thiết kế và các chi tiết kỹ thuật trong xây dựng. Giống như Sa-lô-môn, tôi vẫn còn trẻ và thiếu kinh nghiệm (I Sử ký 22:5), vì thế tôi đã cầu xin Chúa ban cho tôi những lời hứa từ trong lời Ngài.
Vào một sáng nọ trong giờ tĩnh nguyện hằng ngày, tôi đọc đến I Sử ký 28:20, khi Đa-vít nói với Sa-lô-môn rằng, “Hãy vững lòng bền chí mà làm; chớ sợ sệt, chớ kinh hãi chi, vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời, tức là Đức Chúa Trời của cha, vẫn ở cùng con; Ngài chẳng hề từ bỏ con, cũng chẳng hề lìa khỏi con cho đến chừng các công việc cất đền của Đức Giê-hô-va được xong.” – Đó chính là lời hứa dành cho tôi! Đức Thánh Linh đã khắc sâu câu Kinh Thánh này vào trong tâm trí tôi và giúp tôi vượt qua mọi giai đoạn trong công việc xây cất Đền Thờ. Tôi thậm chí còn chưa từng xây một cái chòi chim từ bé đến giờ, nhưng Chúa đã ban cho tôi và Hội Thánh mọi điều chúng tôi cần để hoàn thành công trình đó.
Tôi không phải gợi ý để bạn chơi trò “bói Kinh Thánh” may mắn, và mở Kinh Thánh ở bất cứ đâu, nhắm mắt lại và đặt ngón tay vào một câu Kinh Thánh bất kỳ. Đó không phải là cách thể hiện của đức tin. Campbell Morgan kể về một người đàn ông đã sử dụng cách giải quyết đó và ngón tay của anh ấy đã đặt đúng câu Ma-thi-ơ 27:5, “(và Giu-đa) liền trở ra, đi thắt cổ.” Anh ta bắt đầu thử mở lại Kinh Thánh một lần nữa, và chỉ trúng vào Lu-ca 10:37, “Hãy đi, làm theo như vậy”. Nên nhớ rằng Chúa ban cho chúng ta những lời hứa không phải bởi vì chúng ta tìm kiếm chúng nhưng bởi vì chúng tìm kiếm chúng ta trong khi chúng ta tương giao và suy ngẫm lời Chúa mỗi ngày. Và cứ như vậy Chúa đã hướng dẫn tôi và vợ tôi khi chúng tôi cầu hỏi ý Chúa cho những quyết định quan trọng của cuộc đời mình.
Câu hỏi thứ hai chúng ta phải trả lời đó là: những điều chúng ta đang làm có đem lại sự vinh hiển cho Đức Chúa Trời hay không? Áp-ra-ham là một ví dụ. Chúa đã nói ông và vợ sẽ sinh con trong tuổi già yếu, và họ đã như vậy. “Người chẳng có lưỡng lự hoặc hồ nghi về lời hứa Đức Chúa Trời, nhưng càng mạnh mẽ trong đức tin, và ngợi khen Đức Chúa Trời” (Rô-ma 4:20). Chúa không đáp lời cầu nguyện để thỏa mãn chúng ta hay làm cho chúng ta trở nên giàu có hoặc nổi tiếng. Nhưng Ngài đáp lời cầu nguyện để cho danh Ngài được vinh hiển. Trong quyển The Test of Life, Robert Law đã viết, “ Sự cầu nguyện là một công cụ năng quyền, không phải để ý muốn con người được hoàn thành nơi Thiên Đàng, nhưng để ý muốn của Đức Chúa Trời được nên ở trên đất.” Chúng ta xem xét động cơ của mình khi chúng ta cầu nguyện và hãy để cho Đức Thánh Linh dò xét tấm lòng của chúng ta. Chúa đã đáp lời cầu nguyện của chúng tôi rất nhiều, nhưng tôi đã phải trưởng thành hơn để biết tạ ơn Chúa vì Ngài đã không đáp ứng những lời cầu nguyện ích kỷ của bản thân chúng tôi.
Điều thứ ba, chúng ta có thấy mình nhận được sự bình an khi chúng ta cầu nguyện hay không? “Vậy xin Đức Chúa Trời của sự trông cậy, làm cho anh em đầy dẫy mọi điều vui vẻ và mọi điều bình an trong đức tin, hầu cho anh em nhờ quyền phép Đức Thánh Linh được dư dật sự trông cậy!” (Rô-ma 15:13). Khi còn là sinh viên thần học, tôi đã muốn tìm cho mình một công việc bán thời gian vì vậy tôi đã tham khảo danh sách các công việc ở trên bảng thông báo của ký túc xá. Có một công việc dường như rất phù hợp với thời khóa biểu của tôi, vì vậy tôi đã gọi điện cho công ty, nói chuyện với giám đốc nhân sự để nhận công việc – và chỉ qua điện thoại. Nhưng khi trở về phòng, tôi cảm thấy rất bối rối và bất an bởi vì tôi biết mình đã đi trước Chúa. Vì thế tôi đã gọi cho giám đốc nhân sự để xin thôi việc, và ông ấy đã rất thông cảm cho tôi. Một vài tuần sau đó tôi được mời để làm Mục sư lâm thời tại Hội Thánh nhà trong lúc họ chờ vị Quản nhiệm mới, và tôi đã ở đó với họ trong suốt 7 năm! (Một Mục sư lâm thời không bao giờ được mời làm Quản nhiệm, nhưng Đức Chúa Trời thì có kế hoạch khác). Cho dù hoàn cảnh xung quanh chúng ta như thế nào, nhưng nếu chúng ta có sự bình an của Đức Chúa Trời ở trong lòng, chúng ta sẽ có thể vượt qua mọi giông tố và được nghỉ yên tại nơi mà Ngài đã chọn. Ba người trẻ Hê-bơ-rơ là một ví dụ hoàn hảo cho điều này (Đa-ni-ên 3).
Thứ tư, chúng ta có sẵn sàng chờ đợi không? Hầu việc Chúa không chỉ đơn giản là vâng theo mạng lệnh của Chúa. Mà chúng ta còn phải làm theo ý muốn Chúa theo đường lối Ngài, với động cơ và thời điểm đúng đắn. Rô-ma 10:11 chép rằng: “Kẻ nào tin Ngài sẽ chẳng bị hổ thẹn.” Lời này được trích từ Ê-sai 28:16, “ai tin sẽ chẳng gấp rút.” Nếu chúng ta hành động cách bốc đồng và nóng vội, chúng ta sẽ nhận lại sự hổ thẹn và phiền muộn, nhưng khi chúng ta sống bằng đức tin chúng ta sẽ sẵn sàng chờ đợi Chúa. Đa-vít đã cảnh báo chúng ta trong Thi Thiên 32:9, “Chớ như con ngựa và con la.” Con ngựa có khuynh hướng chạy thật nhanh về phía trước và con la thì rất là ương bướng. Khi bước đi bằng đức tin, chúng ta không thể phạm cả hai sai lầm này, nếu không, chúng ta sẽ gặp bối rối và bước đi cách luẩn quẩn. Trông đợi nơi Chúa không bao giờ là mất thời gian, hãy dành thời gian để chờ đợi và tìm kiếm đường lối của Chúa cho đến khi Ngài cho chúng ta biết những dấu hiệu để hành động. Đức Chúa Trời không bao giờ vội vã! “Hãy trông đợi Đức Giê-hô-va; Hãy vững lòng bền chí! Phải, hãy trông đợi Đức Giê-hô-va.” (Thi Thiên 27:14). “Hãy yên tịnh trước mặt Đức Giê-hô-va, và chờ đợi Ngài.” (Thi Thiên 37:7).
Sống bởi đức tin, trông cậy nơi Chúa và lời hứa của Ngài không phải là quá khó khăn, Đức Chúa Trời sẽ ban cho chúng ta những tố chất thuộc linh có cần; và nó chắc chắn rất cần thiết cho mỗi con dân Chúa. Chúng ta muốn Cha kiên nhẫn với chúng ta khi chúng ta trì hoãn trong việc vâng lời Ngài, nhưng chúng ta lại không muốn kiên nhẫn với Chúa khi Ngài bày tỏ ý muốn của Chúa theo thời điểm của Ngài! Không đủ kiên nhẫn luôn luôn toát ra sự nghi ngờ và sự vô tín, trong khi sẵn sàng chờ đợi là bằng chứng của đức tin. Bất cứ khi nào chúng ta mất kiên nhẫn với Cha và muốn hành động cách nhanh chóng, chúng ta phải nhớ ba “mệnh lệnh” được đưa ra trong Thánh Kinh: “Hãy ở đó” (Xuất 14:13), “Hãy ở đây” (Ru-tơ 3:18), và “Hãy yên lặng” (Thi Thiên 46:10). Nếu chúng ta cứ “ở đó”, Đức Chúa Trời sẽ đi trước chúng ta và sắm sẵn cho chúng ta một con đường, như Ngài đã làm cho dân Y-sơ-ra-ên khi họ băng qua Biển Đỏ. Nếu chúng ta cứ “ở đây”, Đức Chúa Trời sẽ hành động và làm trọn ý muốn tốt lành của Ngài cho chúng ta như Ngài đã làm cho bà Ru-tơ. Còn nếu chúng ta cứ “yên lặng”, Chúa sẽ là nơi ẩn náu và sức lực của chúng ta khi chúng ta gặp khó khăn, và mọi thứ sẽ được giải quyết hầu danh Chúa được vinh hiển và đem lại ích lợi cho chúng ta. Chữ “Hãy yên lặng” trong Thi Thiên 46:10 tiếng Hê-bơ-rơ có nghĩa là “Hãy buông tay.” Thật lạ là chúng ta luôn có khuynh hướng tự mình cố gắng giải quyết mọi thứ và chỉ thưa với Chúa điều mình làm! Tất nhiên, khi chúng ta biết rõ ý muốn của Đức Chúa Trời, chúng ta phải sẵn sàng hành động khi Ngài cho chúng ta dấu hiệu.

Đức tin có thể giúp gì cho chúng ta?

Đức tin là một ống dẫn kết nối chúng ta với kho ơn phước của Chúa, và bởi đó Chúa sẽ cung ứng cho chúng ta mọi nhu cầu có cần. Qua Đức Chúa Giê-su Christ “chúng ta cậy đức tin vào trong ơn nầy là ơn chúng ta hiện đương đứng vững” (Rô-ma 5:2, Ê-phê-sô 3:12). Trong một bài giảng ở đại hội đồng Luân Đôn vào năm 1882, Charles Haddon Spurgeon đã nói, “Tuy vậy, hỡi anh em, mặc dầu thích hay không, thì hãy nhớ rằng, chúng ta cần phải biết rõ nguyên tắc của Nước Trời.” Chúa Giê-su đã hứa rằng nếu chúng ta cầu xin bởi đức tin, Ngài sẽ ban cho chúng ta cách rộng rãi, và Gia-cơ đã khuyến cáo chúng ta khi ông viết, “Anh em chẳng được chi, vì không cầu xin” (Gia-cơ 4:2). Sự tái sanh là món quà mà Đức Chúa Trời ban cho chúng ta khi chúng ta tin Chúa Giê-su đã cứu chuộc chúng ta (Ê-phê-sô 2:8), chúng ta trở nên con cái của Đức Chúa Trời, và sau đó chúng ta sẽ được đưa vào “sự giàu có vô hạn của ân điển Ngài” (Ê-phê-sô 2:7). “Đức Chúa Trời tôi sẽ làm cho đầy đủ mọi sự cần dùng của anh em y theo sự giàu có của Ngài ở nơi vinh hiển trong Đức Chúa Giê-su Christ” (Phi-líp 4:19).
Cha của chúng ta luôn muốn chúng ta cầu xin Ngài trong mỗi nhu cầu của chúng ta vì một lý do đơn giản bất cứ người cha người mẹ nào cũng muốn con mình nhờ ba mẹ giúp đỡ: cầu xin và nhận lãnh là bằng chứng của niềm tin và tình yêu. Con trẻ thừa nhận sự thiếu kém của mình và ba mẹ cho chúng thấy sự rộng lượng và bao dung đối với chúng. Chúng ta làm sáng danh Chúa khi chúng ta có thể nói, “Hãy nhìn xem những điều mà Chúa đã làm cho tôi!” Sự cầu nguyện trong đức tin giữ chúng ta luôn gần Chúa để Chúa có thể hướng dẫn, dạy dỗ, và bày tỏ tình thương với chúng ta. Khi con cái trưởng thành hơn, chúng bắt đầu biết vâng lời ba mẹ bởi vì chúng yêu thương ba mẹ và muốn làm hài lòng họ, không phải bởi vì chúng muốn “những thứ” cho bản thân chúng. “Vả, không có đức tin, thì chẳng hề có thế nào ở cho đẹp ý Ngài” (Hê-bơ-rơ 11:6). Chúng ta muốn giống như Chúa Giê-su và “hằng làm sự đẹp lòng Ngài” (Giăng 8:29). Phao-lô cũng đã làm như vậy: “Nhưng vì Đức Chúa Trời đã xét chúng tôi là xứng đáng giao cho việc giảng Tin Lành, nên chúng tôi cứ nói, không phải để đẹp lòng loài người, nhưng để đẹp lòng Đức Chúa Trời, là Đấng dò xét lòng chúng tôi” (I Tê-sa-lô-ni-ca 2:4). Những con dân Chúa nếu chỉ tập trung làm đẹp lòng mình và người khác mà không nghĩ đến việc phải làm sáng danh Chúa sẽ không đem lại kết quả nhiều cho vương quốc của Đức Chúa Trời.
Nếu chúng ta sống bởi đức tin, chắc chắn chúng ta sẽ được Chúa hướng dẫn mỗi ngày và Ngài ban cho chúng ta sự khôn ngoan để có những quyết định đúng đắn. “Hãy hết lòng tin cậy Đức Giê-hô-va, Chớ nương cậy nơi sự thông sáng của con; Phàm trong các việc làm của con, khá nhận biết Ngài, Thì Ngài sẽ chỉ dẫn các nẻo của con.” (Châm ngôn 3:5-6). Hãy nhớ rằng Sa-lô-môn đã không bảo chúng ta phải gạt bỏ những sự hiểu biết của mình bởi vì chính Chúa ban cho chúng ta “sự đổi mới của tâm thần mình” (Rô-ma 12:2). Điều mà Chúa mong muốn đó là chúng ta không “dựa” vào những lý lẽ của chúng ta. Sự bại trận của Giô-suê trước thành A-hi và giao ước của ông với người Ga-ba-ôn là một minh chứng về những nguy hiểm của việc quyết định cách vội vã (Giô-suê 7;9). Giô-suê phạm sai lầm bởi vì ông đã bước đi bằng mắt thấy mà không bởi đức tin, chính vì vậy ông đã không nhận được điều tốt nhất từ Đức Chúa Trời. Quả thật, ông là một chiến binh rất từng trải, nhưng điều đó không đem đến cho ông quyền được bỏ qua sự cầu nguyện và tìm cầu ý chỉ của Chúa.
Tin cậy nơi Chúa sẽ khiến cho chúng ta bình an và yên ổn giữa thế giới đầy rắc rối này. “Sự sợ loài người gài bẫy; Nhưng ai nhờ cậy Đức Giê-hô-va được yên ổn vô sự” (Châm ngôn 29:25). Vào đêm rời khỏi Ê-díp-tô, Môi-se đã không sợ đội quân của Pha-ra-ôn đang ở phía sau hay Biển Đỏ ở phía trước. Ông đáp cùng dân sự rằng: “Chớ sợ chi, hãy ở đó, rồi ngày nay xem sự giải cứu Đức Giê-hô-va sẽ làm cho các ngươi.” “Đức Giê-hô-va sẽ chiến cự cho, còn các ngươi cứ yên lặng” (Xuất 14:13-14). Những ai tin cậy Chúa sẽ còn sống cho đến khi công việc của họ trên đất được hoàn thành. Tôi rất thích thái độ tin quyết của Phao-lô khi ông viết: “Nhưng tôi sẽ ở lại thành Ê-phê-sô cho đến lễ Ngũ Tuần, vì tại đó có một cái cửa lớn mở toang ra cho công việc tôi, lại có nhiều kẻ đối địch” (I Cô-rinh-tô 16:8-9). Phao-lô rất thực tế và ông đã không coi thường những trở ngại trước mắt, nhưng ông nhấn mạnh những cơ hội và năng quyền của Đức Chúa Trời. Mười trong số mười hai thám tử người Giu-đa được sai đến đất Ca-na-an đã thấy những khó khăn cùng nan đề, nhưng Ca-lép và Giô-suê đã thấy đó là cơ hội và họ đặt đức tin vào Chúa (Dân 13-14). Bước đi bởi đức tin là phương cách để chúng ta thắng trận, nhưng bước đi bởi mắt thấy sẽ khiến chúng ta bại trận và đánh mất đi sự vinh quang Chúa.
Giống như dân Y-sơ-ra-ên trong đồng vắng khi xưa, có những người trong Hội Thánh chỉ bước đi bởi mắt thấy, họ luôn than trách và nhắc đi nhắc lại việc họ muốn “trở về Ê-díp-tô.” Ngoại trừ Giô-suê và Ca-lép, cả dòng dõi của những người Y-sơ-ra-ên không tin đó đã phải chết trong đồng vắng. Sau đó, Chúa đã dấy lên một dòng dõi mới và ban cho họ quyền năng để đắc thắng tại xứ Ca-na-an. Tôi e rằng đã có quá nhiều thế hệ phải lang thang trong đồng vắng nhiều năm trong sự vô tín trong khi họ đã có thể có được những điều Chúa hứa. Cảm ơn Chúa vì trong nhiều năm hầu việc Chúa cho các bạn thanh niên như là một nhân viên của tổ chức Youth For Christ International, chúng tôi đã phải làm việc khá nhiều và phải tự kiếm thêm trợ cấp cho mình như những nhà truyền giáo, và Chúa không bao giờ quên chúng tôi. Chúng tôi đã có những ngày biệt riêng ra cho sự cầu nguyện khi chúng tôi đóng cửa văn phòng và nhóm lại tại Hội Thánh địa phương để liên tục cầu nguyện. Tôi nhớ những buổi cầu nguyện thâu đêm tại hội nghị YFC và những hôm cầu nguyện đặc biệt khi xuất hiện các cuộc khủng hoảng không mong muốn. “Và sự thắng hơn thế gian, ấy là đức tin của chúng ta” (I Giăng 5:4).
Rô-ma 11:20 cho chúng ta biết chúng ta phải đứng vững trong đức tin, và I Tê-sa-lô-ni-ca 1:3 nói cho chúng ta biết phải hầu việc bởi đức tin. Làm sao chúng ta có thể đạt được mục tiêu khi chúng ta chạy mà không có mục đích? Chúng ta phải có đức tin để đứng vững và có đức tin để hầu việc. “Bởi đức tin, chúng ta biết” (Hê-bơ-rơ 11:3), và bởi đức tin chúng ta thấy được những thực tại vô hình của vương quốc Nước Trời (Hê-bơ-rơ 11:27). Vance Havner đã từng nói, “Bởi đức tin Môi-se đã thấy những điều không thấy được, chọn những điều bất diệt, và đã làm những điều bất khả thi” (Hê-bơ-rơ 11:23-29). Đó quả thật là một kỷ lục không tồi. Cảm tạ ơn Chúa vì tôi đã được rèn dũa tại trường Đại học và trường Thần học cùng những trải nghiệm trong chức vụ của tôi, nhưng nếu không có đức tin nơi Chúa thì có lẽ những điều quý giá đó sẽ trở nên gánh nặng cho tôi.

Đức tin lớn lên như thế nào?
Khi nói đến đức tin, Kinh Thánh cho chúng ta biết có ba trường hợp có thể xảy ra: chưa có đức tin (Mác 4:40), ít đức tin (Ma-thi-ơ 6:30; 8:26; 14:31; 16:8), và đức tin lớn (Ma-thi-ơ 8:10; Lu-ca 7:9). Thật thú vị khi người có “đức tin lớn” lại không phải là người Giu-đa! Còn “Ít đức tin” dường như là cụm từ mà Chúa thường gọi các môn đồ của Ngài. Chúa Giê-su đã dùng một đứa trẻ (Lu-ca 18:17) và một hột cải (Ma-thi-ơ 17:20) để minh họa sức tăng trưởng mạnh mẽ trong đời sống thuộc linh. Con trẻ tin cậy chúng ta ngay cả khi chúng đã trưởng thành và chúng ta không được xem thường lòng tin đó, nếu không, niềm tin đó sẽ bị tổn thương. Hột cải có sự sống trong nó, và khi được nuôi dưỡng nó sẽ lớn lên và kết trái.
Thánh Linh sử dụng chữ “đạo đức tin” (lời đức tin) (Rô-ma 10:8) để làm tăng thêm đức tin của chúng ta bởi vì “đức tin đến bởi sự người nghe, mà người ta nghe, là khi lời của Đấng Christ được rao giảng” (Rô-ma 10:17). Nhà truyền giáo Dwight L. Moody nói rằng, “Tôi đã từng nghĩ đến việc đóng quyển Kinh Thánh lại và cầu nguyện cho đức tin của mình, nhưng tôi nhận ra rằng đức tin tôi được lớn lên khi tôi suy gẫm lời Chúa.” Tôi đã từng nghe Hê-bơ-rơ 11 được gọi là “Tu viện Westminster đức tin,” nhưng tôi thắc mắc về tính chính xác của cái tên này. Tôi đã đến thăm tu viện Westminster vài lần và, ngoại trừ những du khách, thì mọi người ở đây dường như đang chết! Đức tin phải là một kinh nghiệm sống động! Tôi thấy Hê-bơ-rơ 11 giống như là “một tòa nhà vinh danh những anh hùng đức tin.” Những con người được đề cập đến trong đoạn này là những nhà quán quân Olympic, đã chứng minh cho chúng ta thấy rằng chúng ta có thể tham gia vào cuộc đua và chiến thắng mặc cho những trở ngại ở phía trước.
Chính vì vậy, nếu chúng ta muốn lớn lên trong đức tin, chúng ta phải đầu tư thời gian vào việc đọc và học Kinh Thánh cũng như suy ngẫm vào điều mà Chúa muốn dạy chúng ta. Chúng ta nên so sánh các câu trong Kinh Thánh với nhau, ghi nhớ những câu Kinh Thánh và “nghiền ngẫm chúng” cho đến khi thuộc lòng chúng. Và chúng ta phải “tiêu hóa” lẽ thật đó bằng sự vâng lời để nó trở thành một phần sống động trong chúng ta. Và nếu làm được điều đó, đức tin chúng ta sẽ lớn lên.
Cầu nguyện cũng là một cách để gây dựng đức tin. Chúa Giê-su đã cầu nguyện để đức tin của Phi-e-rơ không bị thiếu thốn và ông sẽ hối cải để làm vững chí anh em mình (Lu-ca 22:31-34). Khi chúng ta thấy Chúa đáp lời cầu xin của chúng ta, chúng ta được khích lệ để dạn dĩ cầu nguyện và tin cậy nơi lời hứa của Đức Chúa Trời. Và khi đời sống cầu nguyện chúng ta bắt đầu trì trệ và chậm chạp, hãy kêu cầu Chúa. Trong Lu-ca 11:9, chúng ta có lời hứa, “Ta lại nói cùng các ngươi: Hãy xin, sẽ ban cho; hãy tìm, sẽ gặp; hãy gõ cửa, sẽ mở cho.” Chúa không phải lặp đi lặp lại điều Ngài nói, bởi vì mỗi mạng lệnh mang một sự chúc phước cách đặc biệt. Hãy xin nhắc đến sự giàu có của Cha chúng ta, hãy tìm hàm ý về ý chỉ và chương trình của Cha, và hãy gõ cửa nói đến công việc của Cha. (Mở cửa trong Kinh Thánh tượng trưng cho cơ hội để sống phục vụ và tận hiến, như I Cô-rinh-rô 16:8-9). Chúng ta có quyền nhận lấy sự giàu có của Cha chúng ta miễn là chúng ta làm theo ý muốn Cha và hết sức làm công việc Cha giao phó, cho dù sự kêu gọi của chúng ta là gì.
Bằng việc đọc Kinh Thánh, những tiểu sử cùng những lời chứng của những anh hùng đức tin, tôi đã học được rằng, Cha chúng ta thích thử nghiệm và khổ luyện chúng ta để rèn luyện và trau dồi đức tin chúng ta trở nên toàn vẹn. Gia-cơ gọi điều này là “sự thử thách đức tin” (Gia-cơ 1:3). Một đức tin không được thử nghiệm thì không thể trông cậy được. Tôi không biết liệu có một đầy tớ Chúa nào được Đức Chúa Trời chúc phước một cách đặc biệt mà không phải trải qua những khó khăn cùng sự thử nghiệm – kể cả Chúa Giê-su yêu dấu của chúng ta. Ngài đã bảo với các môn đồ “Các ngươi sẽ có sự hoạn nạn trong thế gian, nhưng hãy cứ vững lòng, ta đã thắng thế gian rồi!” (Giăng 16:33). Không cần biết đến những người được họ chúc phước, nhiều tôi tớ được Đức Chúa Trời lựa chọn đã phải sống với những đau đớn tổn thương trong đời sống cá nhân mà vẫn tiếp tục hầu việc Chúa. Suốt nhiều năm hầu việc Chúa tự do, tôi có đặc ân được hầu việc Chúa với mọi người và đã ngạc nhiên kinh khủng về những “cái giằm xóc vào thịt” của họ – và họ ở xung quanh tôi.
Tôi nhớ đến một vị Mục sư đã đến thăm một tín đồ ở bệnh viện sau khi cô ấy trải qua một ca phẫu thuật hết sức phức tạp và đầy nguy hiểm. Cô ta hỏi ông, “Tại sao Chúa lại để tôi thế này?” Ông đáp lại cách nhẹ nhàng, “Ngài vẫn chưa hoàn thành chương trình của Ngài trên cô, Chúa vẫn còn đang thực hiện điều đó trên cô và cả trên tôi, và Ngài biết rõ điều mà Ngài đang làm.” Và cô ấy đã hiểu được điều đó. Khi đọc sách Gióp, các bạn thấy một người đầy kinh nghiệm và đưa ra những thắc mắc về Đức Chúa Trời, và rất ít trong số những câu hỏi đó được thỏa đáp. Nhưng Gióp đã khám phá ra rằng, những người con của Đức Chúa Trời không phải chỉ sống dựa vào những lời giải thích, nhưng là dựa vào lời hứa. “Nhưng Chúa biết con đường tôi đi; Khi Ngài đã thử rèn tôi, tôi sẽ ra như vàng” (Gióp 23:10). Phi-e-rơ chắc hẳn đã rất rõ điều này khi ông viết, “Hỡi kẻ rất yêu dấu, khi anh em bị trong lò lửa thử thách, chớ lấy làm lạ như mình gặp một việc khác thường. Nhưng anh em có phần trong sự thương khó của Đấng Christ bao nhiêu, thì hãy vui mừng bấy nhiêu, hầu cho đến ngày vinh hiển của Ngài hiện ra, thì anh em cũng được vui mừng nhảy nhót” (I Phi-e-rơ 4:12-13). Bị đối đãi theo cách mà Chúa Giê-su đã bị, đó rõ ràng là một đặc ân! Phao-lô đã gọi đó là “sự thông công thương khó của Ngài” (Phi-líp 3:10).
Giô-sép đã trải qua sự căm ghét cùng lừa dối trong gia đình mình, sự dối trá và đau đớn về thân xác ở Ai-Cập, bị chia cắt với cha cùng các anh em yêu dấu của mình. Nhưng Giô-sép biết rõ chìa khóa của những điều xảy ra trong cuộc đời ông chính là: “Đức Chúa Trời lại toan làm điều ích cho tôi” (Sáng 50:20). Có lẽ bạn sẽ nghĩ rằng Giô-sép đã đọc được Rô-ma 8:28!
Khi chúng ta bắt đầu cầu nguyện, “Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng tôi” (Lu-ca 17:5), chúng ta nên tìm kiếm lời Chúa, vào phòng riêng đóng cửa lại và cầu nguyện với Chúa cách riêng tư, và khi đã làm điều đó rồi hãy chờ đợi để trải nghiệm những hoạn nạn thử thách phía trước, bởi vì đó là cách duy nhất để Đức Chúa Trời đáp lời cầu nguyện của chúng ta. Chúa Giê-su “cũng đã học tập vâng lời bởi những sự khốn khổ mình đã chịu” (Hê-bơ-rơ 5:8), và chúng ta sẽ như vậy.
“Vả, tôi tưởng rằng những sự đau đớn bây giờ chẳng đáng so sánh với sự vinh hiển hầu đến, là sự sẽ được bày ra trong chúng ta” (Rô-ma 8:18).
“Và sự thắng hơn thế gian – ấy là đức tin của chúng ta” (I Giăng 5:4).

Chương 3
Một Đời Sống Vâng Phục
Ấy vậy, hỡi những kẻ rất yêu dấu của tôi, như anh em đã vâng lời luôn luôn, …, mà lấy lòng sợ sệt run rẩy làm nên sự cứu chuộc mình. Vì ấy chính Đức Chúa Trời cảm động lòng anh em vừa muốn vừa làm theo ý tốt Ngài.
Phi-líp 2:12-13
Những ai không học tập vâng lời sẽ khó làm bất cứ điều gì hữu ích và lâu dài được. Và những ai không học cách tuân thủ nội quy sẽ khó có thể được lựa chọn để đề ra nội quy cho người khác. Oswald Chambers đã viết “Vâng lời trong 5 phút thì ích lợi hơn 10 năm học”, và Chúa Giê-su đồng ý điều đó. “Nếu ai khứng làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời, thì sẽ biết đạo lý ta có phải là bởi Đức Chúa Trời, hay là ta nói theo ý ta” (Giăng 7:17). Một khao khát được biết và sẵn sàng vâng phục là yếu tố cơ bản đầu tiên để học biết lẽ thật và nhận biết ý muốn của Đức Chúa Trời. Không có sự thay thế nào khác ngoài sự vâng lời, giống như vị vua bất tuân Sau-lơ đã học được điều đó từ tiên tri Sa-mu-ên. Sa-mu-ên nói: “Đức Giê-hô-va há đẹp lòng của lễ thiêu và của lễ thù ân bằng sự vâng theo lời phán của Ngài ư? Vả, sự vâng lời tốt hơn của tế lễ; sự nghe theo tốt hơn mỡ chiên đực” (I Sa-mu-ên 15:22). Khi quay lưng với ý chỉ của Đức Chúa Trời, Sau-lơ đã đánh mất ngôi vị và ngay cả mạng sống của mình. “Ta đến mau kíp; hãy giữ lấy điều ngươi có, hầu cho không ai cất lấy mão triều thiên của ngươi” (Khải Huyền 3:11).
Đức Chúa Trời đã tạo nên nhiều quy luật cơ bản trong vũ trụ này. Và nếu chúng ta tuân thủ những quy luật đó, chúng sẽ vận hành theo ý muốn chúng ta và giúp chúng ta thành công; còn nếu không, chúng sẽ chống lại chúng ta và thậm chí có thể hủy diệt chúng ta. Dù đó là nhà hóa học trong phòng thí nghiệm, bác sĩ phẫu thuật ở trong phòng mổ, hay là nhà du hành ở trong tàu vũ trụ, thì vâng theo những định luật cơ bản là bí quyết của sự thành công. Trong đời sống Cơ Đốc Nhân cũng vậy, có những đường lối chánh đáng (theo ý muốn Đức Chúa Trời) và những con đường sai lệch (theo tư dục chúng ta), và chúng ta phải lựa chọn. C.S Lewis đã nhắc nhở chúng ta rằng, tại phiên tòa phán quyết cuối cùng, số phận của chúng ta sẽ được xác định rõ ràng bởi việc chúng ta đã nói với Chúa “Xin ý Cha được nên” hay “Để ý tôi được thành” trong cuộc sống này.
Hai Yếu Tố Cơ Bản: Quyền Tể Trị Tối Cao Của Chúa và Trách Nhiệm Loài Người.
Từ lúc tạo dựng trời đất được chép trong sách Sáng Thế Ký 1 đến sự miêu tả về trời mới, đất mới ở Khải Huyền 21-22, Đức Chúa Trời của chúng ta đã bày tỏ quyền tối cao của Ngài trên muôn vật. Khi xưng Chúa là “Đấng Tối Cao” chúng ta đang đặt Chúa ở vị trí trên cả mọi vật và thừa nhận quyền tể trị hoàn toàn của Ngài trên mọi vật. Tác giả Thi Thiên 115 đã nhạo báng hình tượng và ca tụng sự vĩ đại không sao tả xiết của Đức Chúa Trời mà chúng ta đang thờ phượng. Ông đã viết: “Đức Chúa Trời chúng tôi ở trên các từng trời; Phàm điều gì vừa ý Ngài, thì Ngài đã làm” (Thi Thiên 115:3). Đức Chúa Trời chúng ta là Đấng toàn năng, toàn quyền, toàn tại, và Ngài có quyền làm bất cứ điều gì Ngài muốn mà không cần ai cố vấn hay tán thành. Ngài chính là “Vua muôn đời, không hề hư nát, không thấy được, tức là Đức Chúa Trời có một mà thôi!” (I Ti-mô-thê 1:17).
Thật là quan trọng để nhận thức rõ rằng, Chúa có quyền làm mọi điều Ngài muốn nơi Thiên Đàng, trên trái đất, và bên dưới đất. Ngài đã tạo dựng nên chúng ta theo hình ảnh của Ngài, điều đó có nghĩa là chúng ta có khả năng suy nghĩ, cảm nhận, quyết định, và hành động. Khi Chúa đặt tổ phụ đầu tiên của chúng ta ở trong vườn Ê-đen, Ngài đã nói với họ điều gì phải làm và điều gì không, sau đó Ngài để họ tự do trong sự cai quản và vui thỏa. Chúa của chúng ta rất tuyệt vời vì Ngài cho phép họ được tự do lựa chọn. Và nếu quyết định sai, họ sẽ nhận lấy hậu quả, nhưng Đức Chúa Trời vẫn có thể hoàn thành chương trình vĩ đại của Ngài. Nếu chúng ta không được Chúa giao cho trách nhiệm, chúng ta sẽ giống như những con rô-bốt (người máy). Khi ban cho chúng ta quyền tự do để lựa chọn, Chúa cho phép chúng ta học qua những kinh nghiệm, lớn lên trong sự hiểu biết, hình thành tính cách, cùng những khả năng, để yêu và vâng phục Ngài bởi vì chúng ta muốn, chứ không bởi vì chúng ta bị ép buộc. (Tôi sẽ nói nhiều hơn về sự tự do trong chương 14).
Đức Chúa Trời đã tạo dựng Thiên Đàng và trái đất mà không cần đến sự giúp đỡ của chúng ta, nhưng Ngài cho phép con người được dự phần với Ngài trong sự cai quản và làm trọn mục đích tốt lành của Ngài trên thế giới này. A-đam và Ê-va đã làm việc ở trong vườn. Cùng con trai họ Ca-in là nông dân và em mình A-bên là người chăn chiên. Quyền tể trị của Đức Chúa Trời và trách nhiệm của loài người đi đôi với nhau vì sự vinh hiển của Đức Chúa Trời và lợi ích của loài người. Bởi vì “chính Đức Chúa Trời cảm động lòng anh em vừa muốn vừa làm theo ý tốt Ngài” (Phi-líp 2:13). Chúa rất vui khi những đứa trẻ của Ngài vâng phục Ngài với tình yêu cùng sự vui thỏa. “Hỡi Đức Chúa Trời tôi, tôi lấy làm vui mừng làm theo ý muốn Chúa, Luật pháp Chúa ở trong lòng tôi” (Thi Thiên 40:8).
Hai Con Người: A-đam và Chúa Giê-su.
Phân đoạn chủ đạo ở đây chính là Rô-ma 5:12-21, Phao-lô đã so sánh hai hình ảnh trái ngược là A-đam đầu tiên, đã bất tuân mạng lệnh Chúa khiến hết thảy mọi người đều mang nguyên tội trong mình, và A-đam cuối cùng, là Chúa Giê-su Christ (I Cô-rinh-tô 15:45), đã vâng phục để đem đến sự cứu rỗi cho thế giới hư mất này. Khi bạn đọc phân đoạn này, bạn thấy quen thuộc với bốn thế lực chính: sự cai trị của tội lỗi (Rô-ma 5:21) và do đó dẫn đến sự thống trị của cái chết (Rô-ma 5:14,17), vì “tiền công của tội lỗi là sự chết” (Rô-ma 6:23), và bởi vì ân điển của Đức Chúa Trời cũng cai trị bởi Đức Chúa Giê-su Christ, là Chúa chúng ta (Rô-ma 5:21), hễ những ai tin nhận Đấng Christ sẽ nhờ Ngài “cai trị trong sự sống” mình. (Rô-ma 5:17). Vậy bạn có đang được Ngài cai trị?
Trong một khóa bồi linh tôi đã học biết rằng, Chúa Giê-su là Đấng Tiên Tri trên đất này, khi về trời Ngài trở nên một Thầy Tế Lễ. Và một ngày sắp đến Ngài sẽ trở lại và cai trị như một vị Vua. Thế nhưng tôi đã khám phá ra rằng ngày hôm nay Chúa Giê-su Christ cũng là vị Vua và Thầy Tế Lễ! Theo Hê-bơ-rơ 6:20, Ngài là “Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm đời đời, theo ban Mên-chi-xê-đéc.” (Bạn sẽ tìm thấy sự thật thú vị này được giải thích trong Hê-bơ-rơ 7-8). Những ai là con dân Chúa thì có Đức Thánh Linh là Đấng Cầu Thay ở trong lòng (Rô-ma 8:26-27) và Chúa Giê-su là Đấng Cầu Thay cho họ ở nơi Thiên Đàng (Hê-bơ-rơ 7:25). Sáng Thế Ký 14:18-24 giải nghĩa rằng, Mên-chi-xê-đéc vừa là vua vừa là thầy tế lễ. Tên ông có nghĩa là “Vua công bình” và ông là Vua Sa-lem, nghĩa là “bình an”. Chức vụ Vua, Thầy Tế Lễ cùng sự ban cho công bình và bình an được hiệp nhất trong một Đấng duy nhất đó là Đấng Christ, Ngài là Vua và Thầy Tế Lễ cũng là Đấng Công Bình và Bình An của chúng ta. (Thi-Thiên 85:10; Ê-sai 32:17-18; Rô-ma 5:1). A-đam đầu tiên đã bất tuân Đức Chúa Trời và mang tội lỗi, sự xung đột, cùng cái chết vào trong thế giới, nhưng Đức Chúa Giê-su Christ đã “vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên cây thập tự” (Phi-líp 2:8) để mang sự công bình cùng bình an của sự cứu rỗi cho nhân loại.
Chúng ta hãy nghĩ đến Chúa Giê-su như một vị Vua. Ngài đã đến thế gian này và can đảm đương đầu với kẻ thù địch. Một mình Ngài đã đối mặt với Sa-tan trong đồng vắng và đắc thắng mọi cám dỗ (Ma-thi-ơ 4:1-11). Bởi vì Ngài đã đắc thắng, nên Chúa Giê-su có thể giúp chúng ta đánh bại mọi cám dỗ. Trải qua ba năm chức vụ, Chúa Giê-su đã vạch trần những lời nói dối của Sa-tan; giải cứu những ai đang ở dưới ách của Sa-tan về bệnh tật, nô lệ, những ngăn trở, thậm chí là cái chết; và trên thập tự giá, Ngài đã đánh bại nó một lần đủ cả (Giăng 12:31-32; Cô-lô-se 2:15). Qua sự chết của Ngài, sự Phục Sinh, và sự Thăng Thiên, Chúa Giê-su tuyên bố Ngài đã đắc thắng và chúng ta “nhờ Đấng yêu thương mình mà thắng hơn bội phần” (Rô-ma 8:37). Vua chúng ta được tôn cao ở nơi Thiên Đàng và làm cho chúng ta đồng sống lại và đồng ngồi trong các nơi trên trời trong Đức Chúa Giê-su Christ (Ê-phê-sô 2:4-10). Quân lính của Hê-rốt đã nhạo báng địa vị làm Vua của Chúa chúng ta bằng việc choàng cho Ngài một cái áo điều, để một cái sậy trong tay hữu Ngài và bện một cái mão bằng gai mà đội trên đầu Ngài (Ma-thi-ơ 27:27-31). Nhưng trên Thiên Đàng ngày hôm nay, những sự chế nhạo và khinh thường đó đã trở nên sự tôn nghiêm và uy quyền! Chúa Giê-su Christ là Chúa và Ngài mặc lấy sự vinh quang, đội mão triều vinh hiển, và nắm trong tay “một quyền bính ngay thẳng” (Thi-Thiên 45:6). Ngài là “Đấng làm chứng thành tín, sinh đầu nhứt từ trong kẻ chết và làm Chúa của các vua trong thế gian!… và làm cho chúng ta nên nước Ngài, nên thầy tế lễ của Đức Chúa Trời là Cha Ngài” (Khải Huyền 1:5-6). Quả thật là một đặc ân khi “Chúa thể nào thì chúng ta cũng thể ấy trong thế gian nầy” (I Giăng 4:17).
Con người A-đam đầu tiên đã trở nên như một kẻ trộm, hái lấy trái cấm, ăn và bị đuổi ra khỏi vườn Ê-đen. Nhưng Chúa Giê-su Christ, là A-đam cuối cùng, đã chịu treo trên thập tự giá, quay sang một tên trộm cướp và nói rằng, “Quả thật, ta nói cùng ngươi, hôm nay ngươi sẽ được ở với ta trong nơi Ba-ra-đi” (Luca 23:43). Ha-lê-lu-gia, Ngài thật là Đấng Cứu Chuộc!
Hai Ý Muốn.
Chiến trường thuộc linh của một đời sống Cơ Đốc, đó chính là Đức Chúa Cha và thế gian (I Giăng 2:15-17), Đức Chúa Con và vua chúa của thế gian này (Giăng 12:31-33), cùng Đức Thánh Linh và những điều ưa muốn của xác thịt, là bản tính tội lỗi được di truyền từ A-đam (Ga-la-ti 5:16-26). Vấn đề cơ bản chính là ý muốn của Đức Chúa Trời: chúng ta có sẵn sàng đầu phục Đức Chúa Trời hay cùng với kẻ thù và bất tuân mạng lệnh Chúa? Thế gian nói rằng, “Nếu Đức Chúa Cha thật sự yêu ngươi, Ngài sẽ cho ngươi tận hưởng mọi ham muốn của thế gian này!” Ma quỷ sẽ nói rằng, “Đức Chúa Trời đã tạo nên ngươi với những ham muốn nhất định, tại sao phải gạt bỏ nó? Xét cho cùng, thì ngươi cũng chỉ là con người!” Những điều ưa thích của xác thịt đối nghịch với Đức Thánh Linh và muốn chúng ta phải sản sinh ra những việc làm của xác thịt, chứ không phải là bông trái của Thánh Linh.
Hầu hết những Cơ Đốc Nhân không đột ngột lao mình vào những tham muốn đời này; nhưng, họ buông mình trở lại nếp sống cũ một cách từ từ và đôi khi họ thậm chí không biết điều gì đang xảy ra. Đầu tiên họ làm bạn với thế gian (Gia-cơ 4:4) và dần dần họ bắt đầu bị “vẫn đục” (ô uế) bởi thế gian (Gia-cơ 1:27). Nếu họ không ăn năn và trở về với Chúa, họ sẽ yêu mến thế gian (I Giăng 2:15) và làm theo đời này (Rô-ma 12:2). Họ thỏa hiệp với thế gian khi xem thường lời cảnh báo của lời Đức Chúa Trời trong Thánh Kinh hay sự sửa phạt của Ngài (Hê-bơ-rơ 12:1-11), và ngày đến khi họ sẽ thấy chính mình bị án làm một với những người thế gian (I Cô-rinh-tô 11:32). Kinh Thánh ghi lại những kết cục bi thảm của những người tin Chúa “sẽ được cứu, song dường như qua lửa vậy.” (I Cô-rinh-tô 3:13-15). Tôi suy nghĩ đến Lót và gia đình của ông (Sáng Thế Ký 13:11-13; 19:1-29; II Phi-e-rơ 2:7-8), gia quyến và hết thảy phe Cô-rê (Dân Số Ký 16), Sam-sôn (Các Quan Xét 13-15), A-na-nia và Sa-phi-ra (Công Vụ 5), cùng Đê-ma (II Ti-mô-thê 4:10). Suốt những năm trong chức vụ, tôi đã hơn một lần rất đau lòng về những Cơ Đốc Nhân đã từng có lời làm chứng rất xúc động nhưng dần dần bị lôi cuốn trở về nếp sống cũ, và mỗi ngày tôi đã cầu nguyện cho chính bản thân mình, “Lạy Chúa, xin giúp con trung tín cho đến cuối cùng.”
Nuôi dưỡng một thái độ chống lại ý muốn của Đức Chúa Trời là bước đầu dẫn đến sự tuyệt vọng và bị đánh bại. Ý chỉ của Chúa không phải là xiềng xích (Thi Thiên 2:3) mà là sợi dây ràng buộc của tình yêu (Ô-sê 11:4). Ý chỉ của Ngài không phải là hàm khớp và dây cương (Thi Thiên 32:8-9) nhưng đó là sự huyền bí của tự do trong vui thỏa. “Tôi cũng sẽ bước đi thong dong, Vì đã tìm kiếm các giềng mối Chúa” (Thi Thiên 119:45). Đức Chúa Trời muốn chúng ta biết ý muốn Chúa (Công Vụ 22:14), vâng theo ý muốn Ngài bằng tấm lòng của mình (Ê-phê-sô 6:6), hiểu rõ (Ê-phê-sô 5:7), và vui mừng trong ý muốn Ngài (Thi Thiên 40:8). Ý chỉ của Chúa không phải là một bữa tiệc buffet tối để chúng ta chọn những thứ chúng ta thích. Ý chỉ của Ngài là những món ăn giàu dưỡng chất được dọn sẵn đặc biệt cho chúng ta, và chúng ta phải nhận lấy nó. Đức Chúa Giê-su phán rằng: “Đồ ăn của ta tức là làm theo ý muốn của Đấng sai ta đến, và làm trọn công việc Ngài” (Giăng 4:34). Ý muốn của Đức Chúa Trời không phải là để trừng phạt nhưng là để nuôi dưỡng. Ý muốn của Đức Chúa Trời là bày tỏ tình yêu đến những đứa con yêu dấu của Ngài, là một lời mời gọi đến sự sống sung mãn và kết quả. “Mưu của Đức Giê-hô-va được vững lập đời đời, Ý tưởng của lòng Ngài còn đời này sang đời kia” (Thi Tiên 33:11). Ý muốn Ngài đến từ tấm lòng của Ngài.
Kế hoạch mà Đức Chúa Trời dành cho chúng ta đã được định trước khi chúng ta có thể nghĩ đến hay được sinh ra (Thi Thiên 139:13-16; Giê-rê-mi 1:5). Với tình yêu, Chúa đã trang bị cho chúng ta những công cụ cần thiết để phục vụ Ngài. Hơn thế nữa, Chúa đã chuẩn bị sẵn những công việc mà Ngài muốn chúng ta làm! “Vì chúng ta là việc Ngài làm ra, đã được dựng nên trong Đức Chúa Giê-su Christ để làm việc lành mà Đức Chúa Trời đã sắm sẵn trước cho chúng ta làm theo” (Ê-phê-sô 2:10). Lời cầu nguyện của tôi là một ngày nào đó tôi có thể đứng trước mặt Cha và nói điều mà Chúa Giê-su đã nói trong lời cầu nguyện của Ngài: “Con đã tôn vinh Cha trên đất, làm xong công việc Cha giao cho làm” (Giăng 17:4). Cuộc sống chúng ta không phải là những sự tình cờ nhưng là sự xếp đặt một cách tuyệt vời, và nếu chúng ta vâng theo tiếng Chúa, Ngài sẽ giúp chúng ta làm trọn chức vụ mà Ngài đã giao phó cho chúng ta (II Ti-mô-thê 4:7-8).
Sự vâng phục được thúc đẩy bởi tình yêu mà chúng ta dành cho Chúa (Giăng 14:15,21; 15:10,14), cùng sự tôn quý và kính sợ Chúa. “Các ngươi phải theo Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi, kính sợ Ngài, gìn giữ các điều răn Ngài, vâng nghe tiếng phán Ngài, phục sự Ngài và tríu mến Ngài” (Phục Truyền 13:4). Nếu chúng ta nói với những người lạc mất rằng một ngày nào đó Đức Chúa Trời sẽ phán xét họ, và lời tuyên bố sau là có thật: nhưng Chúa sẽ xét đoán dân sự Ngài nếu họ vẫn ngoan cố không vâng phục Ngài! Thi Thiên 50:4 chép rằng, “Ngài kêu các từng trời trên cao, Và đất ở dưới đặng đoán xét dân sự Ngài.” Câu Kinh Thánh này được trích ở trong Hê-bơ-rơ 10:30 và cũng áp dụng cho những người tin Chúa ngày hôm nay. Có sự vui mừng khi chúng ta được hầu việc Chúa, nhưng chúng ta cũng nên lưu ý Thi Thiên 2:11: “Khá hầu việc Đức Giê-hô-va cách kính sợ; Và mừng rỡ cách run rẫy.”
Chúa Giê-su nói: “Nếu ai khứng làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời, thì sẽ biết đạo lý ta có phải là bởi Đức Chúa Trời, hay là ta nói theo ý ta” (Giăng 7:17). Học giả người Hy Lạp gốc Anh Henry Alford đã dịch câu Kinh Thánh này như sau, “Nếu ai sẵn sàng làm theo ý muốn Đức Chúa Trời, người ấy sẽ biết những điều ta dạy.” Một thái độ sẵn sàng đầu phục Cha là yếu tố đầu tiên để biết và làm theo ý muốn Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời không muốn bày tỏ ý muốn Chúa cho chúng ta để chúng ta đồng ý hay tán thành, nhưng là mệnh lệnh cho chúng ta vâng theo.
Hai Dân Tộc.
Chỉ duy nhất một dân tộc có lịch sử lâu đời nhất từ khi bắt đầu đến khi kết thúc đó chính là Y-sơ-ra-ên, và ngày hôm nay đó cũng là quốc gia duy nhất trên trái đất được Đức Chúa Trời lập giao ước cùng. Những người Mỹ yêu nước thích nghĩ rằng Hoa Kỳ là một “dân giao ước” bởi những tiền bối Cơ Đốc đi trước, nhưng đó không phải là sự thật. Chỉ có duy nhất một “dân giao ước” khác nữa trong thế giới ngày hôm nay đó chính là Hội Thánh, bởi vì Chúa đã lập một “giao ước mới” với những ai tin nhận Ngài (Ma-thi-ơ 26:26-29). Chúa Giê-su nói điều này rất rõ trong Ma-thi-ơ 21:43, “Bởi vậy, ta phán cùng các ngươi, nước Đức Chúa Trời sẽ cất khỏi các ngươi (Y-sơ-ra-ên), và cho một dân khác là dân sẽ có kết quả của nước đó (Hội Thánh).” Phi-e-rơ đã viết cho những Cơ Đốc Nhân ngày hôm nay, “Nhưng anh em là dòng giống được lựa chọn, là chức thầy tế lễ nhà vua, là dân thánh, là dân thuộc về Đức Chúa Trời” (I Phi-e-rơ 2:9). Hội Thánh chính là “dân thánh” đã được gọi để trở thành quốc gia của Phúc Âm.
Chúa đã biệt riêng dân tộc Y-sơ-ra-ên để hoàn thành mục đích vĩ đại của Ngài: đó là làm bằng chứng về một Đấng sống và có thật, là nơi mà Đấng Cứu Thế của lời hứa được sinh ra (“sự cứu rỗi bởi người Giu-đa mà đến” Giăng 4:22), hình thành nên Hội Thánh đầu tiên, và viết nên Kinh Thánh. Chúa cũng biệt riêng Hội Thánh Chúa như là một dân tộc thánh để đến với các dân tộc khác. Y-sơ-ra-ên đã thất bại trong việc vâng lời Đức Chúa Trời và thay vào đó họ bắt chước những dân tộc tội lỗi xung quanh mình, chính vì vậy họ đã đánh mất những ơn phước mà Đức Chúa Trời dành cho. Hội Thánh ngày hôm nay không được làm theo đời này (Rô-ma 12:2) nhưng phải công bố và bày tỏ về Tin Lành của Chúa Giê-su Christ. Nếu chúng ta vâng theo Chúa, Ngài sẽ dùng chúng ta đến với những người xung quanh; nhưng nếu chúng ta thỏa hiệp với thế gian, Ngài sẽ không đáp lời cầu nguyện hay chúc phước cho chức vụ của chúng ta.
Chúng ta là công dân ở trên trời (Phi-líp 3:20), tên của chúng ta được ghi trên thiên đàng (Lu-ca 10:20), và chúng ta là “những người kiều ngụ” tại thế gian này (I Phi-e-rơ 1:1). Một người lánh nạn thì rời khỏi quê hương, một người lang thang thì không có nhà, một người khách lạ thì xa quê hương, nhưng một người kiều ngụ thì luôn hướng về quê hương mình. Với quyền công dân 2 quốc tịch này buộc chúng ta phải nhìn thế gian với quan điểm của Thiên Đàng. “Vậy nếu anh em được sống lại với Đấng Christ, hãy tìm các sự ở trên trời, là nơi Đấng Christ ngồi bên hữu Đức Chúa Trời. Hãy ham mến các sự ở trên trời, đừng ham mến các sự ở dưới đất” (Cô-lô-se 3:1-2). Nhưng nếu khi nào chúng ta bắt đầu nhìn những điều thuộc về Đấng Christ với cái nhìn của thế gian, chúng ta đã bước đi bước đầu tiên xa rời ơn phước mà Đức Chúa Trời muốn dành cho chúng ta.
Là công dân của một nước thì sẽ nói tiếng của nước đó, tuân theo luật pháp của nước đó, và cố gắng làm cho đất nước mình được hãnh diện. Cũng giống như vậy, là công dân của Nước Trời, chúng ta không thể hổ thẹn khi nói về lẽ thật của Nước Trời, vâng theo luật pháp của Nước Trời, bảo vệ danh tiếng cho Nước Trời, và làm mọi thứ để mang lại vinh hiển cho Đức Chúa Trời Ba Ngôi hiện đang ngự trị nơi Thiên Đàng.
“Ấy vậy, hỡi những kẻ rất yêu dấu của tôi, như anh em đã vâng lời luôn luôn, chẳng những khi tôi có mặt mà thôi, lại bây giờ là lúc tôi vắng mặt, hãy càng hơn nữa, mà lấy lòng sợ sệt run rẩy làm nên sự cứu chuộc mình. Vì ấy chính Đức Chúa Trời cảm động lòng anh em vừa muốn vừa làm theo ý tốt Ngài” (Phi-líp 2:12-13).
Chúng ta vâng lời Đức Chúa Trời và phục vụ Ngài bởi vì Ngài đã làm những việc lành trong chúng ta và qua chúng ta Ngài làm thành ý định của Ngài. Vâng phục ý muốn của Đức Chúa Trời không phải là một việc làm ngẫu nhiên hay vô nghĩa nhưng là một chức vụ thánh mà Chúa giao phó, và nếu tuân theo, chúng ta sẽ làm vinh hiển danh Đức Chúa Trời.
“Ý Cha được nên, ở đất như trời!” (Ma-thi-ơ 6:10).
“Tôi thưa rằng: Có tôi đây; xin hãy sai tôi” (Ê-sai 6:8).

