Chủ Nhật , 22 Tháng Mười Hai 2024
Home / Giới thiệu sách / MÔN ĐỒ HÓA

MÔN ĐỒ HÓA

MÔ HÌNH MÔN ĐỒ HÓA
Khám Phá Bản Thiết Kế Của Đức Chúa Trời cho Đời Sống Cơ Đốc
Tác giả: J. Dwight Pentecost
Nguyên tác: DESIGN FOR DISCIPLESHIP

mo hinh
Lời Mở Đầu
Ngày nay, chủ đề Môn đồ hóa thường xuyên được thảo luận. Con người được kêu gọi để trở nên môn đồ mà không có bất cứ định nghĩa hay khái niệm nào về môn đồ, và không có bất cứ sự sàng lọc nào dựa theo các yêu cầu của Chúa khiến họ trở nên những môn đồ thật cho Ngài. Có người nghĩ rằng làm môn đồ tương đương với sự cứu rỗi và đôi khi nó trở thành điều kiện để được gọi là Cơ đốc nhân. Vì vậy nhiều người mơ hồ về mối quan hệ thực sự của họ với Chúa Jesus Christ.
Trong loạt bài học này, tác giả cố gắng xây dựng một nền tảng Thần học cho môn đồ hóa, nó chỉ ra rằng để trở thành một môn đồ, chúng ta phải nhận lấy một số kiến thức về những lẽ thật thần thượng, tin nơi Người giới thiệu lẽ thật, và sau đó hoàn toàn dâng chính mình trở nên hiệp một với Đấng được tôn cao. Đức Chúa Trời tìm kiếm và bày tỏ những yêu cầu của Chúa Jesus trên những người trở thành môn đồ để họ có thể sống như các môn đồ thực sự của Ngài.
Vì Chúa Jesus Christ đã đến để giới thiệu lẽ thật của Đức Chúa Trời cho con người, dâng chính Ngài như là Đấng cứu rỗi và Chúa. Chủ đề môn đồ hóa sống động và quan trọng nếu chúng ta hiểu rõ thân vị của Chúa Jesus. Sự kêu gọi của Chúa Jesus và sự thách thức của Ngài dành cho chúng ta là gì? Sứ điệp từ quyển sách này trước hết được chuẩn bị để trình bày cho Hội thánh Ân điển, nơi mà tác giả là mục sư quản nhiệm nhằm môn đồ hóa những người tin. Chúng được giới thiệu để thuyết phục các tín hữu thảo luận cùng nhau và liên kết họ trong những lẽ thật quan trọng.
Nguyện Chúa vui lòng sử dụng bài học này để mang nhiều người đến chỗ nhận biết Ngài là Đấng Cứu Rỗi và kinh nghiệm Ngài là Chúa của chính mình.

tac gia

CHƯƠNG 1
TRỞ NÊN MÔN ĐỒ CỦA CHÚA JESUS CHRIST
Ma-thi-ơ 4:18 – 25.
Chức vụ của Jesus Christ bắt đầu với sự kêu gọi Phi-e-rơ, Anh-rê, Gia-cơ, Giăng và những người khác trở nên môn đồ, rồi dừng lại (theo một phương diện) với việc Ngài kêu gọi các môn đồ đi khắp thế gian để môn đồ hóa muôn dân.
Xuyên suốt chức vụ của Chúa Jesus Christ, Ngài dành nhiều thời gian để môn đồ hóa các môn đệ. Chức vụ của Chúa được dành cho việc dạy dỗ và huấn luyện con người, để những con người đó có thể trở nên môn đồ của Ngài. Giữa vòng những người được gọi là môn đồ của người Pha-ri-si, những người khác được gọi là môn đồ của Giăng, và những người được gọi là môn đồ của Môi-se, Chúa Jesus đã gọi họ trở nên môn đồ của Ngài. Thời gian trên đất của Ngài được đầu tư vào những người này hầu họ có thể trở nên các môn đồ thực sự và làm công tác của các môn đồ.
Ngày nay, Chúa Jesus Christ cũng đang kêu gọi mọi người trở nên môn đồ của Ngài. Nếu tôi hỏi bạn có phải là một môn đồ của Chúa Jesus Christ? Câu trả lời của bạn có thể là, “Tôi là môn đồ.” Nhưng trước khi bạn cho câu trả lời tôi muốn bạn hiểu được những yêu cầu mà Đấng Christ dành cho những người sẽ là môn đồ. Trong suốt học trình này chúng ta sẽ nghiên cứu cho chủ đề môn đồ của Chúa Jesus Christ. Trong ánh sáng dạy dỗ của Tân Ước không có nhiều tiêu chuẩn được yêu cầu trở nên môn đồ của Chúa Jesus Christ; nhưng đó lại là mục vụ dạy dỗ mà một số người sẽ làm cách khinh suất. Tuy nhiên trong ánh sáng của các yêu cầu từ Lời Đức Chúa Trời sẽ sớm bày tỏ ra những sai trật này.
Có một sự khác biệt giữa việc được cứu và trở nên một môn đồ. Không phải mọi người được cứu là môn đồ, mặc dầu mọi người là môn đồ thì được cứu. Trong việc thảo luận câu hỏi về môn đồ hóa, chúng ta không đề cập đến sự cứu rỗi của con người. Chúng ta đang bàn về mối quan hệ của con người với Chúa Jesus Christ như là người Thầy, người Chủ và Chúa của người đó. Có hơn 250 câu Kinh Thánh tham khảo liên quan đến môn đồ trong các sách Phúc âm. Một người không thể nào đọc qua hết các sách Phúc âm ghi chép cuộc sống trên đất của Chúa Jesus Christ, mà lại không nhận thức được mối quan hệ tồn tại giữa Đấng Christ và những người được Ngài kêu gọi trở nên các môn đồ là một mối quan hệ đặc biệt và duy nhất. Đó là mối quan hệ cá nhân và thân mật – mối quan hệ dựa trên sự thông biết thân vị của Đấng Christ, một tình yêu cho thân vị của Ngài để rồi từ đó thuận phục thân vị của Chúa Jesus Christ và vâng lời các mạng lệnh của Ngài.
Từ môn đồ được sử dụng trong vài cách khác nhau. Cho đến khi chúng ta có thể phân biệt được chúng, chúng ta sẽ không thấu hiểu được điều gì được bao hàm trong môn đồ hóa. Trước hết, từ môn đồ nghĩa là một người học trò, một môn sinh, một người đến để được dạy dỗ. Ý tưởng của sự dạy dỗ và học tập nằm trong từ môn đồ. Trong chương bốn của Phúc âm Ma-thi-ơ, khi Chúa đi bộ dọc bờ biển, Ngài nhìn thấy hai anh em, Phi-e-rơ và Anh-rê. Họ đang làm công việc đánh cá. Sau đó, Ngài thấy Gia-cơ, con của Giê-bê-đê, và Giăng, em người, đang vá lưới đánh cá với cha họ. Chúa đã kêu gọi những người này theo Ngài. Họ ra khỏi những theo đuổi thành công về nghề nghiệp mà họ đang dính vào. Chúa Jesus Christ gọi họ theo Ngài. Họ bỏ lại lưới cá, từ bỏ công việc và trở nên những môn đồ của Ngài.
Trong Ma-thi-ơ 5:1, chúng ta đọc: “Khi thấy đoàn dân đông, Đức Chúa Giê-su đi lên núi. Lúc Ngài đã ngồi, các môn đồ đến gần. Ngài mở lời truyền dạy họ.” Tại thời điểm đó, mối quan hệ giữa Chúa Jesus Christ và những người được gọi là môn đồ là mối quan hệ thầy và trò. Họ là những người học. Họ thừa nhận những hiểu biết của họ không đủ và xem thầy của mình là nguồn của sự khôn ngoan và tri thức. Họ đến cùng Ngài để được hướng dẫn. Họ là những người có thể gọi là hiếu kỳ. Vào lúc đó tính cách hiếu kỳ của họ phát triển trên các lời dạy của Ngài. Là các môn đồ, họ đã quy phục tâm trí của họ với Chúa Jesus Christ, họ háo hức về sự dạy dỗ của Ngài và về chính Ngài trong tư cách một người thầy siêu việt. Họ sẵn sàng để được chỉ dạy.
Trong các sách Phúc âm, chức vụ của Chúa Jesus được dành nhiều cho việc dạy dỗ. Sự giảng dạy của Ngài đi vào lòng đoàn dân đông. Họ làm chứng về Ngài rằng không có bất cứ người nào đã từng dạy dỗ giống như Ngài. Có nhiều thầy dạy đạo và ra-bi lúc đó, và họ cũng bị thuyết phục qua những lời dạy của Ngài. Họ sẵn lòng lắng nghe những gì Ngài phán. Chức vụ của Đấng Christ ảnh hưởng rộng lớn, đặc biệt là dạy dỗ những người đến cùng Ngài trong tư cách là môn đồ.
Chức vụ giảng dạy của Chúa Jesus được củng cố qua các phép lạ. Trong chương thứ tư Phúc âm Ma-thi-ơ, sau khi Chúa gọi Phi-e-rơ, Anh-rê, Gia-cơ và Giăng, họ bỏ lại thuyền, lưới, cha mẹ và người thân của họ để theo Chúa. “Chúa Jesus đi khắp miền Ga-li-lê, dạy dỗ trong các nhà hội, rao giảng Tin Lành của vương quốc thiên đàng, và chữa lành mọi thứ tật bệnh, đau yếu trong dân chúng.” (câu 23). Những phép lạ mà Chúa thực hiện trong chức vụ trên đất của Ngài củng cố cho chức vụ dạy dỗ. Những phép lạ đó chứng thực cho các sứ điệp của Ngài. Chúng ta đọc trong Ma-thi-ơ 5:1- 2: “Đức Chúa Jesus xem thấy đoàn dân đông, bèn lên núi kia; khi Ngài đã ngồi, thì các môn đồ đến gần. Ngài bèn mở miệng mà truyền dạy rằng…” Các phép lạ và những việc Chúa làm đều xác chứng cho công tác giảng dạy của Ngài.
Đoàn dân đông vui mừng lắng nghe Chúa rao giảng. Tuy nhiên họ cũng đang cân nhắc các lời của Ngài, và họ không thực hiện bất kỳ một cam kết nào. Họ không từ bỏ những sự dạy dỗ trước đó của những Ra-bi khác. Nhưng họ sẵn lòng nghe Ngài dạy.
Chúng ta tìm thấy trong Mác 4:34 một chi tiết thú vị: “Ngài chẳng hề giảng cho chúng mà không dùng thí dụ; nhưng khi ở riêng, Ngài cắt nghĩa hết cho môn đồ mình.” Ngài cắt nghĩa hết. Bối cảnh của sự bày tỏ tổng thể được tìm thấy trong chương mười ba Phúc âm Ma-thi-ơ khi Chúa đưa ra tám câu chuyện ngụ ngôn cho các môn đồ. Chúng ta đọc trong Ma-thi-ơ 13:2 rằng “Đoàn dân nhóm họp xung quanh Ngài đông lắm.” Đấng Christ dạy đoàn dân bằng các chuyện ngụ ngôn. Sau đó, chúng ta đọc trong câu 36, “Bấy giờ, Đức Chúa Jesus cho chúng về, rồi vào nhà; môn đồ đến gần mà hỏi Ngài rằng: Xin thầy giải lời ví dụ về cỏ lùng trong ruộng cho chúng tôi. Ngài đáp rằng…”. Như vậy sự giải thích của Đấng Christ về các chuyện ngụ ngôn chỉ dành cho những ai được kêu gọi là môn đồ của Ngài.
MÔN ĐỒ CỦA CHÚA JESUS CHRIST
Lần nữa, chúng ta thấy, một sự liên quan nữa về lẽ thật này trong Mác 9:30-32: “Đoạn, đi khỏi đó, trải qua xứ Ga-li-lê, Đức Chúa Jesus không muốn cho ai biết. Vì Ngài dạy các môn đồ rằng: Con người sẽ bị nộp trong tay người ta, họ sẽ giết đi; Ngài bị giết đã ba ngày rồi, thì sẽ sống lại. Nhưng môn đồ không hiểu lời ấy, lại sợ không dám hỏi Ngài.” Từ lẽ thật này chúng ta thấy rằng có nhiều người là những người hiếu kỳ được kêu gọi làm môn đồ, họ nhận thấy vài điều tươi mới và duy nhất trong sự dạy dỗ của Đấng Christ. Họ là những người sẵn lòng cho sự dạy dỗ. Và bài tập dành cho họ là một sự luyện tập của tâm trí. Họ được Chúa trắc nghiệm những gì họ đang nghe Ngài dạy, nhưng họ đã không làm bất cứ một cam kết cá nhân nào với lẽ thật mà Ngài đang dạy hay với người dạy.
Chúng ta sẽ suy luận từ một phân đoạn trong chương sáu của Phúc âm Giăng nơi mà năm ngàn người nam, không kể đàn bà và trẻ em, cùng đến và dành cả ngày để nghe Ngài. Số người hiếu kỳ đó mà được gọi là môn đồ phải là rất lớn. Nếu Đấng Christ có thể thu hút một nhóm lớn hơn năm ngàn người, những người sẵn lòng dành cả ngày để nghe Ngài dạy, đoàn dân đông này là không thể đếm được. Đó là lý do tại sao chính quyền Rô-ma cũng như các nhà lãnh đạo Pha-ri-si cân nhắc sự ảnh hưởng của Chúa trên đám đông; vì họ sợ Đấng Christ rao giảng giáo lý của Ngài trong cộng đồng dân chúng sẽ lật đổ người Pha-ri-si và chính quyền Rô-ma, rồi sau đó đám đông này tôn Ngài làm vua. Đoàn dân đông ở đây chỉ là những người hiếu kỳ!
Ngày nay có nhiều đoàn dân đông sẵn lòng dâng tâm trí của họ cho Lời của Đức Chúa Trời để học tập như là một sự theo đuổi tri thức, lắng nghe những gì Jesus Christ đã phán. Và có thể họ cũng chăm chú lắng nghe sự dạy dỗ và giảng Kinh Thánh từ các bục giảng Phúc âm. Nhưng những người này không có trách nhiệm với lẽ thật hay với thân vị của Chúa Jesus Christ. Họ cho họ là môn đồ của Christ, nhưng Đấng Christ không chấp nhận họ. Thật dễ dàng khi nghe sứ điệp để chỉ đơn giản khuấy động tâm trí đôi chút, như những gì người A-thên đã làm – lắng nghe vài điều mới – mà không có bất cứ liên hệ nào với lẽ thật hay cũng không đóng chặt lẽ thật đó vào đời sống mình. Một người như vậy có thể tự gọi mình là một môn đồ, nhưng anh ta không có uy quyền của Lời Đức Chúa Trời. Người đó chỉ hiếu kỳ nghe giảng nhưng không có bất cứ trách nhiệm nào về lẽ thật đã được trình bày. Chúa Jeus đã phán: “Nếu các ngươi hằng ở trong đạo ta, thì thật là môn đồ ta.”
Nhưng ở đây có một tiến trình từ người hiếu kỳ thành người bị thuyết phục. Họ là những người dâng chính mình mà có lẽ ngoài sự hiếu kỳ với Lời Đức Chúa Trời, họ cũng có sự hiếu kỳ đến những gì Đấng Christ nói và dạy, và cũng lắng nghe Lời Ngài và lẽ thật về thân vị Ngài. Họ là những môn đồ bị thuyết phục. Tôi thấy điều này trong Giăng chương 2 khi kết thúc phép lạ nước hóa thành rượu tại tiệc cưới Ca-na. Giăng 2:2 ghi lại: “Ấy là tại Ca-na, trong xứ Ga-li-lê, mà Đức Chúa Jêsus làm phép lạ thứ nhứt, và tỏ bày sự vinh hiển của mình như vậy; môn đồ bèn tin Ngài.” Các môn đồ tin Ngài. Ở đây dân sự đã thay đổi để theo Ngài, lắng nghe lời dạy của Ngài. Họ đã nhận sự dạy dỗ của Ngài; và khi họ nhìn thấy phép lạ này, họ bị thuyết phục về uy quyền của thân vị và lẽ thật của Lời Ngài. Giăng cho chúng ta biết rằng họ tin nơi Ngài.
Một ví dụ về điều này cũng được nhìn thấy trong Ma-thi-ơ 16:13: “…Ngài hỏi môn đồ, mà rằng: Theo lời người ta nói thì Con người là ai?” Sự giải thích nào mà các người đã nghe về các lời Ta, về các công việc của Ta, về thân vị ta? Một vài người nhận Ngài là Giăng Báp-tít, một số nói Ngài là Ê-li, kẻ khác nói là Giê-rê-mi hay một đấng tiên tri nào đó. “Ngài phán rằng: Còn các ngươi thì xưng ta là ai?” Câu hỏi được đưa ra cho những môn đệ. Đấng Christ muốn trắc nghiệm xem họ có sự tiến bộ hơn hay họ chỉ là những người hiếu kỳ muốn hiểu biết về thân vị Ngài và các lời Ngài. Do đó Ngài hỏi họ trực tiếp, “Còn các ngươi thì xưng ta là ai?” Si-môn Phi-e-rơ trả lời, “Chúa là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời hằng sống.” Đây là một sự xác nhận của đức tin về thân vị của Đấng Christ. Ngài là Con Đức Chúa Trời hằng sống. Nó cũng là sự xác nhận đức tin về công tác của Đấng Christ. Ngài đã đến trong tư cách là Đấng Mê-si. Sau đó Đấng Christ phán rằng lời xác tín đó là một phước hạnh cho Phi-e-rơ. Tại sao? Bởi vì Phi-e-rơ đã trải qua giai đoạn trên mức hiếu kỳ đến giai đoạn bị thuyết phục, và ông xác tín niềm tin của ông nơi thầy mình. Bây giờ ông là một môn đồ có cam kết.
Cùng một lẽ thật được nhấn mạnh trong Giăng 6:67-68. Đoàn dân lúc này trở nên xa cách với Đấng Christ và một số người lui đi không theo Ngài nữa. Trong câu 67 Chúa Jesus phán với mười hai môn đồ, “Còn các ngươi, cũng muốn lui chăng? Si-môn Phi-e-rơ thưa rằng: Lạy Chúa, chúng tôi đi theo ai? Chúa có những lời của sự sống đời đời; chúng tôi đã tin, và nhận biết rằng Chúa là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời hằng sống.” Những gì Phi-e-rơ thừa nhận trong phân đoạn này nói lên ông đã được Chúa thuyết phục. Lúc này nhóm mười hai người được gọi là môn đồ bởi vì họ bị thuyết phục về lẽ thật trong thân vị của Chúa và những công tác của Ngài.
Dầu chúng ta đã thấy rằng những người được thuyết phục trở thành môn đồ có cam kết đại diện cho sự tiến bộ trên mức hiếu kỳ, chúng ta vẫn chưa có được những tiêu chuẩn cụ thể nào tạo thành một môn đồ. Vì trong các sách Phúc âm, môn đồ hóa không phải là kết quả của sự thỏa mãn tính hiếu kỳ, thậm chí cũng không phải là kết quả của việc thuyết phục rằng Chúa Jesus là chân lý và lời Ngài là lẽ thật. Mặc dù chúng là những đòi hỏi trước hết. Một người trở nên môn đồ trong ý nghĩa của Kinh thánh chỉ khi người đó hoàn toàn phó dâng chính mình cho thân vị của Chúa Jesus Christ và Lời Ngài. Ngoại trừ điều này, người đó không có quyền gọi chính mình là một môn đồ của Chúa Jesus Christ.