Chương 4
Một Đời Sống Đắc Thắng
Vả lại, anh em phải làm mạnh dạn trong Chúa, nhờ sức toàn năng của Ngài. Hãy mang lấy mọi khí giới của Đức Chúa Trời, để được đứng vững mà địch cùng mưu kế của ma quỷ.
Ê-phê-sô 6:10-11
Ngay khi Chúa Giê-su, Chiên Con của Đức Chúa Trời, chịu phép Báp-têm ở sông Giô-đanh bởi Giăng Báp-tít, thì có tiếng phán ngợi khen từ trời bởi Đức Chúa Cha, Ngài được Đức Thánh Linh ban cho quyền phép, và sau đó được đưa vào đồng vắng để chịu ma quỷ cám dỗ (Ma-thi-ơ 4:1-11). Cuộc đối đầu với ma quỷ vẫn tiếp tục suốt những năm chức vụ công khai của Chúa và đỉnh điểm chính là chiến thắng của Đấng Christ qua sự chịu chết, sự phục sinh, và thăng thiên của Ngài. Ngày hôm nay, Đấng Christ đã chiến thắng và được tôn lên làm Vua cách vinh hiển. Chúng ta nên vui mừng vì Chúa Giê-su “cao hơn hết mọi quyền, mọi phép, mọi thế lực, mọi quân chủ cùng mọi danh vang ra” (Ê-phê-sô 1:21), và chúng ta nên đáp lời mời gọi của Ngài để đem sự đắc thắng đó của Ngài đến những người xung quanh. Ngày hôm nay, Sa-tan đang ở trong cuộc chiến với Hội Thánh của Chúa Giê-su Christ và nó biết thời giờ mình còn chẳng bao nhiêu (Khải Huyền 12:12).
Tuy nhiên, nhiều Cơ Đốc Nhân ngày hôm nay đang sống như thể họ đang ở trong một sân chơi, chứ không phải là một trận chiến. Họ quên mất (hoặc có thể đã chưa bao giờ biết) rằng Chúa Giê-su đã cảnh báo với các môn đồ của Ngài, “Các ngươi sẽ có sự hoạn nạn trong thế gian” (Giăng 16:33), và sứ đồ Phao-lô đã viết rằng: “Vả lại, hết thảy mọi người muốn sống cách nhân đức trong Đức Chúa Giê-su Christ, thì sẽ bị bắt bớ” (II Ti-mô-thê 3:12). Chúa Giê-su đã bị vu oan, nhạo báng, bị hăm dọa, bị đánh, và chịu đóng đinh bởi chính quyền và các lãnh đạo tôn giáo lúc bấy giờ, và Phao-lô đã viết rằng những ai là Cơ Đốc Nhân thật phải chia xẻ “sự thông công thương khó của Ngài” (Phi-líp 3:10). Trong sách Tin Lành Giăng, ông đã mô tả về những tranh chiến của Chúa rất sống động và sau đó ông đã viết điều đó gửi cho Hội Thánh trong thơ thứ nhất của ông. Phần kết, ông cũng miêu tả một cách rất rõ ràng cuộc chiến kinh khủng trong sách Khải Huyền – giữa Đấng Christ và Anti-Christ, Thành Giê-ru-sa-lem mới với Ba-by-lôn, cùng Chiên Con của Đức Chúa Trời và con thú.
Quả thật, một ngày nào đó Đức Chúa Trời sẽ đoán xét thế gian, nhưng trước hết, sự phán xét sẽ khởi “từ nhà Đức Chúa Trời” (I Phi-e-rơ 4:17). Trong thơ gởi cho bảy Hội Thánh (Khải Huyền 2-3), Chúa Giê-su kêu gọi con dân Ngài hãy sống đắc thắng, nhưng những Cơ Đốc Nhân ngày hôm nay sống một đời sống buông thả và bị lấp đầy bởi những điều không xứng đáng. Nói một cách thẳng thắn, chúng ta đã không chuẩn bị để chiến trận. Có quá nhiều người tự xưng mình là Cơ Đốc Nhân ngày hôm nay đang sinh hoạt bên trong hay ngoài Hội Thánh Tin Lành đều không sẵn sàng để đối mặt với những bức hại hay chống đối đang đến. Phi-e-rơ đã nói về điều này như sau:
“Hỡi kẻ rất yêu dấu, khi anh em bị trong lò lửa thử thách, chớ lấy làm lạ như mình gặp một việc khác thường. Nhưng anh em có phần trong sự thương khó của Đấng Christ bao nhiêu, thì hãy vui mừng bấy nhiêu, hầu cho đến ngày vinh hiển của Ngài hiện ra, thì anh em cũng được vui mừng nhảy nhót. Ví bằng anh em vì cớ danh Đấng Christ chịu sỉ nhục, thì anh em có phước; vì sự vinh hiển và Thánh Linh của Đức Chúa Trời đậu trên anh em” (I Phi-e-rơ 4:12-14).
Và lò lửa thử thách đó đã đến với Phi-e-rơ trong những ngày hoạn nạn khó khăn của đời ông, nếu điều đó đến trong những ngày sau này, thì con dân Chúa phải chuẩn bị sẵn sàng. Phi-e-rơ đã khuyên chúng ta phải trang bị những vũ khí thuộc linh với cùng một cách mà Chúa Giê-su đã có khi Ngài đối đầu với kẻ thù nghịch và chịu chết trên thập tự giá (I Phi-e-rơ 4:1-2). Với cách nhìn đó sẽ giúp chúng ta thấy được kết quả chung cuộc, và nếu cách nhìn và quan điểm của chúng ta không thật tỉnh táo và theo lời Thánh Kinh thì chúng ta sẽ gặt lấy những hậu quả bi thảm.
Trong chương này, tôi muốn nói đến sự trang bị cần thiết và đặc quyền của một người lính Cơ Đốc trung thành. Tôi nhận ra rằng một số người không bằng lòng với sự nhấn mạnh mang tính chất quân sự trong Kinh Thánh, nhưng sự nhấn mạnh ở đây chính là chúng ta không được phớt lờ nó. Những mâu thuẫn và xung đột mà Hội Thánh đang đối diện không thể được giải quyết bằng những cách giao tiếp khôn khéo bình thường. Nhưng chúng ta phải mang lấy mọi khí giới của Đức Chúa Trời và biết cách sử sụng những vũ khí thuộc linh mà Chúa đã sắm sẵn đó cho chúng ta (Ê-phê-sô 6:10-20).
Hãy lưu ý! Đây chính là những quy tắc từ Đấng làm cội rễ sự cứu rỗi của chúng ta (Hê-bơ-rơ 2:10)!
Hãy Nhớ Rằng Bạn Luôn Luôn Là Một Chiến Binh, Dù Bạn Đang Làm Nhiệm Vụ Hay ĐANG NGHỈ KHÔNG PHÉP.
Rất quan trọng để nhận biết rằng ngay khi chúng ta tin nhận Chúa Giê-su Christ là Đấng Cứu Chuộc và là Chúa, chúng ta trở nên những người lính chiến trong đội quân của Đức Chúa Trời. Chúng ta được kêu gọi không phải để trở thành những tình nguyện viên, nhưng vì Đấng làm cội rễ sự cứu rỗi của chúng ta đã ra lệnh cho những ai thuộc về dòng dõi Đức Chúa Trời cũng sẽ thuộc về đạo quân của Đức Chúa Trời – dù họ có vâng lời Chúa hay không. Ma quỷ là kẻ thù nghịch của chúng ta và hắn cùng với đội quân hùng mạnh đã dùng thế gian và những ham muốn xác thịt để cám dỗ chúng ta sa vào tội lỗi. Sa-tan là một kẻ nói dối (con rắn quỷ quyệt) đi lừa gạt và là một con sư tử đang rình mò để tìm kiếm những ai nó có thể nuốt được (Giăng 8:44; II Cô-rinh-tô 11:3; I Phi-e-rơ 5:8-9), và chúng ta không thể xem thường hắn được. Chế nhạo hay đùa giỡn với nó là chúng ta đang làm lợi cho nó theo đúng mục đích nó muốn.
Sa-tan còn được gọi là A-bô-ly-ôn, nghĩa là “kẻ hủy diệt” (Khải Huyền 9:11). Trong nhiều thế kỷ qua, nó đã cố gắng để hủy diệt dân tộc Do Thái và ngăn chặn sự giáng sinh của Chúa Giê-su, và từ ngày Đức Thánh Linh giáng lâm (Công Vụ 2) nó đã cố gắng hủy diệt Hội Thánh và khiến cho những lời chứng của Hội Thánh phải nín lặng. Nhưng lịch sử đã chứng minh rằng huyết của những người tuận đạo đã đổ ra chỉ làm Hội Thánh thêm mạnh mẽ và mở mang. Sa-tan là kẻ giả mạo và những kẻ theo nó chỉ giả vờ đi theo Đấng Christ nhưng chỉ để lừa gạt (II Cô-rinh-tô 11:13-15). Những sứ đồ giả của nó đã rao truyền một Tin Lành khác (Ga-la-ti 1:6-10) để dẫn mọi người đến cảnh nô lệ thay vì được tự do bởi sự cứu chuộc trong Đức Chúa Giê-su Christ.
Điều này có nghĩa rằng chúng ta phải luôn luôn cảnh giác và tỉnh thức, và không bao giờ được phép nghỉ ngơi. Lời khuyên bảo của Phi-e-rơ rằng chúng ta phải tiết độ và tỉnh thức (I Phi-e-rơ 5: 8-9) đến từ một con người đã không tiết độ và tỉnh thức, một người đã từng chối Chúa và cố giết chết một người khác! Chúng ta phải cẩn thận với sự xảo quyệt cùng sức mạnh của Sa-tan và phải chạy đến nhờ cậy sự giúp đỡ của Chúa ngay khi chúng ta biết kẻ thù nghịch chúng ta đang hành động.
Luôn Mang Lấy Mọi Khí Giới Của Bạn.
II Sa-mu-ên 11:1 giải thích vì sao vua Đa-vít phạm tội ngoại tình với Bát-sê-ba, âm mưu giết hại chồng nàng, và đã nói dối về chuyện đáng xấu hổ đó của mình suốt gần một năm: “Nhưng vua Đa-vít ở lại Giê-ru-sa-lem.” Ông đã buông vũ khí của mình xuống! Lẽ ra ông nên cùng với đội quân của mình, tấn công kẻ thù địch, nhưng thay vì vậy ông đã ở nhà và bị tấn công bởi một kẻ thù nguy hiểm hơn nhiều và bị thất bại! Mỗi Cơ Đốc Nhân đều nhận được mạng lệnh phải “chịu khổ như một người lính giỏi của Đức Chúa Giê-su Christ” (II Ti-mô-thê 2:3) và “vì đức tin mà đánh trận tốt lành” (I Ti-mô-thê 6:12). Chúng ta sẽ gặt hái thành công nếu chúng ta mặc lấy những khí giới đã được nói đến trong Ê-phê-sô 6:10-20 và biết cách sử dụng chúng. Chiến thuật xấu xa của Sa-tan rất là khéo léo (II Cô-rinh-tô 11:1-4) và những ngày là xấu (Ê-phê-sô 5:16; 6:13). Lưu ý rằng chúng ta cần mang lấy “mọi khí giới” chứ không phải chỉ là một hoặc hai thứ, và chúng ta phải đứng vững tại vị trí của mình để chống lại kẻ thù nghịch. Trong Đức Chúa Giê-su Christ chúng ta được đắc thắng, nhưng Sa-tan muốn chúng ta phải rút lui và mất đi địa vị chiến thắng mà Chúa Giê-su đã dành cho chúng ta tại nơi Thập Tự Giá. Chúng ta đang chiến đấu nhờ sự đắc thắng của Đấng Christ và không phải cho chiến thắng của chúng ta, vì bởi đức tin chúng ta đang đứng tại nơi thánh. Hãy đọc Giô-suê 5:13-15 để thấy được hình ảnh đó. Tất cả mọi khí giới đều liên quan đến con người và công việc của Chúa Giê-su Christ chúng ta (Rô-ma 13:12-14; Ê-phê-sô 4:17-24), vì vậy hãy mặc lấy khí giới đó chính là mặc lấy Đức Chúa Giê-su Christ và ở trong Ngài (Cô-lô-se 3:8-17).
Lấy lẽ thật làm dây nịt lưng (Ê-phê-sô 6:14). Đây không phải là một sợi dây nịt nhỏ nhưng nó giống một tấm chắn bọc kim loại và da dày. Từ chỗ thắt lưng xuống khoảng 4 inch trên đầu gối, nó quấn quanh thân và bao lấy người lính từ sau ra trước. Nó giữ cho các phần khác của bộ giáp liên kết lại với nhau cách chặt chẽ, và là chỗ để người lính có thể mang theo những vũ khí hay vật dụng cần thiết, như là một cây giáo ngắn, một cái túi nhỏ, và một dao găm. Chữ lẽ thật ở đây có nghĩa là “chính trực”, giống như là dây nịt lưng giữ các phần khí giới lại với nhau, sự chính trực của một người làm cho tính cách của người ấy trước sau như một và giúp người ấy thoát khỏi sự đạo đức giả và lối sống lừa dối, cái mà thế gian gọi là: “sự gian tà của miệng”. Số nguyên là một số trọn vẹn và sự chính trực và liêm chính là toàn vẹn. Phân số là một phần của số tương ứng với sự đạo đức giả hay lối sống lừa dối, nói một đằng nhưng làm một nẻo. “Nầy, Chúa muốn sự chân thật nơi bề trong” (Thi Thiên 51:6). Là một người hai lòng và cố gắng phục vụ hai chủ là mất đi sự chính trực và đang sống giả tạo.
Mặc lấy giáp bằng sự công bình (Ê-phê-sô 6:14) được làm từ kim loại và bảo vệ thân trên của người lính, trước và sau. Một chiến binh Cơ Đốc có hai loại công bình: được xưng công bình, là sự công bình mà Đấng Christ mặc cho chúng ta ngay khi chúng ta tin nhận Chúa (Rô-ma 4:13-23; II Cô-rinh-tô 5:21), và được ban cho công bình, là công bình mà Đức Thánh Linh đã lập nên trong chúng ta khi chúng ta bước đi bởi đức tin và đầu phục Ngài. Nhà thần học gọi đó là được xưng công bình lần thứ nhất và được nên thánh lần thứ hai. Được xưng công bình không bao giờ thay đổi, bởi vì Cha chúng ta luôn nhìn lấy chúng ta trong Đấng Christ (Ê-phê-sô 1:1-6), nhưng sự công bình được ban cho sẽ thay đổi khi mỗi ngày chúng ta bước đi với Chúa và vâng phục Ngài. Nếu chúng ta mặc lấy áo giáp, thì những sự buộc tội và tấn công của ma quỷ không thể làm tổn hại chúng ta được. Áo giáp là để bảo vệ trái tim, bởi vì các nguồn sự sống do nơi nó mà ra (Châm ngôn 4:23).
Giày bình an (Ê-phê-sô 6:15) giúp cho người lính có thể đứng, đi, chạy, và giữ thăng bằng khi họ đánh trận. Những người lính La Mã đã mang đôi giày có quai bằng da rất chắc với những chiếc đinh đầu to ở đế giày và những sợi dây da để giữ đôi giày cố định. Chúa muốn chúng ta đứng vững vàng trong Chúa và Tin Lành Ngài (I Cô-rinh-tô 15:1,58) cũng như dùng sự khôn ngoan để chiến thắng kẻ thù địch. Khi chúng ta được hòa thuận với Đức Chúa Trời (Rô-ma 5:1), chúng ta có thể mang đôi giày của Tin Lành bình an và đem sự bình an đó đến cho những ai đang đánh trận. Một chiến binh đang mâu thuẫn với chính mình hay với người khác sẽ không thể được sử dụng cho Tin Lành bình an của Đức Chúa Trời được. Được hòa thuận với Đức Chúa Trời qua thập tự giá và có được sự bình an của Đức Chúa Trời ở trong lòng (Phi-líp 4: 6-7), chúng ta thật sự “làm nên hòa bình” chứ không phải tranh chiến. Sự bình an ở trong lòng chúng ta giúp chúng ta vững vàng và linh động khi chúng ta chống trả với Sa-tan và đội quân của hắn. Chúng ta không đánh trận cùng thịt và huyết nhưng cùng chủ quyền và thế lực của Sa-tan đã sử dụng con người để chống lại công việc của Đấng Christ. Cơ Đốc Nhân là những người hòa giải chứ không phải là những kẻ phá hoại. Nếu cuộc sống chúng ta và chức vụ chúng ta gặp phải những ngăn trở, đó là vì thế gian ghét chúng ta và Tin Lành của Ngài.
Lại phải lấy thêm đức tin làm thuẫn (Ê-phê-sô 6:16) để bảo vệ người lính và những khí giới của họ. Thuẫn của người La Mã có kích thước khoảng 2 feet đến 4 feet và được thiết kế để một hàng lính chiến có thể khóa chặt những cái thuẫn lại với nhau tạo nên những bức tường vững chắc. Kẻ thù nghịch sẽ phóng những mũi tên lửa để tiêu diệt và phá hủy những chiếc thuẫn này. Sa-tan đã phóng vào chúng ta những mũi tên lửa của sự sợ hãi, rối loạn, nghi ngờ, chỉ trích, nói hành, lừa dối cùng sự kiện cáo và vu oan. Chúa Giê-su và những môn đồ của Ngài cũng đã bị đối xử như vậy. Nếu như những mũi tên này không bị tiêu hủy, ngọn lửa sẽ lan ra và gây tổn hại một cách khủng khiếp. Sa-tan luôn nhắc cho chúng ta nhớ những tội lỗi và những sai phạm trong quá khứ và làm mọi cách để khiến chúng ta nản lòng, nhưng khi chúng ta sử dụng đức tin nơi lời hứa của Đức Chúa Trời chúng ta sẽ chiến thắng (Khải Huyền 12:7-12). “Sự chân thật Ngài là cái khiên và cái can của ngươi” (Thi Thiên 91:4). “Và sự thắng hơn thế gian, ấy là đức tin của chúng ta” (I Giăng 5:4).
Mão trụ cứu chuộc (Ê-phê-sô 6:17). Mão trụ của người lính La Mã được làm bằng đồng thiếc để bao bọc phần đầu và phần má của họ, nó trông giống như những chiếc mũ bảo hiểm ngày hôm nay. Một người lính chỉ có thuẫn đỡ không thì chưa đủ; họ cần phải bảo vệ phần đầu và trí óc của họ nữa nếu đó là một người lính khôn ngoan. Thật không khó để nhận được những bài học thuộc linh ở đây. Chúng ta phải cẩn thận với sự không kiên định của lòng phân tâm (Gia-cơ 1:8) và giống như Chúa Giê-su, Ngài đã quyết định đi lên thành Giê-ru-sa-lem để chịu chết (Luca 9:51). Chúng ta không thể làm tôi hai chủ (Ma-thi-ơ 6:24). Chúng ta cũng phải cẩn trọng với ý tưởng lừa dối (II Cô-rinh-tô 11:3), vì Sa-tan là một kẻ giả mạo chuyên đem đến những cám dỗ để khiến chúng ta xa cách lẽ thật. Như nó đã làm với Ê-va (Sáng Thế Ký 3), đầu tiên Sa-tan đặt câu hỏi về Lời Đức Chúa Trời (Sáng Thế Ký 3:1), sau đó phủ nhận Lời của Đức Chúa Trời (Sáng Thế Ký 3:4), và thay vào đó lời nói dối của nó (Sáng Thế Ký 3:5). Cũng thật là nguy hiểm khi có lòng lo lắng (Lu-ca 12:29) đó là sự lo âu và trăn trở về những vấn đề trong cuộc sống. Nó thường đem đến sự ngã lòng. Trong I Tê-sa-lô-ni-ca 5:8, Phao-lô gọi mão trụ là “sự trông cậy về sự cứu rỗi,” vì hy vọng sẽ tiêu tan khi chúng ta nản lòng và tương lai chúng ta sẽ thật tối tăm và nguy hiểm. Mỗi ngày tôi phải ở trong Lời Đức Chúa Trời, để Thánh Linh Chúa biến đổi tâm trí mình hầu cho tôi không tranh luận và cãi lẽ như là thế gian đã làm.
Cầm gươm của Đức Thánh Linh (Ê-phê-sô 6:17) chính là vũ khí để người lính tấn công và cũng để tự vệ. Hê-bơ-rơ 4:12 đã mô tả về thanh gươm Thánh Linh này:
Vì lời của Đức Chúa Trời là lời sống và linh nghiệm, sắc hơn gươm hai lưỡi, thấu vào đến đỗi chia hồn, linh, cốt, tủy, xem xét tư tưởng và ý định trong lòng.
Chúa dùng gươm trên những người chưa tin Chúa để họ nhận biết tội lỗi và mang họ đến với sự cứu chuộc (Công Vụ 2: 37-38), nhưng Ngài cũng dùng nó trên con dân Ngài để dạy cho họ biết điều đúng và loại trừ những điều xấu. Không giống như một thanh gươm bình thường, Lời Đức Chúa Trời không bao giờ cùn. Nó có năng quyền và nó truyền sự sống thay vì cái chết! Chúa chúng ta đã sử dụng Lời Kinh Thánh để đánh bại ma quỷ trong đồng vắng (Ma-thi-ơ 4:1-11) và ngày hôm nay chúng ta cũng có thể làm như vậy khi Sa-tan cám dỗ chúng ta. “Tôi đã giấu lời Chúa trong lòng tôi, Để tôi không phạm tội cùng Chúa.” (Thi Thiên 119:11).
“Tinh Binh Của Quân Thập Tự Mau Đứng Lên” là một bài Thánh Ca chúng tôi thường hay hát tại trường Chúa Nhật và những buổi nhóm Thanh Niên. Trong lời thứ ba có chép, “Kìa, giáp Tin Lành mau khoác lấy, Tỉnh thức, khẩn nguyện đêm ngày.” Đó là bởi đức tin chúng ta mặc lấy khí giới và bởi đức tin chúng ta chống cự kẻ thù nghịch. “Vậy hãy phục Đức Chúa Trời; hãy chống trả ma quỉ, thì nó sẽ lánh xa anh em.” (Gia-cơ 4:7).
Tường Trình Công Việc Mỗi Ngày
“Đức Giê-hô-va ôi! Buổi sáng Ngài sẽ nghe tiếng tôi; Buổi sáng tôi sẽ trình bày duyên cớ tôi trước mặt Ngài, và trông đợi” (Thi Thiên 5:3). Chữ trình bày là từ những thầy tế lễ người Do Thái mà ra và là hình ảnh thầy tế lễ tại bàn thờ để sắp xếp củi và của tế lễ. Nhưng nó cũng có ý nghĩa quân sự là: nhóm hiệp đạo binh, dàn trận và tỏ mình ra trong trận chiến. Nghĩa này được sử dụng trong I Sa-mu-ên 17 để mô tả về gã khổng lồ Gô-li-át đã “tỏ mình ra” và thách thức đạo quân của Sau-lơ. Mỗi buổi sáng khi tĩnh nguyện, tôi giống như một thầy tế lễ dâng lên Chúa những của lễ và cũng giống như một người lính tường trình lại mọi việc trong ngày. Khi cầu nguyện, tôi trao cho Chúa mọi ưu tư, và qua lời Đức Chúa Trời, Ngài đã hướng dẫn tôi. Chúa chúng ta luôn thức dậy mỗi sáng sớm để yên lặng một mình với Cha Ngài trước khi đám đông tụ tập lại (Ê-sai 50:4-6; Mác 1:35), và đây là hình mẫu lý tưởng để chúng ta noi theo. Hãy chống cự kẻ thù nghịch.
Ba lần trong Ê-phê-sô chương 6, Phao-lô đã nhấn mạnh rằng chúng ta phải đứng vững để có thể chống cự với ma quỷ. Trước khi vào trận chiến, chúng ta mặc lấy mọi khí giới của Đức Chúa Trời để có thể đứng vững vàng được (Ê-phê-sô 6:11,13). Sau đó chúng ra tỏ mình ra với sức mạnh của Chúa và chống cự với kẻ thù nghịch. Khi dành được chiến thắng, chúng ta vẫn phải tiếp tục tỏ mình ra để kẻ thù không quay lại và bắt lấy chúng ta lúc nào không hay (Ê-phê-sô 6:14). Phao-lô đã cảnh báo với Ti-mô-thê rằng, nếu ông muốn làm vui lòng Vị Chỉ Huy của ông, tốt hơn là ông không nên dính líu với thế gian và trở thành một người lính lưỡng lự (II Ti-mô-thê 2:4).
Đó là bởi năng quyền của Chúa giúp chúng ta vượt qua những khó khăn chứ không bởi sức riêng, sự khôn ngoan, hay khả năng của chúng ta. Phao-lô đã khuyên chúng ta “anh em phải làm mạnh dạn trong Chúa, nhờ sức toàn năng của Ngài” (Ê-phê-sô 6:10). Vậy làm sao chúng ta có thể nhận được năng quyền này? Ấy là “Hãy nhờ Đức Thánh Linh, thường thường làm đủ mọi thứ cầu nguyện và nài xin” (Ê-phê-sô 6:18). Sau khi được cứu ra khỏi Ê-díp-tô, dân Y-sơ-ra-ên đã đối mặt với dân A-ma-léc và đánh bại họ bởi vì Môi-se, A-rôn, và Hu-rơ đã chiến đấu gián tiếp ở trên núi khi Giô-suê và đạo binh của ông cầm gươm ở phía bên dưới. Chúng ta không chỉ mang lấy khí giới qua sự cầu nguyện nhưng chúng ta cũng dùng nó trong trận chiến bởi sự cầu nguyện.
Lưu ý rằng Phao-lô đã nhắc nhở chúng ta hãy “tỉnh thức” trong sự cầu nguyện (Ê-phê-sô 6:18). Chúng ta phải cầu nguyện với đôi mắt mở to nếu không e rằng kẻ thù nghịch sẽ tìm mọi cách để tấn công lén chúng ta. Khi Nê-hê-mi và những người làm việc cùng ông xây cất lại vách thành Giê-ru-sa-lem, những kẻ thù nghịch đã đe dọa họ, do đó dân Giu-đa đã cầu nguyện và canh giữ ngày đêm (Nê-hê-mi 4:7-9). Nếu chúng ta làm việc chúng ta có thể làm, thì Chúa sẽ làm phần còn lại. Chúa Giê-su dạy các môn đồ của Ngài “hãy thức canh và cầu nguyện” (Ma-thi-ơ 26:41; Mác 13:33, 14:38) và sứ đồ Phao-lô cũng khuyên như vậy trong Ê-phê-sô 6:18 và cả Cô-lô-se 4:2. Cầu nguyện và tỉnh thức phải luôn đi đôi với nhau.
Hãy Quan Tâm Đến Những Người Khác Cùng Niềm Tin.
Phao-lô đã kết thúc bức thư của ông (Ê-phê-sô 6:19-24) bằng việc nhắc những tín hữu Ê-phê-sô nhớ đến ông và những người giúp đỡ ông trong sự cầu nguyện. Phao-lô là một con người tài giỏi, yêu mến Chúa, là người đã được gặp Chúa và được Chúa dùng, tuy vậy ông vẫn rất khiêm nhường để nhờ cậy mọi người cầu nguyện cho mình. Tất cả những Cơ Đốc Nhân thật đều đang ở trong trận chiến chống lại Sa-tan, và chúng ta cần phải cầu thay cho nhau. Phi-e-rơ đã viết: “Hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự nó, vì biết rằng anh em mình ở rải khắp thế gian, cũng đồng chịu hoạn nạn như mình” (I Phi-e-rơ 5:9). Bạn có để ý rằng những danh xưng trong lời cầu nguyện của Chúa là số nhiều không? Không phải là “Cha của Con” nhưng là “Cha chúng tôi… xin cho chúng tôi hôm nay đồ ăn đủ dùng… Xin tha tội lỗi cho chúng tôi” và tương tự như vậy. Mỗi chúng ta ở khắp mọi nơi là một thành viên trong gia đình kỳ diệu của Đức Chúa Trời và chúng ta phải cầu nguyện cho anh em và chị em của mình khi chúng ta biết hoàn cảnh của họ.
Nhà truyền giáo Ruth Paxon đã phát biểu tại hội nghị Keswick ở Anh Quốc năm 1936 rằng, “Thật dại dột nếu đánh giá thấp quyền lực của Sa-tan, nhưng cũng rất nguy hiểm nếu đánh giá nó quá cao.” Chúa đã đắc thắng Sa-tan và sẽ ban cho chúng ta sự đắc thắng ấy nếu chúng ta mang lấy mọi khí giới của Đức Chúa Trời và tin cậy nơi Ngài.

images
Chương 5
Một Đời Sống Vui Thỏa
Hãy vui mừng trong Chúa luôn luôn. Tôi lại còn nói nữa: hãy vui mừng đi.
Phi-líp 4:4
Vui mừng là sự tự nguyện, là sự đáp lại một cách hớn hở từ tấm lòng một Cơ Đốc Nhân đối với Chúa khi họ cảm kích về những điều thuộc về Đức Chúa Trời, những gì Đức Chúa Trời phán trong lời Ngài, hoặc những điều Ngài đã làm hay đang làm. Hạnh phúc không giống với lòng vui mừng, bởi vì hạnh phúc phụ thuộc phần lớn vào những điều xảy ra. Còn niềm vui có thể đến thậm chí ngay giữa lúc đau buồn. Chữ tiếng anh happen (xảy đến) là từ chữ cổ hap (ngẫu nhiên), nó có liên hệ với luck (sự may mắn) và chance (cơ hội tình cờ), đó là những chữ mà ai tin vào sự toàn tri của Đức Chúa Trời và yêu mến ý muốn Ngài nên tránh. Chúa “ban mọi vật dư dật cho chúng ta được hưởng” (I Ti-mô-thê 6:17), và Ngài có thể kết hiệp mọi sự lại để làm ích cho chúng ta và cho sự vinh hiển của Ngài (Rô-ma 8:28).
Nếu tìm kiếm niềm vui, bạn sẽ không thể có được nó, bởi vì niềm vui là một tặng phẩm được sinh ra bởi sự bất biến trong Đấng Christ và Lời Ngài, trong sự vâng phục Ngài, cố gắng hầu việc và tôn vinh Ngài. Chúa Giê-su dùng hình ảnh của một người đàn bà lúc sanh đẻ để minh họa cho sự kỳ diệu về niềm vui của Cơ Đốc Nhân (Giăng 16:20-22). Người mẹ đau đớn trong lúc sanh đẻ, nhưng khi đứa con đã lọt lòng thì chính đứa trẻ đã gây đau đớn đó lại mang đến niềm vui! Đó là một sự thay đổi kỳ diệu, không phải là một sự thay thế. Chúa kêu gọi chúng ta phải vui mừng, và nếu chúng ta không vui mừng chúng ta đã không vâng lời và chúng ta không thể đổ lỗi cho bất cứ ai ngoại trừ chính chúng ta. Có nhiều chìa khóa thuộc linh trong đời sống vui thỏa của Cơ Đốc Nhân và Đức Thánh Linh sẽ giúp chúng ta tìm thấy từng chiếc khóa đó để sử dụng đúng trong từng hoàn cảnh mà chúng ta đang đối diện.
Niềm Vui Của Chúa Giê-su.
Trong một sứ điệp của tôi cách đây vài năm tại Thánh Kinh Mùa Hè, tôi có đề cập đến việc Chúa Giê-su đã tận hưởng nhiều niềm vui trong những năm chức vụ trên đất. Sau hội nghị đó, tôi đã phải đối chất với một bà lão nóng nảy cáo buộc tôi là người theo tà giáo. Bà ta la lên rằng “Chúa Giê-su là con người của bất hạnh và khốn khổ!” Tôi đã cố gắng chỉ cho bà những phân đoạn đề cập đến sự vui mừng của Cứu Chúa chúng ta, nhưng bà từ chối đọc nó, quay lưng lại với tôi, và bước đi cách hả hê. Đức Chúa Cha muốn chúng ta trở nên ngày càng giống với Con Ngài càng hơn, và nó bao gồm cả lòng vui mừng. Sứ đồ Phao-lô đã viết trong Ga-la-ti 5:22, “Nhưng trái của Thánh Linh, ấy là lòng yêu thương, sự vui mừng…” Không vui mừng, thậm chí trong những lúc đau đớn và khốn khổ, là chúng ta đang làm buồn lòng Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời.
Khi bảy mươi môn đồ trở về sau chuyến giảng đạo và họ kể với Chúa Giê-su về những điều đã xảy ra, “Đức Chúa Giê-su nức lòng bởi Đức Thánh Linh” và ngợi khen Cha vì các quỷ cũng phục họ. Trong phòng cao, Chúa Giê-su đã nói, “Ta nói cùng các ngươi những điều đó, hầu cho sự vui mừng của ta ở trong các ngươi, và sự vui mừng các ngươi được trọn vẹn.” (Giăng 15:11). Nếu Chúa Giê-su không bày tỏ niềm vui, thì câu nói này sẽ rất khó hiểu với các môn đồ. Chúa Giê-su đã cầu nguyện cho niềm vui của Ngài được đầy dẫy và biểu lộ qua các môn đồ Ngài (Giăng 17:13), và Đức Chúa Cha đã đáp lời cầu nguyện đó. Phải, Chúa Giê-su đã trải nghiệm sự khốn khổ, đau đớn, và cái chết, nhưng Ngài cũng kinh nghiệm cả niềm vui nữa.
Có những nguồn lực thuộc linh đã giúp Chúa Giê-su có thể chịu lấy thập tự giá, và một trong số đó là “sự vui mừng đã đặt trước mặt mình” (Hê-bơ-rơ 12:2). Sự vui mừng đó là gì? Câu 24 của thơ Giu-đe đã cho ta câu trả lời: “(Đấng) có thể gìn giữ anh em khỏi vấp phạm và khiến anh em đứng trước mặt vinh hiển mình cách rất vui mừng, không chỗ trách được.” Biết trước tương lai vui mừng với Hội Thánh được vinh hiển trên Thiên Đàng đã khiến Chúa có thể cam chịu được những đau đớn và sỉ nhục tại Gô-gô-tha. Quả thật đó sẽ là sự vui mừng khi Ngài trình dâng chúng ta lên cho Cha! Dù cho những thử thách của chúng ta ngày hôm nay thế nào, thì điều tốt đẹp nhất vẫn chưa đến. “Chúng ta hãy hớn hở vui mừng, tôn vinh Ngài; vì lễ cưới Chiên Con đã tới, và vợ Ngài đã sửa soạn” (Khải huyền 19:7). Trông đợi sự vinh hiển nơi nhà trên trời của chúng ta chính là phương thuốc xoa dịu mọi nỗi đau buồn của một tấm lòng bối rối (Giăng 14:1-3).
Niềm Vui Khi Đặt Đức Tin Nơi Đức Chúa Trời.
Mặc dù đang là một tù nhân ở Rô-ma khi viết thơ gửi cho người Phi-líp, thơ của Phao-lô tràn ngập sự vui mừng. Khi con dân Đức Chúa Trời sống trong ý muốn của Ngài, họ sẽ kinh nghiệm được niềm vui của Chúa bất chấp hoàn cảnh thế nào. Phao-lô đặc biệt vui mừng về tín đồ Phi-líp khi thấy “đức tin anh em được tấn tới và vui vẻ” (Phi-líp 1:25). “Trong sự tin chắc đó, tôi biết rằng tôi sẽ cứ còn lại và ở với hết thảy anh em, để giúp đức tin anh em được tấn tới và vui vẻ.” Đó là một thách thức đáng mừng để sống bởi đức tin và lớn lên trong đức tin. Chúng ta bước vào gia đình của Đức Chúa Trời khi chúng ta tin nhận Đấng Christ là Cứu Chúa ta, nhưng đó chỉ là bước khởi đầu. Là con Đức Chúa Trời, chúng ta sống bởi lời hứa mà không cần sự giải thích nào cả. Biết rằng Cha yêu thương chúng ta, Ngài có chương trình cho cuộc đời chúng ta, hướng dẫn, chăm sóc, và cho chúng ta có được đặc ân để phục vụ Ngài. Chúng ta được yên nghỉ thỏa vui trong ý định hoàn hảo của Ngài. Và đó chính là niềm vui của đức tin!
Nhưng niềm vui của đức tin sẽ chỉ lấp đầy tấm lòng chúng ta khi chúng ta đầu phục Chúa, tin cậy nơi Ngài và hiến dâng cho Ngài điều tốt nhất của chúng ta. An-ne đã hát sau khi dâng đứa con trai đầu lòng để phục vụ trong đền Đức Giê-hô-va rằng, “Đức Giê-hô-va khiến lòng tôi khấp khởi vui mừng” (I Sa-mu-ên 2:1), và khi Ma-ri chịu đầu phục Chúa để mang thai Đấng Mê-si-a, bà đã hát “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, Tâm thần tôi mừng rỡ trong Đức Chúa Trời, là Cứu Chúa tôi” (Lu-ca 1:46-47). Khi chúng ta dâng chính chúng ta và hy sinh cho Chúa, bài hát của sự ngợi khen Chúa chắc chắn sẽ theo sau “và đương lúc khởi dâng của lễ thiêu, thì khởi hát bài ca khen ngợi Đức Giê-hô-va” (II Sử ký 29:27).
Niềm vui của đức tin dẫn chúng ta đến niềm vui được đáp lời cầu nguyện. Chúa Giê-su đã nói: “Hãy cầu xin đi, các ngươi sẽ được, hầu cho sự vui mừng các ngươi được trọn vẹn” (Giăng 16:24). Lời cầu nguyện kích hoạt đức tin, và đức tin được mạnh mẽ bởi lời Đức Chúa Trời (Rô-ma 10:17). Trong Thánh Kinh không chỉ có những lời cầu nguyện dài về sự ngợi khen và lòng ăn năn mà còn có những “lời cầu nguyện khẩn cấp” rất ngắn gọn như là: “Chúa ơi, xin cứu lấy tôi!” của Phi-e-rơ (Ma-thi-ơ 14:30-31). Không phải bởi độ dài của lời cầu nguyện nhưng là bởi sức mạnh của đức tin chúng ta đã làm nên sự khác biệt. Khi nhìn lại sáu mươi năm trong chức vụ, trái tim tôi vẫn còn rung động khi tôi nhớ lại thể nào Đức Chúa Trời đã đáp lời cầu nguyện của tôi – và Ngài hiện vẫn còn làm! Tôi thật sự rất biết ơn những người đã cầu nguyện cho tôi và dạy tôi cầu nguyện! Bốn năm trong chức vụ với Youth for Christ International với tôi giống như một khóa học nâng cao về sự cầu nguyện. “Theo như đức tin các ngươi, phải được thành vậy” (Ma-thi-ơ 9:29).
Niềm Vui Khi Hầu Việc Đức Chúa Trời.
Nếu chúng ta hầu việc đúng Chủ, đúng cách, đúng mục đích, và với thái độ đúng đắn, chúng ta sẽ hầu việc cách vui mừng và sẽ không bao giờ nghĩ đến việc từ bỏ nó. Đối với Cơ Đốc Nhân, Chúa Giê-su xứng đáng là Chủ chúng ta, xây dựng Hội Thánh của Ngài chính là mục đích, hành động trong đức tin và tình yêu thương vì sự vinh hiển của Ngài chính là cách để làm công việc Ngài, và vui mừng là thái độ đúng đắn, bởi vì đó là đặc ân khi chúng ta hầu việc Chúa. Nhiều lần khi kẻ thù nghịch chống cự chúng ta, sự mạnh mẽ của chúng ta bắt đầu mất dần, và chúng ta cảm thấy muốn bỏ cuộc; chính lúc đó chúng ta nên vui mừng trong Chúa và tiếp tục làm công việc Chúa. “Khá hầu việc Đức Giê-hô-va cách vui mừng, Hãy hát xướng mà đến trước mặt Ngài.” (Thi Thiên 100:2). “Chớ buồn thảm, vì sự vui vẻ của Đức Giê-hô-va là sức lực của các ngươi” (Nê-hê-mi 8:10). Đức Chúa Trời đã khiến cho dân Giu-đa bị bắt làm phu tù vì họ đã đánh mất niềm vui trong Chúa và bắt đầu hầu việc các tà thần. “Bởi trong lúc dư dật mọi điều, ngươi không vui lòng lạc ý phục sự Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi” (Phục truyền 28:47).
Những kẻ sót lại của nhà Giu-đa đã được trở về sau khi bị lưu đày ở Ba-by-lôn và họ đã sửa các vách thành Giê-ru-sa-lem lại dưới sự lãnh đạo của vị quan trấn thủ Nê-hê-mi. Công việc đã không dễ dàng và kẻ thù nghịch ở chung quanh đã luôn làm mọi điều họ có thể để đe dọa những người xây cất cũng như ngăn trở mọi việc. E-xơ-ra, thầy tế lễ và văn sĩ, thạo biết luật pháp của Đức Chúa Trời đã đến và dạy họ lời Đức Chúa Trời, và điều này đã khích lệ họ tiếp tục công việc. Ông chỉ ra rằng đây chính là lúc họ phải lập lại lễ lều tạm (Lê-vi ký 23:33-44) và vui vẻ về mọi điều Chúa đã làm khi Ngài giải cứu tổ phụ họ ra khỏi xứ Ê-díp-tô. Đức Chúa Trời của họ đã làm những điều phi thường cho họ và ngày hôm nay Ngài cũng sẽ không từ bỏ họ. Họ nên phải vui mừng trong Chúa, vì “sự vui vẻ của Đức Giê-hô-va là sức lực của các ngươi.” Họ vâng theo lời Đức Chúa Trời, lập lại lễ lều tạm, và “Bèn có sự rất vui mừng” (Nê-hê-mi 8:17).
Dù nhiệm vụ Chúa giao cho chúng ta là gì, hoặc là nhất thời hay lâu dài, thì có hai điều chúng ta có thể chờ đợi: kẻ thù nghịch sẽ chống cự chúng ta và Chúa sẽ cho chúng ta đủ khôn ngoan và sự mạnh mẽ để hoàn thành công việc vì sự vinh hiển của Đức Chúa Trời. Ước vọng lớn nhất của Phao-lô là chạy cho xong cuộc đua với lòng vui mừng (Công vụ 20:24) – và ông đã làm được! “Ta đã đánh trận tốt lành, đã xong sự chạy, đã giữ được đức tin” (II Ti-mô-thê 4:7). Khi Chúa Giê-su đến thế gian, Ngài đã đến như một người phục vụ, và Ngài muốn chúng ta cũng là những người phục vụ. Phao-lô cũng thường gọi ông “tôi tớ của Đức Chúa Giê-su Christ”.
Một trong những bài luận của Robert Louis Stevenson, ông đã viết, “Đừng đánh giá mỗi ngày bằng kết quả bạn có được nhưng bằng những việc mà bạn đã làm”. Mỗi ngày trôi qua là một cơ hội để chúng ta sống phục vụ, và “Đời ngươi lâu bao nhiêu, sức mạnh ngươi lâu bấy nhiêu” (Phục truyền 33:25). Có thể chúng ta sẽ đi ra với nước mắt, nhưng Đức Chúa Trời hứa rằng một ngày nào đó những hạt giống chúng ta gieo sẽ đem lại một mùa gặt đầy kết quả (Thi Thiên 126:6; Giăng 4:35-38).
Niềm Vui Khi Tìm Được Những Linh Hồn Hư Mất.
Nếu phúc âm Lu-ca là một cuốn tạp chí, thì đoạn 15 sẽ là mục “Mất và Tìm Được”. Nó kể về một người chăn đã tìm được con chiên bị lạc mất, một người đàn bà thấy được một đồng bạc bị mất, và một người cha đã rất vui mừng đón đứa con trai tưởng đã lạc mất của mình. Đoạn này cũng nhấn mạnh niềm vui của người đã tìm lại được những điều tưởng chừng như mất rồi. Người chăn đã rất vui mừng (tất nhiên con chiên có thể cũng vui mừng như vậy!), người đàn bà cũng đã vui mừng, và cả gia đình người con trai hoang đàng cũng vui mừng như vậy, chỉ ngoại trừ người anh cả. Chắc chắn sẽ có niềm vui trong lòng chúng ta khi có một ai đó đặt niềm tin vào Chúa Cứu Thế. Phi-líp đã tìm được hoạn quan Ê-thi-ô-bi và đưa ông trở về với Đấng Christ, và hoạn quan Ê-thi-ô-bi này “cứ hớn hở đi đường” (Công vụ 8:39). Phao-lô và Si-la đã đưa người đề lao và gia đình của ông đến với Đấng Christ và niềm vui đã đến trong gia đình họ (Công vụ 16:34). Phi-e-rơ gọi điều này là “vui mừng lắm một cách không xiết kể và vinh hiển” (I Phi-e-rơ 1:8).
Đại mạng lệnh mà Chúa Giê-su đã giao phó cho Hội Thánh của Ngài đó là phải giảng Tin Lành của Đấng Cứu Thế cho khắp trên thế gian, và động cơ của chúng ta nên giống như Phao-lô: “Vì tình yêu thương của Đấng Christ cảm động chúng tôi” (II Cô-rinh-tô 5:14). Có những lời làm chứng của một số tín đồ xuất phát từ động cơ tội lỗi (“Đó là công việc của tôi!”) và một số khác là bởi lòng kiêu ngạo (“Tôi đã cứu được một người nữa!”), nhưng động cơ duy nhất mà Đức Thánh Linh muốn thấy đó là tình yêu của chúng ta dành cho Đấng Christ và cho những tội nhân hư mất. Chúa chúng ta đã đến để tìm kiếm và cứu những con người hư mất (Lu-ca 19:10), và Ngài sẽ rất vui khi chúng ta luôn sẵn sàng nắm bắt cơ hội để làm chứng. Nếu chúng ta biết nhờ cậy Đức Thánh Linh, Ngài sẽ hướng dẫn chúng ta và giúp chúng ta gieo giống.
Niềm Vui Khi Được Thờ Phượng Đức Chúa Trời.
Thờ phượng là nhiệm vụ quan trọng nhất của mỗi Cơ Đốc Nhân và mỗi Hội Thánh địa phương, bởi vì mọi thứ trong chúng ta và mọi điều chúng ta làm đều được biểu lộ qua sự thờ phượng. Những tín hữu nào phớt lờ đi sự thờ phượng sẽ giống như những chiếc xe không có nhiên liệu hay như những khu vườn thiếu ánh nắng mặt trời và nước vậy. Chúng ta có thể có những ân tứ và khả năng gây ấn tượng người khác, nhưng nếu chúng ta không thờ phượng Đức Chúa Trời và nhận lãnh quyền phép của Đức Thánh Linh, chúng ta sẽ không thể làm được điều gì (Giăng 15:5; Công vụ 1:8). Hội Thánh đầu tiên đã bền lòng cầu nguyện trong mười ngày cho đến khi Đức Thánh Linh giáng lâm vào ngày Lễ Ngũ Tuần, sau đó họ đã lớn tiếng làm chứng cho cả dân chúng và rồi có độ ba ngàn người đã được cứu lúc bấy giờ (Công vụ 1-2).
Không có niềm vui nào như niềm vui của sự thờ phượng. “Hỡi người công bình, hãy vui vẻ nơi Đức Giê-hô-va; Sự ngợi khen đáng cho người ngay thẳng. Hãy dùng đàn cầm cảm tạ Đức Giê-hô-va; Hãy dùng đàn sắt mười dây mà hát ngợi khen Ngài. Khá hát cho Ngài một bài ca mới, Và khéo gãy nhạc khí với tiếng vui mừng” (Thi Thiên 33:1-3). Trọng tâm của sự thờ phượng là Đức Chúa Trời. Chúng ta hướng về sự cao cả vinh hiển trong bản tính và chức vụ của Ngài, công việc vĩ đại, những lời thành tín của Ngài, cùng Con rất yêu dấu của Ngài. Sự thờ phượng thật mang đến niềm vui cho tấm lòng chúng ta, và khi tấm lòng chúng ta bày tỏ sự ngợi khen thì đó là lúc Chúa đẹp lòng. Một Cơ Đốc Nhân thờ phượng thật sẽ nghe thấy núi và đồi trỗi tiếng ca hát (Ê-sai 55:12), vì cả Thiên Đàng và Trái Đất đều rao ra sự vinh hiển của Đức Chúa Trời. Thật vậy, có khi chúng ta thờ phượng rất nghiêm trang, cũng có thể thậm chí trong yên lặng; nhưng dù sao đi nữa thì môi miệng chúng ta vẫn phải bày tỏ về những trải nghiệm trong tấm lòng chúng ta. “Hãy cảm tạ mà vào các cửa Ngài, Hãy ngợi khen mà vào hành lang Ngài, Khá cảm tạ Ngài, chúc tụng danh của Ngài” (Thi Thiên 100:4).
Tôi đã đi khắp nơi đủ để biết rằng ở mỗi nền văn hóa khác nhau Cơ Đốc Nhân sẽ bày tỏ sự thờ phượng bằng nhiều cách khác nhau. Nhưng điều cốt yếu đó là sự thờ phượng của chúng ta phải đến từ tấm lòng thành khẩn và được đầy dẫy bởi Đức Thánh Linh cùng Lời Ngài (Ê-phê-sô 5:18-19; Cô-lô-se 3:16). Nếu mỗi ngày sự thờ phượng cách cá nhân của tôi làm đẹp lòng Chúa, thì sự thờ phượng nơi chốn đông người của tôi cũng sẽ đẹp lòng Chúa. Nếu tôi muốn tôn cao Đức Chúa Trời ở chốn đông người trong ngày Chúa Nhật, tôi phải có cùng một “kiểu mẫu thờ phượng” mỗi ngày và suốt mỗi tuần. Thật là buồn khi một vài con cái Chúa tham dự vào buổi thờ phượng chung mà thiếu đi sự chuẩn bị. Điều này sẽ làm buồn lòng Đức Thánh Linh và ảnh hưởng đến cả Hội Thánh Ngài, chúng ta nên đi “đến nhà Đức Chúa Trời, có tiếng reo mừng và khen ngợi…” (Thi Thiên 42:4). “Môi miệng và linh hồn tôi mà Chúa đã chuộc lại, Sẽ reo mừng khi tôi ca tụng Chúa” (Thi Thiên 71:23).
Một số Cơ Đốc Nhân thích đổ thừa tình trạng thuộc linh yếu kém của mình là do “sự thờ phượng buồn tẻ của Hội Thánh”, nhưng thường thì sự buồn tẻ không nằm trong sự thờ phượng mà do trong lòng người thờ phượng! Bởi sự thờ ơ của bản thân, họ “đã trở nên chậm hiểu” (Hê-bơ-rơ 5:11) và không còn nhận ra tiếng của Thánh Linh trong âm nhạc, trong lời cầu nguyện, khi đọc Kinh Thánh và trong sứ điệp của những bài giảng. Tôi đã nghe một thuộc viên của Hội Thánh sau buổi thờ phượng đã đến nói với vị mục sư, “Bài giảng của ông thật khó hiểu.” Và vị mục sư đã trả lời rất từ tốn, “Vậy thì chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp cho anh có thể hiểu được nó.” Lời cảnh báo của Đức Chúa Trời về sự chậm hiểu đi kèm với một đời sống vô kỷ luật được lặp lại bảy lần trong Thánh Kinh! Bạn có thể tìm thấy trong Ê-sai 6:9-10, Ma-thi-ơ 13:14-15, Mác 4:11-12, Lu-ca 8:9-10, Giăng 12:37-41, Công vụ 28:25-27, và Rô-ma 11:8. Và chúng ta có chịu nhận lấy những sứ điệp ấy không?
Vui Mừng Vì Được Tha Thứ Và Tha Thứ Cho Người Khác.
Đa-vít bày tỏ lẽ thật này sau khi được Chúa tha thứ cho ông vì tội ngoại tình, vì tội sắp đặt để giết người chồng vô tội và sau đó vì ông còn che giấu tội lỗi này gần một năm (II Sa-mu-ên 11-12).
“Phước thay cho người nào được tha sự vi phạm mình,
Được khỏa lấp tội lỗi mình!
Phước thay cho người nào Đức Giê-hô-va không kể gian ác cho,
Và trong lòng không có sự giả dối!…
Tôi đã thú tội cùng Chúa, không giấu gian ác tôi;
Tôi nói: Tôi sẽ xưng các sự vi phạm tôi cùng Đức Giê-hô-va;
Còn Chúa tha tội ác của tôi.” (Thi Thiên 32:1-2, 5)
“Còn nếu chúng ta xưng tội mình, thì Ngài là thành tín công bình để tha tội cho chúng ta, và làm cho chúng ta sạch mọi điều gian ác. Hỡi con cái bé mọn ta, ta viết cho các con những điều nầy, hầu cho các con khỏi phạm tội… Nếu có ai phạm tội, thì chúng ta có Đấng cầu thay ở nơi Đức Chúa Cha, là Đức Chúa Giê-su Christ, tức là Đấng công bình” (I Giăng 1:9; 2:1). “Vì Thầy Tế Lễ trải qua các từng trời của chúng ta là Chúa Giê-su có thể giữ chúng ta khỏi phạm tội nếu chúng ta đến trước ngôi thi ân điển nài xin sự giúp đỡ” (Hê-bơ-rơ 4:14-16). Nhưng nếu chúng ta phạm tội thì Chúa Giê-su, Đấng Biện Luận sẽ là Đấng Trung Bảo hòa giải chúng ta và ban cho chúng ta sự tha thứ khi chúng ta ăn năn tội lỗi mình.
Trong cuộc sống của một Cơ Đốc Nhân, có ba khía cạnh trong sự tha thứ phải được phân biệt, đầu tiên trong số đó là sự tha thứ hoàn toàn. Chúng ta nhận ra rằng khi chúng ta tin Chúa Giê-su cứu chúng ta. “Ấy là trong Đấng Christ, chúng ta được cứu chuộc bởi huyết Ngài, được tha tội, theo sự dư dật của ân điển Ngài” (Ê-phê-sô 1:7, cũng xem Cô-lô-se 2:13-14). Nhưng sau khi chúng ta được cứu, chúng ta vẫn có thể phạm tội, và nếu chúng ta phạm tội sẽ phá vỡ mối giao thông giữa chúng ta với Chúa và chúng ta phải tìm kiếm sự giao thông trong tha thứ (I Giăng 1:5-10). Nếu tội lỗi của chúng ta bị Hội Thánh xử tội công khai gây hổ thẹn, thì chúng ta cần sự tha thứ của gia đình (I Cô-rinh-tô 5). Nếu bất kỳ ai phạm tội với chúng ta và xin được tha thứ cách chân thành, chúng ta phải tha thứ cho họ. “Hãy ở với nhau cách nhân từ, đầy dẫy lòng thương xót, tha thứ nhau như Đức Chúa Trời đã tha thứ anh em trong Đấng Christ vậy.”
Những ai trong số chúng ta đã được Chúa tha thứ thì cũng phải tha thứ cho người khác. Một linh hồn không được tha thứ có thể cản trở lời cầu nguyện (Ma-thi-ơ 5:21-26; I Phi-e-rơ 3:7) và đừng cho ma quỷ nhân dịp (Ê-phê-sô 4:25-27). “Nếu lòng tôi có chú về tội ác, Ắt Chúa chẳng nghe tôi.” (Thi Thiên 66:18)
Khi chúng ta tha thứ cho người khác, điều đó sẽ như cất gánh nặng khỏi tâm trí, tâm hồn chúng ta và để Đức Thánh Linh hành động trong mỗi chúng ta. Sự tha thứ phá vỡ những bức tường ngăn xây nên những cây cầu và hàn gắn những vết thương. Vua Đa-vít nhận biết điều này, đó là lý do tại sao ông đã cầu nguyện như thế.
“Hãy cho tôi nghe sự vui vẻ mừng rỡ,
Để các xương cốt mà Chúa đã bẻ gãy được khoái lạc…
Xin hãy ban lại cho tôi sự vui vẻ về sự cứu rỗi của Chúa” (Thi Thiên 51:8, 12).
Tha thứ đem lại tự do, và tự do đem đến sự vui mừng.
Vui Mừng Vì Chịu Khổ Cho Đấng Christ.
Một lần tôi được nghe một truyền đạo giảng lời Chúa cho Hội Thánh “Nếu bạn muốn thoát khỏi mọi nan đề và gánh nặng hãy phó mình cho Chúa Giê-su.” Tôi muốn đứng lên và nói rằng “Và bạn sẽ được trao thêm một đống những nan đề và gánh nặng khác.” Sau cùng, Chúa Giê-su nói: “Các ngươi sẽ có sự hoạn nạn trong thế gian” (Giăng 16:33) và Phi-e-rơ viết cho các Cơ Đốc Nhân vào thời của ông rằng, “Hãy trao mọi điều lo lắng mình cho Ngài, vì Ngài hay săn sóc anh em.” (I Phi-e-rơ 5:7). Ông nói với họ rằng một “lò lửa thử thách” sẽ tới và họ sẽ phải chịu khổ vì là Cơ Đốc Nhân (I Giăng 4:12-16).
Tôi có cảm giác rằng Hội Thánh ngày nay sẽ phải đối diện với một lò lửa thử thách và nó sẽ tách những con chiên ra khỏi những con dê và tách những sứ đồ thật với sứ đồ giả. Hội Thánh thời xưa đã gánh chịu những đau khổ bởi bàn tay của những người vô thần và họ vẫn vui mừng vì “xứng đáng chịu nhục vì danh Đức Chúa Giê-su” (Công Vụ 5:41). Phi-e-rơ nói cùng các thánh đồ đang chịu khổ rằng hãy vui mừng trong lúc chịu khổ bởi đó là cách mà thế gian đã đối xử với Ngài. Khi nào thế gian đối xử với chúng ta như nó đã đối xử với Ngài thì chúng ta sẽ được Chúa nhấc lên. Phi-e-rơ đã bảo họ phải tin Đức Thánh Linh sẽ giúp họ và chỉ cho họ con đường phải làm sao để vinh hiển danh Đức Chúa Trời (I Phi-e-rơ 4:12-16). Những Cơ Đốc Nhân thật giống như ánh sáng và muối và những người chưa được cứu không muốn những hành động, lời nói xấu xa của họ bị phơi bày bởi sự ra đi và làm chứng của con cái Đức Chúa Trời. Nhưng tôi cứ băn khoăn rằng liệu Hội Thánh ngày nay có được chuẩn bị để bước vào lò lửa thử thách? Nếu chúng ta không chuẩn bị, chúng ta sẽ không thể chịu đựng nổi sự mất mát hay có thể giữ được niềm vui trong Đấng Christ giữa sự đau đớn, những lời cáo buộc dối trá, hoặc có thể là bị giam cầm, và chết. Khi bạn đọc II Cô-rinh-tô 6:1-10, hãy xin Chúa soi xét tấm lòng của bạn và chỉ cho bạn biết phải chuẩn bị như thế nào.
Vui Mừng Sống Với Thánh Kinh.
Trong suốt đời mình, tôi được ban ơn dành cả cuộc đời cho nghiên cứu Kinh Thánh, lời Chúa, vì ơn phước này tôi ngợi khen Đức Chúa Trời. Một vài ngày sau khi tôi tin nhận Chúa, tôi đến thư viện công cộng để tìm hiểu và nghiên cứu Kinh Thánh và tìm thấy một sách nghiên cứu Kinh Thánh trên kệ. Tôi chưa từng thấy một cuốn nào như thế trước đây. Tôi không biết cuốn sách đã ở đó bao lâu nhưng tôi là người đầu tiên lấy nó xuống.
Tôi đã đọc đi đọc lại Kinh Thánh nhiều lần bằng nhiều bản khác nhau, tôi đã nghiên cứu nó cách cá nhân trong trường Kinh Thánh, và tôi đã giảng dạy về Kinh Thánh cho Hội Thánh, hội đồng giáo phẩm, và các lớp học Kinh Thánh. Tôi suy gẫm lời Chúa mỗi ngày, trong giờ tỉnh nguyện buổi sáng và cố gắng tuân giữ lời Chúa trong cả ngày hôm đó. Dĩ nhiên là tôi cũng đọc những cuốn sách khác nhưng tôi kiểm chứng chúng với những gì được chép trong Kinh Thánh. Qua nhiều năm, tôi đã viết nhiều cuốn sách chú giải Kinh Thánh và những đề tài về Kinh Thánh.
Tôi nói tất cả những điều này chỉ để cam đoan với bạn rằng tôi yêu mến lời Chúa và vui vẻ với đặc ân được chia sẻ Kinh Thánh cho mọi người. Thế gian chẳng có gì so được với niềm vui sướng mà con dân Chúa nhận được từ những chuyến phiêu lưu cá nhân cùng Kinh Thánh của họ. Đó là niềm vui sướng của một lữ khách sắp ngất vì đói được ngồi xuống bàn và ăn một bữa đầy đủ dinh dưỡng. Môi-se nói với dân Y-sơ-ra-ên rằng “loài người sống chẳng phải nhờ bánh mà thôi, nhưng nhờ mọi lời phán bởi miệng Đức Giê-hô-va” (Phục Truyền Luật Lệ Ký 8:3). Khi Sa-tan cám dỗ Chúa Giê-su biến đá thành bánh, Chúa của chúng ta đã đánh bại nó bằng việc trích dẫn câu Kinh Thánh này (Ma-thi-ơ 4:1-4).
Lời Chúa là thức ăn thuộc linh đem lại sự sống, sức mạnh và sức khỏe thuộc linh cho con cái của Chúa là những người ăn nuốt lời Chúa. Lời Chúa không chỉ được so sánh với bánh mì mà còn so sánh với sữa (I Phi-e-rơ 2:1-3), đồ ăn đặc (Hê-bơ-rơ 5:12-14) và mật ong (Thi Thiên 19:10; 119:103). Nếu bạn không thể nấu một bữa ăn với bánh mì, sữa, thịt và mật ong thì có lẽ bạn sẽ bị đói như đứa con trai hoang đàng ở nơi phương xa (Lu-ca 15:11-24). Tất cả chúng ta cần theo gương của Gióp, người từng nói rằng:
“Tôi chẳng hề lìa bỏ các điều răn của môi Ngài,
Vẫn vâng theo lời của miệng Ngài hơn là ý muốn lòng tôi.” (Gióp 23:12), và tiên tri Giê-rê-mi đã viết rằng “Tôi vừa nghe những lời Ngài, thì đã ăn lấy rồi; lời Ngài là sự vui mừng hớn hở của lòng tôi vậy” (Giê-rê-mi 15:16).
Lời Chúa không phải là đồ xa xỉ phẩm nhưng là nhu cầu rất thiết yếu. Lời Chúa là ánh sáng trong đêm tối dẫn đường cho người hành hương (Thi Thiên 119:105, 130), và là thuốc cho người đau ốm và sầu não (Thi Thiên 107:20). Lời Chúa là hột giống (Lu-ca 8:11) sản sinh bông trái khi nó được gieo trồng nơi đất tốt và kiên nhẫn chăm bón. Chính nước rửa làm chúng ta được tinh sạch (Ê-phê-sô 5:25-28) và thứ của cải hiếm hiệm đó làm giàu có cho đời sống chúng ta đời đời (Thi Thiên 119:14, 72, 127, 162). Lời Chúa là lời sống và cũng là lưỡi gươm sắc luôn đánh bại những thứ gian ác khi được vung lên bởi đức tin (Ê-phê-sô 6:17; Hê-bơ-rơ 4:12). Còn có những ẩn dụ khác trong Kinh Thánh, nhưng những ví dụ này làm chứng cho sự thiết yếu và vui hưởng cuộc sống theo lời Chúa. Chỉ khi nào chúng ta tiến tới sự yêu mến lời Chúa và say mê thì chúng ta mới thực sự biết được quyền năng của Chúa trong đời sống chúng ta (Thi Thiên 119:16, 111, 162, 165). “Giềng mối của Đức Giê-hô-va là ngay thẳng, làm cho lòng vui mừng.” (Thi Thiên 19:8).
Vui Vẻ Ban Cho.
Khi Phao-lô đang thu nhận sự dâng hiến đầy tình yêu thương từ các Hội Thánh của dân ngoại giúp cho các tín hữu Do Thái ở Đất Thánh, thì Hội Thánh ở Cô-rinh-tô lại chậm trễ. Phao-lô đã dành chương 8 và chương 9 trong II Cô-rinh-tô để khuyến khích tín hữu Cô-rinh-tô giữ lời hứa của mình, và ông dùng sự rộng rãi của các Hội Thánh ở Ma-xê-đoan để thách thức họ. Ông nói với Hội Thánh Cô-rinh-tô rằng “Đang khi họ chịu nhiều hoạn nạn thử thách, thì lòng quá vui mừng (Người Ma-xê-đoan), và cơn rất nghèo khó của họ đã rải rộng ra sự dư dật của lòng rộng rãi mình” (II Cô-rinh-tô 8:2). Đó chính là một công thức: Nhiều hoạn nạn thử thách + cơn rất nghèo khó + ân điển của Đức Chúa Trời = Sự dư dật của lòng rộng rãi. Các Hội Thánh Ma-xê-đoan đã đáp lại ơn của Đức Chúa Trời trong đời sống của họ (II Cô-rinh-tô 8:1), vì ơn của sự ban cho sinh ra sự vui vẻ và vì thế chúng ta muốn ban cho nhiều hơn!
Đức Chúa Giê-su nói rằng “Ban cho có phước hơn nhận lãnh.” (Công Vụ 20:35), và chính Ngài là tấm gương cho chúng ta noi theo. “Vì anh em biết ơn của Đức Chúa Giê-su Christ chúng ta, Ngài vốn giàu, vì anh em mà tự làm nên nghèo, hầu cho bởi sự nghèo của Ngài, anh em được nên giàu” (II Cô-rinh-tô 8:9). Dân sự Chúa là những ống dẫn chứ không phải hồ chứa. Thủ tướng Winston Churchill từng nói “Chúng ta sống nhờ vào những gì nhận được. Chúng ta làm nên cuộc sống của mình bằng những gì chúng ta cho đi.” Lòng tham và sự ích kỷ làm tắc nghẽn những ống dẫn ơn phước mà Đức Chúa Trời muốn mở ra cho chúng ta và chúng ta là kẻ thua cuộc.

Ngay từ đầu, Chúa Giê-su đã phó chính Ngài như một đầy tớ và “đi từ nơi nọ qua chỗ kia làm việc lành” và sau đó Ngài phó mình vì tội lỗi chúng ta bằng cách chết trên cây thập tự (Ga-la-ti 1:4). Hội Thánh Ma-xê-đoan “Họ lại làm quá lòng trông cậy của chúng tôi, vì trước hết đã dâng chính mình cho Chúa, và sau lại cho chúng tôi, theo ý muốn Đức Chúa Trời” (II Cô-rinh-tô 8:5). Chỉ khi nào chúng ta phó chính chúng ta cho Chúa, thì “công thức vui vẻ” mới áp dụng cho chúng ta được. A-na-nia và vợ ông là Sa-phi-ra đã bí mật tính toán và giả nhân giả nghĩa tặng một món quà giả dối cho Chúa và Chúa lấy đi mạng sống của họ (Công Vụ 5:1-11). Đức Chúa Trời “ban mọi vật dư dật cho chúng ta được hưởng” (I Ti-mô-thê 6:17). Sự vui mừng phải dẫn đến hành động chia sẻ với người khác những gì mà Đức Chúa Trời ban cho chúng ta.
“Hãy cho, người sẽ cho mình; họ sẽ lấy đấu lớn, nhận, lắc cho đầy tràn, mà nộp trong lòng các ngươi; vì các ngươi lường mực nào, thì họ cũng lường lại cho các ngươi mực ấy” (Lu-ca 6:38). Nếu như bạn thích những câu Kinh Thánh này, hãy bắt đầu đầu tư đi.
Vui Mừng Vì Thấy Trước Nước Thiên Đàng.

Tôi nghĩ rằng chính nhà soạn kịch người Anh Richard Brinsley Sheridan đã nói “Hạnh phúc là có ai đó để yêu thương, có việc gì đó để làm, và có thứ gì đó để hy vọng.” Mọi người tin Chúa thực sự có Chúa Giê-su và con dân Ngài để yêu thương, có công việc của Chúa để làm và nhà trên thiên đàng để hy vọng. Thật không may là chúng ta thường chỉ nói về thiên đàng khi ai đó ốm sắp chết hoặc đã mất rồi. Thực tế là khi chúng ta không thường xuyên bàn luận về thiên đàng là chỉ ra rằng chúng ta đang cảm thấy thoải mái trong thế gian này và không có nhiều tổn thương cần rịt lành. Bất cứ khi nào con dân Chúa đối mặt với kẻ thù và chống nghịch lại niềm tin và mạng sống của họ thì viễn cảnh về cuộc sống đời đời trên thiên đàng mới khuyến khích và thêm sức mạnh cho họ.
Người theo Chúa có trách nhiệm phải “khoe mình trong sự trông cậy về vinh hiển Đức Chúa Trời” (Rô-ma 5:2). Cho dù chúng ta được lên thiên đàng bằng cách được “mang lên” khi Chúa Giê-su trở lại hay về với Chúa khi chúng ta chết (chúng ta thích cách đầu tiên hơn), dù bằng cách nào đi nữa, chúng ta có lời hứa của Đấng Christ về một ngôi nhà trên thiên đàng (Giăng 14:1-6). Chúng ta đã “được ấn chứng bằng Đức Thánh Linh là Đấng Chúa đã hứa” (Ê-phê-sô 1:13-14). Lời của Phao-lô truyền cảm hứng cho tín hữu ở Tê-sa-lô-ni-ca đã làm rõ điều này (I Tê-sa-lô-ni-ca 4:13-18).
Nhưng thiên đàng thì còn hơn một đích đến; mà đó là động lực. Biết chắc rằng chúng ta sẽ ở thiên đàng cùng với Chúa Giê-su sẽ khiến cho chúng ta phải sống khác hơn so với hiện tại. Chỉ vì một điều này, xác tín về thiên đàng, đã thay thế nỗi sợ hãi sự chết bằng sự vui mừng đến từ Chúa. Khi một người thân yêu qua đời, con cái Chúa đau buồn nhưng không “như người khác không có sự trông cậy” (I Tê-sa-lô-ni-ca 4:13). Sẽ đến lúc chúng ta được sống lại, đoàn tụ và vui mừng trong thành thánh – cho đến đời đời. Sự xác tín về nhà đời đời của chúng ta và tương lai chúng ta sẽ trở nên giống Chúa Giê-su sẽ thúc đẩy chúng ta sống một đời sống thánh khiết “Ai có sự trông cậy đó trong lòng, thì tự mình làm nên thanh sạch, cũng như Ngài là thanh sạch” (I Giăng 3:3). Điều này cũng thúc giục chúng ta làm chứng và đưa dẫn người khác đến với Đấng Christ. “Vì sự trông cậy, vui mừng và mão triều thiên vinh hiển của chúng tôi là gì, há chẳng phải là anh em cũng được đứng trước mặt Đức Chúa Giê-su chúng ta trong khi Ngài đến sao? Phải, anh em thật là sự vinh hiển và vui mừng của chúng tôi vậy” (I Tê-sa-lô-ni-ca 2:19-20). Thấy trước nhà đời đời làm chúng ta trung tín trong sự hầu việc và làm chứng vì biết rằng một ngày kia Chúa Giê-su sẽ ban thưởng cho chúng ta. Khi chúng ta đối mặt với những kẻ thù nghịch và bị bức hại, chúng ta biết rằng chiến thắng cuối cùng sẽ là của chúng ta. “Khi nào vì cớ ta mà người ta mắng nhiếc, bắt bớ, và lấy mọi điều dữ nói vu cho các ngươi, thì các ngươi sẽ được phước. Hãy vui vẻ, và nức lòng mừng rỡ, vì phần thưởng các ngươi ở trên trời sẽ lớn lắm; bởi vì người ta cũng từng bắt bớ các đấng tiên tri trước các ngươi như vậy” (Ma-thi-ơ 5:11-12). Thời Cựu Ước các trưởng lão cũng không có một cuộc sống dễ dàng, và đó chính là sự trung tín của họ vào lời hứa của Đức Chúa Trời về một thành thánh đã giúp họ tiếp tục bước đi (Hê-bơ-rơ 11:13-16). Tương lai là bạn của bạn chỉ khi Chúa Giê-su là Chúa của bạn.
Tôi có thể tiếp tục, nhưng hãy để tôi kết thúc ở đây với sự vui vẻ gần như đã bị bỏ quên: vui vì chia sẻ sự vui mừng của bạn với người khác. Ê-li-sa-bét chia sẻ tin vui của bà với hàng xóm và họ hàng (Lu-ca 1:57-58) và tin vui của Ma-ri đã trở thành nguồn phước cho con cái Chúa khắp thế giới qua nhiều thế kỷ (Lu-ca 1:46-55). Niềm vui được chia sẻ thì niềm vui sẽ nhân đôi, nỗi buồn được chia sẻ thì nỗi buồn sẽ chia hai. Chúng ta rất phấn khích về sự vui mừng trong Đấng Christ và quyết định chia sẻ với họ để chúng ta không bị bắt gặp đang phàn nàn hay chỉ trích giống như người thế gian. Hãy đọc lại Lu-ca 15 và xem kẻ chăn chiên, người phụ nữ và người cha chia sẻ sự vui mừng với bạn bè và hàng xóm. Mặc dù Phao-lô đang là tù nhân ở Rô-ma, có nguy cơ bị xử tử, ông vẫn vui mừng trong Chúa và mời bạn bè của ông ở Phi-líp vui mừng cùng ông (Phi-líp 2:17-18).

Một Câu Hỏi Quan Trọng.

Khi Phao-lô viết cho những Hội Thánh đang có những vấn đề trong thơ tín Ga-la-ti ông hỏi họ câu này: “Vậy thì sự vui mừng của anh em đã trở nên thể nào?” (Ga-la-ti 4:15 TNIV). Bất cứ khi nào chúng ta mất đi sự vui mừng trong Chúa, chúng ta sẽ làm cho kẻ thù càng dễ dàng tấn công chúng ta. Chúng ta trở nên thích phê phán và khó khăn khi phải sống cùng nó, và điều này gây khó khăn cho chúng ta nhiều hơn khi làm công việc Chúa cũng như khó khích lệ người khác. Đánh mất một trái tim vui mừng là dấu hiệu của những vấn đề sâu thẳm bên trong cần được giải quyết. Khi chúng ta bắt đầu nản lòng và thất vọng là lúc chúng ta đang chuốc lấy sự buồn phiền. Chúng ta phải nói rằng:
“Nầy là ngày Đức Giê-hô-va làm nên,
Chúng tôi sẽ mừng rỡ và vui vẻ trong ngày ấy” (Thi Thiên 118:24).
Lòng thương xót của Chúa được làm mới luôn mỗi ngày (Ca Thương 3:22-23), và cho dù có vấn đề gì xảy ra hôm qua thì chúng ta vẫn có thể bắt đầu một khởi đầu mới ngay hôm nay.
Chương 6
Một Đời Sống Khôn Ngoan
“Cầu xin Chúa dạy chúng tôi biết đếm các ngày chúng tôi,
Hầu cho chúng tôi được lòng khôn ngoan” Thi Thiên 90:12.