Chương 2
ĐƯỢC KÊU GỌI LÀM MÔN ĐỒ
Chúa Jesus Christ đến, ban sự tự do và yên nghỉ cho những người đang mang gánh nặng dưới sự rủa sả của tội lỗi và luật pháp. Những lời đầu tiên Ngài phán với những người được kêu gọi trở nên môn đồ: “Hãy theo ta.” Trong suốt chức vụ của Chúa, Ngài đi dọc ngang trên những con đường của xứ Palestine để mời gọi mọi người đến cùng Ngài. Trong Ma-thi-ơ 11:28-30, Chúa Jesus tóm lược lời mời môn đồ hóa: “Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng ta, ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ. Ta có lòng nhu mì, khiêm nhường; nên hãy gánh lấy ách của ta, và học theo ta; thì linh hồn các ngươi sẽ được yên nghỉ.Vì ách ta dễ chịu và gánh ta nhẹ nhàng.”
Để hiểu được lời mời của Chúa Jesus, chúng ta phải nhớ rằng những người mà Chúa đang phán dạy bị rủa sả dưới gánh nặng tội lỗi và luật pháp Môi-se. Chúa đang nói chuyện với những người xem chính mình là môn đồ của Môi-se và người Pha-ra-si. Không phải Môi-se hay người Pha-ri-si có thể ban cho họ sự yên nghỉ từ gánh nặng mà luật pháp và văn hóa Do Thái đương thời áp đặt. Chúng ta phải nhìn thấy rằng không có bất cứ con đường nào khác để yên nghỉ và bình an ngoài sự thuận phục Đấng Christ. Ngài đã đến để kêu gọi con người ra khỏi “tình trạng môn đồ ” trước đây của họ để thành một môn đồ đúng nghĩa của Ngài.
Luật pháp được ban cho bởi Môi-se (Giăng 1:17). Người Israel đã thuận phục luật pháp, họ trở nên môn đồ của luật hay môn đồ của người ban luật, vì vậy họ tự nhận là môn đồ của Môi-se. Sự thật này được xác nhận trong Giăng 9:28, khi trả lời sự làm chứng của người mù bẩm sinh, các lãnh đạo dân sự nói, “ngươi là môn đồ của người ấy, nhưng chúng ta là môn đồ của Môi-se.” Những người này thừa nhận họ bị ràng buộc với luật pháp Môi-se, và họ tự xem mình là môn đồ của luật pháp. Họ trở nên môn đồ của luật pháp hay môn đồ của Môi-se bởi sự thuận phục uy quyền của Môi-se và luật pháp Môi-se.
Người Pha-ri-si đã nghĩ ra một học thuyết trong đó họ hệ thống hóa luật Môi-se thành 365 điều cấm và 250 mạng lệnh. Họ yêu cầu tuyển dân bước theo chúng và thuận phục những sự diễn giải luật pháp của họ. Bởi vì người Pha-ri-si xem chính họ như là những người giải thích của luật pháp, họ tự phong cho mình một vị trí đầy uy quyền trong tuyển dân. Trong Ma-thi-ơ 23:2, Đấng Christ đã chỉ ra rằng các thầy thông giáo và người Pha-ri-si là những người “ngồi trên ghế của Môi-se.” Trong vị trí là người phân giải và thầy dạy của luật pháp, họ yêu cầu tất cả tuyển dân thuận phục Môi-se cũng phải thuận phục họ. Họ yêu cầu dân sự qua hành động thuận phục trở nên môn đồ của họ. Vì lẽ này nhiều người Israel thừa nhận họ không chỉ là môn đồ của Môi-se nhưng cũng là môn đồ của người Pha-ri-si. Điều này cũng được tìm thấy trong Mác 2:18, Đấng Christ bị tra hỏi, “Vả, môn đồ của Giăng và người Pha-ri-si đều kiêng ăn. Có người đến thưa cùng Đức Chúa Jêsus rằng: Bởi cớ nào môn đồ của Giăng và môn đồ của người Pha-ri-si đều kiêng ăn, còn môn đồ của thầy không kiêng ăn?” Câu Kinh Thánh này chỉ cho chúng ta rằng những ai thuận phục chính họ cho người Pha-ri-si thì trở nên môn đồ của người Pha-ri-si. Họ trở nên môn đồ của người Pha-ri-si bằng hành động tình nguyện thuận phục sự cai trị của người Pha-ri-si.
Khi luật pháp được đặt lên con người, luật pháp không mang đến tự do. Luật pháp mang đến ách nô lệ và sự áp bức. Thay vì được giải phóng, luật pháp mang đến cảm nhận của tội lỗi và thất bại. Các lãnh đạo người Pha-ri-si không nỗ lực và cũng không có khả năng để đem đến tự do và giải phóng cho những môn đồ của họ. Giáo lý của người Pha-ri-si dựa theo Ma-thi-ơ 23:4 là buộc những gánh nặng khó chịu cho người khác phải mang lấy. Chúa Jesus miêu tả những người Pha-ri-si, “Bọn ấy buộc những gánh nặng khó chịu để trên vai người ta, còn mình thì không muốn động ngón tay vào.” Chúa Jesus nhìn vào tuyển dân, Ngài thấy nhiều người trở nên môn đồ của Môi-se và môn đồ của người Pha-ri-si bởi việc tình nguyện thuận phục uy quyền của họ. Ngài đã thấy một dân tộc đang ở dưới một gánh nặng lớn khó chịu phải mang, một gánh nặng mà người Pha-ri-si bất lực không nâng lên được. Chúa Jesus đã đến và mời gọi: “Hãy đến cùng ta… và ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ.”
Những ai ở dưới luật pháp của Môi-se thì được xem là mang ách chung với Môi-se. Những ai đang ở dưới uy quyền của người Pha-ri-si thì coi như bị mang ách với người Pha-ri-si. Điều này được minh chứng khi chúng ta đọc Công vụ 15. Ở đây có một câu hỏi về người ngoại bang được cứu có buộc phải làm phép cắt bì hay không. Đó là một cách hỏi khác rằng tín đồ trong thời Tân Ước sẽ phải thuận phục uy quyền của hội thánh hay phải mang ách luật pháp Môi-se? Chúng ta đọc trong câu 7, “Hỡi anh em, hãy biết rằng từ lúc ban đầu, Đức Chúa Trời đã chọn tôi trong các anh em, để cho người ngoại được nghe tin lành bởi miệng tôi và tin theo. Đức Chúa Trời là Đấng biết lòng người, đã làm chứng cho người ngoại, mà ban Đức Thánh Linh cho họ cũng như cho chúng ta; Ngài chẳng phân biệt chúng ta với người ngoại đâu, vì đã lấy đức tin khiến cho lòng họ tinh sạch. Vậy bây giờ, cớ sao anh em thử Đức Chúa Trời, gán cho môn đồ một cái ách mà tổ phụ chúng ta hoặc chính chúng ta cũng chưa từng mang nổi?” Chú ý trong câu 10. Khi họ suy xét về người ngoại bang được cứu phải tuân thủ luật pháp Môi-se, Phi-e-rơ nói điều đó sẽ gán một cái ách trên các môn đồ mới người ngoại bang mà tuyển dân Israel hoặc tổ phụ cũng không thể mang nổi.
Trong Ma-thi-ơ 11:29, Đấng Christ đang nói về cái ách mà Ngài sẽ giải phóng con người ra khỏi, Ngài đang nói về ách của luật pháp, cái ách của giáo điều Pha-ri-si là một gánh nặng quá lớn cho dân sự. Đấng Christ đến để những ai bị rủa sả dưới ách luật pháp được giải phóng. Họ được tự do, yên nghỉ. Chú ý sự kêu gọi của Chúa chúng ta trong Ma-thi-ơ 11:28 khi Ngài phán với đoàn dân đông, “Hãy đến cùng ta.” Môi-se đã ban luật pháp cho con cái Israel tại núi Si-nai. Trong Xuất Ai-cập Ký 19:8 dân Israel đồng lòng nói, “Chúng tôi xin làm mọi việc Đức Giê-hô-va đã phán dặn.” Họ tình nguyện thuận phục họ cho luật pháp và mang ách luật pháp. Cũng vậy, người Pha-ri-si áp đặt uy quyền trên tuyển dân Israel và dân sự tình nguyện thuận phục uy quyền của họ. Tuyển dân đã bị cột chung với người Pha-ri-si khi họ thuận phục uy quyền này. Bây giờ Chúa Jesus đến và phán với những người đang lao khổ và gánh nặng: “Hãy đến cùng ta.”
HÃY ĐẾN CÙNG TA
Chúa Jesus đến và phán với những người đang lao khổ và gánh nặng: “Hãy đến cùng ta.” (Ma-thi-ơ 11:28)
Lời kêu gọi này giống với lời kêu gọi của Chúa Jesus dành cho các môn đồ đầu tiên. Trong Mác 1:16, 17: “Ngài đi dọc theo mé biển Ga-li-lê, thấy Si-môn với Anh-rê, em người, đương thả lưới dưới biển; vì hai người vốn làm nghề chài. Đức Chúa Jêsus bèn phán cùng họ rằng: Hãy theo ta, và ta sẽ khiến các ngươi trở nên tay đánh lưới người.” Và trong câu 19, 20: “Đi một đỗi xa xa, Ngài thấy Gia-cơ, con Xê-bê-đê, với em là Giăng, đương vá lưới trong thuyền. Ngài liền kêu hai người; thì họ để Xê-bê-đê, cha mình, ở lại trong thuyền với mấy người làm thuê, mà theo Ngài.” Phi-e-rơ và Anh-rê và Giăng trở nên môn đồ khi họ đáp ứng với lời kêu gọi của Chúa “Hãy theo ta. Hãy đến cùng ta.”