Tôi đã thấy một cuốn sách quảng cáo rằng sẽ trả lời được câu hỏi, “Tại sao những người hiểu biết thường làm những điều ngốc nghếch?” Tôi chưa đọc cuốn sách này, nhưng câu trả lời đơn giản là có sự khác biệt cực lớn giữa sự hiểu biết và khôn ngoan. Một ngày nọ, một trong những giáo sư của tôi, một người xuất sắc bước vào lớp mà hoàn toàn không nhận ra rằng ông ấy đang đội hai cái mũ. Chúng tôi nghĩ rằng ông ấy đang làm một ví dụ để minh họa một vài nguyên tắc kinh tế chuyên sâu, nhưng chúng tôi đã nhầm. Ông ấy chỉ đơn thuần để cả hai cái mũ trên bàn và bắt đầu giảng bài nhưng tôi vẫn không quên những cái mũ.
Khôn ngoan không phải là một cách gọi khác của sự hiểu biết. Một trong những sáng kiến gần đây nhất đang được sử dụng ngày nay là chạm đầu ngón tay, nhờ những thiết bị điện tử có sẵn, nhưng bạn không thấy sự khôn ngoan bằng cách đó. Sự khôn ngoan đến từ chân lý, và bạn trả một giá nào đó để tìm kiếm. “Hãy mua chân lý, chớ hề bán đi” (Châm Ngôn 23:23). Kiến thức thực tế rất quan trọng, nhưng nó cần sự khôn ngoan để nhận biết, phân loại, đánh giá, và áp dụng nó. Sự khôn ngoan đáng giá cái gì đó. Khi tôi khám sức khỏe, bác sĩ của tôi thu thập mọi loại dữ liệu vì ông ấy và các nhân viên của mình biết phải chạy các trang thiết bị trong phòng kiểm tra như thế nào, nhưng bác sĩ phải sử dụng trí khôn để phối hợp các dữ kiện thực tế và đánh giá chúng trước khi ông ấy có thể nói với tôi những dữ kiện đó nói gì. Sự khôn ngoan của bác sĩ đến từ đâu? Nó đến từ sự tập luyện và kinh nghiệm thực tế. Ông ấy dành nhiều thời gian để suy nghĩ, đọc, lắng nghe, phát triển, gặp sai sót, và đạt được thành công. Sự khôn ngoan chính là sử dụng sự hiểu biết đúng mục đích. Sự khôn ngoan là những nguyên tắc cơ bản sống động mà Chúa chúng ta ban tặng. Nếu ai đó đang sống một đời sống khôn ngoan, thì đó chính là Cơ Đốc Nhân chân chính.
Chúng Ta Thờ Phượng Một Đức Chúa Trời Khôn Ngoan.
“Nơi Đức Chúa Trời có sự khôn ngoan và quyền năng; Mưu luận và thông minh đều thuộc về Ngài” (Gióp 12:13). Những người khôn ngoan mà không có sức thì không thể biến nó thành hành động còn những người có sức mà không khôn ngoan sẽ làm rối tung mọi việc. Đức Chúa Trời của chúng ta có thể làm mọi việc Ngài muốn và Ngài không bao giờ sai lầm. Sau khi Chúa tỏ cho Đa-ni-ên biết về ý nghĩa giấc mơ của vua, Đa-ni-ên đã ngợi khen Ngài, mà nói rằng: “Ngợi khen danh Đức Chúa Trời đời đời vô cùng! Vì sự khôn ngoan và quyền năng đều thuộc về Ngài” (Đa-ni-ên 2:20). Thông qua Chúa Giê-su Christ, chúng ta được ban cho sự khôn ngoan và quyền năng của Đức Chúa Trời vì thế ta biết Chúa muốn ta làm gì và Ngài sẽ giúp chúng ta hoàn thành điều Chúa muốn. “Ôi! sâu nhiệm thay là sự giàu có, khôn ngoan và thông biết của Đức Chúa Trời! Sự phán xét của Ngài nào ai thấu được, đường nẻo của Ngài nào ai hiểu được!” (Rô-ma 11:33).
Sự khôn ngoan là ứng dụng thực tế sự hiểu biết để hoàn thành ý muốn Chúa. Ý muốn của Chúa không chỉ là ấn chứng cho tình yêu Ngài mà còn là ấn chứng cho sự khôn ngoan của Ngài. Dân tộc Y-sơ-ra-ên bị lưu đày ở Ai Cập, nhưng Chúa không gửi Môi-se đến ngay. Ngài giữ con người kiệt xuất này ở đồng vắng Mi-ri-an, chăm sóc bầy cừu cứng cổ, cứng đầu. Chúa chuẩn bị cho Môi-se dẫn dắt một dân tộc giống như bầy cừu này. Trong sự hiểu biết thánh của Ngài, Đức Chúa Trời biết Môi-se là người như thế nào, dân Y-sơ-ra-ên là người ra sao, và trong sự khôn ngoan thánh của Ngài, Ngài đã chuẩn bị Môi-se cho dân Y-sơ-ra-ên. Khôn ngoan là phải biết những việc nào đáng giá và nên ưu tiên, điều này giúp chúng ta không bị phí thời gian vào việc quan trọng hóa những việc thứ yếu. Chúng ta có thể nhìn lại và hiểu rõ hơn tại sao những nhân vật và sự việc cứ xảy đến trong cuộc đời chúng ta và chúng ta có thể cảm ơn Chúa vì sự khôn ngoan của Ngài. Nếu tôi cứ khăng khăng đi theo con đường của mình và mọi thứ sẽ sai trật thì tôi sẽ phải hối tiếc rất nhiều.
Chúng Ta Sống Trong Một Thế Giới Được Tạo Dựng và Vận Hành Bởi Quyền Năng Và Sự Khôn Ngoan Của Đức Chúa Trời.
Tổ chức và ứng dụng các nguyên tắc và quy luật khôn ngoan mà Chúa đã dùng để dựng nên thế gian này chính là khoa học. “Đức Giê-hô-va dùng sự khôn ngoan lập nên trái đất; Nhờ sự thông sáng mà sắp đặt các từng trời” (Châm Ngôn 3:19). “Chính Đức Giê-hô-va đã làm nên đất bởi quyền năng Ngài, đã lập thế gian bởi sự khôn ngoan Ngài, đã giương các từng trời ra bởi sự thông sáng Ngài” (Giê-rê-my 10:12). Nếu không bởi Ngài, thì các phi hành gia không thể nào đến Mặt Trăng và quay về bình an. Con người tạo nên máy móc, nhưng Chúa cung ứng những quy luật không đổi để máy móc hoạt động.
Về đêm nếu chúng ta nhìn lên trời, chúng ta sẽ thấy những ngôi sao đang chỉ hướng cho hoa tiêu trước khi nhân loại phát minh ra la bàn, đài vô tuyến, hệ thống ra-đa, máy định vị thủy âm và hệ thống định vị toàn cầu. Chúng ta nhìn quanh và thấy sự đa dạng và phong phú về cuộc sống của các loại thực vật, động vật, con người, từ những hạt giống tí hon nhất cho đến những cây Sequoia khổng lồ, từ những trùng biến hình (a-míp cực nhỏ) cho đến loài voi hay bộ xương của một con khủng long. Nếu chúng ta kiểm tra bằng tia X-quang hay xem trên màn hình Tivi của bệnh viện để thấy bộ máy bên trong cơ thể của chúng ta hoạt động ra sao thì chúng ta sẽ hết sức ngạc nhiên. Khi tôi nằm trên bàn kiểm tra, kỹ thuật viên bệnh viện hỏi tôi rằng liệu tôi có muốn xem bên trong dạ dày của tôi không? Tôi đã đáp rằng: “Tôi muốn xem nó ở trong phòng riêng. Nhưng khi nhìn vào màn hình tôi kinh ngạc không thể nói thành lời. “Tôi cảm tạ Chúa, vì tôi được dựng nên cách đáng sợ lạ lùng. Công việc Chúa thật lạ lùng, lòng tôi biết rõ lắm” (Thi Thiên 139:14). Loài người chúng ta sống được là nhờ các mỏ quặng, thực vật, động vật, và những nguồn tài nguyên khác mà Chúa đã ban cho thế gian để làm vinh hiển Ngài. Mọi vật trong thế gian phải thốt lên, “Chúng tôi ngợi khen Chúa là Đấng khôn ngoan và quyền năng!”
Tôi nói tất cả những điều này để dẫn đến một thứ duy nhất: Nếu Chúa của chúng ta khôn ngoan và quyền năng như vậy Ngài có thể điều khiển vạn vật trong vũ trụ, vậy sao Chúa không thể hướng dẫn cuộc sống nhỏ bé của chúng ta, chăm sóc chúng ta, sử dụng chúng ta theo mục đích ban đầu mà Ngài muốn?
Tôi nghĩ Ngài có thể làm những điều này.
Vậy tại sao chúng ta phí thời gian, sức lực để băn khoăn và lo lắng? Sao mỗi ngày chúng ta không tuân giữ mạng lệnh Chúa theo sách Rô-ma 12:1-2 và Ê-phê-sô 6:10-18 và tin tưởng để Đấng Tạo Hóa, Đấng Cứu Thế và Cha chúng ta trang bị cho chúng ta mỗi ngày và đáp ứng mọi nhu cầu của chúng ta. Tôi biết Ngài có thể làm những điều này.
Chúng Ta Thấy Sự Khôn Ngoan của Đức Chúa Trời Được Ấn Chứng Rõ Ràng Trong Lời Ngài.
Sự khôn ngoan của Chúa mà ta thấy trong công cuộc sáng thế và trong lịch sử loài người cũng có thể hành động trong mỗi đời sống cá nhân của chúng ta để chúng ta vui mừng trong ý muốn của Chúa, trong Lời Ngài để làm thành công việc Chúa đã định sẵn trước cho chúng ta (Ê-phê-sô 2:10). “Vậy, hãy giữ cho khéo về sự ăn ở của anh em, chớ xử mình như người dại dột, nhưng như người khôn ngoan” (Ê-phê-sô 5:15-16). Chúng ta phải sử dụng thời giờ cách tốt nhất bởi vì chúng ta không thể lấy lại những ngày giờ đã mất. Đức Thánh Linh sử dụng lời của Đấng Christ ở đầy trong lòng mỗi chúng ta (Cô-lô-se 3:16) để chăm lo cho chúng ta. Thần của Đức Chúa Trời không xa rời con người và nếu chúng ta muốn đầy dẫy Đức Thánh Linh, chúng ta phải được nuôi bằng Lời Ngài. Trưởng thành về thể xác là được ban tặng nhưng trưởng thành về mặt thuộc linh là một cơ hội mà ta chỉ có thể hiểu thấu từng ngày từng ngày khi ta theo Chúa.
Thi Thiên 119 tập trung vào tầm quan trọng của lời Chúa trong đời sống của Cơ Đốc Nhân, và những câu này hết sức quan trọng. Hãy đọc chúng cách cẩn thận.
Một đời sống khôn ngoan.
“Tôi yêu mến luật pháp Chúa biết bao!
Trọn ngày tôi suy gẫm luật pháp ấy.
Các điều răn Chúa làm cho tôi khôn ngoan hơn kẻ thù nghịch tôi,
Vì các điều răn ấy ở cùng tôi luôn luôn.
Tôi có trí hiểu hơn hết thảy kẻ dạy tôi,
Vì tôi suy gẫm các chứng cớ Chúa.
Tôi thông hiểu hơn kẻ già cả,
Vì có gìn giữ các giềng mối Chúa.
Tôi giữ chân tôi khỏi mọi đường tà,
Để gìn giữ lời của Chúa.
Tôi không xây bỏ mạng lịnh Chúa;
Vì Chúa đã dạy dỗ tôi.
Lời Ngài ngọt họng tôi dường bao!
Thật ngọt hơn mật ong trong miệng tôi!
Nhờ giềng mối Chúa tôi được sự thông sáng;
Vì vậy, tôi ghét mọi đường giả dối.”
Phân đoạn này chỉ cho chúng ta về nhiều cách để chúng ta có thể trở nên khôn ngoan và sống thành công vinh hiển danh Chúa. Một trong những cách đó là kinh nghiệm, cả những kinh nghiệm tốt và xấu. Ngay cả kẻ thù của chúng ta cũng có thể dạy chúng ta nếu ta để Thánh Linh chỉ dạy. Chúng ta phải được “Chúa dạy” chứ không phải “con người dạy”, mặc dù Chúa có thể sử dụng con người để hướng dẫn chúng ta. Tác giả Thi Thiên không nói rằng ông ấy biết nhiều điều hơn các thầy giáo, kẻ thù, và những người lớn tuổi nhưng ông hiểu hơn họ. Kẻ thù biết những sự kiện thực tế và biết rằng điều gì đang diễn ra, nhưng tác giả Thi Thiên nắm bắt chân lý ở đằng sau những sự kiện đó và biết tại sao nó diễn ra.
“Ngài bày tỏ cho Môi-se đường lối Ngài.
Và cho Y-sơ-ra-ên biết các công việc Ngài” (Thi Thiên 103:7).
Tôi nhớ mình đã nghe những giáo sư xuất chúng của trường đại học, họ là những người đã làm nghiên cứu những dữ kiện liên quan đến khóa học, nhưng họ hoàn toàn bỏ qua những chân lý và những nguyên tắc cơ bản đằng sau những dữ kiện đó. Nếu chúng ta không thấy bàn tay của Chúa trong lịch sử, nghe tiếng Chúa trong văn học và nghệ thuật, ngạc nhiên về sự khôn ngoan của Ngài trong khoa học, tức là chúng ta đã bỏ qua những bài học quan trọng nhất.
Sự hiểu biết về Lời Chúa không chỉ là tiền đề cho một đời sống Cơ Đốc thành công mà còn là tiền đề của một nền giáo dục hoàn hảo. Hầu hết mọi hình thức nghệ thuật của nền văn minh Phương Tây đều dựa trên Kinh Thánh. Tiểu thuyết cổ điển Moby Dick của Herman Melville mở đầu với câu, “Hãy gọi ta là Ích-ma-ên.” Nếu ta không biết Sáng-Thế-Ký 16 và 21, tức là ta đã bỏ qua một câu văn quan trọng mà nó góp phần tạo nên tiểu thuyết này. Một lần tôi đọc lại Moby Dick và đánh dấu những đoạn văn trong cuốn tiểu thuyết nói đến Kinh Thánh và tôi tìm được hơn một trăm đoạn như vậy! Cơ Đốc Nhân là người nhận biết Thần Chân Lý trong Thánh Kinh có thể lắng nghe mọi bản tin buổi tối, đọc báo buổi sáng với sự thấu hiểu thông suốt hơn cả các phát thanh viên. Một trong những phát thanh viên trên chương trình Tivi nổi tiếng thường dùng câu này để kết thúc chương trình, “Và điều đó đã diễn ra như thế vào ngày___” và anh ta đưa ra ngày diễn ra sự kiện. Vance Havner thường nói trên Tivi rằng, “Không đúng, có vẻ là nó đã xảy ra như thế!” Ông ấy thấy các sự kiện trên thế giới qua cái nhìn khác. Campbell Morgan cũng thường nói rằng lịch sử là câu chuyện của Chúa, và ông ấy đã đúng.
Trong lịch sử xã hội Do Thái, người cao niên thường được sánh ngang với người khôn ngoan, và tác giả Thi Thiên thốt lên rằng ông ấy thông hiểu hơn cả những người già cả (Thi Thiên 119:100). Nói chung, sự khôn ngoan và tuổi tác thường đi cùng nhau, tuy nhiên có những ngoại lệ. Vài người cao tuổi nhưng thực sự chưa trưởng thành; họ sống lâu nhưng chẳng học được cách sống như thế nào. Họ trải qua nhiều sự kiện trong “trường đời đầy khó khăn” nhưng không học được gì từ đó. Than ôi, có cả những người già ngu dốt lẫn những người trẻ non dại! Nếu bạn biết Kinh Thánh, một trong những lợi ích của tuổi già là nhìn lại cuộc đời mình và thấy cách Chúa giữ lời hứa thật kỳ diệu và hoàn thành mục đích của Ngài. Ai đó đã nói rằng điều đó sẽ không xảy ra với chúng ta; chúng ta làm gì với điều đã xảy ra đó mới là thực sự là vấn đề. Chúng ta không thể chịu đựng điều đó nếu họ cày trên lưng chúng ta.
“Các nông phu cày trên lưng tôi,
Xẻ đường cày mình dài theo trên đó” (Thi Thiên 129:3).
Cái chúng ta có thể giúp là phân loại những hạt giống mà ta trồng trên các luống cày. Bởi nó quyết định vụ mùa mà ta gặt. Khi chúng ta nhiều tuổi, mắt ta lòa đi nhưng tâm trí ta minh mẫn hơn.
“Nhưng con đường người công bình giống như sự sáng chiếu rạng,
Càng sáng thêm lên cho đến giữa trưa” (Châm Ngôn 4:18).
Hãy tuân giữ các điều răn Chúa, mọi sự sẽ chẳng trở nên tối tăm mà ngày càng sáng láng hơn!
Chúng Ta Phải Bước Đi Trong Sự Kính Sợ Ngài.
Cụm từ “Kính sợ Đức Giê-hô-va” xuất hiện 27 lần trong Kinh Thánh, riêng Sách Châm Ngôn xuất hiện 14 lần. Đó chính là nội dung chính của thần học Kinh Thánh. Tôi cực kỳ thích định nghĩa mà Charles Bridges đưa ra trong phần bình luận xuất sắc về Sách Châm Ngôn: “Đó là vì sự kính sợ đầy yêu thương mà con dân Chúa chịu hạ mình khiêm nhường dưới luật pháp của Cha chúng ta.” Không phải là chúng ta sợ đến cứng người mà là sự kính sợ Chúa tiếp nghị lực cho chúng ta, khuyến khích, động viên chúng ta làm vui lòng Đức Chúa Trời trong mọi sự. Nếu bạn muốn hiểu về sự kính sợ Chúa, hãy bắt đầu đọc và làm theo Châm Ngôn 2:1-5. Tôi khuyên bạn nên đọc ngay bây giờ.
Ân điển, tình yêu thương và sự nhân từ của Chúa sẽ theo đuổi người có lòng kính sợ Ngài. Nếu chúng ta thành thực với chính mình, chúng ta sẽ nhận ra chúng ta thực sự là tội nhân. Đức Chúa Trời yêu thương chúng ta, lòng nhân từ, và ân điển Ngài ban cho chúng ta quá đỗi kinh ngạc. Chúng ta càng bước đi theo sự soi sáng của Chúa bao nhiêu thì chúng ta càng dễ dàng nhận ra những tội lỗi xấu xa của mình bấy nhiêu và càng hiểu rằng chúng ta không hề xứng đáng được gọi là con dân Chúa. Nhưng còn có một thành quả nữa: chúng ta càng nhìn lại chính mình, chúng ta càng yêu Chúa hơn và muốn làm mọi điều để làm vừa lòng Đức Chúa Trời. Sự kính sợ Đức Chúa Trời không chỉ là sự kính sợ lành mạnh của các thánh đồ mà còn là sợ mất đi những ơn phước mà Chúa đã sắm sẵn cho chúng ta. Tôi thích cụm từ “sự kính sợ đầy yêu thương” mà ông Bridges đã dùng. Gói gọn lại trong đó là từ “yêu thương” chính là sự hiểu biết chưa trọn vẹn của chúng ta về thập tự giá của Đấng Christ và vì tình yêu thương mà Ngài đã bị treo lên. Ngài yêu chúng ta. Ngài phó chính mình Ngài vì chúng ta! Thi Thiên 2:11 đã diễn tả một cách hoàn hảo:
“Khá hầu việc Đức Giê-hô-va cách kính sợ,
Và mừng rỡ cách run rẩy.”
Ông A. W. Tozer nói “Không ai có thể hiểu ân điển thực sự của Đức Chúa Trời.” Tác giả cúa thư tín gửi cho người Hê-bơ-rơ đã viết, “Như vậy, vì chúng ta có phần trong một nước không hay rúng động, nên hãy cảm ơn, hầu cho lấy lòng kính sợ hầu việc Đức Chúa Trời một cách đẹp lòng Ngài; vì Đức Chúa Trời chúng ta là đám lửa hay thiêu đốt” (Hê-bơ-rơ 12:28-29).
Chúng Ta Phải Bày Tỏ Về Sự Khôn Ngoan Của Đức Chúa Trời Với Mọi Người.
Nếu như bạn muốn biết Chúa nghĩ gì về sự khôn ngoan của thế gian, hãy đọc I Cô-rinh-tô 1:14-2:16 và suy gẫm trong lòng. Chúa gọi đó là sự ngu dại – không phải sự hiểu biết tự nó ngu dại (tuy một số ý kiến và lý thuyết phổ biến là phi lý), nhưng thế gian ngu dại vì cách họ sử dụng sự hiểu biết. Đức Chúa Trời luôn có kế hoạch để những người lớn tuổi dạy dỗ những thế hệ trẻ những điều họ cần biết về các vấn đề quan trọng trong cuộc sống, và tôi sợ rằng những người lớn tuổi đã tắc trách trong việc này. Phao-lô nói với Ti-mô-thê, “Những điều con đã nghe nơi ta ở trước mặt nhiều người chứng, hãy giao phó cho mấy người trung thành, cũng có tài dạy dỗ kẻ khác”. Chúng ta gọi là dạy học, nhưng Kinh Thánh gọi là dạy đạo. Trong thần thoại Hy Lạp, khi Ô-đi-sê đi đánh trận, ông tin tưởng gửi con mình cho một người thầy khôn ngoan tên là Mentor, và đó là nguồn gốc của từ mentoring (dạy đạo).
Một trong những niềm vui thích của tôi trong những năm hưu hạ là được ơn dạy dỗ những một vài chàng trai trẻ ưu tú là những người đang hầu việc Đức Chúa Trời và xây dựng Hội Thánh của Đấng Christ. Một trong số họ đã mở một Hội Thánh mới ở một thành phố gần đây và tôi lại được mời giảng dạy trong nhà thờ này một vài tuần lễ. Tôi cũng gặp riêng từng người đã từng tốt nghiệp cao đẳng, đại học và chúng tôi cùng nhau nghiên cứu Kinh Thánh từng câu một. Nếu chúng ta không dạy đạo cho thế hệ trẻ, chúng ta chỉ có thể đổ lỗi cho chính mình nếu Hội Thánh chúng ta trở nên yêu thế gian và hư hoại. Không những chúng ta dạy đạo mà còn phải sống đạo và trở thành những tấm gương sốt sắng cho giới trẻ. Điều này đặc biệt quan trọng với những Cơ Đốc Nhân đang là cha, mẹ, ông, bà làm gương tốt cho con trẻ về đời sống thuộc linh. Thế hệ con và cháu ngày nay là tương lai của Hội Thánh ngày mai.
Chúa Giê-su dạy Phao-lô chân lý và ông ấy đã truyền lại cho Ti-mô-thê. Ti-mô-thê dạy cho những người khác, những người này đã chia sẻ cho thế hệ kế tiếp. Ở đây chúng ta có 4 thế hệ tín hữu! Nếu mỗi thế hệ này đều trung tín khi ở nhà cũng như trong nhà thờ, dạy dỗ chân lý của Đức Chúa Trời cho trẻ con, thanh niên và những tân tín hữu, thì những giáo lý sai lạc, thuộc về thế gian sẽ không có chỗ đứng trong ngôi nhà của Chúa.
“Cầu xin Chúa dạy chúng tôi biết đếm các ngày chúng tôi,
Hầu cho chúng tôi được lòng khôn ngoan” (Thi Thiên 9:12).
Đời sống thì ngắn ngủi và chóng qua, và thời điểm để bắt đầu bước đi trong sự khôn ngoan và dạy dỗ người khác chính là – NGAY LÚC NÀY CHỨ KHÔNG PHẢI LÚC NÀO KHÁC.
Chương 7
Một Đời Sống Trong Sạch
“Mục đích của sự răn bảo, ấy là sự yêu thương, bởi lòng tinh sạch, lương tâm tốt và đức tin thật mà sanh ra” (I Ti-mô-thê 1:5).
Một Cơ Đốc Nhân “trong sạch” là người có cuộc sống cởi mở, thành thật và đáng tin cậy. Một đời sống như thế này thuộc về một người không có gì phải che dấu và sợ hãi. Sự trong sạch trái ngược với giả hình. Từ hypocrite nghĩa là “Một diễn viên kịch đeo mặt nạ.” Nói cách khác, là một kẻ giả hình. Trong thế giới cổ đại, các diễn viên thường đeo nhiều mặt nạ khác nhau và đóng những vai khác nhau trong vở kịch; và hầu hết người Pha-ri-si coi việc theo tôn giáo là đeo mặt nạ và đóng kịch. Đạo đức của các thầy thông giáo và người Pha-ri-si chỉ là giả tạo và Đức Chúa Giê-su đã loại bỏ họ (Ma-thi-ơ 5:20). Đọc Ma-thi-ơ đoạn 23 để biết Chúa chúng ta đã đánh giá về những người tin Chúa giả dối.
Trong những thư tín của Phao-lô, ông đã dùng từ “lương tâm” 21 lần, vì vậy nó là một chủ đề quan trọng mà chúng ta không thể bỏ qua. Trong đoạn Kinh Thánh này, Phao-lô đã nhấn mạnh một đời sống trong sạch của người công chính: một trái tim trong sáng, lương tâm tốt đẹp và đức tin chân thành. Những người giả tạo có trái tim đen tối, không phải trái tim trong sáng và đầy yêu thương. Lương tâm họ bị ô uế và đức tin của họ chỉ là những hành động theo thói quen chứ không đến từ lòng yêu kính Chúa.
Nhưng trước khi tôi xét đoán những người này, tôi phải xét lại đời sống mình đặc biệt là tình trạng của lương tâm tôi. Lương tâm chính là “cửa sổ thầm kín” mà ánh sáng chân lý của Đức Chúa Trời rọi qua giúp chúng ta nhận biết đúng sai. Nếu tôi làm đúng, lương tâm sẽ reo mừng; nếu tôi làm sai, lương tâm sẽ cáo trách tôi. Nếu tôi cứ tiếp tục làm trái lương tâm, cánh cửa sổ này sẽ vẩn đục và ánh sáng sẽ bị mờ đi và mối quan hệ giữa tôi với lương tâm tôi sẽ bị hư hoại. Hãy xem năm lời khuyên sẽ giúp chúng ta vui hưởng một đời sống trong sạch vì có một lương tâm trong sạch.
Nhấn Mạnh Sự Ngay Thẳng – Lương Tâm Tốt Lành.
Sự ngay thẳng trái ngược với sự giả hình và hai lòng như số nguyên với phân số. Người Pha-ri-si là những kẻ hai lòng và trong lòng họ muốn làm tôi hai chủ (Ma-thi-ơ 6:24). Con người ẩn sâu bên trong họ bị chia đôi. Họ dạy người khác phải làm nhưng họ lại không tuân giữ mạng lệnh của Chúa. Họ tỏ lòng thành kính bằng việc cầu nguyện lớn tiếng trên đường phố và thổi kèn khi họ dâng hiến trong đền thờ. Chúa Giê-su biết điều họ đang làm và Ngài cố gắng giãi bày với họ, nhưng họ chối bỏ Ngài. Ni-cô-đem và Giô-sép người A-ri-ma-thê là một trong số ít người nhận ra chân lý và đặt lòng tin vào Chúa Giê-su ở tòa công luận (Giăng 19:38-42).
Một lương tâm tốt lành phải được trui rèn bằng việc tuân giữ các mệnh lệnh của Chúa (Công Vụ 24:16), nếu không, nó sẽ dần dần mất đi các chức năng có sẵn.
Nhà văn châm biếm người Mỹ H.L Mencken định nghĩa, “Lương tâm là giọng nói bên trong cảnh báo chúng ta rằng có thể có ai đó đang nhìn đấy.” Nhưng người tin Chúa không quan tâm đến việc người khác nghĩ gì về mình vì họ biết rằng Chúa thấy mọi việc họ đang làm và Ngài đẹp lòng.
Cha chúng ta ở trên trời đã sắm sẵn cho chúng ta và nếu ta tuân theo lời Ngài, Ngài sẽ ban thưởng cho chúng ta. Cơ Đốc Nhân khiêm nhường nhất là người giữ lương tâm mình trong sạch chắc chắn sẽ được Đức Chúa Trời tiếp tục ban phước.
Khuyến Khích Người Có Lương Tâm Yếu Đuối Trưởng Thành.
Khi ta tấn tới trong ân điển và sự thông biết Chúa (II Phi-e-rơ 3:18), lương tâm chúng ta cũng sẽ trưởng thành và trở nên càng ngày càng nhận biết Chúa rõ hơn. Chân lý của Chúa chẳng thay đổi nhưng khi ta tấn tới trong sự hiểu biết, ta áp dụng chân lý đó. Chúng ta phải tấn tới trong sự thông biết và sáng suốt. Khi tôi là một tân tín hữu, một người bạn đưa tôi một đoạn Kinh Thánh và giải thích rằng Chúa có kế hoạch riêng cho cuộc đời tôi và tôi phải theo Ngài chứ không theo người ta (Phi-líp 1:9-11). Vâng, người khác có thể dạy tôi và khuyến khích tôi, nhưng chỉ có Giê-su mới là Chúa tôi. Nếu tôi dùng tấm gương của các Cơ Đốc Nhân để bào chữa, để bảo vệ cho những hành động sai trái thì tôi sẽ chẳng bao giờ trưởng thành. Tôi phải theo Thánh Linh để lương tâm trở nên mạnh mẽ khi tôi cầu nguyên, đọc Kinh Thánh, thờ phượng với anh em trong Chúa và tuân theo Lời Ngài.
Tôi học được rằng có một điều được gọi là “phong tục địa phương của người tin Chúa.” Một người bạn của tôi (người mà tôi gọi là Wally) đã lãnh đạo một nhóm người Mỹ rao giảng Phúc Âm ở Phần Lan. Khi anh ấy và nhóm của mình đang cùng người dẫn chương trình chuẩn bị cho buổi truyền giảng, Wally bắt đầu huýt sáo theo giai điệu một bài nhạc thánh. Người dẫn chương trình hỏi, “Ai giảng tối nay?” Wally trả lời rằng, “Tối nay tới lượt tôi giảng.” “Ôi anh không giảng được đâu!” Bạn tôi không biết rằng huýt sáo theo một bài nhạc thánh được coi là tội lỗi ở Phần Lan. Hầu hết mọi tín hữu trong Hội Thánh ngày nay đều tránh xa thuốc lá vì lý do sức khỏe hơn là lý do tôn giáo. Một người với lương tri yếu đuối thiếu sự hiểu biết Kinh Thánh và gặp khó khăn để trả lời câu hỏi, “Điều gì thuộc về Thánh Linh và điều gì thuộc về xác thịt?” Trong Chiến Tranh Thế Giới II, dưới sự che chở của chính quyền thành phố, các giáo viên trường cao đẳng thường đưa cả lớp tới rạp chiếu phim và các sinh viên thường xem một bộ phim giải trí cùng với một vài phim hoạt hình, nghe một bài hát kêu gọi tinh thần chiến đấu và được tặng những con tem tự do. Một vài người bạn Tin Lành từ chối tham gia vì họ tẩy chay những bộ phim, nhưng tôi biết rằng sau khi tốt nghiệp họ lại đi xem phim.
Hội Thánh ngày xưa bị bắt bí với những câu hỏi liên quan tới kiêng ăn, của cúng thờ thần tượng, và tuân giữ luật Môi-se. Những người Giu-đa tuân giữ luật nghiêm ngặt có quan điểm khác với dân ngoại. Phao-lô giải quyết những vấn đề của Cơ Đốc Nhân tự do trong Rô-ma 14:1-15:3 và I Cô-rinh-tô 8-10, và nguyên tắc chung mà ông đặt ra vẫn được áp dụng cho đến ngày nay. Nhiều Cơ Đốc Nhân trưởng thành hiểu rằng sự tự do trong Đấng Christ của họ không phải là lạm dụng sự tự do bằng việc làm theo các gương xấu gây cớ vấp phạm cho người khác; mà các tín hữu chưa trưởng thành về thuộc linh (Con đỏ trong Đấng Christ) chỉ trích và lên án những người biết sử dụng sự tự do vì danh Chúa. Điều này đơn giản chỉ là vấn đề của sự trưởng thành trong Chúa.
Khi đám trẻ nhà tôi còn nhỏ, vợ tôi và tôi rất cẩn thận không để dao, đinh ghim, kéo hay những đồ vật nguy hiểm khác lung tung trong nhà. Nhưng khi chỉ có hai chúng tôi, chúng tôi không cần giữ nguyên tắc đó. Tại sao? Bởi cả hai chúng tôi đều có kinh nghiệm để tránh nguy hiểm và sử dụng những vật dụng đó hợp lý. Sự khác biệt là chúng tôi đã là người trưởng thành. Điều quan trọng là với các tân tín hữu phải được dạy Lời Ngài và làm thế nào để áp dụng những Lời Ngài và những nguyên tắc này trong đời sống của chính họ. Thước đo của sự trưởng thành là tự do, điều này dựa trên chân lý của Kinh Thánh làm lợi cho Hội Thánh và làm sáng danh Chúa. Chúng ta không được tạo ra ranh giới để thử thách tình anh em hay sự thông công. Mà chúng ta phải tuân lệnh II Ti-mô-thê 2:2 và kiên nhẫn dẫn dắt tân tín hữu trưởng thành trong Chúa.
Một lương tâm yếu đuối sẽ làm cho con người trở nên dè dặt và họ hay để ý đến những chi tiết nhỏ lẻ về điều đúng, điều sai nên họ bị mất thăng bằng và mất đi sự tự do. Vài tín hữu sẽ không bước lên vết nứt trên vỉa hè vì họ sợ rằng nếu họ bước lên đó họ sẽ quay lại điểm xuất phát và bắt đầu lại cuộc hành trình. Nhà văn nổi tiếng người Anh Samuel Johnson đã buồn phiền vì điều này. Từ scruple có nguồn gốc từ tiếng La-tinh và nghĩa là “Một hòn đá nhỏ sắc nhọn trong giày của ai.” Có những người luôn băn khoăn cân nhắc những việc nhỏ trong khi ăn, lái xe, và thậm chí cả lúc làm việc và những thói quen này cướp đi của họ niềm vui và đôi khi là hiệu quả công việc. Một lương tâm lành mạnh giúp chúng ta thiết lập được giá trị đúng và tránh xa những thói quen trẻ con sẽ cướp đi sự tự do trong Đấng Christ.
Tránh Xa Sự Ô Uế – Lương Tâm Dơ Dáy.
Hãy nhớ rằng, lương tâm giống như cửa sổ để ánh sáng của Đức Chúa Trời rọi vào sâu trong tấm lòng của mỗi người, và nếu cửa sổ đó dính bụi bẩn, ánh sáng sẽ bị mờ đi.
“Con mắt là đèn của thân thể. Nếu mắt ngươi sáng sủa thì cả thân thể ngươi sẽ được sáng láng; nhưng nếu mắt ngươi xấu, thì cả thân thể sẽ tối tăm. Vậy, nếu sự sáng láng trong ngươi chỉ là tối tăm, thì sự tối tăm nầy sẽ lớn biết là dường bao!” (Ma-thi-ơ 6:22-23).
Quang cảnh quyết định kết quả, và nếu tầm nhìn của ta bị mờ, những quyết định sẽ sai trật và đem đến hậu quả đau đớn.
Mỗi khi chúng ta cố ý phạm tội và không ăn năn tội mình, chúng ta đã làm tổn thương lương tâm của mình cho đến khi nó trở nên dơ dáy tới mức không ánh sáng nào xuyên qua được và (tồi tệ hơn là) ánh sáng trở thành bóng tối. “Mọi sự là tinh sạch cho những người tinh sạch, nhưng, cho những kẻ dơ dáy và chẳng tin, thì không sự gì là tinh sạch cả; trái lại, tâm thần và lương tâm họ là dơ dáy nữa” (Tít 1:15). Một tâm thần dơ dáy thì dễ tìm cơ hội để phạm tội, và một lương tâm dơ dáy thì không gặp vấn đề gì khi bảo vệ cho tội lỗi.
Trong Cựu Ước các nhà hội có một cái chậu lớn để đựng nước, và các thầy tế lễ rửa tay và chân khi họ chuẩn bị làm lễ. Cái chậu này không có đáy vậy nên khi chân bị bẩn, thì tay họ cũng bị dơ vì các loại lễ vật hiến tế. Những cái chậu như thế này được làm từ đồng thau bóng loáng, chúng được tặng bởi các phụ nữ của các dân tộc dâng (Xuất Ê-đíp-tô ký 8), và gương là sự hiện thân về Lời Ngài (Gia-cơ 1:22-25, II Cô-rinh-tô 3:18). Để giữ tâm thần và lương tâm trong sạch, hãy bỏ thời gian đọc và nghiên cứu Kinh Thánh. Hãy rửa sạch trong chậu rửa làm bằng Lời Ngài! Kinh Thánh là chiếc gương giúp ta thấy chúng ta như thế nào, và nó cũng là nước để rửa sạch tội lỗi chúng ta (Ê-phê-sô 5:25-27). Nếu chúng ta xưng ra tội lỗi của mình, Chúa sẽ tha thứ cho chúng ta và dòng huyết của Đức Chúa Giê-su Christ sẽ rửa sạch mọi tội lỗi khỏi chúng ta (I Giăng 1:5-10).
Để việc xưng tội có giá trị là phải xưng tội chính xác và biết Chúa nói gì về điều đó. Chúng ta biết rằng cái chúng ta đã làm sẽ chỉ tồi tệ hơn khi mà ta cố làm cho nó trở nên tốt đẹp hơn. Tội lỗi là tội lỗi và xưng tội với Chúa là phải xưng tội bằng cả lòng thành. “Nếu tôi có tội” là lời xưng tội không trọn vẹn. Nếu chúng ta không đến với Chúa bằng một trái tim tan vỡ và lời xưng tội chân thành thì ta chỉ phí thời gian. Lời cầu nguyện, sự thờ phượng, sự dâng hiến, và việc lành không mang lại sự tha tội mà chỉ có sự ăn năn thật sự và sự xưng tội mình ra thì mới được tha. Bất cứ khi nào phạm tội, chúng ta phải giải quyết vấn đề ngay lập tức và công bố Lời Ngài hứa về sự tha tội. Việc giấu tội sẽ chồng thêm tội dẫn đến lương tâm xấu xa nhất – ác tâm (lương tâm gian ác).
Nuôi Dưỡng Lương Tâm Nhạy Bén – Lương Tâm Gian Ác.
Những người có lương tâm gian ác được miêu tả trong Ê-sai 5:20, “Khốn thay cho kẻ gọi dữ là lành, gọi lành là dữ; lấy tối làm sáng, lấy sáng làm tối; vật chi cay trở cho là ngọt, vật chi ngọt trở cho là cay!” Giá trị đạo đức của con người ngày nay bị đảo lộn và vài người xưng là Cơ Đốc Nhân khoe khoang về những tội lỗi lặp đi lặp lại của mình mà gọi đó là “sự tự do.”
Nếu chúng ta muốn có một đời sống trong sạch chúng ta phải đối xử với tội lỗi cách nghiêm khắc. Coi nhẹ tội lỗi là tội và dẫn đến hậu quả là hủy diệt…
“Người nào giấu tội lỗi mình sẽ không được may mắn;
Nhưng ai xưng nó ra và lìa bỏ nó sẽ được thương xót” (Châm Ngôn 28:13).
Chúng ta có thể phạm tội và che đậy nó với nhiều tội lỗi hơn, cuối cùng trở thành người có lương tâm gian ác hoặc chúng ta xưng ra tội lỗi của mình và chế ngự nó thông qua dòng huyết của Chúa Giê-su và quyền năng của Đức Thánh Linh. Chúng ta phải hết sức bảo vệ chính mình để không trở thành người nhẫn tâm có lương tâm gian ác mà phải gìn giữ sự nhạy bén đối với mọi điều mà Đức Thánh Linh nhắc nhở.
Khi một người xưng mình là Cơ Đốc Nhân đầu hàng các học thuyết của quỷ dữ, giả vờ có Thánh Linh, nhắc đi nhắc lại những lời giả dối, anh ta hay cô ta đã trở thành người có ác tâm (Lương tâm gian ác), “Vả, Đức Thánh Linh phán tỏ tường rằng, trong đời sau rốt, có mấy kẻ sẽ bội đạo mà theo các thần lừa dối, và đạo lý của quỉ dữ, bị lầm lạc bởi sự giả hình của giáo sư dối, là kẻ có lương tâm đã lì” (I Ti-mô-thê 4: 1-2). Phao-lô nói rằng những người như thế này lương tâm đã “chai lì” và họ không bao giờ đủ nhạy bén để nghe thấy tiếng Chúa nữa. Từ “sear” (chai lì) liên hệ tới miếng thịt đã bị đốt nóng và bị chai lì mất cảm giác. Những người như thế này không gớm ghiếc tội lỗi, không cự tuyệt nó mà trái lại họ chơi đùa với tội lỗi và vui thích với điều đó. Nếu như họ xưng tội mình thì những lời xưng tội của họ rất hời hợt, đầy những lời bào chữa. Họ phân loại tội của mình là nhỏ, trung bình, hay lớn, nhưng hiếm khi chấp nhận sự kinh khủng của tội lỗi mình. Giống như người Pha-ri-si trong ngày Chúa Giê-su bị nộp, họ được quan tâm hơn bởi danh tiếng chứ không phải nhân cách. Nếu bạn đối chứng với họ bằng Lời Ngài, họ sẽ giải thích nó theo cách của họ, rằng: “Đó là cách giải Kinh của bạn.” Đó là cách họ thường dùng để bào chữa cho mình.
Những bước tới gần lương tâm của quỉ dữ được liệt kê trong I Giăng 1:5-10. Nếu chúng ta nói dối người khác (I Giăng 1:6), chúng ta đã giả tạo. Nếu ta lừa dối mình (I Giăng 1:8), chúng ta đã thành kẻ hai lời, hai lòng. Chúng ta nói dối Đức Chúa Trời tức là chúng ta cho Ngài là kẻ nói dối (I Giăng 1:10), và ta trở thành kẻ bội đạo! Khi bạn đọc về cuộc đời của Vua Sau-lơ (I Sa-mu-ên đoạn 9- 31) bạn sẽ thấy sự sa ngã của ông vua này. Sau-lơ là người có năng lực nhưng không liêm chính. Ông khởi đầu tốt nhưng kết thúc trong bi kịch và bị giết bởi những người con trai của mình, bao gồm cả Giô-na-than mộ đạo. Chúng ta phải cầu nguyện hằng ngày để Chúa dẫn dắt ta cho đến cuối cùng. “Vậy thì, ai tưởng mình đứng, hãy giữ kẻo ngã” (I Cô-rinh-tô 10:12).
Tìm Kiếm Sự Cứu Rỗi – Khôi Phục Lương Tâm.
Các tín đồ không có lương tâm lành mạnh thì giống con tàu không có la-bàn hay máy bay không có ra-đa. Họ là những người khuyết tật, sai lầm từ thất bại này tới thất bại khác và bào chữa đi bào chữa lại, mà không biết con đường Chúa muốn họ bước đi. Nhưng họ vẫn có thể được khôi phục lương tâm.
“Vì nếu huyết của dê đực bò đực cùng tro bò cái tơ mà người ta rưới trên kẻ ô uế còn làm sạch được phần xác thịt họ và nên thánh thay, huống chi huyết của Đấng Christ, là Đấng nhờ Đức Thánh Linh đời đời, dâng chính mình không tì tích cho Đức Chúa Trời, thì sẽ làm sạch lương tâm anh em khỏi công việc chết, đặng hầu việc Đức Chúa Trời hằng sống, là dường nào!” (Hê-bơ-rơ 9:13-14).
Tuy nhiên, họ phải được tha tội và rũ bỏ hoàn toàn tội lỗi đó. Bất kỳ ai cũng có thể nhổ đinh khỏi bảng gỗ nhưng chỉ Chúa mới có thể cứu họ khỏi hố sâu tội lỗi. Nếu như tôi hỏi các bạn “Tội lỗi lớn nhất của Vua Đa-vít là gì?” các bạn có thể trả lời, “Phạm tội ngoại tình với Bát-sê-ba và xếp đặt U-ri bị chém chết trong chiến trường.” Nhưng vào thời điểm mà Đa-vít vi phạm luật của Chúa và Ngài đã ra lệnh điều tra dân số. Bảy mươi ngàn người đã chết trong một dịch bệnh bởi tội lỗi của chỉ một người (II Sa-mu-ên 24) Bằng việc phạm cả hai tội trên, Đa-vít đã làm ô uế lương tâm mình và chịu sự sửa phạt của Chúa. Nhưng Thi Thiên 32 và 51 đã minh chứng rằng Đa-vít đã hạ mình và xưng tội mình ra và Chúa đã tha thứ cho ông. Đa-vít cưới Bát-sê-ba và Chúa cho họ sinh một con trai đặt tên là Sô-lô-môn. Đa-vít mua một sân đạp lúa dựng một bàn thờ và dâng của lễ thiêu cho Chúa và bệnh dịch liền ngừng lại (II Sa-mu-ên 24:18-25). Nhiều năm sau, Vua Sô-lô-môn xây đền thờ Chúa tại nơi này!
Chỉ bởi ân điển của Chúa mà Ngài có thể tha thứ cho hai tội lớn nhất của một người và xây đền thờ! “Vả, luật pháp đã xen vào, hầu cho tội lỗi gia thêm; nhưng nơi nào tội lỗi đã gia thêm, thì ân điển lại càng dư dật hơn nữa” (Rô-ma 5:20).
Dù một người con Chúa chống đối Ngài hay họ xa rời ý muốn Chúa ra sao thì Chúa vẫn tha thứ. Chúng ta đừng trì hoãn và bị dụ dỗ nữa mà hãy tìm kiếm Chúa “trong khi Ngài đang ở gần” (Ê-sai 55:6). Chúng ta phải gánh chịu hậu quả của tội lỗi, nhưng mối liên lạc giữa Chúa và con dân Ngài có thể được làm mới lại. Chúng ta luôn có thể bắt đầu một khởi đầu mới, và chúng ta càng sớm làm điều đó thì đời sống và chức vụ của chúng ta càng tốt đẹp hơn và càng vinh hiển danh Chúa nhiều hơn.
“Người nào giấu tội lỗi mình sẽ không được may mắn;
Nhưng ai xưng nó ra và lìa bỏ nó sẽ được thương xót” (Châm Ngôn 28:13).
Cầu mong cho khát khao từ tâm khảm của chúng ta sẽ như Charles Wesley tác giả bài Thánh ca, “I want a principle within.” đã diễn tả, ông là một trong số ít người sáng tác Thánh ca về lương tâm.
I want a principle within
Of jealous, godly fear,
A sensibility of sin,
A pain to feel it near.
I want the first approach to feel
Of pride or fond desire,
To catch the wand’ring of my will,
And quench the kindling fire.
From Thee that I no more may part,
No more Thy goodness grieve,
The filial awe, the fleshly heart,
The tender conscience, give.
Quick as the apple of an eye,
O God, my conscience make;
Awake my soul when sin is nigh,
And keep it still awake.
Almighty God of truth and love,
To me Thy pow’r impart;
The mountain from my soul remove,
The hardness from my heart.
Oh, may the least omission pain
My reawakened soul,
And drive me to that blood again,
Which makes the wounded whole.
Amen and amen.

stock-photo-jesus-christ-son-of-god-over-dramatic-sky-background-religion-and-spirituality-concept-371792662

Chương 8
Một Đời Sống Tha Thứ
“Hãy ở với nhau cách nhân từ, đầy dẫy lòng thương xót, tha thứ nhau như Đức Chúa Trời đã tha thứ anh em trong Đấng Christ vậy.”
Ê-phê-sô 4:32
Sau khi tổ phụ loài người bất tuân mạng lệnh của Chúa lần đầu tiên (Sáng-Thế-Ký 3), họ cố gắng che đậy tội lỗi, xấu hổ và chạy trốn khỏi sự phán xét thiêng liêng, nhưng mọi cố gắng đều thất bại. Họ mặc quần áo bằng lá cây nhưng vẫn cảm thấy tội lỗi. Họ cố gắng ẩn mình trong các cây cối nhưng Đức Chúa Trời thấy họ và buộc họ phải đối mặt với tội lỗi của chính mình. Họ gắng đổ lỗi cho nhau nhưng Chúa biết sự thật. Con người vẫn dùng mọi cách trốn tránh để không phải giải quyết tội lỗi của họ. Nhưng cũng như A-đam ngày xưa, họ chỉ làm mọi việc tồi tệ hơn. Chỉ khi Chúa lột da những con vật vô tội và làm thành quần áo cho người đàn ông và vợ mình mặc lấy, họ mới được tha tội và mối tương giao giữa họ và Chúa được phục hồi. Việc này, dĩ nhiên là hình ảnh Chúa Giê-su đã làm cho chúng ta trên cây thập tự. Ngài nói với các môn đồ, “Vì nầy là huyết ta, huyết của sự giao ước đã đổ ra cho nhiều người được tha tội” (Ma-thi-ơ 26:28). “Nhưng, nếu chúng ta đi trong sự sáng cũng như chính mình Ngài ở trong sự sáng, thì chúng ta giao thông cùng nhau; và huyết của Đức Chúa Giê-su, Con Ngài, làm sạch mọi tội chúng ta.” (I Giăng 1:7). “Chẳng khứng vâng theo và không nhớ đến các phép lạ mà Chúa đã làm giữa chúng; nhưng chúng cứng cổ mình, và trong sự bội nghịch mình cắt một kẻ làm đầu đặng trở về nơi nô lệ của họ. Nhưng Chúa vốn một Đức Chúa Trời sẵn tha thứ, hay làm ơn, và thương xót, chậm nóng giận, và dư đầy nhân từ, Chúa không có lìa bỏ chúng” (Nê-hê-mi 9:17). Ngài là Đức Chúa Trời sẵn sàng tha thứ.

Chúa Tha Thứ Tội Nhân.
Trong suốt thời gian thi hành chức vụ Ngài trên đất, Chúa Giê-su không chỉ chữa lành thân thể mà còn tẩy sạch những tâm linh hư hoại. Chúng ta sẽ xem lại ba trường hợp sau.
Một người bại liệt nằm một chỗ (Ma-thi-ơ 9:1-8).
Bốn người bạn không thể khiêng người bại qua đám đông để vào nhà từ cửa chính nên họ mở một lỗ hổng trên nóc nhà và thả người đó xuống trước mặt Chúa Giê-su. Tuy nhiên Đức Chúa Giê-su không bắt đầu chữa cho thân thể bại liệt của người bệnh này ngay mà Ngài bắt đầu với tội lỗi của người đó. “Hỡi con, hãy vững lòng, tội lỗi con đã được tha” (Ma-thi-ơ 9:2). Tội lỗi của người này thì có liên quan gì tới tình hình bệnh tật của thân thể? Chúng ta không biết. Nhưng các thầy thông giáo thì cảm thấy bị xúc phạm bởi lời công bố của Chúa chúng ta, bằng việc công bố như vậy Đức Chúa Giê-su tự xưng mình là Đức Chúa Trời. Tất nhiên sẽ dễ hơn nếu chúng ta nói, “Tội của ngươi đã được tha.” Bởi vì không ai có thể thấy Đức Thánh Linh đang hành động. Bạn làm sao chứng tỏ được rằng nó đã diễn ra? Nhưng Chúa Giê-su đang sử dụng trường hợp này như là “một bài giảng sống.” Người bại liệt này là hình ảnh của một người tội lỗi bị lạc mất, không thể tự chữa cho mình, tất cả chỉ còn trông chờ vào sự nhân từ của Chúa. Chúa Giê-su chữa lành cả thân thể và tâm linh của họ, và thân thể được lành biểu hiện rằng tâm linh cũng được chữa lành.
Đức Chúa Giê-su có quyền phép để tha tội lẫn quyền phép để chữa bệnh. Tôi đã gặp nhiều người bị ốm và tàn tật, những người rất cần sự chữa lành nhưng không ai trong số họ tin nhận Chúa Giê-su là Chúa và là Đấng Cứu Thế. Rõ ràng là Chúa Giê-su thấy đức tin của người bị bại liệt. Thân thể được chữa lành sau cùng nhưng rất nhanh chóng, trong khi sự cứu chuộc là món quà đời đời. Chỉ khi chúng ta kêu cầu danh Ngài, Chúa Giê-su mới tha tội và ban cho chúng ta sự sống đời đời, vì, “Vả lại ai cầu khẩn danh Chúa thì sẽ được cứu” (Công Vụ 2:21).