Trong Giăng 1:37, một lần nữa Chúa Jesus mời gọi người đi theo Ngài, “Hai môn đồ nghe lời đó, bèn đi theo Đức Chúa Jêsus.” Trong câu 38 họ hỏi, “Ra-bi (nghĩa là Thầy), Thầy ở đâu? Ngài phán cùng họ, Hãy đến xem. Họ đi và thấy nơi Ngài ở…” Lần nữa trong câu 43, Chúa Jesus tìm Phi-líp, mà phán rằng: Hãy theo ta. Và Phi-líp đi theo Ngài. Từ bốn người đầu tiên, số các môn đồ đã được thêm lên bởi vì Đấng Christ bày tỏ chính Ngài cho họ và phán, “Hãy theo ta.” Họ quy phục và đi theo Ngài. Bây giờ trong Ma-thi-ơ 11:28 sau khi Ngài đã kêu gọi mười hai môn đồ, Đấng Christ phán, “Hãy đến cùng ta.” Ngài không kêu gọi họ cho một hệ thống. Đây không phải là kêu gọi họ theo một tôn giáo. Chúa cũng không kêu gọi họ đến với truyền thống loài người. Ngài đang kêu mọi người đến với một Thân vị, đến với chính Ngài. Môn đồ thật là người đáp lời cách cá nhân cho một Thân vị.
“Hãy đến cùng ta.” Bạn hãy chú ý đến lời kêu gọi phổ thông này. “Hãy đến cùng Ta, hỡi hết thảy những kẻ đang lao khổ và gánh nặng.” Trong Y-sơ-ra-ên, không thể tìm thấy một người nào tìm thấy sự an nghỉ thông qua người Lê-vi, hay giáo điều Pha-ri-si, hay qua các việc làm. Qua các của lễ mà tuyển dân dâng lên trước bàn thờ, không một người nào tìm thấy sự an nghỉ. Hết thảy là gánh nặng tội lỗi. Tất cả đều bị định tội. Đấng Christ đã mời gọi tất cả những người đang lao khổ và gánh nặng, không miễn trừ ai. “Hãy đến cùng Ta, hỡi hết thảy kẻ đang lao khổ và gánh nặng.” Và Đấng Christ ban lời hứa, “Ta sẽ cho các ngươi được an nghỉ.”
Con bò được an nghỉ sau khi đã mang ách cày suốt ngày ngoài đồng là khi người chủ tháo ách ra, đưa nó vào chuồng, cho ăn uống. Hễ bò còn mang ách, nó ở dưới sự lao khổ. Lấy cái ách ra khỏi cổ nó, đó là an nghỉ.
Không thể có sự an nghỉ cho những người lao khổ và gánh nặng cho đến khi Đấng Christ cất ách gánh nặng của luật pháp và cái ách của giáo điều Pha-ri-si khỏi họ. Đấng Christ không thể ban sự giải phóng cho con người cho đến khi Ngài giải cứu họ khỏi ách tôi mọi mà chính họ đã tuân phục khi họ trở nên môn đồ của Môi-se và môn đồ của người Pha-ri-si. “Hãy đến cùng ta, hỡi hết thảy kẻ đang lao khổ và gánh nặng, và Ta sẽ ban cho các ngươi sự an nghỉ.”
Đấng Christ ban sự an nghỉ như thế nào? Một sự đối lập kỳ lạ đó là Đấng Christ hoán đổi ách của Môi-se, ách của người Pha-ri-si, bằng một ách khác. “Hãy mang lấy ách ta” khi ấy con người tìm thấy sự an nghỉ. Câu hỏi ở đây là, “Nếu tôi phải mang ách, điều gì làm nên khác biệt giữa ách của Môi-se, ách của Pha-ri-si hoặcách của Đấng Christ? Đấng Christ mời gọi, “Hãy đến cùng Ta, và Ta sẽ cất đi mọi ách khỏi các ngươi và ban cho các ngươi sự an nghỉ.” Mang lấy ách của Đấng Christ nghĩa là quy phục chính mình cho uy quyền của Đấng Christ. Nghĩa là đặt mình dưới sự cai trị của Ngài, liên hiệp với Ngài. Ngài đang mời gọi con người đặt vai của họ vào một ách mới – ách mới này Ngài cùng mang với họ. Và Ngài hứa rằng, nếu họ thuận phục uy quyền của Ngài và mang ách chung với Ngài, họ sẽ tìm được an nghỉ cho linh hồn.
Lý do con người tìm được an nghỉ qua việc mang ách của Đấng Christ là vì ách của Ngài khác với những loại ách khác. Ách của người Pha-ri-si là nghĩa vụ chấp hành các truyền thống của loài người. Ách luật pháp là tuân thủ mọi mạng lệnh luật pháp, và không phạm những điều cấm kị. Nhưng Đấng Christ phán Ngài đem đến cho họ một loại ách mới và ách của Ngài dễ chịu và gánh Ngài nhẹ nhàng. Nếu một người bị buộc vào ách mới này, Đấng Christ hứa rằng, “ngươi sẽ tìm được an nghỉ cho linh hồn mình.” Cái ách mà Đấng Christ mời mọi người – khi mang lấy họ trở thành bạn đồng lao với Chúa Jesus Christ, thì không nặng chút nào cả. Đời sống của một môn đồ, không phải là một đời sống bị động hay bất động. Đó là một đời sống hoạt động bởi vì sự sống của Đấng Christ tuôn chảy qua những môn đồ thật của Ngài. Đấng Christ là sự sống và sức mạnh của chúng ta. Là một người mang ách với Chúa Jesus Christ nghĩa là được bày tỏ niềm vui của một môn đồ thật.
Khi còn là sinh viên Đại học, tôi quan sát một hình ảnh mà làm cho câu Kinh Thánh trên đây trở nên rõ ràng. Vào chiều Chủ nhật, tôi và một người bạn đi đến một trường Chủ nhật nhỏ ở miền quê để dạy. Tại đó có một lão nông đang cày đất bằng một cặp bò. Khi tôi trông thấy, tôi rất ngạc nhiên, vì một con bò lớn mang ách chung với một con bò đực thiến rất nhỏ. Con bò đó cao lớn so với con bò đực thiến đang làm chung công việc với nó. Tôi ngạc nhiên và lúng túng khi xem người nông dân cố gắng cày đất với hai con vật không cân bằng như thế trong một cái ách. Người bạn đi cùng tôi nói, “Tôi muốn quan sát hình ảnh sinh động này. Bạn sẽ thấy rằng con bò lớn đang kéo tất cả sức nặng. Con bò đực thiến nhỏ bị buộc chung vào các ách nhưng nó thực sự chả kéo tí sức nặng nào cả.” Tâm trí tôi tự nhiên đến với câu Kinh Thánh trên. “Mang lấy ách ta, và học theo Ta; vì Ta có lòng nhu mì, khiêm nhường; và ngươi sẽ tìm được an nghỉ cho linh hồn mình.” Trong một cái ách bình thường, khối lượng được phân bố đều giữa hai đối tác được ách chung với nhau, nhưng khi chúng ta mang ách với Chúa Jesus Christ, Ngài mang lấy khối lượng nặng nề kia và chúng ta là người được ách chung với Ngài, chia sẻ niềm vui và hoàn thành sự lao khổ mà không bị nặng gánh với cái ách. Bi kịch đó là một vài người trong chúng ta chưa bao giờ được buộc vào ách này!
Làm sao một người có thể quy phục ách của Đấng Christ? Sự giải thích ở đây: “Học theo Ta.” Chúng ta có thể giải thích như sau: hãy để Ta dạy con điều con cần biết. Hãy để Ta hướng dẫn trong các hoạt động của con. Hãy để Ta lập kế hoạch cho cuộc đời con. “Học theo Ta.” Chúa chúng ta đã nói với người Do thái là những người được người Pha-ri-si dạy. Người Pha-ri-si đã truyền đạt lời truyền khẩu của loài người, và tuyển dân bị trói buộc bởi những truyền thống mà họ học được. Người Do thái đã học từ các thầy Pha-ri-si của họ. Họ gánh nặng luật pháp trên vai, ví dụ họ không được bước lên bãi cỏ vào ngày Sa-bát. Bạn có biết tại sao không? Luật pháp phán rằng, “Hãy nhớ ngày Sa-bát, đặng làm nên ngày thánh…trong ngày đó ngươi không được làm bất cứ việc chi.” Điều này nghĩa là một người không được phép gieo giống trong đồng của mình. Họ đã diễn giải luật đó rằng, nếu một người bước lên một bãi cỏ và đạp vào hạt cỏ chín làm nó rơi trên đất thì vô hình trung người đó đã phạm tội gieo giống vào ngày Sa-bát.

Các môn đồ của người Pha-ri-si đã học về những gánh nặng mà luật pháp áp đặt. Bây giờ Đấng Christ đến bảo họ đừng học theo những giáo điều Pha-ri-si nữa. Hãy để Ta dạy các ngươi. Nếu bạn cẩn thận đọc các sách Phúc âm bạn sẽ thấy rằng từ điểm này trở đi Chúa Jesus tập trung cho việc dạy tuyển dân lẽ thật để họ biết về Cha thiên thượng, về chính Ngài, về con đường sự sống và con đường cứu rỗi. Các phép lạ lúc này không phải là trọng tâm cho chức vụ của Chúa. Người Do Thái phải làm một sự chọn lựa. Họ phải thực hiện một quyết định: tiếp tục là môn đồ của người Pha-ri-si hay là họ sẽ thuận phục Lời Ngài, thuận phục sự dạy dỗ của Ngài, vâng phục uy quyền của Ngài và trở nên môn đồ Ngài.
Cụm từ “Người yêu quí của Đức Chúa Trời” là người đã được chuộc bởi huyết của Đấng Christ, ngụ ý đến những ai bước theo Chúa Jesus. Chúng ta xác nhận lần nữa rằng có thể một người được cứu, nhưng anh ta chưa phải là môn đồ của Chúa Jesus Christ. Một tín đồ trở nên môn đồ của Chúa Jesus Christ khi người đó thuận phục uy quyền của Đấng Christ và nhận biết quyền cai trị của Chúa trên mình. Người đó đặt trọn vẹn chính mình dưới sự kiểm soát của Chúa Jesus Christ. Một con bò không phải vô tình mà bị mang ách. Nó phải thuận phục. Cũng vậy bạn không phải ngẫu nhiên sẽ trở thành môn đồ. Bạn trở nên môn đồ khi bạn đứng trước mặt Đức Chúa Trời thực hiện quyết định của ý chí rằng bạn công bố thuận phục chính mình cho Chúa Jesus Christ, bạn đặt chính mình dưới uy quyền và sự kiểm soát của Lời Ngài, chấp nhận Lời Ngài là luật của đời sống bạn, và sống bởi quyền năng của Đức Thánh Linh.
Lưu ý rằng nhiều người trong chúng ta không có quyền gọi chính mình là môn đồ của Chúa Jesus. Khi Đấng Christ phán, “Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng ta, ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ”, chúng ta phải đáp lời và đến cùng Ngài. Nhưng khi Ngài chuẩn bị đặt ách trên chúng ta để liên hiệp chúng ta với Ngài, chúng ta khước từ. Chúng ta tranh chiến với điều đó và thối lui. Khi ấy chúng ta chưa phải là môn đồ của Ngài. Chúng ta đã chọn từ chối làm môn đồ cho người khác, ngay cả người ấy là Chúa Jesus Christ. Cho đến khi bạn được ách với Chúa Jesus Christ trong trạng thái tình nguyện vâng phục, lúc ấy bạn mới thực sự là môn đồ. “Hãy mang lấy ách Ta” nghĩa là học theo Ta, thuận phục Lời Ta, nhận biết uy quyền của Ta, và khi bạn làm điều đó, bạn sẽ “được an nghỉ”.
Hỡi các con cái của Đức Chúa Trời, các bạn chưa được an nghỉ? Các bạn thường xuyên bị bối rối, thất vọng? Không chừng bạn đang ở trên bờ vực tuyệt vọng? Hãy đặt vai bạn vào ách của Đấng Christ để Ngài mang lấy gánh nặng cho bạn. Học bước đi chung ách với Chúa Jesus Christ, và bạn sẽ tìm được an nghỉ cho linh hồn mình. Đây là lời hứa của Ngài.
Chương 3
TRỞ NÊN MÔN ĐỒ CỦA ĐẤNG CHRIST

Trong Lu-ca 9:18 khi Đấng Christ đang cầu nguyện, các môn đồ Ngài ở với Ngài. Về những người tự gọi mình là môn đồ, Chúa chúng ta đã có yêu cầu khắt khe nhất (câu 23-24): “Đoạn, Ngài phán cùng mọi người rằng: Nếu ai muốn theo ta [nghĩa là, nếu ai muốn làm môn đồ thật] phải tự bỏ mình đi [nói không với chính mình], mỗi ngày vác thập tự giá mình mà theo ta. Vì ai muốn cứu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai vì cớ ta mất sự sống, thì sẽ cứu.” Chìa khóa để là môn đồ thật được tìm thấy trong câu 23. Đấng Christ phán, “Nếu ai đã bắt đầu như là một người hiếu kỳ muốn tìm hiểu, thì kết quả của điều này là bị thuyết phục rằng Ta là Đấng Mê-si, Con Đức Chúa Trời, và người đó sẽ phó dâng chính mình trọn vẹn cho Ta, người đó sẽ trở nên môn đồ của Ta. Nhưng không chỉ có vậy, nếu ai muốn trở thành môn đồ Ta, anh ta phải nói không với chính mình và vác thập tự giá mình theo Ta mỗi ngày.”
Điều này được tìm thấy lần nữa trong Lu-ca 14:27: “Còn ai không vác thập tự giá mình mà theo ta, cũng không được làm môn đồ ta.” Chúa Jesus đã nói về một việc “tính sổ lớn” hàm ý thập tự giá mà Ngài phải mang khi lên Giê-ru-sa-lem. Ngài đặt nó như là một yêu cầu nghiêm khắc: Nếu người nào không bằng lòng đồng nhất chính mình với Ngài trong sự khước từ chính mình và trong sự chết của Ngài, họ không thể là môn đồ mặc dù họ đã có một số tiến bộ khác. Ngài đã gọi họ là môn đồ trước đây, và bây giờ Ngài phán họ không thể là môn đồ – tại sao có sự thay đổi như thế? Lúc trước họ là người hiếu kỳ, thậm chí có lẽ bị thuyết phục, nhưng không giao phó; và môn đồ hóa thì phụ thuộc vào tất cả điều đó, toàn vẹn giao phó chính mình cho Chúa Jesus Christ. Câu 33 trong cùng chương này nói: “Như vậy, nếu ai trong các ngươi không bỏ mọi sự mình có, thì không được làm môn đồ ta.”
Trở thành môn đồ bao gồm sự giao phó. Nó bao gồm sự đồng nhất với Christ trong sự chết hổ nhục của Ngài. Môn đồ hóa bao gồm sự từ bỏ chính mình, nó bao gồm việc đặt qua một bên mục đích, mục tiêu, tham vọng, khao khát trong cuộc sống cá nhân. Nó cũng bao gồm việc hi sinh vì cớ Chúa Jesus Christ. Nó bao gồm việc đặt qua một bên ý chí và quyền lợi cá nhân về cuộc sống và biết rằng Chúa Jesus Christ có quyền kiểm soát, cai trị tất cả những ước vọng của chúng ta. Chúa Jesus phán nếu ai không sẵn lòng từ bỏ mọi sự mình có, người ấy không thể là môn đồ Ngài.
Điều này được thực hiện như thế nào trong Giăng 6? Chúa Jesus kết thúc bài giảng của Ngài bằng một phép lạ hóa bánh cho năm ngàn người ăn. Ngài đã cho họ bánh thuộc thể, và Ngài nhắc họ rằng Ngài đã đến để cung cấp cho họ với bánh thuộc linh từ trời. Ngài phán cùng họ Ngài là bánh sự sống (câu 48) và Ngài đã từ trời xuống để ban sự sống (câu 51). Ngài phán cùng họ (câu 53) rằng, trừ khi họ ăn thịt và uống huyết Ngài, họ sẽ không có sự sống trong họ. Chúa Jesus thách thức họ đi đến một quyết định. Họ là những người hiếu kỳ bây giờ đã bị thuyết phục, và họ phải đi đến chỗ của sự phó thác. Nhưng chúng ta đọc các câu 60-66: “Có nhiều môn đồ nghe Ngài, thì nói rằng: Lời nầy thật khó; ai nghe được? Nhưng Đức Chúa Jesus tự mình biết môn đồ lằm bằm về việc đó, bèn phán rằng: Điều đó xui các ngươi vấp phạm sao? Vậy, nếu các ngươi thấy Con người lên nơi Ngài vốn ở khi trước thì thể nào? Ấy là thần linh làm cho sống, xác thịt chẳng ích chi. Những lời ta phán cùng các ngươi đều là thần linh và sự sống. Song trong vòng các ngươi có kẻ không tin. Vì Đức Chúa Jesus biết từ ban đầu, ai là kẻ không tin, ai là kẻ sẽ phản Ngài. Ngài lại phán rằng: Chính vì cớ đó, mà ta đã nói cùng các ngươi rằng nếu Cha chẳng ban cho, thì chẳng ai tới cùng ta được.[Chú ý những lời này] Từ lúc ấy, có nhiều môn đồ Ngài trở lui, không đi với Ngài nữa.”
Ai là những người trở lui? Chắc chắn nhiều người giữa vòng những người hiếu kỳ là những người đến nghe Ngài dạy. Họ thấy rằng những gì Ngài dạy khó chấp nhận được (phải trả một giá cao) và họ từ bỏ Ngài. Một số người bắt đầu là người hiếu kỳ bị thuyết phục rằng Chúa Jesus là Con Đức Chúa Trời – Đấng đã đến để khải thị lẽ thật, để cứu chuộc và cai trị, nhưng khi đến với điểm Chúa Jesus thách thức họ dâng chính mình trọn vẹn cho Đức Chúa Trời thì họ bỏ rơi Chúa và không đi theo Ngài nữa. Những người như vậy dù có danh là môn đồ, nhưng không phải là môn đồ thật trong ý nghĩa của Tân ước (như Chúa phán dạy trong Lu-ca 9 và Lu-ca 14). Môn đồ thật là người có tình yêu bùng cháy đối với thân vị của Đấng Christ, lòng của người ấy hòa hợp với Đấng Christ, người ấy có niềm tin không rúng động trong lời của Chúa và toàn vẹn giao phó chính mình cho Ngài trong công tác phục vụ. Cuộc sống, tâm trí, tấm lòng, ý chí người ấy dành cho lẽ thật, lúc đó người ấy mới có thể được xem là môn đồ của Chúa Jesus Christ.