Một Vài Người Không Chú Ý.
Khi một vài tên lính đang đóng đinh Chúa Giê-su trên cây thập tự, Ngài lặp lại lời cầu nguyện, “Song Đức Chúa Giê-su cầu rằng: Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết mình làm điều gì” (Lu-ca 23:34). Những tên lính này tất nhiên chỉ quen làm theo mệnh lệnh, nhưng những bậc cầm quyền dân Giu-đa, những kẻ gây ra cái chết của Chúa Giê-su thì đang phạm tội ác ngay giữa ban ngày. Họ biết các đấng tiên tri, họ đã thấy các phép màu, họ đã nghe những sứ điệp Chúa giảng, vậy mà họ vẫn cự tuyệt Ngài, và yêu cầu phải giết Chúa Giê-su. Đức Chúa Giê-su lại cầu nguyện rằng Cha sẽ ban sự tha thứ cho những tên lính ngu dại và cả những thầy thông giáo kiêu ngạo. Điều này không có nghĩa là họ mặc nhiên được cứu và lên thiên đàng, nhưng Đức Chúa Cha sẽ xét lại sự phán xét và cho họ cơ hội được cứu. Trong thời Cựu Ước một người chỉ cần chạm vào hòm giao ước thì sẽ bị Chúa xử tội chết ngay lập tức (II Sa-mu-ên 6:1-7), thế mà ở đây con người đã dám treo Con của Đức Chúa Trời lên cây thập tự! Sự ngu dại là không thể bào chữa dưới cái nhìn của luật pháp. Những thầy thông giáo người Giu-đa và những nhà cầm quyền La Mã là những kẻ ngu dại và đầy tội ác, nhưng Ngài đã xét lại tội lỗi họ trong ân điển của Chúa. Ngài đã cho xứ Giê-ru-sa-lem 40 năm ân điển trước khi quân đội La Mã đến và hủy diệt họ. Trong thời kỳ ân điển đó hàng ngàn người trở lại đạo tại xứ Giê-ru-sa-lem, xứ Giu-đê và xứ Sa-ma-ri, bao gồm những thầy tế lễ cả (Công Vụ 6:7). Chúa Giê-su đã “cầu thay cho những kẻ phạm tội” (Ê-sai 53:12) và Cha chúng ta đã nghe thấy và đáp lời. Đức Chúa Giê-su đã tha thứ cho kẻ thù mình và là tấm gương sáng cho chúng ta noi theo. Khi dân Giu-đa ném đá Ê-tiên tới chết, ông đã cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, xin đừng đổ tội nầy cho họ!” (Công Vụ 7:60). Đức Chúa Trời có thể ban ơn cho chúng ta được tha và quên đi tội lỗi chúng ta khi chúng ta càng trở nên giống Chúa Giê-su hơn.

Một Tên Trộm Không Chốn Dung Thân (Lu-ca 23:38-43).
Đức Chúa Trời là Đấng Định Sẵn, Ngài đã sắp sẵn Chúa Giê-su phải chịu treo trên thập giá ở giữa và hai bên là hai kẻ tội phạm. Cả hai đều có thể nghe Chúa Giê-su nói, đọc dòng chữ Phi-lát viết và treo trên đầu Ngài: “Giê-su người Na-xa-rét, Vua dân Giu-đa.” Một tên trộm có vẻ tức giận và thách thức bướng bỉnh, nhưng người còn lại thì nhận biết Đức Chúa Giê-su không phải là một phạm nhân mà là một vị vua, và quay sang Ngài ngỏ lời cầu xin. Người này xưng tội mình và tin rằng Chúa Giê-su có thể đưa mình về vương quốc Ngài. Chúa Giê-su nghe lời cầu nguyện của người, và đồng ý làm theo lời thỉnh cầu. Kẻ tội phạm này không biết Chúa Giê-su sẽ được thừa hưởng ngôi cao, nhưng Chúa chúng ta đã phán ngày đó gần đến. Chúa Giê-su trút linh hồn trước khi người kia chết và vì thế kẻ trộm không nơi nương tựa được Chúa đón lên thiên đàng. Con người đầu tiên là A-đam đã trở thành kẻ trộm và bị đuổi khỏi thiên đàng, nhưng A-đam sau chót (Chúa Giê-su) đã chết vì một tên trộm và đưa người lên thiên đàng.
Mọi người cho rằng đây là cơ hội cuối cùng cho những tên trộm tin Chúa Giê-su, nhưng có thể đây cũng là cơ hội đầu tiên. Một tên trộm đã không lãng phí cơ hội của mình mà bởi đức tin anh ta được Chúa Giê-su cứu. Thật là nguy hiểm cho những người chưa được cứu vì họ cho rằng họ còn nhiều thời gian để tin Chúa Giê-su và được cứu, nhưng chúng ta không biết khi nào thì cuộc sống kết thúc.
Chúa Tha Thứ Cho Người Đàn Bà Tội Lỗi.
Thật thú vị khi chúng ta xem lại “ba người phụ nữ tội lỗi,” những người này đã tin Đấng Cứu Thế và trải nghiệm một khởi đầu mới đó là những việc mà Chúa Giê-su đã làm khi Ngài thi hành chức vụ trên đất.
Một người phụ nữ ăn năn (Lu-ca 7:36-50).
Tại sao Si-môn người Pha-ri-si mời Chúa Giê-su dự bữa tối cùng người và thất bại khi được vinh hạnh đón Chúa tới nhà vẫn còn là một thắc mắc với chúng ta. Liệu đó có phải là sự cố gắng làm nhục Ngài? Nếu vậy, hãy nghĩ xem Si-môn cảm thấy xấu hổ như thế nào khi “người đàn bà xấu nết” bước vào phòng và bắt đầu làm cho Chúa Giê-su mọi điều mà Si-môn không làm cho Ngài. Người đàn bà phạm tội về xác thịt nhưng Si-môn lại phạm tội về tâm linh: kiêu ngạo, chỉ trích người đàn bà, chỉ trích Chúa Giê-su và thiếu tình yêu thương. Si-môn chỉ mời Chúa Giê-su mang tính xã giao trước đám đông, trong khi người phụ nữ này tuôn đổ tình yêu thương đối với Chúa Giê-su mà không hề xấu hổ. Đức Chúa Giê-su được gọi là “bạn của những người thu thuế và kẻ có tội” (Lu-ca 7:34). Và danh xưng này cũng không làm Ngài lúng túng. Nếu các bạn tra cứu tìm kiếm sự trùng khớp giữa các sách Phúc Âm, các bạn sẽ thấy rằng sự kiện này diễn ra sau khi Chúa chúng ta mời gọi dân chúng được ghi trong Ma-thi-ơ 11:28-30, “Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng ta, ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ.” Người phụ nữ nghe thấy lời mời gọi này, tin vào Chúa Giê-su và được tha tội và bà đến với Chúa Giê-su với lòng tôn kính. “Tội lỗi ngươi đã được tha.” Chúa phán. “Đức tin ngươi đã cứu ngươi. Hãy đi cho bình an” (Lu-ca 7:48, 50). Bởi đức tin, bà nhận được món quà tha tội và điều đó đã mang sự cứu rỗi và bình an đến trái tim bà.
Một Người Phụ Nữ Cẩn Trọng (Giăng 4:1-42).
Khi Đức Chúa Giê-su ở Sa-ma-ri với các môn đồ, và gặp người phụ nữ này tại giếng Gia-cốp trong khi mười hai môn đồ đi mua đồ ăn. Điều này là không bình thường khi một người thầy dạy luật Do Thái nói chuyện với một phụ nữ ở nơi công cộng, đặc biệt là một người phụ nữ tiếng tăm và lại là một người phụ nữ Sa-ma-ri. Để bắt chuyện, Chúa Giê-su hỏi bà xin nước uống. Điều này làm bà hoảng hốt vì “Số là, dân Giu-đa chẳng hề giao thiệp với dân Sa-ma-ri” (Giăng 4:9). Nhưng đây là cơ hội để Chúa Giê-su giới thiệu với bà về nước sống của sự sống đời đời. Khi bạn đọc về cuộc nói chuyện này giữa người phụ nữ và Chúa Giê-su, chú ý rằng bà ấy khá thận trọng trong khi hỏi và trả lời. Trong đầu bà chắc đang tự hỏi rằng, Người đàn ông này thật khác thường, và tôi băn khoăn không biết thực ra ông ấy có ý định làm gì. Bà tấn tới trong sự hiểu biết về Chúa Giê-su, “từ một người Giu-đa” (Giăng 4:9) đến “lớn hơn Gia-cốp” (Giăng 4:12) đến “một đấng tiên tri” (Giăng 4:19) đến “Đấng Christ” (Giăng 4:29). Khi Chúa Giê-su hỏi về chồng bà, bà thận trọng trả lời rằng bà không có chồng, nhưng Chúa Giê-su biết sự thật và nói với bà về điều đó. Bà tin Đấng Cứu Thế và ngay lập tức chạy vào thành phố kể cho mọi người nghe về Đấng Mê-si-a mà bà đã gặp. Chúa Giê-su ở lại với họ hai ngày và rất nhiều người được cứu. Sao Chúa Giê-su có thể cứu người đàn bà đã ly dị 4 lần, cưới lại 3 lần và ngay lúc đó đang sống cùng bạn tình? Dĩ nhiên là Ngài có thể và Ngài đã làm điều đó. Và Ngài vẫn cứu tội nhân vì Ngài là Đấng Cứu Thế, là Đấng tìm và cứu những người bị hư mất.
Một Người Phụ Nữ Bị Kết Án (Giăng 8:1-12).
Mọi việc trong sự kiện này làm tôi phiền lòng, ngoại trừ sự cứu chuộc người phụ nữ vô danh này. Rõ ràng là toàn bộ chuyện này là kế hoạch để giăng bẫy Chúa chúng ta. Người đàn ông phạm tội tà dâm với người phụ nữ này đâu? Rõ ràng là anh ta được trả tiền để dụ dỗ người phụ nữ này phạm tội và sau đó chối bỏ cô. Không thể tin được là những thầy thông giáo lại bày ra kế hoạch này và mang người phụ nữ này vào trong đền thờ, nơi họ đối mặt với Chúa Giê-su. Họ làm gián đoạn sứ điệp của Ngài khi họ để người ở giữa đám đông. Tại sao Đức Chúa Giê-su lại lấy ngón tay viết trên đất? Ngài đã viết gì? Có phải Ngài viết lại luật Môi-se đã được chép trên hai bảng đá bởi Đức Chúa Trời (Xuất Ê-díp-tô 31:18)? Có lẽ Đức Chúa Giê-su đã nhắc những thầy thông giáo này về Giê-rê-mi 17:13, một lời cảnh báo từ Đức Chúa Trời: “Hỡi Đức Giê-hô-va, là sự trông cậy của Y-sơ-ra-ên, những kẻ nào bỏ Ngài đều sẽ bị xấu hổ! Những kẻ lìa khỏi ta sẽ bị ghi trên đất, vì họ đã bỏ suối nước sống, tức là Đức Giê-hô-va.” Những thầy thông giáo này đã chống đối Chúa Giê-su, xa lìa chân lý và rời bỏ Đức Chúa Trời, nhưng chưa đủ họ còn định thử Chúa Giê-su và ném đá người phụ nữ. Chúa Giê-su lúc đó không giảng đạo hay là làm một phép lạ nào. Tất cả những gì Ngài nói là: “Ai trong các ngươi là người vô tội, hãy trước nhứt ném đá vào người” (Giăng 8:7). Bị đau đớn bởi chính lương tâm mình, những kẻ buộc tội rời khỏi đền thờ từng người một. Chúa Giê-su phán với người phụ nữ cách đầy thương mến: “Ta cũng không định tội ngươi; hãy đi, đừng phạm tội nữa” (Giăng 8:11). “Cho nên hiện nay chẳng còn có sự đoán phạt nào cho những kẻ ở trong Đức Chúa Giê-su Christ.”
Chúa Tha Thứ Cho Những Tín Hữu Đã Phạm Tội.
Những con dân Chúa không phải là vô tội, mà tội lỗi họ ít hơn và càng ngày càng ít phạm tội hơn khi họ tấn tới trong Chúa và bước đi với Thánh Linh. Vì Thầy Tế Lễ Cả Thượng Phẩm của chúng ta là Đức Chúa Giê-su có thể ban cho chúng ta ân điển chúng ta cần để vượt qua sự cám dỗ (Hê-bơ-rơ 4:14-16). Nhưng nếu chúng ta thất hứa với Ngài, và cố tình phạm tội, Ngài là Đấng Bênh Vực cho chúng ta trước Đức Chúa Cha. Nếu chúng ta xưng tội mình, Ngài sẽ tha thứ và khôi phục lại mối tương giao giữa chúng ta và Đức Chúa Trời (I Giăng 1:9-2:2). Chúng ta đã chứng kiến Chúa xử tội lỗi của Đa-vít. Vậy bây giờ hãy xem ba người là ông tổ đức tin, là những người đã từng bất tuân mạng lệnh của Chúa và tìm được sự tha thứ.
Áp-ra-ham chạy trốn tới Ê-díp-tô (Sáng Thế Ký 12:10-13:1).
Áp-ra-ham là một tấm gương vĩ đại trong Kinh Thánh về đức tin (Rô-ma 4, Hê-bơ-rơ 11:8-19). Bởi đức tin ông và vợ ông đã rời khỏi nhà ở U-rơ thuộc xứ Canh-đê và tới Ca-na-an, vùng đất Đức Chúa Trời hứa ban cho họ. Nhưng ngay khi đến đó, họ gặp một nạn đói khủng khiếp. Tại sao Chúa lại đưa dẫn họ đến một tình huống khó khăn như vậy? Lý do đó là để thử họ xem họ có bước đi bởi đức tin mà không nhìn bằng mắt thường không. Chúa biết tấm lòng của họ nhưng họ không hiểu được chính mình, và đức tin không được thử thách thì không thể vững vàng được. Trong hành trình thử thách đức tin với Chúa, họ sớm học được rằng thời điểm Chúa thử thách họ có thể trở thành thời điểm họ được hưởng phước.
Ở đây chúng ta biết rằng hầu hết những lãnh đạo trong Kinh Thánh đều thất bại vào lúc họ mạnh mẽ nhất chứ không phải lúc họ yếu đuối. Áp-ra-ham ông tổ của đức tin mất lòng tin nơi Chúa và chạy trốn tới Ê-đíp-tô. Môi-se người khiêm hòa (Dân Số Ký 12:3) mất bình tĩnh và đập hòn đá, và Đa-vít người đàn ông liêm chính bị phát hiện bất tuân mạng lệnh và đầy dối trá. Phi-e-rơ là một người can đảm trở nên sợ hãi trước một đầy tớ gái và chối Chúa. Phao-lô viết rằng “Vì khi tôi yếu đuối, ấy là lúc tôi mạnh mẽ.” (II Cô-rinh-tô 12-10). Nơi yên bình nhất trên thế giới là sống theo ý muốn của Đức Chúa Trời, dù cho hoàn cảnh quanh ta có như thế nào.
Khi Áp-ra-ham đến Ca-na-an thì gặp cơn đói kém lớn, lẽ ra ông nên nói rằng, “Đức Chúa Trời đã mang chúng tôi tới đây thì Ngài sẽ chăm lo cho chúng tôi.” Sau đó ông nên lập một bàn thờ, thờ thượng Đức Chúa Trời, và dựng lều để ở và chứng kiến những việc Đức Chúa Trời làm vì ông là một khách lạ và tha hương ở vùng đất này. Thay vì làm những điều này ông lại đến Ê-díp-tô, nơi đó ông đã nói dối vua và suýt nữa thì mất vợ. Lời tiên tri về Đấng Mê-si-a khó thành hiện thực! Việc Áp-ra-ham đưa Lót đến Ê-díp-tô đã làm hỏng hành trình bước đi theo đức tin của Lót và ông ấy bắt đầu so sánh đồng bằng bên sông Giô-đanh với mọi thứ mà ông đã thấy ở Ê-díp-tô (Sáng Thế Ký 13:10). Kết quả là Lót mất tất cả.
Dân Y-sơ-ra-ên ngả theo tấm gương xấu của Áp-ra-ham giống như một số tín đồ ngày nay. Bất cứ khi nào có vấn đề xảy ra trong cuộc hành trình qua đồng vắng, dân Y-sơ-ra-ên lại muốn quay lại Ê-díp-tô. Bất cứ khi nào họ bị đói, khát, bị kẻ thù tấn công, phản ứng đầu tiên của họ là nhớ lại lúc ở Ê-díp-tô chứ không phải là nhìn trông Chúa. Họ muốn ở trong cảnh nô lệ và thấy an toàn hơn là được tự do và đặt lòng tin cậy vào Đức Chúa Trời. Nhiều thế kỷ sau, tiên tri Ê-sai đã cảnh báo những hậu duệ của họ, “Khốn thay cho những kẻ xuống Ê-díp-tô đặng cầu cứu, nhờ những ngựa, cậy những xe binh vì nó nhiều, và những lính kỵ vì nó mạnh, mà không ngó về Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên, và chẳng tìm cầu Đức Giê-hô-va!” (Ê-sai 31:1).
Áp-ra-ham đánh mất đức tin và gặp vấn đề nghiêm trọng tại Ê-díp-tô bởi lời nói dối của ông và thiếu niềm tin. Cuối cùng, Chúa ban phước cho người nào có lòng trung tín và chân thật chứ không phải bởi các kế hoạch khôn khéo của chúng ta. Chúa bảo vệ Sa-ra, cứu bà và chồng bà, đem họ trở lại Vùng đất hứa nơi thuộc về họ. Hãy xem lòng nhân từ Chúa lớn thể nào với con dân của Ngài!
Môi-se đập hòn đá (Dân Số Ký 20:1-13).
Ngay sau khi đưa dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ê-díp-tô, Môi-se cung cấp nước sạch cho họ bằng cách nói với hòn đá (Xuất Ê-díp-tô 17:1-7). Sau đó họ phản nghịch tại Ca-đe, họ lại bắt đầu phàn nàn và làm Môi-se buồn lòng; Chúa phán với ông rằng hãy nói với hòn đá và nước sẽ chảy ra. Nhưng Môi-se tức giận và gọi những người dân Y-sơ-ra-ên là “dân phản nghịch” và cùng với A-rôn nhận lãnh sự trừng phạt của Chúa. Trong cơn tức giận, Môi-se đập vào hòn đá thay vì nói với hòn đá. Chúa nhân từ vẫn cung cấp nước cho dân sự nhưng Ngài cũng trừng phạt Môi-se và không cho phép ông tiến vào vùng đất Ca-na-an. Giống như Giô-na phải ở ngoài thành Ni-ni-ve (Giô-na 4), có thể Đức Chúa Trời ban phước cho người khác nhưng không ban phước cho bạn. Những người phục vụ Đức Chúa Trời phải nhận biết cơn tức giận của Chúa và gọi đó là “sự phẫn nộ phải lẽ.” Một tối tại buổi hội thảo, tôi nghe một người giảng lời Chúa trút nỗi giận dữ của mình, dù sự trình bày của ông đáng nghe, nhưng thái độ cay đắng của ông đã tạo nên một bầu không khí đầy căng thẳng. Bằng tình yêu thương Đức Chúa Trời đã sửa trị Môi-se nhưng nhiều thế kỷ sau vẫn cho phép ông được tiến vào vùng đất trên núi hóa hình (Ma-thi-ơ 17:1-8)! “Nhưng nơi nào tội lỗi đã gia thêm, thì ân điển lại càng dư dật hơn nữa,” (Rô-ma 5:20).
Phi-e-rơ chối Chúa 3 lần (Lu-ca 22:31-34,54-62).
Nếu như Áp-ra-ham bị thua bởi thế gian (Ê-díp-tô) và Môi-se thua bởi xác thịt (cơn giận dữ), thì Phi-e-rơ bị tấn công bởi Sa-tan. Đức Chúa Giê-su cảnh báo Phi-e-rơ rằng Sa-tan đang có kết hoạch sàng sảy ông và những môn đồ khác, nhưng Phi-e-rơ tự tin rằng mình sẽ không bị xao động (Lu-ca 22:31-34). Chúng ta nghĩ rằng ta hiểu lòng mình, nhưng không phải vậy (Giê-rê-mi 17:9), và khi chúng ta cảm thấy mạnh mẽ nhất thường là lúc chúng ta yếu đuối nhất. “Vậy thì, ai tưởng mình đứng, hãy giữ kẻo ngã” (I Cô-rinh-tô 10:12). Khi bạn theo chân Phi-e-rơ từ trên phòng cao xuống đến sân nơi ông chối Chúa, bạn khám phá ra vài loại cạm bẫy mà Sa-tan đặt ra để làm mồi nhử Phi-e-rơ. Phi-e-rơ khoe khoang khi ông phải lắng nghe, ngủ gục trong khi ông cần phải thức canh và cầu nguyện, phản ứng khi ông cần phải phục tùng, và đi theo Chúa vào vườn trong khi ông cần phải tránh đi. “Hãy để cho những kẻ nầy đi” (Giăng 18:8), là khi Chúa ra hiệu cho mọi người tránh xa và không đi theo Ngài. Nếu như Phi-e-rơ tuân theo lời Ngài thì có lẽ ông đã tự cứu mình tránh khỏi sự nóng giận, tội lỗi và buồn bã. Nhưng sau khi Chúa Giê-su phục sinh, Chúa đã gặp Phi-e-rơ cách riêng tư và khôi phục lại mối tương giao (I Cô-rinh-tô 15:5); và sau đó Ngài gặp lại Phi-e-rơ trước đám đông và phục hồi chức vụ thánh đồ cho ông (Giăng 21:15-25). “Hãy theo Ta” là lời Ngài thông báo với mọi người rằng tất cả mọi thứ đã tốt đẹp. Chúa tha thứ cho Phi-e-rơ, ban cho ông đầy dẫy Đức Thánh Linh và dùng ông đưa dắt hàng nghìn người tin vào Chúa Giê-su Christ. Kẻ thù buộc tội chúng ta, muốn chúng ta tin rằng tội lỗi của chúng ta mãi mãi khiến chúng ta không xứng đáng hầu việc Đức Chúa Trời. Nhưng I Giăng 1:9 đã buộc chúng phải câm miệng.
Chúa Muốn Chúng Ta Tha Thứ Cho Người Khác.
Một trong những cách tốt nhất để chứng tỏ cho mọi người thấy đức tin của chúng ta nơi Đấng Christ là tha thứ khi họ phạm tội và giúp họ khôi phục lại mối tương giao giữa họ với Chúa và với con dân Ngài. Nếu chúng ta không tha thứ, cuối cùng chúng ta sẽ phải cần sự tha thứ cho chính bản thân mình. “Hỡi anh em, ví bằng có người nào tình cờ phạm lỗi gì, anh em là kẻ có Đức Thánh Linh, hãy lấy lòng mềm mại mà sửa họ lại; chính mình anh em lại phải giữ, e cũng bị dỗ dành chăng” (Ga-la-ti 6:1). Những tội lỗi cá nhân phải giải quyết cách cá nhân, những tội lỗi công khai thì phải giải quyết công khai và mọi việc phải được giải quyết trong tình yêu Chúa. Bằng cách tha thứ ai đó 490 lần, chúng ta sẽ có thói quen tha thứ! Tôi biệt riêng thời gian dành Lời Cầu Nguyện với Chúa mỗi ngày và khi tôi cầu nguyện lần thứ 5, tôi thêm vào câu “Cha ơi, xin ban cho con tinh thần tha thứ cho ngày hôm nay.” Một tinh thần không tha thứ sẽ là nơi đổ bộ của quỷ dữ có thể dễ dàng trở thành chiến trường của những tài xế không cẩn thận, một thang máy bị chậm, một đứa trẻ gây ồn trong nhà thờ, hay là một hàng xóm hay dòm ngó. (Nếu chúng ta có những người hàng xóm ngồi ở hiên nhà với ống nhòm, nhòm ngó hàng xóm mình. Chúng ta nên đóng chặt cửa trước.)
Những tín đồ không biết tha thứ làm buồn lòng Đức Chúa Trời và tự đánh mất ơn phước Chúa ban. Tôi biết một chấp sự luôn giữ trong túi một cuốn sổ tay ghi tên những người hay xúc phạm hoặc không đồng ý với ông. Ông ấy nên giải quyết những vấn đề này ngay lập tức và tận hưởng sự tự do trong Chúa, nhưng dường như ông quá để tâm. Theo I Cô-rinh-tô 13:5, “[Tình yêu thương] chẳng ghi lại những điều sai trật” (TNIV). Lập luận của Phao-lô trong Ê-phê-sô 4:32 chặt chẽ đến mức chúng ta không thể tranh cãi về điều đó; vì Chúa nhân từ tha thứ cho chúng ta, chúng ta cũng vì lòng nhân từ mà tha thứ cho anh em mình. “Nếu một người trong anh em có sự gì phàn nàn với kẻ khác, thì hãy nhường nhịn nhau và tha thứ nhau: như Chúa đã tha thứ anh em thể nào, thì anh em cũng phải tha thứ thể ấy” (Cô-lô-se 3:13). Một tinh thần không tha thứ cản trở lời cầu nguyện của chúng ta (Ma-thi-ơ 5:21-26; 6:5-15; I Phi-e-rơ 3:7) và trao cơ hội cho quỷ dữ tấn công (II Cô-rinh-tô 2:6-111). Chúng ta phải tha thứ cho kẻ thù nghịch mình và làm bạn với họ và những anh em tín hữu (Ma-thi-ơ 5:43-48; Rô-ma 12:17-21).
Sự tha thứ nghĩa là tự do trong Chúa, một tinh thần không tha thứ nghĩa là đang trong cảnh nô lệ, và chúng ta phải quyết định chọn giữa hai điều này. Nếu chúng ta chọn mang sự ác cảm và thù hận, chúng ta đang cố “đùa giỡn Đức Chúa Trời” và mất tình yêu thương anh em mà chúng ta nên có. Đầu tiên chúng ta phải tha thứ cho chính mình, và sau đó tìm kiếm sự tha thứ từ cá nhân và sửa lại những lỗi lầm. Ma-thi-ơ 18:15-20 cho chúng ta biết những bước để làm theo.
Chương 9
Một Đời Sống Kết Quả
“Chính Ta là cây nho, còn các con là nhánh; người nào cứ ở trong Ta và Ta trong người ấy thì chắc sẽ sinh nhiều quả, vì ngoài Ta các con không làm gì được.” Giăng 15:5
Hãy đọc Giăng 15:1-17. Lời của Chúa chúng ta dành cho các môn đồ là một điềm báo: “Vì ngoài ta, các ngươi chẳng làm chi được” (Giăng 15:5). Sau rốt, những người này thấy Ngài sau khi Ngài trở về bên Cha và họ muốn kết quả cho Chúa. Trong Bài Giảng Trên Núi, Ngài đã cảnh báo họ rằng muối mất mặn thì “vô tác dụng” (Ma-thi-ơ 5:13), và họ nghe Ngài phán rằng: “Con chẳng tự mình làm việc gì được” (Giăng 5:19). Chính trong phòng trên lầu cao Chúa đã giải thích với họ làm thế nào để có kết quả khi làm chứng về Chúa, và những nguyên tắc như Ngài đã hạ mình để phục vụ vẫn còn áp dụng cho đến ngày nay. 1
1. Một vài đoạn trong chương này được lấy từ quyển, 5 Secrets of Living (Wheaton, IL: Tyndale 1978).

Nếu Chúng Ta Muốn Trải Nghiệm Một Đời Sống Cơ Đốc Nhân Thực Thụ, Chúng Ta Phải Kết Quả Cho Chúa.
Những nguyên tắc khá quen thuộc như những thí dụ mà Chúa Giê-su đã dùng bởi vì gốc nho, nho, rượu là những điều quan trọng mật thiết với cuộc sống của người Do Thái. Một ly rượu và một miếng bánh mì cho bữa trưa của người lao động, và rượu thường xuất hiện trên bàn cùng với các món ăn khác. Chúa Giê-su đã từng quở một cây vả rằng nó không có quả và cũng chẳng có gì ngoài lá cả (Ma-thi-ơ 21:19).
Chúa đã để con dân Ngài ở lại trên đất và họ phải “kết quả và nhân số lượng lên nhiều” bằng cách đem nhiều người trở lại với Chúa. Phao-lô lo lắng khi thăm Rô-ma vì vậy ông “định hái ít nhiều trái” giữa vòng dân ngoại (Rô-ma 1:13). Phao-lô là một nhà truyền giáo Phúc Âm, và gánh nặng trong tim ông chính là đem nhiều người trở lại tin nhận Chúa, cả người Giu-đa và dân ngoại bang. “Còn không rao truyền Tin lành, thì khốn khó cho tôi thay!” (I Cô-rinh-tô 9:16). Vậy Hội Thánh ngày nay có chịu gánh nặng để đến với người bị hư mất không?
Đời sống nên thánh là một loại bông trái khác mà chúng ta phải mang lấy. Phao-lô khuyên dạy Hội Thánh Rô-ma, “Lấy sự nên thánh làm kết quả” (Rô-ma 6:22). Ông cũng thúc giục các tín hữu ở Cô-rinh-tô tiếp tục, “Hãy hoàn thành sự thánh hóa trong niềm kính sợ Đức Chúa Trời” (II Cô-rinh-tô 7:1). Người Pha-ri-si có sự nên thánh giả tạo, một đức tin yếu ớt vô dụng với đời sống nên thánh. Đức Thánh Linh ngự trong mỗi tín hữu, và khi chúng ta bước đi trong Thánh Linh chúng ta có thể sinh ra bông trái Thánh Linh đó là, “Lòng yêu thương, sự vui mừng, bình an, nhịn nhục, nhân từ, hiền lành, trung tín, mềm mại, tiết độ” (Ga-la-ti 5:22-23). Hê-bơ-rơ 12:11 nói về “bông trái công bình.”
Sự rộng lượng là một bông trái tinh thần khác mà mọi tín hữu nên mang lấy. Người theo đạo Do Thái ở Pa-lét-tin là những người tuân thủ đạo đức nghiêm ngặt, và họ dựa vào điều đó. Phao-lô đem một của lễ đặc biệt từ các Hội Thánh của dân ngoại là những Hội Thánh mà ông đã lập nên. Ông liên tưởng của lễ này như là một “quả phước” (Rô-ma 15:28), và để nó tuôn chảy trong đời sống tinh thần của các Hội Thánh. Khi những người bảo vệ nhà thờ mở cửa để nhận của lễ ngày Chúa Nhật, họ đang thu hoạch bông trái trong đời sống tinh thần của những người thờ phượng Chúa. Của lễ ở đây chỉ là “bông trái” chứ không phải là “của cải tiền bạc.” Nó không đến từ tình cảm hời hợt hay sức ép của con người mà là từ tình yêu thương.
Khi chúng ta thực sự ngợi khen Chúa bởi Đức Thánh Linh đang làm việc trong đời sống chúng ta, đó là bông trái Thánh Linh. Hê-bơ-rơ 13:15 gọi nó là “dâng tế lễ bằng lời ngợi khen… nghĩa là bông trái của môi miếng xưng danh Ngài ra.” Những nhà lãnh đạo tôn giáo đã nghĩ ra nhiều cách để khuyến khích cộng đồng tôn giáo ca ngợi Chúa, nhưng sự sai trật nằm trong tâm của con người. Sự sống của Chúa không có ở trong tim họ và họ không sản sinh ra bông trái ngợi khen. Cũng sự phân tích như vậy áp dụng trên những nhà thờ có tinh thần phục vụ yếu. Phao-lô gọi kết quả của sự phục vụ Chúa là “bông trái của sự công khó” (Phi-líp 1:22).
Những tín đồ Cơ Đốc mà không sản sinh bông trái là giả tạo hay không thuộc về Đức Thánh Linh, và họ không kinh nghiệm một đời sống Cơ Đốc Nhân thực thụ!
Nếu Chúng Ta Muốn Kết Quả Cho Chúa, Chúng Ta Phải Ở Trong Chúa Giê-su Christ.
Bạn có thể sản xuất bóng chơi Golf hay ô-tô, nhưng bạn không thể sản xuất bông trái, bởi bông trái đến từ sự sống. Bông trái có hạt ở trong để sinh ra nhiều bông trái hơn. Trong vòng tròn thuộc linh, chúng ta nghe nhiều về “kết quả” nhưng “kết quả” không phải là bông trái. Một kế toán có thể lấy kết quả từ máy tính hay một bà nội trợ lấy kết quả từ máy rửa bát. Nhưng nó không giống với bông trái sinh ra từ việc làm của Đức Thánh Linh. Phao-lô khuyên nhủ chúng ta “Ấy vậy, hỡi những kẻ rất yêu dấu của tôi, như anh em đã vâng lời luôn luôn, chẳng những khi tôi có mặt mà thôi, lại bây giờ là lúc tôi vắng mặt, hãy càng hơn nữa, mà lấy lòng sợ sệt run rẩy làm nên sự cứu chuộc mình. Vì ấy chính Đức Chúa Trời cảm động lòng anh em vừa muốn vừa làm theo ý tốt Ngài” (Phi-líp 2:12-13). Chúa làm việc trong lòng mỗi người để chúng ta bày tỏ ra bên ngoài. Đức Chúa Giê-su phán với các môn đồ rằng Ngài làm việc trong lòng mỗi chúng ta qua Kinh Thánh (Giăng 15:3,7), bằng sự vâng lời của chúng ta (Giăng 15:10,14), bằng tình yêu thương anh em (Giăng 12,13) và qua lời cầu nguyện (Giăng 15:7,16).
Làm theo Đấng Christ vừa là quyền lợi và trách nhiệm. Sự hiệp một của chúng ta với Đấng Christ (Mối liên hệ giữa Con và Cha) được hoàn thành khi chúng ta tin Ngài là Đấng Cứu Thế và là Chúa, nhưng sự giao thiệp của chúng ta (Tình anh em trong Chúa) là sự kinh nghiệm từng hồi từng lúc, ngày này qua ngày khác. Điều đó nghĩa là chịu khuất phục bởi Đức Thánh Linh, được nuôi dưỡng bằng Lời Ngài, thờ phượng Chúa và phục vụ Ngài bất cứ nơi đâu. Đôi khi trong mối tương giao với Chúa xảy ra những vấn đề khó khăn và bầu trời tối đen. Gốc nho chỉ có thể sinh ra những trái tốt nhất khi chúng được tỉa sửa cẩn thận, và Chúa phải chặt bỏ khỏi chúng ta những điều cướp đi cả chất lượng và số lượng của sự ra hoa kết trái (Giăng 15:1-2). Chúa gần với chúng ta nhất khi Ngài tỉa sửa chúng ta. Quá trình này gây đau đớn nhưng nếu không làm vậy chúng ta sẽ không sinh bông trái.
Làm sao ta biết được khi nào chúng ta đang ở trong Chúa? Chỉ một điều này thôi, chúng ta đang sinh bông trái và làm vinh hiển danh Chúa. Những năng lực ẩn dấu trong Đấng Christ làm ta trưởng thành và dạy dỗ người khác một cách phi thường. Chúng ta có tình yêu, sự vui mừng trong tim mình và dâng lời ngợi khen, tạ ơn tới Cha mỗi khi chúng ta làm công việc của mình. Chúng ta sẽ thấy Đức Chúa Trời trả lời lời cầu nguyện và chúng ta cảm biết sự hiện diện của Ngài ở trong chúng ta vào mỗi giờ phút khó khăn. Chúng ta thấy vui mừng được tận hiến khi ta phục vụ người khác. Nói cách ngắn gọn, chúng ta trở nên giống Đức Chúa Giê-su và tìm cách bày tỏ về Ngài với những người bị hư mất.
Những người vô tín và cố ý phạm tội để phá vỡ mối tương giao của chúng ta với Chúa. Khi điều đó xảy ra, chúng ta mất kiên nhẫn, ích kỷ, hay đòi hỏi, hay chỉ trích, và không kết quả – và chúng ta biết điều đó! Đó là khi chúng ta phải ở riêng với Chúa bằng cả tấm lòng và tâm hồn, ăn năn tội lỗi mình, và lập lại mối tương giao với Chúa. Hãy nhớ lại những lời hứa trong Kinh Thánh và đọc chúng lên như những liều thuốc bổ cho linh hồn mình. Hãy giữ vững tình anh em trong Chúa để nhờ Chúa sửa phạt và dạy dỗ chúng ta, bởi Cha yêu chúng ta nhiều đến mức Ngài sẽ không để chúng ta phá bỏ tình anh em trong Chúa, không đánh què chân chúng ta, và không phá hủy bông trái của chúng ta (Hê-bơ-rơ 12:1-17). Chúng ta hãy cầu nguyện như Vua Đa-vít:
“Xin hãy ban lại cho tôi niềm vui vẻ về sự cứu rỗi Chúa.
Xin giữ tôi vững mạnh qua ý muốn sẵn lòng” (Thi Thiên 51:12).

Nếu Chúng Ta Muốn Ở Trong Chúa, Chúng Ta Phải Tuân Giữ Mạng Lệnh Chúa.
Chúa đã soạn sẵn những nguyên tắc và quy luật dành cho tạo vật của Ngài, nếu chúng ta muốn thành công chúng ta phải tuân giữ chúng. Nếu những quy luật này không tồn tại, khoa học sẽ sụp đổ, và máy móc sử dụng trong cuộc sống sẽ ngừng hoạt động. Máy bay bay được là bởi vì chúng được thiết kế để tuân theo các quy luật của khí động học; xe ô tô chạy được là bởi động cơ của nó tuân theo quy luật của động cơ đốt bên trong; các loại thuốc chữa bệnh được là bởi chúng làm việc theo một số nguyên tắc của hệ tiêu hóa, tuần hoàn … trong cơ thể con người. Nhưng điều gì đúng trong thế giới khoa học thì cũng đúng trong thế giới tâm linh. Chúa Giê-su phán, “Nếu các con vâng giữ điều răn của Ngài, thì các con sẽ còn ở trong tình yêu của Ta” (Giăng 15:10). “Các con là bạn hữu của Ta nếu các con thi hành điều Ta truyền” (Giăng 15:14). Nhảy xuống từ một tòa nhà chọc trời mà không tuân theo định luật về trọng lực là tự sát và bất tuân luật lệ của Đức Chúa Trời là tự tước bỏ quyền năng, khôn ngoan, và sự vui mừng mà Ngài muốn chúng ta được hưởng.
Thái độ của chúng ta đối với ý muốn của Đức Chúa Trời là phải vui mừng, yêu mến việc tuân giữ mạng lệnh của Chúa. Đây là điều mà Con đã thưa với Cha: “Hỡi Đức Chúa Trời tôi, tôi lấy làm vui mừng làm theo ý muốn Chúa, Luật pháp Chúa ở trong lòng tôi” (Thi Thiên 40:8; xem thêm Hê-bơ-rơ 10:5-9). Nếu tôi hình dung ý muốn Chúa như là hàm khớp và dây cương (Thi Thiên 32:9) hay là xiềng xích (Thi Thiên 2:3), tôi sẽ không bao giờ có được sự vui mừng và đắc thắng trong ý muốn của Ngài. Hãy nhớ rằng, ý muốn của Đức Chúa Trời đến từ lòng Ngài và thể hiện tình yêu của Ngài dành cho chúng ta (Thi Thiên 33:11). Bị tỉa sửa không phải là một trải nghiệm dễ chịu, nhưng chúng ta phải chấp nhận bởi chúng ta yêu Ngài và muốn làm đẹp lòng Ngài. Những lớp lá vô ích trong đời sống của chúng ta chỉ cản trở sự sinh bông kết trái làm vinh hiển danh Chúa.
Một vài Cơ Đốc Nhân che dấu những ý tưởng sai về ý Chúa. Họ nghĩ rằng ý Chúa sẽ chỉ áp dụng đối với “những điều quan trọng” như là chọn nghề nghiệp, hay tìm bạn đời; nhưng ý Chúa áp dụng với tất cả mọi phương diện của cuộc sống. Điều này không có nghĩa rằng chúng ta phải cầu nguyện về chuyện chọn cà vạt nào, hay mua xe màu nào, mà là thánh hóa những điều thông thường trong cuộc sống. Châm Ngôn 3:5-6 nói rằng: Chúng ta chớ nương cậy nơi sự thông sáng của mình, mà cũng không nói chúng ta phải loại bỏ nó. Chúa tạo ra chúng ta theo ảnh tượng của Ngài để chúng ta là tạo vật biết ý muốn Chúa. Sự hiểu biết và khôn ngoan luôn làm việc cùng nhau.

Nếu Chúng Ta Muốn Vâng Giữ Lời Ngài, Chúng Ta Phải Yêu Chúa.
Không có tình yêu thương, tuân giữ lời Ngài có thể trở thành gánh nặng đè bẹp chúng ta; nhưng với tình yêu thương, chúng ta vui mừng làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời. “Vì nầy là sự yêu mến Đức Chúa Trời, tức là chúng ta vâng giữ điều răn Ngài. Điều răn của Ngài chẳng phải là nặng nề” (I Giăng 5:3). Chúa Giê-su phán rằng, “Nếu các ngươi vâng giữ các điều răn của ta, thì sẽ ở trong sự yêu thương ta” (Giăng 15:10), và vì chúng ta ở trong tình yêu Chúa, chúng ta giữ các điều răn Ngài! Cách Gia-cốp tính về tình yêu của ông dành cho Ra-chên nhắc nhở chúng ta (Sáng Thế Ký 29:20). Nếu chúng ta tuân theo Chúa chỉ để trốn tránh sự trừng phạt hay để có phần thưởng, chúng ta sẽ không kinh nghiệm được đời sống của Cơ Đốc Nhân ở mức độ cao nhất. Sự phục vụ của chúng ta sẽ giống như bị hành hạ, không phải làm cho tốt đẹp hơn, và sự vui mừng trong Chúa cũng không thể bắt chúng ta làm việc. Tình yêu thương là lý do cao trọng nhất cho sự hy sinh và phục vụ (Giăng 15:13), và “Tình yêu thương chằng hề hư mất bao giờ” (I Cô-rinh-tô 13:8).
Tình yêu thương của Cơ Đốc Nhân là gì? Chúa Giê-su đã đãi chúng ta thể nào thì hãy đãi người khác như vậy. Tình yêu thương không chỉ là một cảm xúc đến rồi đi. Tình yêu thương là một hành động của ý muốn, nó sống một cách thong thả giống như Chúa Giê-su đã sống, dựa vào quyền năng của Đức Thánh Linh để chúng ta hành động. Tình yêu thương là sự làm trọn luật của Đức Chúa Trời (Rô-ma 15:8-10) và giải phóng chúng ta khỏi cách sống máy móc, tuân thủ luật pháp cách tuyệt đối của người Pha-ri-si. Tình yêu thương là một cách sống không phải là một mẹo nhỏ như tắt, mở máy tính. Trái đầu tiên của bông trái Đức Thánh Linh chính là tình yêu thương (Ga-la-ti 5:22), bởi vì nó được trồng sâu trong vùng đất màu mỡ của tình yêu nên những bông trái khác sẽ sinh sôi. Hãy đọc I Cô-rinh-tô 13 và Ga-la-ti 5:22-23 và xem chúng được so sánh với những bông trái khác. Đôi lúc Chúa đem đến cho chúng ta thử thách để “làm màu mỡ” cho khu vườn tình yêu của chúng ta, và chúng ta phải để Chúa làm điều đó. Giô-sép đặt tên một trong những con trai mình là Ma-na-se, nghĩa là “người hay quên” và nói rằng “Đức Chúa Trời đã làm cho ta quên điều cực nhọc, và cả nhà cha ta.” Người còn lại ông đặt tên là Ép-ra-im, nghĩa là “sự kết quả” (Sáng Thế Ký 41:51-53). Bởi đức tin và tình yêu của ông với Chúa, Giô-sép đã quên đi những thử thách mà ông trải qua và có một chức vụ đầy kết quả ở xứ Ê-díp-tô – và Chúa làm thành mọi điều ông ao ước.