Với tất cả sự tôn kính Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ phải thừa nhận rằng chúng ta thiếu hụt vài chỗ trong tiêu chuẩn của Tân Ước? Môn đồ của Chúa Jesus có nghĩa là Chúa Jesus Christ có quyền tuyệt đối trên đời sống một người, làm những gì Ngài thấy cần thiết cho người đó. Vì vậy khi chúng ta chỉ dâng cho Ngài một vài điều và để Chúa kiểm soát những phần nào đó của đời sống nhưng không phải là tất cả. Lúc đó chúng ta chưa phải là môn đồ. Môn đồ đúng nghĩa là Chúa Jesus Christ sỡ hữu mọi tài vật tôi có. Tôi chỉ là người quản gia, Chúa mới đích thực là Chủ sở hữu. Tôi có sẵn lòng dâng mọi sự tôi có cho Ngài? Nếu chưa làm vậy tôi không phải là môn đồ của Chúa Jesus Christ. Ngài là một đối tượng cho tình yêu của tôi. Chỉ khi nào Jesus Christ là tối thượng và đầu nhất trong tình yêu của tôi, lúc đó tôi là môn đồ của Ngài. Jesus Christ có quyền đổ đầy tâm trí tôi sự hiểu biết và lẽ thật của chính Ngài. Còn khi tôi kiểm soát và làm chủ ý tưởng của mình, tôi không phải là môn đồ của Chúa Jesus Christ.
Khi Đấng Christ khải thị ý chỉ Ngài cho tôi và tôi cân nhắc sẽ vâng theo hay từ chối, tôi không phải là môn đồ của Ngài. Tôi có thể đã trải qua từ một người hiếu kỳ trở nên bị thuyết phục muốn trở thành môn đồ, nhưng không giao phó mình cho Ngài, tôi chỉ là môn đồ hữu danh vô thực. Chúng ta lập lại lần nữa: một môn đồ thật là người có tình yêu với Đấng Christ, niềm tin vào lời của Đấng Christ, và toàn vẹn giao phó chính mình cho Ngài trong công tác phục vụ.
Theo Giăng 9:28, người mù được Đấng Christ chữa lành bị mắng bởi những đồng bạn Do thái của ông. Họ nói, “chính ngươi là môn đồ người; còn chúng ta là môn đồ của Môi-se.” Môn đồ của Chúa Jesus thì tương phản với môn đồ của Môi-se. Làm thế nào mà những người Do-thái trở nên môn đồ của Môi-se? Nếu bạn nghĩ về kinh nghiệm của của tổ phụ trong đồng vắng, bạn sẽ nhớ lại rằng Đức Chúa Trời đã sai Môi-se đến với Israel và Môi-se đến với họ bằng một sứ điệp từ Đức Chúa Trời. Môi-se chứng minh sứ điệp đó bằng các phép lạ và củng cố cho khải thị Đức Chúa Trời ban cho ông. Tuyển dân tin Môi-se bởi vì lời và các công việc của ông. Tuyển dân thuận phục Môi-se, và khi Môi-se dẫn họ ra khỏi Ai-cập vào đồng vắng, họ theo ông. Họ vâng lời Môi-se. Khi Môi-se bảo họ đi, họ đi; và khi Môi-se bảo họ ở dừng ở đây, họ dừng; và khi Môi-se bảo họ dâng hiến, họ dâng hiến. Môi-se được thừa nhận như là người phát ngôn của Đức Chúa Trời. Con cái Israel trở nên môn đồ của Môi-se bởi vì họ nghe lời Môi-se truyền đạt, họ tin, họ đáp ứng với lời đó và thuận phục uy quyền của Môi-se.
Làm thế nào mà người mù này trở nên môn đồ của Jesus? Ông nghe lời của Đấng Christ, và ông thấy dấu lạ – ông kinh nghiệm phép lại chữa lành trong chính thân thể mình. Sau đó ông đến và sụp xuống nơi chân Chúa Jesus trong sự thuận phục và thờ phượng. Ông trở nên môn đồ của Ngài qua hành động thuận phục.
Chúng ta không trở nên môn đồ bởi vì chúng ta thỏa mãn tính hiếu kỳ và dừng lại ở đó. Chúng ta không phải là môn đồ mặc dù bị thuyết phục về chức vụ của Chúa Jesus nhưng không sẵn sàng đầu phục Ngài. Chúng ta chỉ trở nên môn đồ khi chúng ta bị thuyết phục bởi Lời của Đức Chúa Trời, giao phó chính mình trọn vẹn cho Chúa Jesus Christ để trở nên môn đồ của Ngài.
Khát vọng của chúng ta trong những việc nghiên cứu sự dạy dỗ Tân Ước về môn đồ hóa là làm thay đổi nhận thức một số người về những tiêu chuẩn của một môn đồ. Chúng ta sẽ không ngủ quên hay thỏa mãn với những định nghĩa trước đây về môn đồ của Đấng Christ. Xin Chúa khiến chúng ta trở nên yêu mến và thuận phục Lời Ngài, giao phó mình cho Ngài, là môn đồ đúng nghĩa trong lẽ thật.
TRỞ NÊN MÔN ĐỒ
Lu-ca 9:18-26
Khi kêu gọi những môn đồ đầu tiên, Chúa Jesus đã đến với những người có bối cảnh bình thường, ít ai biết đến. Tuy nhiên bởi đức qua sự liên kết với Ngài, những người này được nâng lên một vị trí nổi bật. Mọi người bị ảnh hưởng từ chức vụ của Chúa Jesus Christ (qua các lời dạy của Chúa và các công việc Ngài làm). Từ nơi này sang nơi khác danh Jesus người Na-xa-rét đã trở thành một chủ đề cho những người tranh luận về uy quyền và thân vị của Ngài. Chúa chúng ta đã lập mười hai môn đồ vào những chức vụ đặc biệt. Những chức vụ này được đề cập trong chương thứ chín sách Phúc âm Lu-ca. Sau khi kêu gọi mười hai môn đồ, Chúa ban cho họ quyền năng trên các loại ma quỉ và bệnh tật.
Họ được Chúa ban cho quyền năng để thực hiện các phép lạ, chứng thực sứ điệp của họ. Về điều này, họ giống như Môi-se và Ê-li trong Cựu Ước. Bởi vì khi Đức Chúa Trời gửi một sứ điệp cho dân Y-sơ-ra-ên thông qua những người được chọn, Ngài đã ban cho Môi-se quyền năng để thực hiện phép lạ trong đất Ê-díp-tô và Ê-li thực hiện phép lạ trước sự chứng kiến của dân Y-sơ-ra-ên. Những điều này xác nhận cho sứ điệp về sự cứu chuộc từ Đức Chúa Trời và sự xét đoán sẽ đến. Mười hai môn đồ vui hưởng vinh hạnh mà trước đây chỉ thuộc về những người người lãnh đạo đáng kính trong Cựu Ước.
Hơn nữa, theo Lu-ca 9:2, Chúa Jesus đã sai họ đi, họ được ban cho uy quyền để giảng sứ điệp về vương quốc của Đức Chúa Trời. Khi mười hai môn đồ đi rao giảng, họ đã thực hiện chức vụ của họ giống như các tiên tri Ê-sai, Giê-rê-mi, Ê-xê-chi-ên hay Xa-cha-ri đã làm. Họ cũng đã nhận lấy sự tự hào về địa vị và đặc quyền được ban cho như những tiên tri đáng kính trước đây khi tham dự vào nhóm Mười Hai người được chọn,.
Trong câu thứ ba và thứ tư của Lu-ca chương 9 chúng ta thấy rằng Chúa Jesus đã ban cho những người Ngài kêu gọi quyền năng và sai họ đi, và quyền được nhận sự hỗ trợ từ những người mà họ phục vụ. Họ được truyền bảo rằng, “Đi đường chớ đem gì theo hết, hoặc gậy, hoặc bao, hoặc bánh, hoặc tiền bạc; cũng đừng đem hai áo. Hễ các ngươi vào nhà nào, hãy ở đó cho đến khi đi.” Những ai nhận lấy sứ điệp sẽ nhận lấy người giảng sứ điệp và giúp đỡ nhu cầu vật lý cho người đó. Đặc quyền này được trao cho họ giống như đặc quyền của các thầy tế lễ trong Cựu Ước (thầy tế lễ không tự lo các nhu cầu vật chất cho chính mình). Thầy tế lễ sống bởi các sinh tế được đem đến dâng cho Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã đảm đương việc hỗ trợ cho những ai phụng sự trong ban phụng sự tế lễ, và tuyển dân Y-sơ-ra-ên nhận biết đặc quyền của thầy tế lễ là được hỗ trợ bởi những người họ phục vụ. Trong Cựu Ước không có tầng lớp nào khác có được đặc quyền này, và nhóm Mười Hai người được chọn này được lập ra để tiếp nhận sự hỗ trợ từ người khác khi họ đi ra rao giảng Phúc Âm. Trong vấn đề này họ được ví như A-rôn và các con trai của A-rôn trong Cựu Ước.
Hơn nữa, trong câu số năm chúng ta thấy, họ được ban cho quyền để phán xét và công bố sứ điệp phán xét của Đức Chúa Trời trên những kẻ khước từ sứ điệp Phúc âm. Chúng ta đọc trong câu năm, “Còn ai không tiếp rước các ngươi, hãy ra khỏi thành họ, và phủi bụi chân mình để làm chứng nghịch cùng họ.” Việc phủi bụi dưới chân là dấu hiệu về sự kết tội và sự ủy thác để phán xét. Họ là những người được Chúa lập ra để phán xét. Họ có cùng uy quyền như đã được trao cho các vua trong thời Cựu Ước, là những người được dấy lên để cai trị. Các vua không chỉ nhận trách nhiệm thưởng cho những ai làm tốt nhưng cũng hình phạt những kẻ làm ác. Lời phán xét trên môi miệng họ là bởi uy quyền thần thượng. Và chúng ta thấy rằng mười hai môn đồ cũng được ban cho cùng một uy quyền như Đa-vít, Sa-lô-môn, Giô-si-a, hay như các vua khác ngồi trên ngai của Đa-vít đã nhận lãnh.