Nếu Chúng Ta Muốn Yêu Chúa Giê-su Hơn, Chúng Ta Phải Biết Rõ Hơn Về Ngài.
Bây giờ bạn có thể thấy tiến trình một đời sống của Cơ Đốc Nhân kết quả.
Chúng ta càng hiểu về Chúa nhiều hơn, thì càng yêu Chúa hơn.
Chúng ta càng yêu Chúa hơn thì càng muốn vâng lời Chúa hơn.
Chúng ta càng vâng lời Chúa hơn thì càng dầm thắm ở trong Chúa hơn.
Chúng ta càng dầm thắm trong Chúa nhiều hơn thì càng sinh bông trái nhiều hơn.
Chúng ta càng sinh bông trái nhiều hơn thì càng kinh nghiệm phong phú về sự sống của Cơ Đốc Nhân hơn.
Chúng ta càng biết nhiều về người nào đó thì càng thấy khó mà yêu quý họ, nhưng chúng ta càng biết nhiều về Chúa Giê-su, thì chúng ta càng yêu Ngài hơn, dù Ngài ở cách chúng ta cả năm ánh sáng trong mọi việc. Ngài muốn kết tình bạn hữu trong Chúa với chúng ta! Đức Chúa Giê-su đụng vào người bị phung, ăn cùng bàn với người tội lỗi xấu xa, chào đón những người không nơi nương tựa và cuối cùng Ngài chết trên thập tự giá vì những tội nhân không đáng bị hư mất. Chúng ta không hoàn hảo, nhưng Ngài hoàn hảo. Chúng ta ích kỷ, nhưng Ngài không ích kỷ, Ngài từ bỏ chính mình và tất cả những gì Ngài sở hữu. Mục đích của Đức Chúa Trời cho đời sống của chúng ta chính là: làm chúng ta “Trở nên giống với Con Ngài” (Rô-ma 8:29). Điều này không có nghĩa là chúng ta dùng sức của minh cố gắng để giống Đấng Christ, mà chúng ta phải đầu phục Ngài và để Chúa Thánh Linh biến đổi chúng ta ngày càng trở nên giống Chúa hơn. Chúng ta kinh nghiệm sự hiện diện của Chúa: “Đấng Christ sống trong tôi” (Ga-la-ti 2:20).
Công việc của Đức Thánh Linh trong thế giới ngày nay gồm 2 phần; làm con người hư mất nhận biết tội lỗi cần có một Đấng Cứu Thế và biến đổi những người được cứu để họ trở nên giống Đấng Cứu Thế càng hơn. Hai chức vụ này đi song song với nhau, khi Hội Thánh càng giống Chúa Giê-su hơn thì thế gian hư mất sẽ thấy và nhận biết Ngài nhiều hơn. Chúng ta là muối của đất và muối làm con người khát. Chúng ta là ánh sáng của thế gian, và ánh sáng giúp con người thấy họ là ai (Ma-thi-ơ 5:13-16). Chúa đến với người bị hư mất qua cách con dân Chúa sống và làm việc như thế nào.
Làm thế nào để biết Chúa rõ hơn? Bằng cách bỏ thời gian cùng Ngài mỗi ngày nghiên cứu Kinh Thánh, cầu nguyện. Bằng tình bạn hữu với Ngài và con dân Chúa thường thờ phượng và hầu việc. Bằng cách quan sát những tạo vật xung quanh chúng ta và ngợi khen Ngài. Bằng cách khao khát tìm kiếm sự giúp đỡ của Chúa và cách Chúa dẫn dắt chúng ta. Đôi lúc chúng ta cần tránh xa sự cô đơn và liên tục biệt riêng thời gian để tương giao với Chúa. Khi chúng ta quá bận bịu và có nhiều điều lo toan, chúng ta thường có xu hướng xao lãng và không sinh lợi cho Chúa, và đó là khi Chúa nói với chúng ta hãy lui vào nơi thanh vắng và nghỉ ngơi một chút (Mác 6:31). Bất cứ khi nào mẹ ông John Wesley cảm thấy chìm trong áp lực vì bà phải chăm lo cho một gia đình lớn, bà ngồi xuống, cởi tạp dề ra và tĩnh nguyện. Việc này đưa mọi thứ trở lại như cũ. Tôi học được rằng thỉnh thoảng nên “tạm nghỉ để được phước” chính là nguồn gốc của sức mạnh và bình an đến từ Chúa. Bị giữ lại ở ngã tư bởi một đoàn tàu chậm? Xếp hàng khi thanh toán trong lúc một khách hàng tìm thẻ tín dụng? Chờ đợi trong nhà hàng khi bạn đến muộn? Đừng mất bình tĩnh và phàn nàn! Hãy làm trái tim yên nghỉ trước Chúa và nhờ ơn Chúa. Chúng ta đừng tốn thời gian khi làm những điều không quan trọng, mà hãy đầu tư thời gian vào cõi đời đời khi chúng ta tạm dừng và tĩnh nguyện.
Để biết Chúa Giê-su nhiều hơn, chúng ta cần yêu Chúa nhiều hơn, và việc này đem lại kết quả là ta yêu tội nhân nhiều hơn nên thế gian bớt tội. Chúng ta cũng yêu con dân Chúa nhiều hơn và khát khao đưa những người hư mất đến với Đấng Cứu Thế. Chúng ta sẽ yêu mến Lời của Chúa càng hơn và luôn tìm kiếm Chúa Giê-su trên mỗi trang Kinh Thánh.
Biết Chúa rõ hơn nghĩa là trở nên giống Chúa càng hơn. Chúng ta có thể thỉnh thoảng bị hiểu lầm bởi gia đình và bè bạn nhưng đừng ngại – Chúa hiểu điều đó và môn đồ Ngài cũng vậy.
Đức Chúa Giê-su hiểu chúng ta và chúng ta đang tấn tới trong sự thông biết Chúa, và đó mới là vấn đề chúng ta thật sự quan tâm.

images

Chương 10
Một Đời Sống Biến Đổi
“Tôi đã bị đóng đinh vào thập tự giá với Đấng Christ, mà tôi sống, không phải là tôi sống nữa, nhưng Đấng Christ sống trong tôi; nay tôi còn sống trong xác thịt, ấy là tôi sống trong đức tin của Con Đức Chúa Trời, là Đấng đã yêu tôi, và đã phó chính mình Ngài vì tôi” Ga-la-ti 2:20.
Có tới 7 danh xưng được dùng trong câu Kinh Thánh này, nhưng Phao-lô đang viết không phải chỉ cho chính mình mà còn viết cho mọi người đã tin nhận Chúa Giê-su là Đấng Cứu Thế và là Chúa. Ông đang giải thích ý nghĩa thuộc linh tuyệt vời về sự chết của Chúa Giê-su, nếu chúng ta hiểu điều này và công bố cho mọi người, cuộc sống của chúng ta sẽ biến đổi. Tôi đã đọc về một cựu chiến binh trong cuộc Nội Chiến Hoa Kỳ sống trong nghèo đói nhưng ông tự hào rằng mình có “một lá thư được ký bởi tổng thống Lincohn.” Một cựu chiến binh khác nhìn lá thư và nói rằng, “Lá thư này đảm bảo cho ông có tiền trợ cấp trọn đời! Vậy tại sao ông lại sống trong nghèo đói?” Rất nhiều Cơ Đốc Nhân đang dao động bởi sự yếu kém thuộc linh và bị đánh bại trong khi Đấng Christ đã cung cấp cho họ mọi điều thiết yếu!
Đời sống cũ của chúng ta, trước khi biết Chúa Giê-su Christ, là một đời sống nô lệ; nhưng đời sống mới trong Chúa là một đời sống được biến đổi. Theo như Ga-la-ti 2:20 điều này có nghĩa là:
– Chúng ta lẽ ra chết trong tội lỗi thì đã chết đối với tội lỗi (bởi Chúa Giê-su đã chết thay cho chúng ta) và chúng ta đã đóng đinh cùng Đấng Christ.
– Chúng ta lẽ ra là công cụ của Satan thì lại được ban cho quyền phép bởi Đấng Christ bởi vì chúng ta sống trong Đấng Christ và Ngài sống trong ta.
– Chúng ta lẽ ra bước đi theo con mắt của xác thịt (giống thế gian) thì lại bước đi theo đức tin bởi vì chúng ta sống trong đức tin nơi Con Đức Chúa Trời.
– Chúng ta lẽ ra được thúc đẩy bởi lòng ích kỷ thì lại được thúc đẩy bởi tình yêu của Thiên Chúa, bởi Chúa Giê-su yêu chúng ta và Ngài phó chính mình Ngài vì chúng ta.

Chúng Ta Lẽ Ra Chết Trong Tội Lỗi Thì Đã Chết Với Tội Lỗi Nhờ Đức Chúa Giê-su Christ.
Có hai phương diện về công tác của Đấng Christ trên thập giá phải được phân biệt rõ ràng. Đầu tiên, đó là chết thế cho chúng ta. Các phân đoạn Kinh Thánh cho ta biết rằng Ngài “yêu chúng ta phó chính mình Ngài vì chúng ta.” Chúa Giê-su “Ngài gánh tội lỗi chúng ta trong thân thể Ngài trên cây gỗ” (I Phi-e-rơ 2:24). Chúa Giê-su phán rằng “Ta vì chiên ta mà phó sự sống mình” (Giăng 10:15). Đây là tin mừng của Phúc Âm, “Vả, trước hết tôi đã dạy dỗ anh em điều mà chính tôi đã nhận lãnh, ấy là Đấng Christ chịu chết vì tội chúng ta theo lời Kinh thánh; Ngài đã bị chôn, đến ngày thứ ba, Ngài sống lại, theo lời Kinh Thánh” (I Cô-rinh-tô 15:3-4). Trong Cựu Ước, con chiên chết vì người chăn; nhưng dưới thời Tân Ước, Đấng Chăn Chiên Hiền Lành đã chết vì chiên! Đây chính là sự chết thế của Chúa Giê-su cho tội lỗi chúng ta.
Các phân đoạn Kinh Thánh kết thúc với sự chết thế của Chúa Giê-su nhưng lại mở ra sự nhận biết Chúa Giê-su, “Tôi đã bị đóng đinh cùng Đấng Christ.” Phao-lô giải thích về sự chết thế trong Rô-ma đoạn 5 trong khi Rô-ma đoạn 6 giải thích về sự nhận biết Chúa Giê-su. Khi chúng ta tin Chúa Giê-su Christ, chúng ta chịu phép Báp Têm bởi Thánh Linh, nhận biết chúng ta cùng là thân thể Đấng Christ (I Cô-rinh-tô 12:13) để chúng ta đồng chết với Đấng Christ, đời sống cũ của chúng ta đã được chôn cùng Đấng Christ, chúng ta sống lại với Đấng Christ, và sẽ được cất lên trời cùng Đấng Christ, và sẽ đồng trị với Đấng Christ và chia sẻ sự giàu có về ân điển Ngài (Ê-phê-sô 2:4-6). Khi được dầm thấm trong Thánh Linh, mỗi tín hữu được Chúa nhìn biết, vậy nên I Giăng 4:17 khẳng định rằng, “Ấy là Chúa thể nào thì chúng ta cũng thể ấy trong thế gian nầy.” Đấng Christ nhìn biết chúng ta vì, khi Sau-lơ người Tạt-sơ bắt bớ người tin Chúa, thực tế là ông đang bắt bớ Chúa Giê-su (Công Vụ 9:4)! Đấng Christ nhận biết chúng ta, biết chúng ta đang phải gánh chịu điều gì mỗi ngày khi tập sống đời sống của Cơ Đốc Nhân? Hãy xem những sự thật được chép trong Kinh Thánh.
“Vả, những kẻ thuộc về Đức Chúa Giê-su Christ đã đóng đinh xác thịt với tình dục và dâm dục mình trên thập tự giá rồi” (Ga-la-ti 5:24).
“Vậy chúng ta đã bị chôn với Ngài bởi phép Báp-Têm trong sự chết Ngài, hầu cho Đấng Christ nhờ vinh hiển của Cha được từ kẻ chết sống lại thể nào, thì chúng ta cũng sống trong đời mới thể ấy” (Rô-ma 6:4).
“Còn như tôi, tôi hẳn chẳng khoe mình, trừ ra khoe về thập tự giá của Đức Chúa Giê-su Christ chúng ta, bởi thập tự giá ấy, thế gian đối với tôi đã bị đóng đinh, và tôi đối với thế gian cũng vậy!” (Ga-la-ti 6:14).
“Vì điều yếu cần chẳng phải sự chịu cắt bì, hay là sự chẳng chịu cắt bì, bèn là trở nên người mới” (Cô-lô-se 2:15).
Những câu Kinh Thánh trên chỉ rõ rằng kẻ thù về mặt thuộc linh chính là thế gian, xác thịt và Satan (Ê-phê-sô 2:1-2). Kẻ thù đã bị đánh bại bởi sự chết của Chúa Giê-su, sự phục sinh, sự thăng thiên, và thừa hưởng ngai vàng trên thiên đàng! Bởi đức tin chúng ta nhận biết điều đó với sự đắc thắng của Đấng Christ, Đức Thánh Linh làm cho chúng ta được vui mừng. “Vì hễ sự gì sanh bởi Đức Chúa Trời, thì thắng hơn thế gian; và sự thắng hơn thế gian, ấy là đức tin của chúng ta” (I Giăng 5:4; xem thêm câu 18). Chúng ta lẽ ra đã chết theo luật của Cựu ước (Ga-la-ti 2:19) vậy mà vẫn sống bởi ân điển của Đấng Christ mọi nơi chúng ta ở và mọi việc chúng ta làm (I Cô-rinh-tô 15:10, 2 Cô-rinh-tô 12:9).
Một người chết về thân xác không thể phản ứng lại các kích thích, và một người đã được đóng đinh với Đấng Christ không cần phản ứng lại các kích thích từ thế gian, xác thịt và Satan. Chúng ta phải xem mình đã chết với tội lỗi (Rô-ma 6:1-14), điều này nghĩa là chúng ta tin điều Đức Chúa Trời nói trong Kinh Thánh về tất cả các tín hữu là đúng. Điều này giống như rút tiền từ tờ séc (check). Giả sử rằng tôi đưa cho người bạn trong Hội Truyền Giáo một tờ séc để giúp anh ấy trong chức vụ truyền giáo. Anh ấy tin rằng có tiền trong tài khoản của tôi để trả cho tờ séc này, vì vậy anh đến ngân hàng chứng thực tờ séc và nhận tiền. Là con dân Chúa, chúng ta tin rằng chúng ta nhận biết Lời Chúa với Đấng Christ trong sự đắc thắng vì vậy chúng ta tuyên bố đắc thắng bởi đức tin. Chúng ta chứng thực tờ séc! Khi chúng ta bị dụ dỗ bởi thế gian, xác thịt, Satan, chúng ta giải quyết với nó giống như những người chiến thắng chứ không phải là nạn nhân, và tin vào quyền năng của Chúa tể trị.
Chúng ta chết cùng Đấng Christ và vì thế từ bỏ mọi cám dỗ từ kẻ thù làm tổn thương chúng ta. Chúng ta sống lại với Đấng Christ bởi linh lực và quyền năng Chúa. Chúng ta thừa hưởng cùng với Đấng Christ và vì thế không thuộc về thế gian này mặc dù chúng ta sống trong thế gian. Chúng ta được đồng trị với Vua Giê-su trên thiên đàng và vì vậy có quyền “cai trị trong cuộc sống” “reign in life” (Rô-ma 5:17). Nếu chúng ta thêm một từ giống như con rắn “s” vào sau từ “e” trong từ “reign” ta sẽ được từ “resign” (từ bỏ). Đầu hàng sự cám dỗ là từ bỏ quyền thừa kế ngai vàng, và điều đó thật không đáng.
Sự cứu rỗi là phải đến thập tự giá mà tin Đấng Christ, nhưng môn đồ hóa có nghĩa là phải vác thập tự giá và nhận biết tội lỗi mình với Chúa Giê-su Christ. Đức Chúa Giê-su phán, “Nếu ai muốn theo ta, phải tự bỏ mình đi, mỗi ngày vác thập tự giá mình mà theo ta” (Lu-ca 9:23). Để vác thập tự giá nghĩa là phải chấp nhận sự đau khổ, xấu hổ và phải sẵn lòng chiến đấu tới cùng với những điều ngoài ý Chúa. Ngày nay thập tự giá là một loại trang sức, nhưng trong thế kỷ đầu tiên người La Mã coi đóng đinh là hình thức tử hình nhục nhã nhất. Đức Chúa Giê-su đã biến đổi thập tự giá trở thành quyền năng, đắc thắng, và Phao-lô đã đắc thắng nhờ thập tự giá (Ga-la-ti 6:14)!

Chúng Ta Lẽ Ra Là Công Cụ Của Satan Thì Lại Được Ban Cho Quyền Phép Bởi Đấng Christ.
Người không thuộc về Chúa Giê-su thì thuộc về Satan, kẻ lãnh đạo cầm quyền chốn không trung (Ê-phê-sô 2:2). Nhiều người tưởng rằng Satan chỉ điều khiển được những người bị hư mất nếu họ nghiện ma túy, rượu, xem sách báo khiêu dâm, ham muốn xác thịt, tức giận và những tội lỗi khác, nhưng điều này không đúng. Satan chỉ là kẻ giả vờ; nó phỏng theo những điều Chúa ban cho con người và hầu hết mọi người không thể phân biệt được. Trong truyện ngụ ngôn về cỏ lùng lẫn trong lúa mì (Ma-thi-ơ 13:24-30, 36-43), Satan gieo mầm giả làm Cơ Đốc Nhân trong khi Chúa Giê-su gieo mầm thật thành những người tin Chúa thực sự. Satan có chức vụ giả (II Cô-rinh-tô 11:13-15) công bố Phúc Âm giả (Ga-la-ti 1:6-9) và khuyến khích công bình không đến từ đức tin (Rô-ma 9:30- 10:4). Cuối cùng, nó sẽ tạo ra một Christ giả. (II Tê-sa-lô-ni-ca 2). Thực là khó để nhận biết một trong những tôn giáo tốt đẹp mà chúng ta biết không phải thuộc về Đấng Christ, hãy coi chừng đó là đầy tớ của Satan, và dù họ có cố gắng trở nên giống Đấng Christ thì họ vẫn thuộc về Satan mãi mãi.
Theo Ê-phê-sô 2:1-3, những người chưa được cứu thì chết về thuộc linh, họ bất tuân mạng lệnh của Chúa và họ sống theo thế gian, xác thịt và Satan. Điều này không có nghĩa rằng họ làm những điều quái lạ khiến người khác giật mình, bởi vì Satan thì khôn ngoan hơn thế. Giu-đa là một môn đồ, và thực tế ông ta là thủ quỹ của nhóm, và ông ta từng giảng đạo và thậm chí là thi hành quyền phép (Lu-ca 10:17-20), nhưng ông vẫn không phải là một người tin Chúa thật (Giăng 6:66-71).
Đấng Christ sống trong ta là nói đến thân vị của Đức Thánh Linh, là Đấng mà Đức Chúa Giê-su gọi là “Đấng Yên Ủi” (Giăng 14:16, 26; 15:26;16:7). Những gì mà Đấng Yên Ủi đang làm cho chúng ta ngày nay chính là những gì mà Đức Chúa Giê-su đã làm cho các môn đồ khi Ngài còn ở với họ trên đất. Satan rất mạnh mẽ và khôn khéo, nhưng “vì Đấng ở trong các con là lớn hơn kẻ ở trong thế gian” (I Giăng 4:4), và Ngài luôn ở bên bạn. Đức Thánh Linh sẽ nhắc nhở chúng ta những điều Ngài đã dạy dỗ chúng ta qua Lời Ngài và ban cho chúng ta sự khôn ngoan để nhận diện và đánh bại kẻ thù. Satan và đội quân ma quỷ của nó không thể đọc được suy nghĩ của bạn vì vậy hãy cẩn thận khi bạn nói hay viết để kẻ thù không lợi dụng được. Dù vậy, vì chúng ta tuân giữ mạng lệnh của Chúa, Ngài là “nơi nương náu và sức lực của chúng tôi”, Ngài sẽ dõi trông chúng ta cho đến khi đắc thắng (Thi Thiên 46:1).
Chỉ khi Đức Chúa Trời hiện diện nơi hòm giao ước và đền thờ thì Đức Thánh Linh mới hành động trong lòng mỗi con dân Chúa, và chúng ta phải đối xử cách cẩn trọng với đền thờ của Chúa (I Cô-rinh-tô 6:18-20). Lạm dụng thân thể, không chăm sóc thân thể cách cẩn thận, cố ý đưa bản thân tới những nguy hiểm không cần thiết chính là phạm tội với Đức Thánh Linh. Thân thể của người tin Chúa chính là hòm giao ước của Đức Chúa Trời, vì thế những chi thể trong thân thể chúng ta chính là những “đồ dùng” (công cụ) để Chúa sử dụng (Rô-ma 6:13-14). Đức Chúa Trời sử dụng cánh tay của Đa-vít ném đá để tiêu diệt kẻ khổng lồ Gô-li-át và dùng miệng của những nhà tiên tri để công bố Lời Ngài. Thân thể người tin Chúa là kho cất giữ của cải thuộc linh, vì “chúng tôi đựng của quí nầy trong chậu bằng đất” (II Cô-rinh-tô 4:7). Đức Thánh Linh đã ban cho chúng ta những ân tứ và chúng ta phải sử dụng chúng để đem lại vinh hiển cho Chúa. Thật là bi kịch nếu người tin Chúa được ban cho ân tứ lại dùng ân tứ của mình để hưởng thụ thế gian thay vì làm rạng rỡ Hội Thánh.
Chúng Ta Đã Được Biến Đổi Từ “Bước Đi Bằng Mắt Thấy” Đến “Bước Đi Bởi Đức Tin.”
Bạn sẽ thấy tuyên bố này, “Người công bình sống bởi đức tin” (Ha-ba-cúc 2:4; Rô-ma 1:17; Ga-la-ti 3:11; Hê-bơ-rơ 10:38) được dùng bốn lần trong Kinh Thánh. “Người công bình” là những người được cứu bởi đức tin trong Chúa Giê-su Christ và được công bố là công bình bởi Chúa. Thư tín của sứ đồ Phao-lô gửi cho Hội Thánh Rô-ma đã giải thích sự mầu nhiệm này. Thư tín gửi cho Hội Thánh Ga-la-ti giải thích người công bình phải sống như thế nào, và thư tín gửi cho Hội Thánh Hê-bơ-rơ giải thích bước đi bởi đức tin nghĩa là như thế nào. “Vì chúng ta bước đi bởi đức tin, chớ chẳng phải bởi mắt thấy” (II Cô-rinh-tô 5:7). Để bước đi bằng đức tin nghĩa là con dân Chúa tự đánh giá đời sống mình và quyết định dựa trên nền tảng là Lời Ngài và vì sự vinh hiển Ngài, chứ không phải dựa trên những gì họ thấy, nghe, cảm nhận, hay học được từ thế gian nơi họ sống. Khi Áp-ra-ham trốn đến Ê-díp-tô (Sáng Thế Ký 12:10), ông ta bước đi bằng mắt thấy chẳng phải bởi đức tin, cũng như cháu của ông là Lót khi cả hai gia đình chuyển tới Sô-đôm (Sáng Thế Ký 13). Cả hai gia đình này đều gặp rắc rối.
Đời sống của Cơ Đốc Nhân bắt đầu với một hành động bởi đức tin khi chúng ta tin Chúa Giê-su cứu chúng ta. Nhưng vì đời sống của Cơ Đốc Nhân trưởng thành và được phước, chúng ta phải gìn giữ quan điểm đức tin, vì biết rằng Chúa có một kế hoạch hoàn hảo cho đời sống chúng ta. “Đừng làm theo đời nầy, nhưng hãy biến hóa bởi sự đổi mới của tâm thần mình, để thử cho biết ý muốn tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn của Đức Chúa Trời là thể nào” (Rô-ma 12:2). Chúa dùng Kinh Thánh, lời cầu nguyện, lời khuyên khôn ngoan và sự thờ phượng để đổi mới tâm thần mình vì thế chúng ta sẽ biết ý muốn Ngài và làm theo. Khi tôi đang phục vụ nhóm Thanh Niên cho Đấng Christ, Tiến sĩ Bob Cook thường kể với chúng tôi rằng, “Liệu bạn có thể giải thích được điều gì diễn ra mà Đức Chúa Trời không cho phép trong khi thi hành chức vụ không? Hãy giữ chức vụ mình dựa trên nền tảng của sự mầu nhiệm.” Có một đoạn Kinh Thánh làm nền tảng cho điều ông ấy nói được tìm thấy trong Ê-sai 55:8: “Đức Giê-hô-va phán: Ý tưởng ta chẳng phải ý tưởng các ngươi, đường lối các ngươi chẳng phải đường lối ta.”
Đức tin không phải là lao tới cách liều lĩnh và làm những điều ta cảm thấy đó là ý muốn Chúa. Đức tin là tuân theo lời Ngài mà không quan tâm tới cảm nghĩ của chúng ta, hoàn cảnh xung quanh, và những gì sẽ xảy đến. Nhà sáng lập đoàn truyền giáo nội địa Trung Hoa, J. Hudson Taylor đã nói rằng, “Có đức tin trong Chúa tức là dựa vào đức tin của Đức Chúa Trời.” Đức tin phải được truyền dạy nhờ thần tính của Chúa và lời Ngài, và chúng ta phải tuân giữ vì chúng ta muốn vinh hiển danh Chúa.
Đức tin phải được hoạt động trong mọi lãnh vực đời sống, chứ không chỉ trong những vấn đề “tôn giáo”. Khi bạn đọc Hê-bơ-rơ 11, bạn học được rằng A-bên thờ phượng Đức Chúa Trời bởi đức tin (Hê-bơ-rơ 11:4), Ê-nóc bước đi bởi đức tin và chứng thực bởi đức tin (Hê-bơ-rơ 11:7) và những người khác bị gây chiến bởi đức tin, hy sinh bởi đức tin, và chịu khổ bởi đức tin (Hê-bơ-rơ 11:35-40). Khi bạn đọc biên niên sử về đức tin, bạn học được rằng Chúa không phải lúc nào cũng giải cứu, bảo vệ, cung cấp; đôi khi Ngài dường như bỏ rơi chúng ta và chúng ta ngã lòng và bị dụ dỗ bước đi bằng mắt thấy. Một đời sống biến đổi nghĩa là chúng ta nắm lấy Lời Ngài và chờ đợi thời điểm Chúa định mà không quan tâm đến người thế gian sẽ làm gì. Bước đi bằng mắt thấy nghĩa là phải nhìn quanh tìm kiếm vô vọng một lối thoát hay ai đó có khả năng giải cứu chúng ta. Thẳng thắn mà nói, đức tin là sống không có kế hoạch trước. Khi bạn học về đời sống của Gia-cốp, hiếm khi bạn thấy ông cầu nguyện và nài xin với Chúa mà bắt đầu và tiến hành kế hoạch của mình. Đó không phải là bước đi bởi đức tin, nhưng Chúa đối với ông cách nhân từ và giúp ông giống như Ngài giúp chúng ta ngày nay.

Chúng Ta Đã Được Biến Đổi Từ Chỗ Được Thôi Thúc Bởi Lòng Ích Kỷ Đến Chỗ Được Thôi Thúc Bởi Tình Yêu Thương.
Giá trị của một hành động thường được đánh giá bởi động cơ đằng sau đó, và những ai vui hưởng một đời sống biến đổi thì được thôi thúc bởi tình yêu thương của Đấng Christ. Đây không phải là tình yêu thương tự nhiên của con người mà là tình yêu thương thánh khiết siêu nhiên, “Vì sự yêu thương của Đức Chúa Trời rải khắp trong lòng chúng ta bởi Đức Thánh Linh đã được ban cho chúng ta” (Rô-ma 5:5). Đức Chúa Trời yêu thương thế gian (Giăng 3:16), Ngài yêu Hội Thánh (Ê-phê-sô 5:25-27), và Ngài yêu mọi kẻ tin thờ Ngài. Thực tế, Chúa Giê-su phán rằng Cha yêu mọi người như Ngài yêu Con mình (Giăng 17:23,26). Thật tuyệt vời! Đó là tình yêu thương cách riêng tư, độc đáo không hề thay đổi, và không gì có thể chia rẽ chúng ta khỏi tình yêu đó (Rô-ma 8:35-39).
Đức Chúa Giê-su đã bày tỏ tình yêu của Ngài khi Ngài thi hành chức vụ trên đất như thế nào? Duy nhất một điều, Ngài dành thời gian cho mỗi cá nhân chứ không phải chỉ dành cho những buổi nhóm họp đông người. Ngài dành thời gian để chúc phước cho con trẻ, gặp gỡ những người tìm kiếm Chúa cách riêng tư như Ni-cô-đem (Giăng 3), dùng bữa tối trong nhà, giúp những người dân ngoại, và chữa bệnh, động viên những người không nơi nương tựa. Ngài như một đầy tớ, chứ không giống một nhân vật danh tiếng, và vui lòng chạm vào người bị phung và thậm chí cả xác chết. Ngài kiên nhẫn với mọi người, bao gồm cả chính những môn đồ của Ngài, đặc biệt khi họ tranh cãi ai trong số họ làm lớn nhất. Một ngày nọ Ngài nói với các môn đồ rằng, “Hỡi dòng dõi không tin và bội nghịch kia, ta ở với các ngươi và nhịn các ngươi cho đến chừng nào?”
Đức Chúa Giê-su luôn dành sẵn cho mọi người ngày cũng như đêm thậm chí khi Ngài cố gắng dành một ngày nghỉ. Ngài cũng cầu nguyện cho mọi người và dạy họ Lời Ngài. Ngài tha thứ cho con người, thậm chí ngay cả khi họ đóng đinh Ngài trên thập tự, và Ngài nuôi người đói, chữa cho người bệnh. Nhưng đỉnh điểm của sự bày tỏ tình yêu Ngài là chết trên cây thập tự. “Nhưng Đức Chúa Trời tỏ lòng yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là người có tội, thì Đấng Christ vì chúng ta chịu chết” (Rô-ma 5:8). Khi tôi nghe mọi người phàn nàn rằng Chúa không yêu thương họ nữa, tôi hỏi rằng, “Vậy bạn đã đến Đồi Sọ (nơi Chúa chịu chết) chưa ?
“Vả, Đức Chúa Giê-su yêu Ma-thê, em người, và La-xa-rơ” (Giăng 11:5). Đó có phải lý do Ngài trì hoãn đến làng Bê-tha-ni khi La-xa-rơ ốm và chết? Bởi vì Ngài có những ý định tốt đẹp hơn việc đơn giản chỉ là chữa bệnh cho người bạn mà Ngài yêu quý. “Bịnh nầy …, nhưng vì sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, hầu cho Con Đức Chúa Trời bởi đó được sáng danh” (Giăng 11:4). Khi đời sống được thôi thúc bởi tình yêu thương, Đức Chúa Trời cho chúng ta một trái tim để quan tâm, kiên nhẫn chờ đợi, và cơ hội để phục vụ người khác vì vinh hiển danh Chúa.
Vì chúng ta yêu Chúa Giê-su, chúng ta sẽ không xấu hổ khi bày tỏ ra. Thư tín của sứ đồ Giăng được gọi là “môn đồ được Chúa Giê-su yêu” nhưng ông cũng là môn đồ yêu mến Chúa Giê-su và bày tỏ với mọi người là mình yêu Chúa. Khi bạn đọc từ chương 13 tới 21 của Phúc Âm Giăng, bạn sẽ thấy Giăng bày tỏ tình yêu thương cách cởi mở. Ông dựa vào ngực Chúa Giê-su trên phòng cao là một minh chứng của việc ông ở trong tình yêu của Chúa. Giăng đứng cạnh thập tự giá và chia sẻ mối thông công với sự thương khó của Ngài cùng với các bà Ma-ri (Giăng 19: 26-27), ba ngày sau, khi ông nghe Chúa Giê-su sống lại, ông chạy đến ngôi mộ để chào đón Ngài (Giăng 20:1-10). Chúng ta có vội vã dành thời gian cho Chúa Giê-su không? Chính Giăng là người nhận ra Chúa Giê-su đầu tiên khi Ngài đứng bên bờ biển (Giăng 21:7) bởi tình yêu có thị lực 20/20; và khi Đức Chúa Giê-su bảo Phi-e-rơ theo Ngài, Giăng đứng dậy và cũng theo sau (Giăng 21:20). Tình yêu dành cho Chúa Giê-su giúp chúng ta yêu thương những đầy tớ của Ngài, thậm chí yêu cả những người thất bại. Chính Giăng đã viết lại một bản ghi chép thâm thúy mà chúng ta gọi là Phúc Âm Giăng, bởi tình yêu luôn phải làm chứng bởi những người yêu Chúa Giê-su (Giăng 21:24-25).
Mỗi khi chúng ta nghĩ về Phúc Âm Giăng, chúng ta cũng nghĩ đến Giu-đe 21, “giữ mình trong sự yêu mến Đức Chúa Trời.” Làm thế nào chúng ta làm được điều này? Bằng cách giữ các điều răn Ngài (Giăng 15:9-10). Bằng cách dựa vào ngực Ngài, yêu mến Ngài, và lắng nghe tiếng Ngài. Bằng cách yêu thương mọi người. Bằng cách chia sẻ tin tức tốt lành về sự cứu rỗi. Bằng cách can đảm đứng dưới thập tự và vác thập tự giá mình cách trung tín.
Thật không may khi có những kẻ tự xưng là Cơ Đốc Nhân trong Hội Thánh nhưng kẻ này là “kẻ thù nghịch thập tự giá Đấng Christ” và không sống giống như những công dân của thiên quốc (Phi-líp 3:17-21). Trong một thư tín đầy niềm vui, nói đến thực tế này đã làm Phao-lô chảy nước mắt và chúng ta cũng khóc như ông vậy.
Chúa không kêu gọi chúng ta trở thành các sứ đồ của Ngài, nhưng Ngài ban cho chúng ta đời sống đổi mới để mang lại sự khác biệt trong Hội Thánh.
Có ai tình nguyện để Chúa đổi mới đời sống mình không?

Chương 11
Một Đời Sống No Đủ
“Đức Chúa Trời có quyền ban cho anh em đủ mọi thứ ơn đầy dẫy, hầu cho anh em hằng đủ điều cần dùng trong mọi sự, lại còn có rời rộng nữa để làm các thứ việc lành” II Cô-rinh-tô 9:8.
Hai từ luôn luôn và không bao giờ phải được sử dụng cẩn thận, đặc biệt là với các nhà văn, nhà truyền giáo, các cặp vợ chồng và cha mẹ. Nếu chúng ta dùng hai từ này cách bất cẩn, chúng ta sẽ gây đau khổ và làm tổn thương những người mà chúng ta đang cố gắng giúp đỡ. Cha mẹ là những người nói với con trẻ, “Con luôn làm phòng con bề bộn” có thể là một lời nói dối, bởi sẽ có lúc đứa trẻ đó xếp dọn phòng ngăn nắp và nên được khen ngợi vì điều đó. Người chồng hoặc người vợ nói “Con không bao giờ chú ý khi ba (mẹ) nói” thậm chí còn làm đứa trẻ ít chú ý hơn.
Nhưng Đức Chúa Trời có quyền sử dụng từ luôn luôn và không bao giờ, bởi Ngài biết mọi sự và Ngài giữ các bản ghi nhớ chính xác tuyệt đối. May mắn cho những người tin Chúa khi Ngài phán với chúng ta rằng: “Nhân ta sẽ tha sự gian ác của họ, Và không nhớ đến tội lỗi họ nữa” (Hê-bơ-rơ 8:12). Bất cứ lúc nào trong Lời Ngài, Ngài nói rằng luôn luôn hay không bao giờ, thì chúng ta phải luôn làm theo vì Chúa muốn chúng ta có đầy đủ mọi thứ liên quan đến đời sống Cơ Đốc Nhân và để hầu việc Chúa – và chúng ta có đủ. Đoạn trích trong Kinh Thánh của chúng ta viết rằng: “hằng đủ điều cần dùng trong mọi sự” áp dụng cho tất cả những người tin Chúa.
Hãy xem lại một vài ơn phước chúng ta được ban cho để thấy chúng ta được đầy đủ về mọi điều.
Chúng Ta Luôn Luôn Được Thắng Trong Đấng Christ (II Cô-rinh-tô 2:14-17).
“Song tạ ơn Đức Chúa Trời, Ngài làm cho chúng tôi được thắng trong Đấng Christ luôn luôn” (II Cô-rinh-tô 2:14-17). Trong những câu 14-17 Phao-lô đã miêu tả về một cuộc diễu hành “chiến thắng” của người La Mã thời xưa và phiên bản ngày nay của chúng ta là cuộc diễu hành vinh danh người chiến thắng bằng băng giấy. Nếu một vị tướng tổng tư lệnh người La Mã giành thắng lợi trước kẻ thù trên đất nước ngoài, giết chết ít nhất 5000 lính của kẻ thù, giành được thuộc địa mới cho đế quốc La Mã, và bắt làm tù binh những sĩ quan của kẻ thù. Người đó được phong tước vinh danh chiến thắng của La Mã. Vị tướng tổng tư lệnh cưỡi một cỗ xe ngựa đặc biệt và được tung hô cùng với các sĩ quan của mình, nhưng kẻ thù bị bắt giữ thì bị đối xử như nô lệ. Các thầy tế lễ La Mã đốt hương trầm cho các vị thần của họ trong cuộc diễu hành, khi những chiến binh La Mã ngửi thấy mùi hương thơm này, nó sẽ nói với họ về sự sống. Nhưng nếu kẻ thù ngửi thấy mùi hương trầm, nó nói với họ về cái chết, bởi vì họ sẽ bị đem đến đấu trường đối mặt với những con sư tử đói. Đọc lại đoạn Kinh Thánh này và hãy để ý tới những điều này.
Chúa Giê-su Christ là Chúa chúng ta và là Đấng Cứu Thế đã rời khỏi Thiên đàng để tìm vùng đất nước ngoài (hành tinh Trái Đất) và ở nơi đây. Ngài đã có một chiến thắng tuyệt đối trước Sa-tan, tội lỗi, và sự chết. Mọi Cơ Đốc Nhân đang hành quân cùng Ngài và chia sẻ niềm vui chiến thắng của Ngài. Như tôi đã nói từ trước, chúng ta không chỉ chiến đấu dành chiến thắng mà còn chiến đấu vì Chúa Giê-su đã dành chiến thắng, chiến thắng vĩ đại mà Đức Chúa Giê-su đã thắng trong sự chết, sự phục sinh, sự thăng thiên. Ngài nhận biết chúng ta và Ngài ở với chúng ta!
Khi bạn đọc hai chương đầu tiên trong thư tín của Phao-lô viết, bạn khám phá ra rằng ông đã có những trải nghiệm khó khăn trong chức vụ của mình vào thời điểm tuyệt vọng trong cuộc đời. Tình trạng đáng buồn trong Hội Thánh Cô-rinh-tô đủ để làm ông tan nát trái tim. Bởi tình yêu ông dành cho họ, ông đã gửi họ một lá thư quở trách nghiêm khắc rằng ông đã trông đợi họ tuân giữ mạng lệnh của Chúa, và điều này làm ông phiền muộn. Dòng thủy triều ơn phước Chúa dường như đang xuống thấp, nhưng sau đó Đức Chúa Trời bắt đầu hành động. Phao-lô công bố sự đắc thắng của ông trong Đấng Christ và Chúa giúp ông vượt qua khó khăn. Chúa vẫn làm điều đó cho con dân của Ngài khi chúng ta gặp những vấn đề không thể chịu đựng được và đức tin của chúng ta được thử nghiệm. Chúng ta là những người lính của Đấng Christ (II Ti-mô-thê 2:3-4) và vị chỉ huy của chúng ta không bao giờ chịu thua.
Chúng Ta Luôn Luôn “Sống” Trong Đấng Christ (II Cô-rinh-tô 4:7-18).
Lúc này Phao-lô đã dùng ẩn dụ những người lính đang diễu hành trở thành những bình chậu trong nhà Chúa. Thân thể của chúng ta được làm bởi đất sét, bên trong là Đức Thánh Linh và chứa đựng hơi sống quí giá của chính Đức Chúa Trời. Phao-lô tuyên bố một số những nghịch lý tuyệt vời trong II Cô-rinh-tô 7-12: Mạnh mẽ trong sự yếu đuối, kiên định dù chịu sức ép dữ dội, túng thiếu nhưng không ngã lòng, bị đưa tới sự chết nhưng luôn kinh nghiệm đời sống dư dật trong Đấng Christ. Bởi ân điển Chúa và công việc của Thánh Linh, chúng ta đồng chết với Đấng Christ vậy nên chúng ta có thể đồng sống cùng Chúa. (Chúng ta sẽ xem Ga-la-ti 2:20 một lần nữa!). Dù gặp hoàn cảnh nào, Phao-lô biết rằng Chúa sẽ sử dụng họ để mang vinh hiển về cho Đấng Christ, và đó chính là tất cả mọi vấn đề. “Bởi chúng tôi là kẻ sống, vì cớ Đức Chúa Giê-su mà hằng bị nộp cho sự chết, hầu cho sự sống của Đức Chúa Giê-su cũng được tỏ ra trong xác thịt hay chết của chúng tôi” (II Cô-rinh-tô 4:11). Vậy điều này đem lại kết quả gì? Vậy thì sự chết làm trong chúng tôi, còn sự sống trong anh em (II Cô-rinh-tô 4:12).
Sau khi đổ khuôn làm bình gốm, người thợ gốm phải đưa khuôn vào lò nung để làm nó cứng lại, nếu không sẽ vô ích. Thật khó để tìm một người nam hoặc người nữ trong Kinh Thánh hay trong lịch sử Hội Thánh những người hầu việc Chúa Giê-su mà lại không phải chịu khổ vì Đấng Christ, và hình mẫu này vẫn được áp dụng cho tới ngày nay. Nếu chúng ta muốn được biết “quyền phép về sự sống lại của Ngài” chúng ta phải cùng chịu “thông công thương khó của Ngài” (Phi-líp 3:10).
Chúng ta đồng chết với Đấng Christ nghĩa là để sự sống của Đức Chúa Giê-su cũng tỏ ra trong thân thể chúng ta. (II Cô-rinh-tô 4:10). Vợ chồng tôi đã được ơn hầu việc Chúa trong ba nhà thờ và hai hội truyền giáo, và trong cả 5 nơi tôi làm việc, chúng tôi đã kinh nghiệm phải bỏ mình đi để tận hưởng sự sống trong Đấng Christ. Có công mài sắt có ngày nên kim – một câu châm ngôn đã cũ nhưng đúng. Chúa Giê-su gọi đó là vác thập giá mình mà theo Ngài. Ngài cũng so sánh điều này với việc trồng một hạt lúa trong đất và nó phải chết đi thì mới kết quả nhiều. (Giăng 12:24-26).
Chúng Ta Có Thể Luôn Tin Cậy Vào Đấng Christ (II Cô-rinh-tô 5:6).
Phao-lô không chỉ đơn giản đối mặt với những thời khắc khó khăn; ông đã đối mặt với sự chết, đó là chủ đề của II Cô-rinh-tô 5:1-8. Sự chết là kẻ thù sau cùng của sự sống, nhưng sự sống đời đời mà chúng ta có được trong Đức Chúa Giê-su Christ không hề chết. Thể xác của con người được mô tả như một cái lều, và chết là thu lều và để nó lại, vì thế chúng ta có thể tiếp tục sống trong nhà đời đời đầy vinh hiển. Sự chết đối với Cơ Đốc Nhân không phải là kết thúc cuộc sống, mà là mở đầu cho một cuộc sống mới. Ngay giữa lúc khó khăn, Phao-lô dặn dò– nhưng ông dặn dò vì vinh hiển của Chúa! Khi chúng ta ở trong nhà là thân thể của mình thì không ở cùng Chúa nhưng khi rời khỏi thân thể hay chết này chúng ta được ở cùng Đấng Christ. “Vì chúng ta bước đi bởi đức tin, chớ chẳng phải bởi mắt thấy” (II Cô-rinh-tô 5:7).
Chúng ta nhận được sự tin cậy này từ đâu mà có thể rũ bỏ nỗi sợ hãi sự chết và đem đến sự bảo đảm cho chúng ta trong nước Trời? Chúng ta nhận được điều này từ trong lời Chúa. Hãy bắt đầu với lời hứa của Đức Chúa Giê-su. “Ta đi sắm sẵn cho các ngươi một chỗ. Khi ta đã đi, và đã sắm sẵn cho các ngươi một chỗ rồi, ta sẽ trở lại đem các ngươi đi với ta, hầu cho ta ở đâu thì các ngươi cũng ở đó” (Giăng 14:2-3). Nếu chúng ta chết đi trước khi Chúa Giê-su trở lại, linh hồn của chúng ta sẽ ở Thiên đàng ở cùng với Đấng Christ. Nếu chúng ta sống khi Chúa Giê-su đến, chúng ta sẽ ngay lập tức được biến hóa và được cất lên cùng Ngài trong sự vinh hiển (Giăng 11:25-26; I Tê-sa-lô-ni-ca 4:13-18).
Nhưng còn có một nền móng khác cho sự tin cậy, và đó là giá rất cao mà Chúa Giê-su đã trả. Chúng ta thuộc về Ngài, vì Ngài đã chuộc chúng ta khi Ngài chết trên cây thập tự. “Vì Đức Chúa Trời chẳng định sẵn cho chúng ta bị cơn thạnh nộ, nhưng cho được sự giải cứu bởi Đức Chúa Giê-su Christ chúng ta, là Đấng đã chết vì chúng ta, hầu cho chúng ta hoặc thức hoặc ngủ, đều được đồng sống với Ngài” (I Tê-sa-lô-ni-ca 5:9-10). Lý do thứ ba của sự tin cậy này là lời cầu nguyện của Đức Chúa Giê-su. “Cha ôi, Con muốn Con ở đâu thì những kẻ Cha đã giao cho Con cũng ở đó với Con, để họ ngắm xem sự vinh hiển của Con, là vinh hiển Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu Con trước khi sáng thế” (Giăng 17:24). Đức Chúa Giê-su đã cầu nguyện cho dân sự Ngài được ở với Ngài trong nước Thiên đàng! Liệu Cha có thể từ chối trả lời một lời cầu nguyện của người Con yêu dấu của Ngài? Dĩ nhiên là không! Từ trong trái tim reo vui của mình, chúng ta có thể ngợi khen Đức Chúa Trời vì sự tin cậy mà chúng ta có trong Đấng Christ!
Chúng Ta Có Thể Luôn Được No Đủ Trong Đấng Christ.
“Ban ơn tứ” là chủ đề trong II Cô-rinh-tô đoạn 8 và đoạn 9 khi Phao-lô giục giã tín hữu ở Cô-rinh-tô chia sẻ tình yêu thương bằng cách dâng hiến cho các tín hữu ở Hội Thánh Giê-ru-sa-lem đang bị thiếu thốn. Trong II Cô-rinh-tô đoạn 9:6-9, ông so sánh các Cơ Đốc Nhân ở Hội Thánh Cô-rinh-tô với những nông dân đang gieo giống. Ông chỉ ra rằng sẽ không có mùa gặt nào cho tới khi hạt giống đầu tiên được gieo, và mùa gặt sẽ tương xứng với số lượng giống được gieo. Hạt giống tượng trưng cho số tiền chúng ta dâng lên Chúa để dùng cho người khác, và toàn bộ hoạt động này phải được thúc đẩy bởi ân điển. Nhưng sự đầu tư của chúng ta cho con dân Chúa và công việc Chúa được thúc đẩy bởi một lời hứa lạ lùng, “Đức Chúa Trời có quyền ban cho anh em đủ mọi thứ ơn đầy dẫy, hầu cho anh em hằng đủ điều cần dùng trong mọi sự, lại còn có rời rộng nữa để làm các thứ việc lành” (II Cô-rinh-tô 9: 8).
Phao-lô bắt đầu với từ “mọi ân điển”! Chúa ban ân điển dư dật, vì Ngài là “Đức Chúa Trời của mọi ân sủng” (I Phi-e-rơ 5:10). Đời sống của Cơ Đốc Nhân bắt đầu với ơn cứu chuộc (Ê-phê-sô 2:8-9) và tiếp tục với ơn hầu việc (I Cô-rinh-tô 15:9-10), ơn hy sinh (II Cô-rinh-tô 8:1), ơn chịu khổ (II Cô-rinh-tô 12:1-9), ơn hát xướng (Cô-lô-se 3:16), ơn nói năng (Cô-lô-se 4:6), ơn gây dựng (II Ti-mô-thê 2:1-4) và ơn dạy dỗ (Tít 2:11-12). Ơn tứ là món quà nhận bởi đức tin và ơn tứ Chúa ban không bao giờ dứt. Ơn Chúa ban thật rời rộng!
Phao-lô tiếp tục khẳng định rằng ơn tứ luôn luôn có sẵn cho bất kỳ trường hợp cá nhân nào. Ông kinh nghiệm được ân tứ của Chúa ban không chỉ khi rao giảng mà còn cả lúc ở tù, khi chìm tàu và bị tấn công bởi đám đông, và cả khi hết tiền. Tôi thích cụm từ “all sufficiency” (đủ điều cần dùng) nó bao gồm đủ mọi thứ. Nếu chúng ta sống bởi ơn, thì phải được ơn trước mặt Chúa và chia sẻ với người khác! Trong II Cô-rinh-tô 2:16, Phao-lô hỏi rằng “Ai xứng đáng cho những sự này?” Câu trả lời trong II Cô-rinh-tô 3:5 “Tài năng của chúng tôi đến từ Đức Chúa Trời.” Dù Chúa trao cho chúng ta nhiệm vụ nào chăng nữa, Ngài sẽ giúp chúng ta có thể hoàn thành nhiệm vụ đó bởi Ngài luôn ban ơn cùng. Nhiều lần tôi từng nói với chính mình rằng, “Chúa ơi con không thể làm điều này.” Chúa phán cùng tôi rằng: Ngươi sẽ trở nên giống Môi-se và Giê-rê-mi! Sau khi hít một hơi sâu và tôi nói: “Xin lỗi Chúa. Xin Chúa ban thêm ơn cho con.” Và Ngài luôn làm thế!
Phao-lô cũng chia sẻ cả sự buồn phiền nhưng cuối cùng ông vui mừng trong Chúa vì đắc thắng buồn chán. Khi tôi đọc II Cô-rinh-tô 6:3-10 và khám phá ra những thử nghiệm mà Phao-lô đã kinh nghiệm, tôi thật kinh ngạc khi thấy ông vẫn còn sống. Nhưng Đức Chúa Trời là Đấng đã coi sóc Phao-lô cũng đang chăm sóc con cái Ngài ngày nay, Ngài thích dùng từ “always” (luôn luôn) Trong thực tế, Đức Chúa Giê-su đã dùng nó trong sứ điệp cuối cùng của Ngài giảng cho những môn đô của Ngài: “Và nầy, ta thường ở cùng các ngươi luôn cho đến tận thế” (Ma-thi-ơ 28:20).
Chúng Ta Luôn Vui Mừng Trong Đấng Christ (II Cô-rinh-tô 6:10).
Thật khó để hiểu hết mọi điều về đời sống của Cơ Đốc Nhân, bởi việc Chúa làm là vượt qua sự hiểu biết của con ngườivà “Vì chưng chúng ta hiểu biết chưa trọn vẹn” (I Cô-rinh-tô 13:9). Tuy nhiên, chúng ta có thể giải thích sự vui mừng lúc buồn phiền và hát xướng khi đang đau đớn, chúng ta không thể làm điều đó bằng sức riêng của mình trong khi bản thân mình là những kẻ đáng bị hủy diệt. Chúng ta không thể vui mừng trong tình cảnh của mình nhưng vẫn luôn vui mừng trong Chúa là Đấng Cứu Chuộc, vì biết rằng Ngài sẽ đến với chúng ta bằng tình yêu thương của Ngài (Thi Thiên 33:11). Với sự giúp đỡ của Đức Thánh Linh, chúng ta có thể vừa hát vừa chảy nước mắt! Có thể có nỗi đau đớn trong thể xác nhưng sự vui mừng ở tận trong tim. “Hãy vui mừng trong Chúa luôn luôn. Tôi lại còn nói nữa: hãy vui mừng đi!” (Phi-líp 4:4).
Luôn Luôn? Đó là điều Phao-lô viết – luôn luôn. Nếu chúng ta đang cầu nguyện, sống trong lời Chúa, và giữ cho tai, mắt mở và trái tim mềm mại, chúng ta sẽ gặp trong cuộc sống những điều chúng ta có thể vui mừng, thậm chí là trong những ngày khó khăn nhất. Tại sao lại không bắt đầu với những điều quen thuộc, những sự kiện và con người, chúng ta thường thích được nhận lãnh? Sa-tan ghét người có trái tim vui mừng bởi vì những người hạnh phúc trong Chúa thường không dễ bị cám dỗ. Tại sao lại đùa giỡn với sự thay thế của ma quỷ trong khi chúng ta có thể tận hưởng “niềm vui thực” đến từ Đức Chúa Trời.
Đoạn Kinh Thánh của chúng ta (II Cô-rinh-tô 9:8) giải thích rõ lý do về sự đầy đủ trong Chúa là thứ mà chúng ta có “rời rộng nữa để làm các thứ việc lành”. Đức Chúa Trời giúp chúng ta để chúng ta có thể làm vinh hiển danh Ngài khi chúng ta đáp ứng nhu cầu của người khác. Cơ Đốc Nhân là những kênh đào chứ không phải là những hồ chứa; cách tốt nhất để chinh phục sự tham lam là ngợi khen Chúa và góp phần dâng hiến. Nếu không kinh nghiệm được sự vui mừng của việc ban cho, chúng ta sẽ không bao giờ có thể vui mừng trong Chúa cách hoàn toàn.
Bất cứ khi nào tôi nghe những người chưa tin Chúa sử dụng cụm từ “những người Tin Lành nghèo khó này,” tôi muốn hét lên rằng, “Chúng tôi là những Cơ Đốc Nhân giàu có nhất thế gian!” Và sự thực là vậy vì sự dư dật ân điển của Đức Chúa Trời ban cho (Ê-phê-sô 1:7). “Đức Chúa Trời tôi sẽ làm cho đầy đủ mọi sự cần dùng của anh em y theo sự giàu có của Ngài ở nơi vinh hiển trong Đức Chúa Giê-su Christ” (Phi-líp 4:19). Chúng ta được giàu có như Đức Chúa Giê-su vinh hiển bởi Ngài chia sẻ sự giàu có của Ngài với chúng ta. Đó là lý do vì sao đời sống của một Cơ Đốc Nhân là đời sống no đủ.

images

Chương 12
Một Đời Sống Tỏa Hương Thơm
“Vì chúng tôi ở trước mặt Đức Chúa Trời là mùi thơm của Đấng Christ, ở giữa kẻ được cứu, và ở giữa kẻ bị hư mất: Cho kẻ nầy, mùi của sự chết làm cho chết; cho kẻ kia, mùi của sự sống làm cho sống. Ai xứng đáng cho những sự nầy?”
Khi tôi lớn lên ở vùng phía nam bang Indiana, chúng tôi không biết nhiều về ô nhiễm không khí, mặc dù vậy chúng tôi kinh nghiệm điều này hầu như mỗi ngày. Các nhà máy thép, các nhà máy lọc dầu, và các nhà máy hóa chất đem lại công việc cho xã hội và cũng gây ô nhiễm bầu khí quyển. Chúng ta thường nói đùa với nhau rằng: “Vào một ngày trong lành bạn sẽ thấy chân của mình”, mặc dù không thực sự tồi tệ như vậy. Khi gió đổi chiều, mùi trong không khí cũng thay đổi, vậy nên chúng ta luôn biết gió đang thổi chiều nào.
Dù không để ý được rằng Kinh Thánh đề cập tới hơn một tá các mùi khác nhau, trong thời xưa, ở vùng Cận Đông những loại dầu thơm là rất cần thiết để giữ vệ sinh cá nhân. Ở một vài nơi có bể tắm công cộng, nhưng sau khi tắm rửa người ta thường dùng dầu thơm để che mùi cơ thể. Mọi người cũng đốt trầm để tạo mùi thơm trong không khí. Trong chương trước khi nói về lễ mừng chiến thắng của người La Mã, chúng ta đã biết rằng các Cơ Đốc Nhân phải tỏa “hương thơm thánh khiết,” hương thơm này là “sự chết” với những người chưa tin nhưng là “sự sống” với những người biết Chúa Giê-su Christ. Con dân Chúa phải tỏa mùi hương đặc biệt để thu hút những người khác và trở thành nguồn phước cho mọi người. Chúng ta đã thấy hương thơm của sự thắng (II Cô-rinh-tô 2:15-16) nhưng còn có những mùi thơm khác cần có trong cuộc sống chúng ta.

Lời Cầu Nguyện Tỏa Hương Thơm (Thi Thiên 141:2).
Trong đất nước Y-sơ-ra-ên, cả hòm giao ước và đền tạm có một bàn thờ nhỏ trước bức màn và thường chỉ được dùng để xông hương (Xuất Ê-díp-tô 30:1-10, 34-38; 37:25-29). Bàn thờ này được làm từ gỗ cây Si-tim và được phủ bằng vàng ròng. Mỗi buổi sáng và buổi tối, thầy tế lễ thượng phẩm sẽ đốt loại hương thơm đặc biệt trên bàn thờ này và bàn thờ này không được sử dụng cho mục đích khác. Trong Kinh Thánh, việc xông hương tượng trưng cho việc dâng lời cầu nguyện cho Chúa. Vua Đa-vít cầu nguyện rằng: “Nguyện lời cầu nguyện tôi thấu đến trước mặt Chúa như hương” (Thi Thiên 141:2), và Giăng nói rằng, trên Thiên đàng, lời cầu nguyện của các thánh chính là hương thơm (Khải Huyền 5:8; 8:1-6). Xa-cha-ri là thầy tế lễ hầu việc tại bàn thờ này khi thiên thần xuất hiện và thông báo rằng ông và vợ ông bà Ê-li-sa-bét sẽ có một con trai, là Giăng Báp-tít (Lu-ca 1:5-25).
Đền thờ và hương thơm dạy chúng ta những sự thật quan trọng về lời cầu nguyện. Điều thứ nhất, những lời cầu nguyện của chúng ta phải sử dụng Kinh Thánh. Đức Chúa Trời chỉ Môi-se công thức tạo ra hương thơm thánh và nói rõ rằng không được phép dùng các loại hương thơm khác, và không được dùng loại hương thơm thánh này ở bất kỳ nơi nào khác. Hương này chỉ dùng tại bàn thờ bằng vàng trước bức màn. Vậy “các thành phần” tạo nên lời cầu nguyện thực là gì? Lòng khiêm nhường, lòng trung tín, sự thờ phượng, sự thờ lạy, sự xưng tội, và tuyên bố lời hứa của Chúa chắc chắn rất cần thiết. Thầy thượng tế của người Do Thái chỉ có thể tiến đến trước bức màn là cùng những con dân Chúa ngày nay có thể tiến vào nơi chí thánh và gặp Chúa tại ngôi báu ân điển. Chúng ta được ban cho nhiều quyền phép như vậy đấy!
Thầy tế lễ chỉ có một thời điểm đặc biệt trong ngày được đến gần bàn thờ, còn chúng ta có thể tự quyết định thời điểm mình gặp Chúa qua lời cầu nguyện. Chúng ta phải bắt đầu và kết thúc mỗi ngày bằng lời cầu nguyện. Tuy nhiên chúng ta cũng phải cầu nguyện ngay trong ngày nếu đối diện với những tình huống khác thường. Tiên tri Nê-hê-mi là một ví dụ tuyệt vời về việc “cầu nguyện không thôi” và bạn có thể tìm hàng tá những lời cầu nguyện được ghi lại trong các sách của ông. Một điều thiết yếu khác là nhiệm vụ của Đức Thánh Linh. Hương thơm được đốt trên bàn thờ làm bằng vàng, và Đức Thánh Linh chính là “ngọn lửa” châm ngòi cho lời cầu nguyện của chúng ta. Phao-lô khích lệ Ti-mô-thê “hãy nhen lại ơn của Đức Chúa Trời” (II Ti-mô-thê 1:6) được ban cho Ti-mô-thê và theo nghĩa đen điều này có nghĩa là “thổi lửa bùng lên.” Khi thầy tế lễ đến bàn thờ mỗi buổi sáng và tối, đầu tiên ông ta quét dọn tro bụi trên bàn thờ và nhóm lại ngọn lửa, vậy nên chúng ta cần dọn sạch lòng mình và tiến tới phía trước dù ngày hay đêm.
Mỗi lúc tôi chuẩn bị thờ phượng hay tham dự một buổi hiệp nguyện, tôi có thể đóng góp hay không là tùy thuộc vào tình trạng thuộc linh của tôi. Thầy tế lễ không dám mang “ngọn lửa lạ” vào nơi tôn nghiêm mà phải lấy ngọn lửa thánh từ bàn thờ dâng của lễ thiêu (làm bằng đồng thau) là nơi mà lửa không bao giờ tắt. Ngọn lửa này thường đến từ Thiên đàng (Lê-vi Ký 9:24)! Ngọn lửa này thêm sức mạnh cho một buổi hiệp nguyện khi mọi người tham dự có thói quen cầu nguyện và giống như những môn đồ làng Em-ma-út, có tấm lòng nóng nảy (Lu-ca 24:32). Thầy tế lễ được lựa chọn để xông hương mang trong mình một mùi hương thơm ngát từ hương thánh của bàn thờ. Và mọi người biết rằng ông ta vừa đi ra từ nơi tôn nghiêm. Liệu rằng những người khác có thể phát hiện được mùi “hương thánh” trên người chúng ta và biết rằng chúng ta ở cùng Chúa Giê-su?
Thật là ý nghĩa nếu lời cầu nguyện của con dân Chúa được lưu lại trên Thiên đàng như một thức hương có mùi thơm (Khải Huyền 5:8; 8:3-4). Chúng ta sống trên đất này có thể nghĩ rằng những lời cầu nguyện lắp bắp là thất bại, nhưng Cha chúng ta lại coi chúng là quý giá. Những lời cầu nguyện của chúng ta có thể bị coi thường trên đất này nhưng lại là báu vật trên Thiên đàng và mang lại niềm vui cho Chúa. Đừng bao giờ đánh giá thấp tầm quan trọng của lời cầu nguyện hay tác dụng của lời cầu nguyện trên con dân Chúa và công việc Chúa. Lời cầu nguyện của một đứa trẻ sẽ nhận nhiều sự chú ý trên Thiên đàng cũng như những lời cầu thay của một chiến sĩ cầu nguyện có tuổi.
Hương thơm của sự hiệp một (Thi Thiên 133).
Sự bất hòa, không hiệp một là vấn đề trong dân sự Chúa từ khi Ca-in giết chết A-bên, A-rôn và Mi-ri-am chỉ trích em mình là Môi-se, và các môn đồ của Chúa chúng ta cũng tranh cãi xem ai trong số họ là lớn nhất. Chúng ta hát, “We are not divided/ All one body we” (Chúng ta hiệp một/ Tất cả chúng ta trong một thân). Điều này đúng theo cách nhìn của Chúa nhưng không phải lúc nào cũng đúng theo cách nhìn của thế gian. Hội Thánh Cô-rinh-tô làm buồn lòng Chúa và Phao-lô bởi Hội Thánh bị phân rẽ theo bốn hướng (I Cô-rinh-tô 1:12). Tôi đã làm Mục sư Quản nhiệm ở ba Hội Thánh và thi hành mục vụ ở nhiều Hội Thánh khác, vì thế tôi kinh nghiệm cả sự sốt sắng hiệp một thánh khiết lẫn luồng gió lạnh lẽo của sự không hiệp một. Nhưng hình tượng trong Thi Thiên 133 chỉ ra rằng sự hiệp một phải đến từ Chúa, bắt đầu bằng từ “anh em” (brethen) trong câu 1. Từ đó ngay lập tức nhắc nhở chúng ta rằng tất cả các Cơ Đốc Nhân đã kinh nghiệm một đời sống tái sinh trong Đấng Christ và cùng thuộc một gia đình. Vì thế, chúng ta phải yêu thương lẫn nhau và làm mọi điều có thể để “dùng dây hòa bình mà giữ gìn sự hiệp một của Thánh Linh” (Ê-phê-sô 4:3).
Nhưng tôi muốn tập trung vào hương thơm của dầu mà A-rôn đã xức để trở thành thầy tế lễ thượng phẩm đầu tiên của dân tộc Y-sơ-ra-ên. Hương thơm đến từ sự hiệp một cá nhân không có trong sự thống nhất có tổ chức, vì sự hiệp một đến từ tình yêu trong khi sự thống nhất là kết quả của áp lực từ bên ngoài. Được truyền cảm hứng bởi Thánh Linh, Đa-vít đã chỉ ra rằng dầu quí giá đổ ra trên đầu A-rôn chảy xuống râu A-rôn (Thi Thiên 133:2). Điều này nghĩa là dầu chảy qua mười hai viên đá quí trên bảng đeo ngực của A-rôn, những viên đá này tượng trưng cho 12 chi phái của Y-sơ-ra-ên. Dầu xức hợp nhất những viên đá. Đây là hình ảnh của Hội Thánh: “Đều đã chịu phép Báp-Têm chung một Thánh Linh để hiệp làm một thân” (I Cô-rinh-tô 12:13). Dù cho món trang sức được đặt ở đâu một khi nó được đụng tới bởi dầu thì sẽ hiệp một với những viên đá khác. Mỗi viên đá có vẻ đẹp và tính chất riêng của nó, nhưng không có viên đá nào lớn hơn viên nào. Như khi A-rôn đeo tên các chi phái trước ngực và trên vai (Xuất Ê-díp-tô Ký 28) giống như Đức Chúa Giê-su Christ, thầy tế lễ cả thượng phẩm, mang chúng ta trên vai Ngài và trước ngực Ngài. Ngài không bao giờ ngừng yêu thương và chăm sóc chúng ta.
Vua Đa-vít là người đã viết đoạn Thi Thiên này, và ông biết về sự hiệp một và sự bất hòa. Khi ông còn trẻ, những anh em của ông không tôn trọng ông trong suốt những năm ông chưa làm vua. Sau-lơ chia đôi đất nước để chống lại ông. Sau khi Sau-lơ chết, Đa-vít trị vì được bảy năm rưỡi ở Hếp-rôn trước khi toàn bộ đất nước được thống nhất. Bởi sự ghen tỵ, tính dâm dục và kiêu ngạo, một vài người con trai của Đa-vít đã tạo ra sự bất hòa trong gia đình ông và trong đất nước. Sự hiệp một thật là tốt lành và vui vẻ giống như sương rơi trên những cánh đồng và vườn cây sinh ra những trái đẹp (Thi Thiên 133:3). Hội Thánh không phải là để tạo một sự thống nhất có tổ chức vì chúng ta đã hiệp một trong Đấng Christ rồi. Nhiệm vụ của chúng ta là phải cố gắng, “Dùng dây hòa bình mà giữ gìn sự hiệp một của Thánh Linh” (Ê-phê-sô 4:3). Nếu mỗi tín hữu làm trọn nhiệm vụ đó thì lời cầu nguyện của Đấng Christ cho sự hiệp một trong Giăng đoạn 17 sẽ là câu trả lời. (Giăng 17:11,21-23)
Hương Thơm Của Tình Bạn Hữu.
“Dầu và thuốc thơm làm khoan khoái linh hồn;
Lời khuyên do lòng bạn hữu ra cũng êm dịu dường ấy” (Châm Ngôn 27:9).
Thật là một phước hạnh lớn khi có một người bạn để có thể thảo luận những vấn đề quan trọng, cầu nguyện và nhận được những lời khuyên thuộc linh hữu ích. Những lời khuyên như vậy sẽ thay đổi bầu không khí của cuộc sống, như là hương thơm của nước hoa thay đổi không khí trong phòng. Nếu mang đến bầu không khí u ám của sự buồn bã, thất vọng sẽ chỉ làm cho vấn đề xấu hơn, nhưng Chúa có thể sử dụng một người bạn hay an ủi để mang đến một bầu không khí trong lành đầy hương thơm.
Chúa chúng ta nói với các môn đồ của Ngài rằng Ngài coi họ là bạn chẳng phải đầy tớ, “Vì đầy tớ chẳng biết điều chủ mình làm” (Giăng 15:13-15). Chúa Giê-su chia sẻ bí mật của Ngài với chúng ta vì chúng ta suy gẫm lời Ngài, và Ngài bày tỏ tình bạn hữu của Ngài với chúng ta bằng cách từ bỏ mạng sống Ngài vì chúng ta.
“Sắt mài nhọn sắt.
Cũng vậy người bổ dưỡng diện mạo bạn hữu mình” (Châm Ngôn 27:17).
Tôi cảm ơn Chúa vì Ngài đã cho tôi những người bạn đã khuyên bảo tôi, quở trách tôi, và đôi khi phát vào mông tôi, bởi Chúa sử dụng lời nói của họ như một lưỡi dao sắc nhọn cho chức vụ của tôi. Đôi khi chức vụ của họ là phải đi sâu hơn nữa và lên án tôi, nhưng điều đó luôn luôn giúp ích cho tôi. Chức vụ của họ là mang đến hương thơm của một khu vườn chứ không phải là mang đến lửa và lưu huỳnh của chiến tranh.
Khi tôi còn trẻ con, tôi có những người bạn chơi cùng. Khi tôi đến trường và tôi có bạn cùng lớp. Trong ký túc xá tôi có bạn cùng phòng. Và một ngày nọ tôi nói, “Tôi cần một người bạn đời.” Chúng tôi đã kết hôn hơn 60 năm nay và thi hành chức vụ ở nhiều nơi trên thế giới, gặp gỡ những người tuyệt vời. Lời cầu nguyện chính là điều mà chúng tôi luôn để lại cho họ với hương thơm của Chúa cho dù chúng tôi đi bất cứ nơi đâu thì những người khác cũng cầu nguyện cho chúng tôi.
Một suy nghĩ cuối cùng: có nhiều tuyên bố “one another” (lẫn nhau) trong Tân Ước nhắc chúng ta nhớ rằng mỗi chúng ta phải chịu trách nhiệm với những người cùng niềm tin khác, dù chúng ta là người lạ, tình cờ quen biết, hay bạn lâu năm. “Điều răn mới” chính là chúng ta yêu thương người khác được tìm thấy hàng tá trong Kinh Thánh, và một tuyên bố về “lẫn nhau” biến tình yêu thương thành những chức vụ rõ ràng: “cầu nguyện cho nhau” (Gia-cơ 5:16), “khuyến cáo lẫn nhau” (Hê-bơ-rơ 3:13), khuyên bảo lẫn nhau (Rô-ma 15:14), phục vụ lẫn nhau (Ga-la-ti 5:13), làm gương sáng cho nhau (Rô-ma 14:19) và còn nữa. Tôi nghĩ có hơn hai mươi tuyên bố “lẫn nhau” trong Kinh Thánh bổ sung cho cụm từ quen thuộc “yêu thương lẫn nhau.”
Hương Thơm Của Sự Hy Sinh (Phi-líp 4:18).
Phao-lô ở tù tại Rô-ma. Những người bạn của ông trong Hội Thánh tại Phi-líp đã gửi ông món quà đặc biệt là tiền, giúp nâng đỡ tâm linh và đáp ứng những nhu cầu của ông. Nhưng Phao-lô không xem món quà là sự dâng hiến cho chức vụ của Hội Thánh. Ông xem nó như một, “Một thứ hương có mùi thơm, tức là một của lễ Đức Chúa Trời vui nhận, và đẹp lòng Ngài” (Phi-líp 4:18). Bởi sự dâng hiến rời rộng của họ, những thánh đồ ở Phi-líp đã làm Chúa vui lòng và Ngài ban phước trên đầy tớ của Ngài. Đó chẳng phải là tất cả những gì chúng ta cần sao?
Trong Kinh Thánh, chúng ta thường được kể rằng Đức Chúa Trời “đã ngửi” những vật tế mà con dân Chúa dâng cho Ngài và Ngài vui lòng với sự thờ phượng của họ (Sáng Thế Ký 8:21, Lê-vi Ký 1:9,13,17;26:31). Lẽ dĩ nhiên, đây là ngôn ngữ của con người thường dùng để dạy dỗ những lẽ thật tâm linh, vì Đức Chúa Trời là Thần và không có một thân thể với mũi để phát hiện mùi. Trong Kinh Thánh, hương thơm của lời nói là sự chấp nhận với tình yêu thương trong khi mùi của lời nói là sự trừng phạt và loại bỏ. Một vài bệnh dịch mà Chúa mang đến đất nước Ê-díp-tô gây ra bởi mùi hôi thối (Xuất Ê-díp-tô ký 7:18, 21; 8:14). Ê-sai cảnh báo người dân rằng khi ngày của Chúa đến, “Sẽ có mùi hôi thay vì nước hoa.” (Ê-sai 3:24).
Tôi biết Benjamin Franklin khi còn là một chú bé, đã gợi ý cha mình rằng ông nên xin một thùng lớn đầy thức ăn một lần là đủ cả thay vì mất thời gian cầu nguyện từng bữa một, và cậu bé bị phạt vì điều đó. Cho dù khôn lỏi, nhưng Franklin đã quên một điều. Lời cầu nguyện trước bữa ăn không chỉ cảm ơn Chúa vì thức ăn được ban cho mà còn thánh hóa bữa ăn, biến bữa ăn thành một thời điểm đặc biệt của tình bằng hữu với người khác và với Chúa. Bao nhiêu người hiểu được bữa ăn hàng ngày là “của tế lễ tâm linh” được dâng lên cho Đức Chúa Trời và Ngài dùng chúng như những thầy tế lễ trong đền thờ?
Trong thời Cựu Ước, người theo đạo Do Thái thường nhạo báng dân ngoại vì thờ lạy những thần tượng chết.
“Hình tượng có miệng mà không nói;
Có mắt mà chẳng thấy;
Có tai mà không nghe;
Có lỗ mũi mà chẳng ngửi” (Thi Thiên 115:5-6).
Nhưng Chúa chúng ta là Đấng Sống và nhận biết các của tế lễ mà chúng ta dâng cho Ngài bởi chúng ta yêu Ngài và muốn làm vui lòng Ngài. Phần quan trọng nhất của cuộc đời một người tin Chúa chính là phần mà chỉ Đức Chúa Trời nhìn thấy: sự thờ phượng cá nhân và tình bạn hữu. Nếu chúng ta thực sự thờ phượng Chúa từ trái tim mình, dù chúng ta dâng gì cho Chúa với tình yêu thương gồm cả thời giờ, tài sản, và sự hầu việc Chúa thì sẽ được Ngài chấp nhận và ban phước.
Một trong những tấm gương tuyệt vời nhất của nguyên tắc này là việc bà Ma-ri làng Bê-tha-ni xức dầu cho Chúa Giê-su (Giăng 12:1-8). Ma-ri có thể sử dụng loại dầu thơm đắt tiền đó để chuẩn bị cho việc chôn cất anh trai mình là La-xa-rơ (Giăng 11), nhưng bà để dành nó cho Chúa Giê-su. Bất cứ khi nào chúng ta dâng điều tốt nhất cho Chúa, thì một người nào đó sẽ chỉ trích chúng ta, và đó là điều mà Giu-đa đã làm. “Sao lại phí dầu thơm như vậy?” Hãy thử tưởng tượng rằng nói một món quà cho Chúa Giê-su là lãng phí! Chúa Giê-su quở trách Giu-đa và nói rằng sự thờ phượng của Ma-ri sẽ nổi tiếng khắp thế giới (Mác 14:9). Giăng kể với chúng ta rằng, “Cả nhà thơm nức mùi dầu đó” (Giăng 12:3). Tóc của Ma-ri thấm đẫm dầu, vậy nên cho dù bà đi đến nơi nào trong nhà thì bà cũng mang theo hương thơm của sự thờ phượng cùng bà. Hãy nuôi dưỡng một đời sống tỏa hương thơm tại nhà. Bởi vì nếu chúng ta trung tín tại nhà mình thì Chúa có thể biến đời sống thành ơn phước khắp thế gian giống như Ngài đã làm cho bà Ma-ri! Sự thờ phượng cá nhân của chúng ta sẽ ảnh hưởng đến công chúng theo nhiều cách khác nhau mà chúng ta không thể biết hết cho tới khi chúng ta lên Thiên đàng.
Hương Thơm Của Sự Tha Thứ.
Khi tôi nghĩ về vẻ đẹp của hương thơm tha thứ, hai nhân vật trong Kinh Thánh xuất hiện trong đầu tôi – một người đàn ông nổi tiếng trong Cựu Ước và một người phụ nữ vô danh trong Tân Ước, một người là vua còn người kia là dân thường – cả hai người này đều liên quan đến tội lỗi tình dục. Nhưng một khi họ gặp Chúa và kinh nghiệm được sự tha thứ, kết quả chính là hương thơm.
Người đàn ông là Vua Đa-vít. Ông phạm tội ngoại tình với Bát-sê-ba và cố gắng che dấu tội lỗi của mình, khi trải qua nhiều tháng đau khổ và thương tiếc (Thi Thiên 32:3-5). Sau khi con trai ông sinh ra, đứa bé đau ốm và Đa-vít kiêng ăn và cầu nguyện xin đứa bé được cứu nhưng Đức Chúa Trời đem linh hồn nó lên Thiên đàng. Khi ông biết tin này, “Bấy giờ, Đa-vít chờ dậy khỏi đất, tắm mình, xức dầu thơm, và thay quần áo; rồi người đi vào đền của Đức Giê-hô-va và thờ lạy” (II Sa-mu-ên 12:20).
Đa-vít tắm và xức dầu lên mình bằng nước hoa thơm ngát và mặc quần áo mới. Cả ba hành động này được dùng trong Kinh Thánh đều liên quan tới sự tha thứ. Khi Chúa tha thứ chúng ta, Ngài rửa sạch chúng ta, mặc quần áo mới cho chúng ta và xức lên mình chúng ta thứ dầu thơm phước lành. Đứa con trai hoang đàng được mặc bộ quần áo tốt nhất (Lu-ca 15:22). Tiên tri Xa-cha-ri đã vẽ một bức tranh về trải nghiệm này ở chương 3 trong sách của ông, trong đó ông cho chúng ta thấy thầy thượng tế với áo bẩn được nhận áo đẹp (Xa-cha-ri 3:1-5), một bức tranh về sự tha thứ của Chúa với tội lỗi của người Do Thái.
Người phụ nữ vô danh là một gái điếm đây cũng chính là người nghe Chúa giảng và đáp ứng lời kêu gọi của Ngài với tội nhân: “Hãy đến cùng ta… và ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ” (Ma-thi-ơ 11:28-30). Bà tin Chúa và được cứu. Bà đã theo Ngài tới nhà Si-môn người Pha-ri-si, nơi đó Chúa Giê-su đang dùng bữa tối, và ở đó bà rửa chân Ngài bằng nước mắt mình, lau chân Ngài bằng tóc mình, và xức dầu chân Ngài bằng dầu thơm (Lu-ca 7:36-50). Nước hoa mà bà từng sử dụng cho điều xấu nay lại được dùng cho Đấng Cứu Thế, và Ngài chấp nhận nó. Đó chính là hương thơm của sự tha thứ. Đức Chúa Giê-su tuyên bố bà đã được tha tội và điều này làm Si-môn choáng váng nhưng lại an ủi người phụ nữ. Sau đó Chúa Giê-su phán, “Đức tin ngươi đã cứu ngươi. Hãy đi cho bình an.” Và vấn đề được giải quyết (Lu-ca 7:50).
Những ai được Chúa tha thứ, chúng ta phải tha thứ. Chủ nhà Si-môn vẫn chưa học được bài học đó. Tội lỗi đã gây ô nhiễm nặng bầu không khí của thế gian này và con dân Chúa chính là những người có thể tạo nên sự khác biệt. Có phải chúng ta đang tỏa hương thơm tha thứ trong nhà mình, trong Hội Thánh, trong tình bè bạn, và trong nơi làm việc không?
Chương 13
Một Đời Sống Yên Lặng Và Bình An
“Ráng tập ăn ở cho yên lặng, săn sóc việc riêng mình, lấy chính tay mình làm lụng, như chúng tôi đã dặn bảo anh em” I Tê-sa-lô-ni-ca 4:1.
“Cho các vua, cho hết thảy các bậc cầm quyền, để chúng ta được lấy điều nhân đức và thành thật mà ở đời cho bình tịnh yên ổn” I Ti-mô-thê 2:2.
Cuộc sống hiện đại dường như luôn cạnh tranh, thậm chí cạnh tranh cả chỗ đỗ xe trong siêu thị. Cuộc sống hiện đại cũng phức tạp như lúc tôi cố tìm xem phiên bản mới nhất của thiết bị sử dụng đo tiểu đường. Cuộc sống hiện đại cũng cực kỳ ồn ào. Tôi đang ngồi yên lặng trước hiên nhà, muốn đọc một cuốn sách, và ba người hàng xóm bắt đầu nổ những máy cắt cỏ, một người khác thì mở lớn đài khi ông ta rửa xe cho vợ. và một chiếc xe bể ống xả nổ ầm ầm dưới phố. Một lát sau một thiếu niên chạy xe qua mở đài ầm ĩ như kể cho mọi người khiếu thẩm âm của anh ta tệ cỡ nào và một tương lai tồi tệ cho thính giác của anh ta. Cuối cùng tôi rút vào nhà, mở một bài nhạc nhẹ trong máy CD và tận hưởng thói quen đọc sách của mình. Nhưng tôi đủ thông minh để biết rằng không chỉ có tiếng ồn bên ngoài làm tôi xao lãng mà còn cả tiếng ồn bên trong tâm hồn. Các cố vấn tâm lý thường nói với chúng ta rằng chúng ta có dàn hợp xướng nhiều giọng bên trong mình lúc khen ngợi, lúc chỉ trích, lúc sửa lỗi cho chúng ta, đôi khi làm chúng ta lẫn lộn, và luôn cố tìm cách điều khiển chúng ta và đó là lý do tại sao chúng ta mất sự bình an. Một giọng nói quát lên: Mày phải viết một cuốn sách! Một giọng khác lại thì thầm Bức thư đó cần phải trả lời. Một giọng thứ ba nhắc tôi rằng có những chồng báo, vỏ đồ hộp và chai nhựa cần được bỏ vào sọt rác. Trong khi thi hành chức vụ, tôi đã bay hàng ngàn dặm, và tôi biết rằng những máy bay và sân bay này rất ồn ào nhưng trong hầu hết các chuyến đi tôi luôn hoàn thành công việc của mình. Bí mật của một đời sống yên lặng và bình an không phải là im lặng trong sự cách ly hoàn toàn mà là một tâm hồn yên ắng và một trái tim bình an dưới sự điều khiển bởi Thánh Linh của Chúa. “Người nào để trí mình nương dựa nơi Ngài, thì Ngài sẽ gìn giữ người trong sự bình yên trọn vẹn, vì người nhờ cậy Ngài.”
Làm sao mà Cha yêu quý của chúng ta giúp những đứa con của Ngài sống yên lặng và bình an trong một thế giới ồn ào và đầy tranh cạnh? Dưới đây là một vài mục vụ Ngài muốn chia sẻ với chúng ta nếu chúng ta muốn nghe.
Ngài Dẫn Dắt Chúng Ta.
“Ngài khiến tôi an nghỉ nơi đồng cỏ xanh tươi
Dẫn tôi đến mé nước bình tịnh” (Thi Thiên 23:2).
Đồng cỏ cung cấp thức ăn và dòng suối cung cấp nước uống, nhưng có một thứ hơn cả sự nuôi dưỡng về thân thể. Con chiên cần phải nằm nghỉ và chiên sợ dòng nước chảy xiết. Nếu như bầy chiên muốn sẵn sàng cho bước tiếp theo của cuộc hành trình thì nó phải được nghỉ ngơi cách an bình. Chúa Giê-su nói với các môn đồ của Ngài, “Hãy đi tẻ ra trong nơi vắng vẻ, nghỉ ngơi một chút” (Mác 6:31). Vance Havner từng nói, “Nếu bạn không ngừng lại và nghỉ ngơi, bạn sẽ bị rời ra!” Một Mục sư đầy nhiệt huyết là bạn tôi khi ông ở trong bệnh viện để phẫu thuật cấp cứu, tôi và vợ đã đến thăm ông. Ông nói, “Tôi còn nhiều việc phải làm.” Tôi trả lời, “Nhưng Kinh Thánh nói rằng: Ngài khiến tôi an nghỉ.” Ông hít một hơi sâu và trả lời, “Tôi sẽ kể lại điều đó cho người khác.”
Đôi khi Chúa phải bỏ chúng ta sang một bên để chúng ta có thể nghĩ về quá khứ. Chúng ta dồn hết tâm trí vào những ý tưởng mới, những đồ dùng mới và những thách thức mới đến mức chúng ta cần nằm trên giường một tuần để nghĩ lại và học hỏi từ quá khứ. Giê-rê-mi nói với những người dân Do Thái lầm lạc,
“Hãy đứng nơi các nẻo đường và quan sát,
Hãy dò hỏi về các đường lối xa xưa:
‘Đường nào dẫn đến phúc lành?’
Hãy bước đi trên đường ấy,
Và tìm sự an nghỉ cho tâm hồn các ngươi” (Giê-rê-mi 6:16).
Một tối nọ khi tôi đang lái xe về nhà, một tài xế say rượu lao vào tôi với tốc độ 80 dặm một giờ, và tôi bị bỏ sang một bên ba tháng, hai tuần trong thời gian đó ở trong bệnh viện. Trong một tuần tôi sống nhờ vào nước đá, nước trái cây, và pho mát không kem. Khi nữ hộ lý mang cho tôi bữa ăn đầu tiên, tôi ngây ngất vì sung sướng. Thức ăn chưa bao giờ ngon thế! (Tôi biết được sau đó rằng tôi đã ăn thức ăn của một bệnh nhân khác, nhưng nữ hộ lý chẳng thể làm gì được nữa.) Đôi khi chúng ta cần phải “ngừng lại” nghỉ ngơi và khám phá làm sao gia đình và bạn bè lại tuyệt vời như vậy, thức ăn ngon làm sao, sao thân thể mình mệt mỏi thế, thời gian và cuộc sống mới quí giá làm sao, mọi người sao tốt thế, và thật vinh dự khi được sống và hầu việc Chúa Giê-su.
Ngài Dạy Dỗ Chúng Ta.
Khi tôi trở thành một Cơ Đốc Nhân ở tuổi thiếu niên, Hê-bơ-rơ đoạn 12 đã trở thành chương sách đầy ý nghĩa và đến giờ vẫn thế. “Thật các sự sửa phạt lúc đầu coi như một cớ buồn bã, chớ không phải sự vui mừng; nhưng về sau sanh ra bông trái công bình và bình an cho những kẻ đã chịu luyện tập như vậy” (Hê-bơ-rơ 12:11). Tôi đặc biệt thích cụm từ “bông trái công bình và bình an” trong bản dịch New Living Translation, nó là: “Một vụ mùa bình an của đời sống công chính.” Chúa hơn một lần nói với tôi điều mà Ngài nói với Phi-e-rơ, “Việc Ta làm bây giờ con chưa hiểu nhưng sau này sẽ rõ” (Giăng 13:7).
Sau khi được dạy dỗ, chúng ta kinh nghiệm rằng Chúa mang đến cho chúng ta một vụ mùa bình an để vui hưởng. Sau khi cha mẹ dạy dỗ một đứa trẻ, những giọt nước mắt sẽ được lau khô, tiếp đến là những cái ôm, hôn và có thể còn được đối xử đặc biệt. Khi còn trẻ con, tôi mừng rỡ khi sự trừng phạt qua đi; tôi được tha thứ và gia đình vẫn thương yêu tôi. Tiên tri Sô-phô-ni bày tỏ điều tuyệt vời này: “Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi ở giữa ngươi; Ngài là Đấng quyền năng sẽ giải cứu ngươi: Ngài sẽ vui mừng cả thể vì cớ ngươi; vì lòng yêu thương mình, Ngài sẽ nín lặng; và vì cớ ngươi Ngài sẽ ca hát mừng rỡ” (Sô-phô-ni 3:17 NIV). Tôi thấy Đức Chúa Cha chọn đứa con cáu gắt của Ngài và ôm đứa bé vào ngực trong khi Ngài hát một bài hát dễ thương. Vâng, Đức Chúa Trời hát đấy! Đây là phần thưởng của “vụ mùa yên lặng” theo sau những dạy dỗ đầy yêu thương.
Ngài Giúp Chúng Ta Bỏ Thói Quen Xấu.
Khi lên ba hoặc bốn tuổi, trẻ con Do Thái được cai sữa, khi đó chúng đủ lớn để vùng vằng khi bị kéo ra khỏi vòng tay mẹ, nơi nó đang say mê trong tình yêu tuyệt vời của người mẹ. Nhưng đó chính là lúc đứa trẻ phải lớn lên, tự ăn và giúp mẹ làm những việc vặt trong nhà. Đứa trẻ nào không được cai sữa sẽ bị bó buộc, không thể tận hưởng sự tự do mà mọi trẻ con đều ao ước. Trở thành “bé con của mẹ” cả đời không phải là bí quyết của một cuộc sống sản sinh hạnh phúc.
Mục đích của Đức Chúa Trời cho mỗi con cái của Ngài là phải trưởng thành. Trở nên già yếu là định sẵn; nhưng trưởng thành là một lựa chọn và chúng ta tự quyết định. Bạn cứ học mãi trong lớp cơ bản của Trường Chủ Nhật là bởi bạn bị đối xử như một người có động lực yếu ớt vì bạn cứ ngồi yên tại chỗ trong lớp học Kinh Thánh và từ chối thảo luận Kinh Thánh với người cùng lớp. Luôn có nhiều thứ hơn để học và làm và quá trình đó gọi là trưởng thành.
Vì chúng ta trưởng thành về mặt thuộc linh, chúng ta học được làm thế nào để nuôi dưỡng một tâm hồn yên lặng. Trước đây những điều làm tôi rối tung lên trong hành trình theo Chúa đã không còn trong tâm trí tôi và khi tôi nhìn lại, tôi tự hỏi tại sao tôi lại bị làm phiền lúc ban đầu. Đôi khi Chúa bắt chúng ta bỏ những điều chúng ta yêu thích, đó chính là những điều ngăn cản chúng ta trưởng thành. Áp-ra-ham và Sa-ra phải rời bỏ nhà cửa và gia đình ở U-rơ, và một ngày nọ Áp-ra-ham phải từ bỏ con trai mình là Y-sác! Giô-sép phải rời bỏ cha mình, gia đình và nhà cửa trước khi Chúa có thể sắm sẵn cho ông trở thành Tể tướng của xứ Ê-díp-tô để ông có thể cứu gia đình mình. Đức Chúa Trời không chỉ lấy đi những điều xấu mà Ngài còn lấy cả những điều tốt là những thứ gây cản trở cho sự trưởng thành nếu chúng trở thành những thần tượng.
Bí quyết chính là sự phục tùng. Đứa trẻ phục theo ý muốn của mẹ nó sẽ khám phá cả một thế giới mới, phong phú và đứa trẻ đó được tự do tận hưởng. Phao-lô nói về việc này cách hoàn hảo. “Khi tôi đã thành nhân, bèn bỏ những điều thuộc về con trẻ” (I Cô-rinh-tô). Tôi đã thấy nhiều Hội Thánh bị phá hoại và gần như bị sụp đổ bởi những người không chịu từ bỏ đồ chơi cho trẻ em. Nếu như mặc quần áo lên người thể hiện được sự tấn tới thuộc linh thì những người này chỉ được quấn tã. Trong Thi Thiên 131, Đa-vít nói với Chúa rằng ông từ chỗ bị bối rối giống như một đứa trẻ và nay đã “êm dịu và an tịnh”.
Tôi có cần phải bỏ những thói quen xấu không? Liệu có điều gì trong cuộc sống của tôi như trẻ con cần được loại bỏ không? Nếu tôi khao khát một cuộc sống an tịnh và bình an, tôi phải đưa đồ chơi trẻ con của mình cho Chúa Giê-su và để Ngài dẫn dắt tôi đên chỗ trưởng thành và đắc thắng.
Chúa Giê-su Muốn Chúng Ta Trao Gánh Nặng Mình Cho Ngài.
Một trong những lời kêu gọi nổi tiếng nhất của Chúa Giê-su được ghi lại trong sách Ma-thi-ơ và đó chính là chìa khóa của một tâm hồn yên tĩnh và bình an.
“Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng ta, ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ. Ta có lòng nhu mì, khiêm nhường; nên hãy gánh lấy ách của ta, và học theo ta; thì linh hồn các ngươi sẽ được yên nghỉ. Vì ách ta dễ chịu và gánh ta nhẹ nhàng” (Ma-thi-ơ 11:28-30).
Bước đầu tiên của tội nhân không được nghỉ ngơi là phải đến với Chúa Giê-su và nhận món quà của sự cứu rỗi, nó có cả món quà được an nghỉ. “Vậy chúng ta đã được xưng công bình bởi đức tin, thì được hòa thuận với Đức Chúa Trời, bởi Đức Chúa Giê-su Christ chúng ta” (Rô-ma 5:1). Nhưng đó mới chỉ là khởi đầu. Chúng ta phải mang lấy ách của Đấng Christ và hạ mình hoàn toàn trước Ngài, vậy nên chúng ta cùng nhau mang ách và làm theo ý Chúa. Đối với nông dân thời Tân Ước, đeo ách nghĩa là toàn quyền điều khiển một vật nuôi đã đi hoang và với một học trò nó nghĩa là phục dưới quyền của thầy giáo để nghe và học theo.
Mọi người đều mang một “ách” với điều gì đó – tài sản, tiền bạc, người khác, những tội lỗi, sự thờ cúng của tôn giáo – nhưng những ách này là phương tiện để điều khiển cuộc sống chúng ta và chúng không mang lại sự tự do. Nhà thần học người Anh Peter T. Forsythe nói rằng, “Mục đích của cuộc sống không phải là tìm kiếm tự do cho bạn mà là tìm người chủ cho bạn.” Làm thế nào bạn có thể trở thành một vận động viên vĩ đại? Chỉ có cách là đặt mình dưới sự huấn luyện của một huấn luyện viên vĩ đại. Bạn muốn trở thành một nhạc sĩ vĩ đại? Hãy phục tùng một nhạc sĩ vĩ đại và theo học. Bạn muốn sống một đời sống tuyệt vời? Hãy đầu phục Người có một đời sống tuyệt vời nhất trên cả mọi người – Giê-su Christ, Con của Đức Chúa Trời.
Đến với Chúa tức nhận lãnh và học hỏi. Điều này đồng nghĩa với việc dùng nhiều thời gian để nghiên cứu lời Chúa và với con dân Chúa, chúng ta có thể học tất cả về Con của Đức Chúa Trời và đưa vào thực hành. “Đến với Chúa” chính là bước ngoặt và giống như “nhận lãnh” và “học hỏi” là quá trình tiếp diễn sau đó. Chúa Giê-su nói với chúng ta không đơn giản chỉ là học Kinh Thánh mà là học biết về Ngài qua Kinh Thánh. Đức Thánh Linh mong muốn dạy chúng ta về Chúa Giê-su trong Kinh Thánh và giúp chúng ta yêu Ngài hơn và phục vụ Ngài tốt hơn.
Đến với Chúa tức nhận lãnh và học hỏi và tìm kiếm. Sự bình an mà chúng ta có khi chúng ta đến với Chúa Giê-su tức là hòa thuận lại với Đức Chúa Trời, vì bây giờ chúng ta là con Ngài không phải kẻ thù của Ngài. Nhưng sự bình an mà chúng ta chỉ có thể tìm thấy khi chúng ta trưởng thành về tâm linh chính là sự bình an trong Chúa. “Chớ lo phiền chi hết, nhưng trong mọi sự hãy dùng lời cầu nguyện, nài xin, và sự tạ ơn mà trình các sự cầu xin của mình cho Đức Chúa Trời. Sự bình an của Đức Chúa Trời vượt quá mọi sự hiểu biết, sẽ giữ gìn lòng và ý tưởng anh em trong Đức Chúa Giê-su Christ” (Phi-líp 4:6-7).
Đây chính là sự an nghỉ mà chúng ta tìm kiếm vì chúng ta, “Hãy tấn tới trong ân điển và trong sự thông biết Chúa và Cứu Chúa chúng ta là Đức Chúa Giê-su Christ. Nguyền xin vinh hiển về nơi Ngài, từ rày đến đời đời! A-men” (II Phi-e-rơ 3:18).
Vậy nếu bạn muốn kinh nghiệm một đời sống yên tĩnh và bình an, hãy trao gánh nặng mình cho Ngài và học hỏi! Chúa Giê-su phán: “Ta đã bảo các ngươi những điều đó, hầu cho các ngươi có lòng bình yên trong ta” (Giăng 16:33). Chúng ta càng hiểu biết Chúa và lời Chúa nhiều hơn, chúng ta càng yêu thích sự bình an nơi Ngài.
Ngài Khuyến Khích Chúng Ta Cầu Nguyện.
“Nếu có thể được, thì hãy hết sức mình mà hòa thuận với mọi người” (Rô-ma 12:18)
“Vậy, trước hết mọi sự ta dặn rằng, phải khẩn nguyện, cầu xin, kêu van, tạ ơn cho mọi người, cho các vua, cho hết thảy các bậc cầm quyền, để chúng ta được lấy điều nhân đức và thành thật mà ở đời cho bình tịnh yên ổn. Ấy là một sự lành và đẹp mắt Đức Chúa Trời, là Cứu Chúa chúng ta” (I Ti-mô-thê 2:1-3).
Cứ cho là như vậy, có những tình huống mà chúng ta không thể kiểm soát, nhưng chúng ta có thể cầu nguyện và cầu xin Chúa hành động. Một vài người giống như tờ giấy nhám và Chúa dùng họ để đánh bóng chúng ta, trong khi những người khác chuyên chỉ trích và than phiền, họ là những người kiểm tra sự kiên nhẫn của chúng ta. Tôi đã học được là phải cầu nguyện cho những người làm cho cuộc sống thêm khó khăn, và Chúa làm việc trong lòng tôi cũng như trong họ và Ngài giúp đỡ cả hai chúng tôi. Hãy chắc rằng chúng ta là nạn nhân chứ không phải những người xúc phạm.
Tin tưởng lời cầu nguyện sẽ giải quyết vấn đề. Sự bình an chỉ đến với tâm hồn khi bạn giao phó mọi thứ cho Chúa và tin tưởng Ngài sẽ hành động. Tôi nhớ lại một vấn đề nghiêm trọng của Hội Thánh cần tới năm năm chúng tôi cầu nguyện trung tín và kiên nhẫn chờ đợi thì mới được giải quyết.
Ngài Dạy Chúng Ta Học Kinh Thánh.
“Ta đã bảo các ngươi những điều đó, hầu cho các ngươi có lòng bình yên trong ta. Các ngươi sẽ có sự hoạn nạn trong thế gian, nhưng hãy cứ vững lòng, ta đã thắng thế gian rồi!” (Giăng 16:33). Khi ở trên phòng cao cùng với các môn đồ (Giăng 13-16), Chúa Giê-su giải thích nhiều lẽ thật thuộc linh rằng họ cần hiểu thấu và áp dụng sau khi Ngài trở lại thiên đàng. Nếu chúng ta chỉ dùng lời Chúa lúc chúng ta gặp nan đề thì chúng ta đã tự hạn chế sức mạnh trong lời Chúa nhưng nếu chúng ta suy gẫm Kinh Thánh mỗi ngày, chúng ta sẽ được củng cố đức tin và có thể đối diện với kẻ thù.
“Phàm kẻ nào yêu mến luật pháp Chúa được bình yên lớn;
Chẳng có sự gì gây cho họ sa ngã” (Thi Thiên 119:165).
Chúa Giê-su nói với các môn đồ “Ta để sự bình an lại cho các ngươi; ta ban sự bình an ta cho các ngươi; ta cho các ngươi sự bình an chẳng phải như thế gian cho. Lòng các ngươi chớ bối rối và đừng sợ hãi” (Giăng 14:27). Làm thế nào thế gian có sự bình an? Bằng cách uống thuốc giảm đau hay là tạm quên đi. Bạn có thể đến hiệu thuốc và mua thuốc uống để bạn bình tĩnh, nhưng nó sẽ không giúp bạn mạnh mẽ đủ để đối mặt và giải quyết nan đề. Hay bạn có thể đi chơi bóng chày, xem phim, hoặc mua sắm thỏa thích và quên mọi điều về nan đề đó trong vòng 2 hoặc 3 tiếng đồng hồ, nhưng nan đề vẫn ở đó. Chỉ nhờ lời Chúa và Đức Thánh Linh mà Chúa Giê-su ban cho, chúng ta mới có thể đối diện và giải quyết nan đề vào thời điểm của Ngài và theo cách của Ngài. Mỗi Cơ Đốc Nhân cần một danh sách những đoạn Kinh Thánh mà trong quá khứ chúng đã giúp chúng ta kiểm nghiệm. Tốt hơn nữa là nhớ những câu chìa khóa và dùng chúng khi kẻ thù tấn công. Đó là cách mà Chúa Giê-su đã đánh bại Sa-tan nơi đồng vắng và cách này sẽ đem lại kết quả tốt cho bạn.
Ngài Cho Chúng Ta Công Việc Để Làm.
Đúng vậy, Ngài khiến chúng ta an nghỉ (Thi Thiên 23:2), và có những lúc một giấc ngủ ngon sẽ giải quyết vấn đề. Nhưng Ngài cũng giúp chúng ta tỉnh giấc và làm việc! Nhưng sao công việc lại góp phần vào một cuộc sống yên tĩnh? Được làm việc mà Chúa giao phó cho chúng ta là một đặc ân chứ không phải là bị trừng phạt. Thực vậy trước khi tội lỗi bước vào thế gian, tổ phụ của chúng ta phải làm việc trong vườn. Bạn có biết trong nhiều đoạn Kinh Thánh nhiều con dân Chúa được Ngài kêu gọi hầu việc Ngài khi họ đang bận việc? Môi-se đang trông coi đàn chiên, Ghi-đê-ôn đang đập lúa, Đa-vít đang chăm sóc bầy chiên của cha mình, Phi-e-rơ, Anh-rê, Gia-cơ và Giăng đang vá lưới, và Ma-thi-ơ thì đang thu thuế. Trước khi Ngài bắt đầu chức vụ của mình, Đức Chúa Giê-su Christ của chúng ta là một thợ mộc (Mác 6:3) và Phao-lô là một người may trại trong suốt những năm tháng hầu việc Chúa. Không có chỗ cho kẻ lười biếng trong vương quốc của Đức Chúa Trời, đặc biệt là những Mục sư lười biếng. Vì thế đối với những Cơ Đốc Nhân tận hiến, công việc nào hợp pháp là phục sự Chúa, và lãng phí thời gian là tội lỗi. Một người mẹ ở trong bếp và giặt quần áo thì cũng là hầu việc Chúa cũng thiêng liêng như một Mục sư trên bục giảng hay một nhà truyền giáo đang dịch Kinh Thánh. Giá trị của công việc là đem lại vinh hiển cho Chúa. Công việc được làm bằng cả tấm lòng là một hình thức thờ phượng, sự vui mừng trong chúng ta chỉ Chúa mới có thể mang đến. “Giấc ngủ của người làm việc là ngon” (Truyền Đạo 5:12). “Công bình sẽ sanh ra bình an, trái của sự công bình sẽ là yên lặng và an ổn mãi mãi” (Ê-sai 32:17).
Phao-lô gặp nan đề tại Hội Thánh Tê-sa-lô-ni-ca: Một vài thành viên bỏ công việc, không chịu làm và đi loanh quanh chờ Chúa trở lại (II Tê-sa-lô-ni-ca 3:6-15). Họ dĩ nhiên là sai bởi Chúa muốn thấy chúng ta bận rộn và trung tín khi Ngài trở lại (Mác 13:32-37). Kết thúc một ngày làm việc tốt đẹp khiến con người cảm thấy vui vẻ thay vì buồn chán cả về thân thể và trí óc. Chỉ có Chúa mới ban sự thỏa lòng khi công việc tốt đẹp, “Vì ấy chính Đức Chúa Trời cảm động lòng anh em vừa muốn vừa làm theo ý tốt Ngài” (Phi-líp 2:13).