MÔN ĐỒ CỦA CHÚA JESUS?
Những ai đã nhận lãnh uy quyền để rao giảng, được xác nhận trong chức vụ bằng các phép lạ, và rao truyền sự phán xét trên những người khước từ sứ điệp của họ, chắc chắn có một chức vụ kết quả. Theo câu thứ sáu, họ đi khắp mọi nơi để giảng Phúc âm và chữa lành những người bệnh tật. Mục vụ của họ lan rộng khắp vùng, nhiều người so sánh các mục vụ đó như là việc Đức Chúa Trời đã sai Đấng Mê-si đến để cứu chuộc dân Ngài. Thậm chí tin tức về sự lan rộng mục vụ của các môn đồ đã đi vào cung điện vua Hê-rốt. Theo câu thứ mười, khi mười hai môn đồ trở về với Chúa từ khắp nơi, họ báo cáo về sự thành công của chức vụ: “Các sứ đồ trở về trình cùng Đức Chúa Jesus mọi việc mình đã làm…”
Một đặc ân nữa được ban mười hai môn đồ. Chúng ta thấy điều này được nhắc đến trong các câu 18 – 21. Họ nhận sự khải thị về lẽ thật thần thượng. Đấng Christ đã thể hiện chính mình như là Đấng Cứu chuộc và là Vua Y-sơ-ra-ên. Con người đã tranh luận về thân vị của Christ và uy quyền mà bởi đó Ngài rao giảng. Đấng Christ đã đưa ra một câu hỏi quan trọng dành cho các môn đồ sau khi họ trở về tường trình mục vụ. Họ cũng trở về báo cáo những điều họ đã nghe, vài người nói Ngài là Giăng Báp-tít; số khác nói Ngài là Ê-li; số khác nói Ngài là một trong các tiên tri. Tất cả những người được nhắc đến trong danh sách này đều đến từ Đức Chúa Trời và đã thực thi chức vụ trong uy quyền thần thượng. Chúa Jesus hỏi lại mười hai môn đồ, “Còn về phần các ngươi thì nói ta là ai?” Và Phi-e-rơ, được xem như là người phát ngôn cho mười hai môn đồ, đã công bố sự thừa nhận về thân vị và công tác của Đấng Christ, “Thầy là Đấng Christ của Đức Chúa Trời” và trong Ma-thi-ơ, “Ngài là Đấng Christ, Con của Đức Chúa Trời hằng sống.”
Sự hiểu biết này không đến từ nhận thức tự nhiên, đây là một lẽ thật được khải thị trực tiếp cho Phi-e-rơ từ chính Đức Chúa Trời, vì trong Ma-thi-ơ 16:17 ghi lại lời Chúa phán, “Hỡi Si-môn, con Giô-na, ngươi có phước đó; vì chẳng phải thịt và huyết tỏ cho ngươi biết điều nầy đâu, bèn là Cha ta ở trên trời vậy [đã khải thị cho ngươi].” Các môn đồ đã nhận lãnh một khải thị đặc biệt từ Đức Chúa Trời về thân vị và công tác của Đấng Christ. Trong điều này các môn đồ cũng giống như các tiên tri trong Cựu Ước mà Chúa đã hiện ra truyền phán lời Ngài. Chúng ta nhớ đến trường hợp của Đa-ni-ên bị lưu đày ở Ba-by-lôn cách xa quê nhà, Đức Chúa Trời đã hiện ra và khải thị cho ông các chi tiết liên quan đến Đấng Cứu rỗi phải đến. Cũng hãy nghĩ về Ê-sai, Chúa đã ban lời tiên tri, ông đã nói trước về sự hiện đến của Đấng Christ. Ông đã mô tả về tính cách và công tác của Chúa Jesus Christ trong sứ điệp của mình. Hay là tiên tri Xa-cha-ri đã nói, “Lời của Chúa đến với ta” – lời mà đã mang đến một khải thị đặc biệt về công tác của Chúa Jesus sẽ làm trong ơn cứu chuộc.
Trong chín chương đầu tiên của sách Lu-ca, mười hai môn đồ đã được ban cho những đặc quyền và trách nhiệm đặc biệt. Trong Lu-ca 9:23, Chúa Jesus đưa ra một mạng lệnh cho những người đã nhận đặc quyền này. Ngài phán với tất cả họ (cho những ai đã nhận sự khải thị, nhận lãnh uy quyền, nhận lãnh đặc ân để giảng Phúc âm, những ai có thể rao giảng sự phán xét từ Đức Chúa Trời trên các kẻ khước từ) “Nếu ai muốn theo ta, phải tự bỏ mình đi, mỗi ngày vác thập tự giá mình mà theo ta.” Nhận lãnh sự khải thị không làm họ trở nên các môn đồ. Quyền năng thực hiện phép lạ không làm họ trở nên môn đồ. Sứ mạng rao giảng Phúc âm không làm họ trở nên môn đồ. Nhận lãnh uy quyền để công bố sự phán xét trên dân sự không làm họ trở nên môn đồ. Được ban cho đặc quyền tiếp nhận sự hỗ trợ trong chức vụ không làm họ trở nên môn đồ. Chúa Jesus phán, “Nếu ai muốn theo ta, phải tự bỏ mình đi, mỗi ngày vác thập tự giá mình mà theo ta.” Môn đồ không phụ thuộc vào những gì họ nhận lãnh từ Đấng Christ; nó phụ thuộc vào việc dâng chính mình cho Đấng Christ, tiếp nhận bài học thập tự giá: “phải tự bỏ mình đi, mỗi ngày vác thập tự giá mình mà theo ta.”
Có hai phần trong đòi hỏi của Chúa đối với con người nếu họ muốn trở nên môn đồ thật. Đầu tiên hay là phương diện tiêu cực được tìm thấy trong cụm từ, “từ bỏ chính mình đi….”. Sự nguy hiểm lớn đối mặt với những người mà sau khi họ đã thành công rực rỡ trong chức vụ thông qua danh của Đấng Christ, họ sẽ được đẩy lên trong sự tự cao. Vị trí họ nắm giữ, lẽ thật họ biết, kết quả của chức vụ, đặc quyền mà bởi đó họ nhận được, sẽ sản sinh sự tự cao trong xác thịt. Thật dễ dàng cho họ để báo cáo với Đấng đã sai họ đi và tiếp tục đi ra lần nữa để lập lại những mục vụ trước đó. Và sẽ thật dễ dàng cho họ tin vào khải tượng mà họ nhận lãnh là đầy đủ và đi ra rao giảng Tin Lành, chữa bệnh, đuổi quỉ. Họ có thể tiến lên thực hiện sứ mạng rao giảng mà không cần có bất kỳ sự ủy thác nào từ Đấng đã khải thị chính Ngài và ban cho họ uy quyền của Ngài.
Nếu một người là một môn đồ của Jesus Christ, người phải từ bỏ mình qua một bên hoàn toàn và trọn vẹn, không biết điều gì về chính mình, không có ý chí của chính mình cho cuộc đời của mình, không có tình cảm nào riêng tư cá nhân. Mạng lệnh của Chúa chúng ta là tuyệt đối và không thay đổi. Hễ người nào tiếp tục dựa trên lý luận tự nhiên, thậm chí áp dụng lý luận tự nhiên của mình cho Lời của Đức Chúa Trời, người đó không thể là một môn đồ bởi vì anh ta không từ bỏ những suy nghĩ tự nhiên để nhận lấy lẽ thật thần thượng. Hễ người nào còn theo đuổi tình cảm của lòng mình, người đó không thể là môn đồ của Chúa Jesus Christ. Vì để trở nên môn đồ, tâm trí của người đó phải đặt vào những điều ở trên trời. Hễ người nào còn theo đuổi ý chí riêng và là những việc làm để vui lòng loài người, người đó không thể trở nên môn đồ của Chúa Jesus Christ, bởi vì một môn đồ phải thuận phục hoàn toàn ý chỉ của Chủ. Người Chủ khao khát đặt lẽ thật và tình cảm của Ngài vào trong lòng của môn đồ. Ngài đặt ý chỉ của Ngài vào tâm trí của môn đồ để môn đồ không biết điều gì khác, yêu điều gì khác, vâng lời người nào khác hơn là Chúa Jesus Christ – Đấng đã từ bỏ chính mình.
Phương diện thứ hai là phương diện tích cực. Môn đồ phải vác thập tự giá hằng ngày và theo Chúa. Thập tự giá là hình phạt tàn ác của người La-mã dành cho các tôi phạm đáng chết. Nó vốn không được biết đến giữa vòng loài người trước đây. Nó là phát minh của người La-mã để trừng phạt những phu tù, đóng đinh những kẻ khát máu và dã man. Giữa vòng con người, thập tự giá là điều đáng sỉ nhục của sự tra tấn và sự chết. Thập tự giá bị khinh thường bởi tất cả mọi người, và thậm chí là những người La-mã khát máu chỉ dành cây gỗ – thập tự giá cho những tội phạm xấu xa nhất. Đó là cách nhìn của thế gian về thập tự giá, điều này được sứ đồ Phao-lô đề cập đến trong Ga-la-ti 3:13, “Đấng Christ đã chuộc chúng ta khỏi sự rủa sả của luật pháp, bởi Ngài đã nên sự rủa sả vì chúng ta: vì có lời chép: Đáng rủa thay là kẻ bị treo trên cây gỗ.”