Chương 14
Một Đời Sống Tự Do
“Bấy giờ Ngài phán cùng những người Giu-đa đã tin Ngài, rằng: Nếu các ngươi hằng ở trong đạo ta, thì thật là môn đồ ta; các ngươi sẽ biết lẽ thật, và lẽ thật sẽ buông tha các ngươi” Giăng 8:31-32.
Mục đích của Đức Chúa Trời cho dân sự Ngài từ khi sáng thế chính là tự do, là điều mà Phao-lô gọi là “Sự tự do vinh hiển của con cái Đức Chúa Trời” (Rô-ma 8:21). Ngày Chúa trở lại sẽ đến khi con dân Chúa có một thân thể vinh hiển và sống trong một thế giới mới đẹp tuyệt vời, và được giải phóng khỏi mọi hình thức hạn chế mà chúng ta đang phải cam chịu hiện nay. Nhưng ngay lúc này chúng ta có thể kinh nghiệm được sự tự do mà Chúa Giê-su Christ mang lại vì, “Vậy nếu Con buông tha các ngươi, các ngươi sẽ thật được tự do” (Giăng 8:36).
Nhưng đầu tiên chúng ta phải suy xét câu hỏi “Tự do là gì?” Câu trả lời thường gặp là, “Tự do nghĩa là có thể làm mọi điều bạn muốn và những điều bạn không muốn thì không phải làm.” Một câu trả lời như vậy là một sai lầm nghiêm trọng. Làm những điều bạn muốn hay là không làm những điều bạn không muốn chính là hình thức xấu xa nhất của sự ích kỷ và bó buộc và cuối cùng sẽ dẫn đến hình thức tồn tại thấp hèn nhất. Đây là định nghĩa của tôi về tự do: “Tự do là cuộc sống được điều khiển bởi lẽ thật và thúc đẩy bởi tình yêu, để hầu việc Chúa và trưởng thành thuộc linh.” Hãy dừng lại và nghĩ về định nghĩa này một chút.
Tự Do Là Cuộc Sống….
Những tử thi, tượng cẩm thạch và những bộ xương không có tự do bởi chúng không có sự sống. Tôi ngưỡng mộ nghệ thuật làm tượng sáp ở bảo tàng Madame Tussaud’s Waxworks trên đường Marylebone Road ở Luân Đôn, nhưng không tượng sáp nào nói chuyện với tôi hay chìa tay ra bắt tay tôi. Những người vô tín không có sự tự do đích thực là bởi vì họ đã “chết vì lầm lỗi và tội ác mình.” (Ê-phê-sô 2:1). Những người này có thể theo một tôn giáo nào đó, nhưng Chúa gọi tôn giáo của họ là “các việc chết” bởi vì những người đang hướng dẫn họ chết về thuộc linh (Hê-bơ-rơ 6:1; 9:14). Khi Chúa Giê-su làm La-xa-rơ sống lại từ kẻ chết, Ngài đã ra lệnh “Hãy mở cho người, và để người đi” (Giăng 11:44), và họ cởi bỏ bộ vải liệm bốc mùi và mặc đồ cho La-xa-rơ như cho người một người còn sống.
Hàng triệu người khốn khổ là bởi họ có những điều kéo họ lại phía sau. Như chúng ta thấy trong chương 1, sự sống đời đời là một món quà chỉ có thể nhận được bằng cách tin Chúa Giê-su Christ. “Ai tin Con, thì được sự sống đời đời; ai không chịu tin Con, thì chẳng thấy sự sống đâu, nhưng cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời vẫn ở trên người đó” (Giăng 3:36). Câu nầy được viết bằng thì hiện tại, tức là ngay lúc này. Nhà thần học người Anh P.T. Forsyth đã đúng khi nói rằng: “Nhiệm vụ đầu tiên của mỗi linh hồn là tìm cho mình một chủ nhân chứ không phải là tìm tự do.”1
Nếu bạn muốn trở thành một vận động viên vĩ đại, bạn phải phục dưới quyền của một huấn luyện viên vĩ đại, tin tưởng người đó, và làm những gì người đó yêu cầu. Những nhạc sĩ, họa sĩ, nhà văn, nhà lãnh đạo vĩ đại cũng làm theo cách tương tự: tìm một người người chủ thực sự và làm theo. Chủ nhân vĩ đại nhất trong tất cả chính là Chúa Giê-su Christ, và sự tự do bắt đầu bằng việc đầu phục Ngài.
1. P.T. Forsyth, Positive Preaching and Modern Mind (New York: Eaton & Mains, 1907), 28.
Sống Tự Do Là Cuộc Sống Được Điều Khiển Bởi Lẽ Thật.
Cuộc sống phải được điều khiển bởi lẽ thật vì nếu nó được điều khiển bởi sự nghi ngờ hay lừa dối thì kết quả sẽ rất đau đớn. Chúa Giê-su là lẽ thật (Giăng 14:6), Đức Thánh Linh là lẽ thật (I Giăng 5:6), Kinh Thánh cũng là lẽ thật (Giăng 17:17), và Hội Thánh là “trụ và nền của lẽ thật” (I Ti-mô-thê 3:15). Nếu chúng ta cho phép Đức Thánh Linh dạy dỗ chúng ta về Chúa Giê-su qua Kinh Thánh, và nếu chúng ta là bạn hữu trong tình yêu thương với con dân Chúa, lẽ thật sẽ là một phần sống trong chúng ta và chúng ta sẽ bước đi trong lẽ thật (II Giăng 4). Lẽ thật của Đức Chúa Trời sẽ không chỉ báo cho chúng ta biết mà còn biến đổi chúng ta để chúng ta ngày càng giống Chúa Giê-su Christ hơn.
Ngày nay nhiều người được cho là trí thức phủ nhận việc có một lẽ thật như vậy. “Điều là lẽ thật với bạn không có nghĩa đó là lẽ thật với tôi,” họ phản đối. Nhưng Môi-se, những nhà tiên tri, Chúa Giê-su và những môn đồ của Ngài tất cả đều khẳng định rằng Chúa đã tỏ cho chúng ta lẽ thật của Ngài; và sự kinh nghiệm cá nhân về đức tin của các tín đồ qua nhiều thế kỷ đã xác nhận điều này. Thủ Tướng Anh, Winston Churchill, đã nói “Lẽ thật là không thể chối bỏ. Sự hoảng hốt có thể oán giận nó; sự ngu ngốc có thể chế nhạo nó; sự hiểm ác có thể bóp méo nó; nhưng lẽ thật vẫn ở đấy!” Quả thực thế, lẽ thật vẫn vậy! “Hỡi Đức Giê-hô-va, lời Ngài được vững lập đời đời trên trời” (Thi Thiên 119:89).
Nếu lẽ thật đo đếm được, thì cả những kẻ “trí thức” không tin kia cũng phải chấp nhận tuyệt đối về: foot và inch, mét và mi-li-mét, lít và ga-lông, li và dặm, pound và ounce. Nếu không có những tiêu chuẩn này chúng ta sẽ sống trong sự hỗn loạn tai hại. Dù một nhà thiên văn nhìn chằm chằm vào một thiên hà rộng lớn bằng kính viễn vọng hay một bác sĩ chuyên ngành ung thư đang nhìn chăm chú vào một mẫu máu nhỏ xíu nhờ kính hiển vi thì cả hai đều dựa vào đó tuyệt đối. Giám mục Tân giáo Philips Brooks nói rằng, “Lẽ thật luôn luôn mạnh mẽ, dù trông có vẻ yếu ớt và sự lừa dối luôn luôn yếu ớt, dù trông có vẻ mạnh mẽ.”
Vẫn có sự tự do giả dối dựa trên những lời nói dối và dẫn đến tai họa và thất bại. Sứ đồ Phi-e-rơ đã cảnh báo chúng ta phải chống lại các giáo sư giả, những kẻ xâm nhập vào các Hội Thánh và trường học và đưa đến những ý tưởng trái lẽ với lời Chúa đã được Chúa hà hơi (II Phi-e-rơ 2). Trong suốt hơn 60 năm trong chức vụ, tôi đã thấy nhiều công việc Chúa bị tiêm nhiễm bởi những tà thuyết, gây chia rẽ, làm suy yếu, và dẫn đến sự chết. Phao-lô so sánh tà thuyết với men: chỉ cần cho một chút men vào bột nhào là nó sẽ làm cho cả đống bột dậy lên (Lu-ca 12:1; Ga-la-ti 5:9; I Cô-rinh-tô 5:6-8).
Sống Tự Do Là Cuộc Sống Được Điều Khiển Bởi Lẽ Thật Và Thúc Đẩy Bởi Tình Yêu Thương…
Bất cứ khi nào bạn thấy một người giận dữ, đầy lòng căm thù, hiểm ác, và khao khát trả thù, thì bạn sẽ thấy một người mất kiểm soát và phá hủy mọi thứ quý giá. Ai đó đã nói rằng cơn giận dữ giống như một loại a-xít nó phá bình đựng nhiều hơn cả người bị tạt a-xít. Nghệ sĩ hài người Mỹ Will Rogers đã cảnh báo chúng ta về những người không kiểm soát được cơn giận của mình thường phải hối hận sau đó.
“Hãy dẹp sự giận, và bỏ sự giận hoảng;
Chớ phiền lòng, vì điều đó chỉ gây ra việc ác.” (Thi Thiên 37:8).
“Nhưng trái của Thánh Linh, ấy là lòng yêu thương.” (Ga-la-ti 5:22). Tôi thường kể cho các sinh viên thần học về I Cô-rinh-tô 13 rằng đoạn Kinh Thánh này không phải được viết để đọc tại đám cưới hay lễ tang mà là tại cuộc họp ban trị sự của Hội Thánh và tại hội đồng về công tác của giáo hội. Nhiều người tức giận vì họ không được làm theo ý mình và một vài người trong đó là thành viên của Hội Thánh. Nếu trái tim chúng ta đầy lòng yêu thương đến từ Chúa Thánh Linh, thì chúng ta có thể tuân theo lời Chúa trong Gia-cơ 1:19-20 “Người nào cũng phải mau nghe mà chậm nói, chậm giận; vì cơn giận của người ta không làm nên sự công bình của Đức Chúa Trời.” Một cơn giận không chính đáng chính là vũ khí xấu xa của ma quỷ, và tất cả chúng ta cần tự chủ vì chúng ta được thúc đẩy bởi tình yêu.
Tình yêu thương giữa các Cơ Đốc Nhân chẳng phải là thứ mà chúng ta có thể sinh ra được. Nó chính là trái được sinh ra trong tâm hồn chúng ta khi chúng ta khiêm nhường, suy gẫm Kinh Thánh, cầu xin sự giúp đỡ từ Chúa, bước đi trong Thánh Linh mỗi ngày. Chúng ta sẽ bị thử thách bởi những điều con người nói và làm vì thế chúng ta sẽ bị xúi cho tức giận nhưng đó là lúc chúng ta phải nhìn lên Chúa vì “Sự bình an của Đức Chúa Trời vượt quá mọi sự hiểu biết.” (Phi-líp 4:5-7). Nếu chúng ta thấy chính mình bị xúi giục bởi những người như vậy chúng ta phải kiểm lại chính mình để xem liệu có điều gì Chúa muốn chúng ta từ bỏ không. Chúng ta không thể có sự tự do nhờ cơn tức giận mà chỉ có tự do khi được điều khiển bởi lẽ thật và chúng ta rất dễ bị lừa dối bởi chính mình! Hãy suy gẫm I Giăng 1:5-10 và Thi Thiên 139:23-24.
Dĩ nhiên, tình yêu thương của chúng ta dành cho người khác chính là cách bày tỏ tình yêu của chúng ta với Chúa. Đối với các tín hữu Cơ Đốc, yêu thương người khác nghĩa là đối đãi với họ theo cách Chúa đối đãi chúng ta. Lời cầu nguyện của Phao-lô cho các bạn hữu mình ở Phi-líp chính là một gương tốt cho chúng ta noi theo. “Lại, điều tôi xin trong khi cầu nguyện, ấy là lòng thương yêu của anh em càng ngày càng chan chứa hơn, trong sự thông biết và sự suy hiểu, để nghiệm thử những sự tốt lành hơn, hầu cho anh em được tinh sạch không chỗ trách được, cho đến ngày Đấng Christ, được đầy trái công bình đến bởi Đức Chúa Giê-su Christ, làm cho sáng danh và khen ngợi Đức Chúa Trời” (Phi-líp 1:9-11).
Tình yêu thương của Cơ Đốc Nhân không chỉ chan chứa hơn trong cuộc sống mà còn phải tăng trưởng trong sự thông biết và sự suy hiểu. Một tình yêu lãng mạn có thể mù quáng nhưng tình yêu thương của Cơ Đốc Nhân không hề mù. Chúng ta yêu thương nhau với đôi mắt mở lớn! Chúng ta phải phân biệt những thứ khác nhau để tình yêu thương và lẽ thật đi cùng nhau (Ê-phê-sô 4:15). Tình yêu thương không có lẽ thật chỉ là đạo đức giả và lẽ thật không tình yêu là tàn bạo và chúng ta phải cân bằng.
Bất cứ khi nào chúng ta phục vụ người khác, chúng ta làm thế không chỉ vì chúng ta yêu thương họ mà còn vì chúng ta yêu Chúa Giê-su. Phao-lô gọi là “lòng yêu dấu của Đức Chúa Giê-su Christ” (Phi-líp 1:8). “Quả thật, ta nói cùng các ngươi.”. Chúa Giê-su phán, “Hễ các ngươi đã làm việc đó cho một người trong những người rất hèn mọn nầy của anh em ta, ấy là đã làm cho chính mình ta vậy” (Ma-thi-ơ 25:40). Bất cứ khi nào chúng ta giúp đỡ các Cơ Đốc Nhân, chúng ta phải nhớ rằng Đấng Christ yêu thương họ và chết vì họ. Đấng Christ phải là trung tâm của tình yêu thương. Thêm vào đó dù chúng ta làm việc gì cho Chúa cũng phải mang lại vinh hiển cho Chúa bởi chúng ta muốn Đấng Christ được cả sáng (Phi-líp 1:20). Kính hiển vi làm cho vật nhỏ trở nên lớn và kính viễn vọng làm cho vật ở xa trở nên gần. Hầu hết những người hư mất nghĩ rằng Chúa Giê-su rất nhỏ bé, tầm thường –không quan trọng như môn thể thao yêu thích của họ hay một ngôi sao truyền hình – và ở rất rất xa, nhưng khi chúng ta làm sáng danh Chúa bằng sự phục vụ người khác, Đức Chúa Giê-su trở nên rất lớn và rất gần!
Sống Tự Do Là Cuộc Sống Được Điều Khiển Bởi Lẽ Thật Và Thúc Đẩy Bởi Tình Yêu Thương Dẫn Đến Sự Hầu Việc Chúa Và Tăng Trưởng Thuộc Linh.
Chúng ta chỉ thực sự tự do khi chúng ta đặt Chúa Giê-su lên hàng đầu, những người khác xếp tiếp theo, và cuối cùng là chúng ta. Nếu chúng ta không cẩn thận thì cả việc chúng ta hầu việc Chúa cũng có thể bị chúng ta lợi dụng để tôn vinh chính mình chứ không phải là để làm vinh hiển danh Đức Chúa Cha trên Thiên đàng (Ma-thi-ơ 5:16). Nếu mọi người chỉ thấy chúng ta mà không thấy Chúa Giê-su tức là chúng ta thất bại. Nếu một đầy tớ Chúa khao khát tôn vinh danh Chúa, họ sẽ dành thời gian, không gian để Chúa được vinh hiển qua sự hầu việc trung tín (I Tê-sa-lô-ni-ca 5:12-13), nhưng chúng ta không được tự tôn mình lên cao. Khi đang lái xe để đến giảng lời Chúa cho một hội nghị, tôi nghe một người giảng về đạo Chúa trong chương trình phát thanh qua đài nhưng cuối cùng tôi đã tắt đi. Ông ta nói rất ít về Chúa Giê-su nhưng lại nói quá nhiều về chính mình. Ông ta quên mất mối quan tâm của Giăng Báp-tít là, “Ngài phải dấy lên, ta phải hạ xuống” (Giăng 3:30).
Sự tự do trong Chúa của chúng ta phải dẫn đến sự hầu việc Chúa đem lại vinh hiển cho Đấng Christ. Phi-e-rơ nói với chúng ta rằng chúng ta không được sử dụng sự tự do như một cái màn che dấu tội lỗi, nhưng dùng sự tự do để phục vụ Chúa (I Phi-e-rơ 2:16). Nếu sự hầu việc Chúa không giúp sinh ra sự tăng trưởng thuộc linh thì có gì đó đã sai. Tự nhiên chúng ta sẽ tở nên già yếu nhưng già yếu không có nghĩa là. Trưởng thành hay không là một việc khác. Sự trưởng thành của các đầy tớ Chúa có nhiều đặc điểm, đầu tiên là họ hiểu về chính mình và chấp nhận mình. Tôi đã hầu việc Chúa cùng các Cơ Đốc Nhân là những người sống trên sự ảo tưởng và không thực tế. Họ nghĩ họ chắc chắn có phần thưởng nhưng không phải vậy, và điều này gây ra những vấn đề nghiêm trọng. Tôi đã biết được từ rất sớm trong cuộc đời rằng tôi không phải là người giỏi về thể thao, nghệ thuật hay kỹ thuật nhưng tôi là một học trò giỏi, hiểu nhanh, biết kiên nhẫn lắng nghe và có khả năng diễn thuyết. Tôi tập trung vào những thế mạnh của mình, học cách chung sống cùng sự yếu kém của mình –một bộ óc khôi hài sẽ có ích –và bởi ân điển của Đức Chúa Trời tôi đã thành công trong việc tìm biết ý muốn Chúa trên cuộc đời tôi.
Những người trưởng thành thuộc linh tự cải thiện mình. Họ không chấp nhận sự thoải mái dễ dàng trong cuộc sống mà chấp nhận thách thức và liên tục trưởng thành. Tôi biết một người khi còn ở trong trường tiểu học, anh cố tình thi rớt lớp 3 bởi vì anh không muốn lên lớp 4 và phải viết bằng bút mực! Tôi băn khoăn không biết làm thế nào anh có thể sử dụng được máy vi tính nhỉ! Tôi thích thái độ của Ca-lép “Vậy, hãy ban cho tôi núi nầy” (Giô-suê 14:12). Mỗi khi chấp nhận một nhiệm vụ, hãy chuẩn bị cho điều sắp xảy ra, nếu chúng ta muốn trả giá để tiếp tục. Xin hãy ban cho tôi núi này!
Với sự giúp đỡ của Chúa, người trưởng thành thuộc linh tự rèn luyện chính mình. Họ phục tùng chính quyền và kiên trì với nhiệm vụ được giao cho tới khi hoàn tất. Họ tránh xa những đường tắt tai hại và không tìm cớ bào chữa. (Nhà truyền giáo Billy Sunday đã nói rằng bào chữa là lớp da của những lý do được nhồi đầy bằng những lời nói dối.) Một ngày nào đó một người công nhân muốn ra lệnh thì anh phải học cách tuân lệnh trước. Đó chính là triết lý của Chúa chúng ta trong công việc; “Chủ nói với người rằng: Hỡi đầy tớ ngay lành trung tín kia, được lắm; ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ lập ngươi coi sóc nhiều; hãy đến hưởng sự vui mừng của chúa ngươi” (Ma-thi-ơ 25:21). Những công nhân được rèn luyện sẽ tiến lên từ chỗ làm được ít việc đến chỗ làm được nhiều việc, từ đầy tớ trở thành ông chủ và từ làm việc vất vả trở thành vui mừng –nếu họ trung tín.
Nói ngắn gọn, một đầy tớ trưởng thành sẽ trở nên ngày càng giống Chúa Giê-su Christ hơn. Trong suốt thời gian thi hành chức vụ trên đất, Ngài trung tín như một đầy tớ, được Cha chấp thuận và đầy dẫy Đức Thánh Linh. Ngài yêu thương những người mà Ngài chăm sóc. Ngài sẵn lòng chịu đau đớn, hy sinh, và chịu chết. Trong mọi sự, Ngài là tấm gương hoàn hảo cho mỗi đầy tớ, lãnh đạo và người chiến thắng. Ngài là Thầy tế lễ thượng phẩm của chúng ta trên Thiên đàng, Ngài chăm sóc chúng ta, ở trong chúng ta và hiểu thấu chúng ta đến nỗi Ngài làm cho chúng ta trở nên trọn vẹn và làm cho chúng ta hữu ích trong công việc Chúa.
Trong khi tôi nghiên cứu từ các thư tín cho tới sách Hê-bơ-rơ, tôi để ý đến 3 câu Kinh Thánh tương tự nhau, chúng đã dạy tôi một bài học quan trọng về sự trưởng thành tâm linh: dưới thời Cựu Ước, các thầy tế lễ không thể làm gì được trọn vẹn (Hê-bơ-rơ 7:11), luật pháp không làm chi được trọn (Hê-bơ-rơ 7:19) và của tế lễ không làm ai trọn lành (Hê-bơ-rơ 10:1). Dù các nhà giảng đạo, các thầy giáo và những nhà lãnh đạo tinh thần có giỏi đến đâu thì chỉ có Chúa Giê-su mới có thể giữ chúng ta đi theo ý muốn của Đức Chúa Trời và sinh ra sự trưởng thành thuộc linh. Dù cho chúng ta chấp nhận những quy định, những hệ thống luật lệ tôn giáo và cố gắng tuân giữ, chúng cũng không thể thay đổi chúng ta mà chỉ có Đức Thánh Linh mới có thể làm điều đó (II Cô-rinh-tô 3:18). Dù cho chúng ta có hy sinh và chịu đau đớn nhiều thế nào chăng nữa thì cũng chỉ bởi ân điển của Chúa mới có thể làm chúng ta giống Chúa Giê-su. Chúng ta không được biến đổi bởi chúng ta cầu nguyện nhiều, hoặc dâng tiền nhiều, hay tuân giữ nhiều luật lệ mà được biến đổi bởi đến với Thầy Tế Lễ Cả Thượng Phẩm tại ngôi ân điển và thờ phượng Ngài nên Ngài mới đáp ứng nhu cầu của chúng ta và chỉ Ngài mới có thể ban ân điển cho chúng ta. Cuộc sống tự do không phụ thuộc vào những thứ trên đất này mà phụ thuộc vào cội nguồn vinh hiển của Thiên đàng chính là điều mà Phao-lô gọi là “Sự giàu có của Ngài ở nơi vinh hiển trong Đức Chúa Giê-su Christ.” (Phi-líp 4:19).
Bởi vì chúng ta muốn vâng phục Chúa Giê-su Christ và tuân giữ lời Ngài nên chúng ta được tự do.
Bởi vì chúng ta tin vào lẽ thật của Chúa và tuân giữ nó nên chúng ta được tự do.
Bởi vì chúng ta yêu mến Đấng Christ và chia sẻ tình yêu thương đó với người khác nên chúng ta được tự do.
“Đấng Christ đã buông tha chúng ta cho được tự do; vậy hãy đứng vững, chớ lại để mình dưới ách tôi mọi nữa” (Ga-li-ti 5:1).
Chương 15
Những Thánh Đồ Sống!
“Vì Đấng Christ là sự sống của tôi” (Phi-líp 1:21).
Khi tôi còn là một đứa trẻ, do thời kỳ suy thoái kinh tế (1929-1939) nên ba anh chị em của tôi đã thách tôi sử dụng sự tưởng tượng của mình khi tôi muốn chơi trò chơi. Dĩ nhiên chúng tôi có những đồ chơi cơ bản, nhưng vì là một em bé trong nhà, nên tôi thường bị xếp cuối hàng. Tuy nhiên tôi rất biết ơn vì điều này, bởi vì tôi thực sự phải sử dụng óc tưởng tượng của mình và tôi vẫn đang dùng đến nó. Chị tôi và tôi chơi trò “trường học”, bằng cách gọi theo danh sách, làm bài tập, kiểm tra, và chia lớp. Chị ấy cũng thích chơi trò “ngôi nhà” và “nhà kho” nhưng bất cứ khi nào chị ấy chơi trò này, thì đó chính là tín hiệu của tôi để chơi trò cút bắt với các cậu nhóc hàng xóm và bận rộn với trò chơi “cảnh sát và những tên cướp” hay “cao bồi và những người da đỏ.”
Trẻ con sống để chơi và hưởng lợi từ đó, nhưng Cơ Đốc Nhân trưởng thành không được sống lãng phí như vậy. Cuộc sống là thực tế, cuộc sống là đòi hỏi, và cuộc sống là nghiêm túc; một ngày nào đó chúng ta sẽ trả lời với Chúa rằng chúng ta đã sử dụng thời gian trên đất như thế nào. Chúa đặt để chúng ta ở đây, không phải để chơi đùa mà là để sống! Những kẻ ngốc nghếch và lười biếng có thể lãng phí cuộc sống của họ nhưng không phải là những Cơ Đốc Nhân tận tụy. Một nhà tâm lý học và triết học người Mỹ Williams James đã viết, “Công dụng vĩ đại của cuộc đời là sử dụng nó cho điều gì đó sẽ trường tồn hơn cả nó.” Hãy thay từ đầu tư (invest) vào từ sử dụng thời gian (spend) và bạn có được một quan điểm của Cơ Đốc Nhân. Chúng ta đầu tư cuộc sống của mình vào vương quốc Đức Chúa Trời! Liệu có đặc quyền nào lớn hơn thế không?
Vì cùng nhau đi xuyên suốt cuốn sách này, nên chúng ta đã xem xét nhiều khía cạnh của đời sống Cơ Đốc Nhân. Nhưng đời sống Cơ Đốc Nhân không phải là thứ mà chúng ta phân tích và giải thích; nó là cái mà chúng ta sống, kinh nghiệm và chia sẻ mỗi ngày. Đó là đặc ân khi trở thành một người tin Chúa. Mỗi ngày chính Chúa cho chúng ta cơ hội để làm vinh hiển danh Ngài khi chúng ta chăm sóc người khác. Tôi tin rằng lẽ thật mà tôi đã chia sẻ sẽ khuyến khích các bạn cùng nói như Phao-lô rằng “Vì Đấng Christ là sự sống của tôi.”
Nếu bạn đang ngần ngại giao phó đời sống mình để hầu việc Chúa Giê-su Christ, dù bạn đang ở đâu hay bất cứ nơi nào Chúa đưa bạn đi, hãy cầu nguyện và xem những lời phát biểu sau.
Không Có Ai Là Người Không Quan Trọng Trong Gia Đình Của Chúa.
Bạn có thể nghĩ rằng bạn không đủ tiêu chuẩn để trở thành một đầy tớ của Chúa, nhưng Chúa thì nghĩ khác. Không phải người đàn ông nào cũng là Môi-se, Ghi-đê-ôn, Đa-vít hay Phao-lô và cũng chẳng phải người phụ nữ nào cũng là Sa-ra, Ra-chên, Đê-bô-ra, hay Mary. Chúa gọi Gi-đê-ôn là “Người dõng sĩ” trước khi ông chưa từng đánh trận (Các Quan Xét 6:12) và Ngài nói với Si-môn rằng ông là đá (tức là Phi-e-rơ) trước khi ông bắt đầu theo Ngài (Giăng 1:40-42). Bạn quan trọng với Chúa và Ngài có thể trang bị cho bạn mọi thứ Ngài muốn để bạn làm mọi thứ Ngài muốn bạn làm.
Không Có Nơi Nào Tầm Thường.
Thông thường trong hội đồng giáo phẩm, mọi người đến gần tôi và bắt đầu cuộc hội thoại bằng câu “Tôi là Mục sư Quản nhiệm của một Hội Thánh nhỏ.” –và tôi ngắt lời họ bằng câu. “Thứ lỗi cho tôi, không có Hội Thánh nhỏ và cũng chẳng có ai là người giảng Phúc Âm vĩ đại cả. Tôi có thể làm gì cho ông?” Đặc biệt là ở Mỹ, nhiều tín hữu bị sa lầy vào sách Dân Số Ký mà quên đi câu hỏi của Đức Chúa Trời trong sách Xa-cha-ri 4:10 “Vì ai là kẻ khinh dể ngày của những điều nhỏ mọn?” Cho dù các số liệu thống kê có như thế nào thì mọi nơi đều là nơi quan trọng nếu con dân Chúa hầu việc cách trung tín và tìm cách làm vinh hiển danh Chúa Giê-su Christ.
Không Có Nan Đề Nào Là Không Giải Quyết Được.
Chúa không kêu gọi những kẻ thua cuộc. Sự bất tín của họ sẽ biến họ thành những kẻ thua cuộc, nhưng đó không phải là kế hoạch đầu tiên của Ngài. Môi-se đã năn nỉ hết sức nhưng Chúa buộc ông phải trở thành một lãnh đạo vĩ đại. Ghi-đê-ôn và Giê-rê-mi có đầy những lý do giải thích tại sao họ sẽ thất bại, nhưng họ dã thành công. Tất cả chúng ta đều có những khuyết điểm về cái này hay cái kia nhưng Chúa có thể giải quyết mọi nan đề và biến điểm yếu thành điểm mạnh và biến sự thất bại thành chiến thắng. Nan đề của mọi người trong Hội Thánh? Sự phản đối của chính quyền? Một nhu cầu thiết yếu cho công nhân và tài chính? Đức Chúa Trời không hề thay đổi vì Ngài bảo Phi-e-rơ viết, “Lại hãy trao mọi điều lo lắng mình cho Ngài, vì Ngài hay săn sóc anh em” (I Phi-e-rơ 5:7) và Phi-líp 4:13 và 4:19 vẫn còn giá trị. Người bất tín coi đó là chướng ngại nhưng người trung tín lại coi đó là cơ hội.
Không Có Sự Thay Thế.
Cố gắng thương lượng với Chúa nghĩa là làm mất kế hoạch tốt nhất mà Chúa đã đặt ra cho chúng ta, bởi vì Ngài luôn ban điều tốt nhất cho những người để Ngài chọn lựa. Truyện ngụ ngôn về những người công nhân trong vườn nho đã làm rõ điều này (Ma-thi-ơ 20:1-16). Những công nhân nài nỉ một hợp đồng được trả đúng với những gì họ đòi hỏi, trong khi những người khác tin tưởng người chủ vườn nhận được nhiều hơn những gì họ đáng được hưởng. Cố gắng thương lượng với Chúa nghĩa là chúng ta nghĩ mình biết nhiều hơn Đức Chúa Trời biết, và đó cũng là bằng chứng của sự bất tín. Vì ý muốn Chúa đến từ lòng thương yêu của Ngài (Thi Thiên 33:11), chúng ta chẳng có gì phải sợ. Hãy để Đức Chúa Trời viết hợp đồng. Hay hơn hết là quên hợp đồng đó đi và đơn giản là đặt lòng tin cậy nơi Ngài.
Chẳng Có Gì Lớn Hơn Đặc Quyền.
Là những đại sứ của Chúa Giê-su Christ, chúng ta hầu việc một Vua nhân từ và rộng lượng, người không bao giờ bỏ rơi và luôn cung ứng cho chúng ta. Chúng ta có Kinh Thánh để dẫn lối, Đức Thánh Linh để dạy dỗ chúng ta và trao quyền phép cho chúng ta, và ngôi ân phước luôn sẵn sàng đáp ứng mọi nhu cầu của chúng ta. Chúng ta theo sau đoàn người gồm những người đàn ông và phụ nữ tuyệt vời nhất từng sống và giúp chúng ta đáp ứng nhu cầu của thế giới đang rất cần sự tha thứ, bình an và sự xác tín của nước Trời. Để đem sứ điệp của Phúc Âm tới con người đang vô vọng chúng ta có đặc quyền mà chúng ta không đáng được hưởng và chúng ta cũng không dám bỏ qua.
Chúng ta là những thánh đồ sống! Chúng ta có sự sống đời đời và tất cả các đặc quyền, vì thế chúng ta có thể chia sẻ sứ điệp của cuộc sống cho người khác. “Vì Ngài phán rằng:
Ta đã nhậm lời ngươi trong thì thuận tiện,
Ta đã phù hộ ngươi trong ngày cứu rỗi.
Kìa, hiện nay là thì thuận tiện; kìa, hiện nay là ngày cứu rỗi!” (II Cô-rinh-tô 6:2).

Vài nét sơ lược về tác giả
Warren W. Wiersbe là một mục sư hầu việc Chúa, một giáo sư dạy Kinh Thánh qua đài truyền thanh, giáo sư trường Kinh Thánh, và là tác giả hoặc chủ bút của hơn 160 cuốn sách, bao gồm cả bộ sách nổi tiếng BE giải nghĩa Kinh Thánh. Ông là mục sư của Hội Thánh Moody ở Chicago và cũng giảng Kinh Thánh trong chương trình phát thanh Back to the Bible trong 10 năm, ông là một giáo sư dạy Kinh Thánh và tổng giám đốc trong 5 năm cùng chương trình này. Các buổi hội thảo mục vụ đã đưa ông đến rất nhiều nước. Ông và vợ là bà Betty sống ở Nebraska, nơi ông tiếp tục chức vụ viết sách của mình.

Bài Tập Thực Hành
VIETNAMESE MISSIONARY INSTITUTE
CHƯƠNG TRÌNH ĐỌC SÁCH
“Người lãnh đạo là người đọc sách, người đọc sách là người lãnh đạo.”

HỌC ĐẠO
SỐNG ĐẠO
TRUYỀN ĐẠO
“Học để dạy và dạy để học.”
Mục Sư Nguyễn Văn Huệ giới thiệu…
1. Chép lại Bố Cục Sách.
Sách nầy nói đến đời sống tâm linh, giúp chúng ta thực hành sống đạo, gồm 15 chương đề cập đến các đề tài sau:
-Chương 1. Sự Sống Đời Đời.
-Chương 2. Một Đời Sống Tin Cậy.
-Chương 3. Một Đời Sống________________.
-Chương 4. Một Đời Sống Đắc Thắng.
-Chương 5. Một Đời Sống_________________.
-Chương 6. Một Đời Sống Khôn Ngoan.
-Chương 7. Một Đời Sống________________.
-Chương 8. Một Đời Sống Tha Thứ.
-Chương 9. Một Đời Sống______________.
-Chương 10. Một Đời Sống Biến Đổi.
-Chương 11. Một Đời Sống No Đủ.
-Chương 12. Một Đời Sống________________.
-Chương 13. Một Đời Sống Yên Lặng.
-Chương 14. Một Đời Sống Tự Do.
-Chương 15. Những Thánh Đồ Sống.

2. Đề tài sách nầy có thể dịch là:
-Đời Sống Tâm Linh
-Sống Trưởng Thành
-Sống Như Chúa Sống
Hoặc:
– Sống…
– Sống…
3. Vài lời nhận xét cá nhân về ích lợi và cần thiết sách.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Ký tên ….
Ngày đọc xong…

Đón Đọc Sách Mới:
1. VUI HƯỞNG SỰ TỰ DO CỦA BẠN
2. ĐỐI DIỆN LƯƠNG TÂM
3. CHÚA ĐỒNG HÀNH VỚI TÔI
Của cùng Tác giả Warren W. Wiersbe do Huong Di Ministries dịch.
Sách dùng để dạy, không bán.

 

Trả lời

Hướng Đi Ministries Hướng Đi Ministries
9/10 1521 bình chọn