Thập tự giá bị mọi người khinh thường. Những người La-mã khát máu chỉ dành cây gỗ – thập tự giá, cho những tội phạm xấu xa nhất.
Đó là cách nhìn của thế gian về thập tự giá, điều này được sứ đồ Phao-lô đề cập đến trong Ga-la-ti 3:13, “Đấng Christ đã chuộc chúng ta khỏi sự rủa sả của luật pháp, bởi Ngài đã nên sự rủa sả vì chúng ta: vì có lời chép: Đáng rủa thay là kẻ bị treo trên cây gỗ.”
Đây là một sự rủa sả đặc biệt được công bố trên người chết – cái chết đáng khinh bỉ. Trong thư tín viết cho người Phi-líp, Phao-lô đề cập đến tâm trí của Đấng Christ, một tâm trí trọn vẹn thuận phục ý chỉ của Đức Chúa Trời. Vị sứ đồ viết trong Phil. 2:8: “Ngài đã hiện ra như một người, tự hạ mình xuống, vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên cây thập tự.” Đối với sứ đồ Phao-lô, Chúa Jesus Christ đã phó chính Ngài trong sự chết để vâng phục Đức Chúa Trời là điều kỳ diệu đầy ý nghĩa. Và Chúa Jesus Christ đã chết trên thập tự giá, là điều sỉ nhục nằm ngoài suy tưởng của con người. Chúng ta thấy rằng không chỉ trong Tân Ước nhưng trong quan niệm của thế giới, thập tự giá là biểu tượng của sự xấu hổ.
Đấng Christ yêu cầu con người vác thập tự giá – điều mà cả thế giới xem là xấu hổ. Hãy trở về trong Cựu ước, Chúa Jesus Christ được miêu tả là người bị khinh dể và khước từ. Tại sao? Bởi vì hoàn cảnh sinh ra của Ngài, đối với người thiên nhiên họ không thể hiểu được sự hoài thai của trinh nữ, họ kết luận rằng tình trạng của mẹ Ngài là tội lỗi và vô đạo đức. Ngài cũng bị khinh dể và khước từ bởi vì bối cảnh sống của Ngài trên đất. Bị tách biệt khỏi thành Giê-ru-sa-lem, lớn lên tại Na-xa-rét, đối với hầu hết mọi người, Ngài bị họ đánh giá thấp kém. Ngài bị coi khinh và từ chối, bởi vì khi Ngài đến với tuyển dân, Ngài không được giới thiệu từ một thầy thế lễ thượng phẩm cao trọng hay bởi một tiên tri được thừa nhận nhưng lại được giới thiệu thông qua một người vô gia cư giữa vòng tuyển dân Y-sơ-ra-ên là Giăng Báp-tít, người tiền trạm của Ngài. Ông này xuất thân từ một gia đình thầy tế lễ đã lãnh đạo phong trào phản loạn trong đồng vắng. Chúa Jesus bị chống đối và khước từ trong chức vụ bởi vì Ngài phán rằng không có sự sống trong giáo điều Pha-ri-si. Ngài bị khinh bỉ và khước từ bởi vì Ngài được gộp sổ chung với hàng ngũ những kẻ gian ác phải chết trên cây gỗ.
Giống như Ê-sai đã tóm lược đời sống của Ngài từ khi sinh ra đến khi chết, “Người đã bị người ta khinh dể và chán bỏ, từng trải sự buồn bực, biết sự đau ốm, bị khinh như kẻ mà người ta che mặt chẳng thèm xem; chúng ta cũng chẳng coi người ra gì.” (53:3). Bây giờ trong Tân Ước, Chúa Jesus Christ yêu cầu con người mang lấy thập tự giá của Ngài, là đòi hỏi họ phải đồng nhất chính họ với Ngài là Đấng bị chối bỏ. Những ai mang thập tự giá bị cộng đồng kết án. Đấng Christ biết điều đó, và các môn đồ thật của Ngài cũng phải biết nữa.
Thập tự giá trong đời sống của Chúa Jesus Christ là sự biểu lộ ý chỉ Đức Chúa Trời dành cho Ngài. Đấng Christ đã mang thập tự giá không phải bởi vì Ngài có một sự tử đạo phức tạp, không phải để Ngài lay động tình cảm con người bởi sự chịu khổ của Ngài. Chúa Jesus Christ mang thập tự giá bởi vì đó là ý chỉ của Đức Chúa Trời dành cho Ngài. Khi Đức Chúa Trời yêu cầu con người mang thập tự giá mình, Ngài đang đòi hỏi một người làm việc cho Chúa Jesus và trong danh Jesus biểu lộ ý chỉ của Ngài. Thập tự giá của bạn, của tôi và của Đấng Christ khác biệt nhau. Ý chỉ của Đức Chúa Trời cho Chúa Jesus Christ là đi lên thập tự giá và chết. Đức Chúa Trời không có một ý chỉ như thế cho người nào khác trong lịch sử loài người.
Môn đồ được tự do dựa trên sự sẵn lòng chấp nhận ý chỉ của Đức Chúa Trời, khi Ngài bày tỏ nó cho bạn và đồng nhất chính bạn với Chúa Jesus Christ trong việc làm trọn ý chỉ đó. Chính điều này làm một người trở nên môn đồ thật.
Trong một ý nghĩa Chúa Jesus đang phán, “Nếu ai muốn theo Ta như là môn đồ thật của Ta, người đó phải từ bỏ chính mình (đây là lời trong nghĩa đen), loại bỏ ý chí riêng của chính mình, và mang thập tự giá mình như Ta đã mang lấy thập tự giá của Ta trong sự vâng phục ý chỉ của Đức Chúa Trời, và hãy đến theo Ta.”
Chúa chúng ta đang đòi hỏi một quyết định. Ngài đang yêu cầu một hành động cống hiến đặc biệt, một sự xác định khi Ngài phán, “… từ bỏ chính mình, và vác thập tự giá mình.” Đây là hình ảnh hiện ra trong tâm trí của sứ đồ Phao-lô khi ông viết chương mười hai sách Rô-ma. Sau khi ông đã chỉ ra tất cả mọi điều Con Đức Chúa Trời đã làm trong sự vâng phục ý chỉ Đức Chúa Trời để cung cấp sự xưng công chính và thánh hóa cho con người, vị sứ đồ khích lệ, “Vậy, hỡi anh em, tôi lấy sự thương xót của Đức Chúa Trời [đó là sự thương xót mà đã cung ứng sự cứu rỗi, xưng công chính, thánh hóa] khuyên anh em trình dâng thân thể mình làm của lễ sống và thánh, đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là sự thờ phượng phải lẽ của anh em.” Sự trình dâng này là nghĩa vụ hợp pháp và thuộc linh cho con cái Đức Chúa Trời bởi vì những gì Đức Chúa Trời đã làm. Ngoài điều này, dầu một người được sinh lại bởi đức tin trong Chúa Jesus Christ, người đó chưa phải là môn đồ. Có thể một người biết lẽ thật thần thượng vì học được trong Kinh Thánh, người đó có thể là chứng nhân cho Chúa Jesus Christ trong công tác rao giảng Lời Chúa, người đó có thể kinh nghiệm ân điển và phước hạnh, nhưng ngoài sự trình dâng đặc biệt này (dâng thân thể mình làm của lễ sống và thánh) cho Chúa Jesus Christ, người đó chưa phải là môn đồ.
Từ trình dâng là từ được dùng trong lễ cưới. Nó chỉ một hành động đặc biệt khi người cha của cô dâu nắm lấy tay con gái mình và đặt vào trong tay của cha chú rể. Đến lượt, cha của chú rể nắm lấy tay cô dâu và đặt vào tay của con trai mình. Điều này được gọi là sự trình dâng. Đó là lúc cô dâu trở nên người vợ.
Trong một lễ cưới, tôi là mục sư cử hành lễ, tôi hỏi chàng trai đứng phía trước, “Con sẽ lấy người nữ này làm vợ con chứ?” Và anh ta trả lời, “Con sẽ.” Tôi quay sang cô dâu và nói, “Con sẽ lấy người nam này làm chồng con chứ?” Và cô trả lời, “Con sẽ.” Tôi tiếp tục nói, “Ta công bố các con là chồng và vợ.” Điều gì làm họ trở nên chồng và vợ? Đó không phải là lời công bố của tôi. Tôi chỉ công bố một sự thật. Họ trở nên chồng và vợ khi họ trình diện chính họ lẫn nhau bởi hành động đặc biệt và xác định của ý chí.
Tôi có thể hỏi một người chưa cưới vợ, “Bạn có muốn cưới vợ không?” Tôi có thể nhận được câu trả lời quả quyết. Nhưng khát khao cưới vợ không làm cho anh ta trở nên người đã cưới vợ. Tôi có thể hỏi người đã trả lời quả quyết, “Bạn đã có bạn trai hay bạn gái, và bạn có hiểu anh ấy hay cô ấy không?” Và người đó có thể trả lời, “Có”. Nhưng sự hiểu biết của anh và sự mong chờ một mối quan hệ xa hơn không làm anh ta trở thành người đã kết hôn. Một người không thể cưới vợ ngoại trừ hành động cưới vợ – trình dâng chính mình cho người khác.
Tôi có thể hỏi, “Bạn có muốn trở nên môn đồ của Chúa Jesus Christ?” Bạn có thể trả lời, “Có, tôi muốn là môn đồ của Chúa Jesus Christ.” Nhưng cho đến khi bạn trình dâng chính mình trong việc hiệp nhất với Chúa Jesus Christ, bạn mới là một môn đồ. Được sinh lại qua đức tin trong Chúa Jesus Christ? Vâng; được cứu – được cứu đời đời, nhưng chưa phải là một môn đồ.
Bài học này có một ý nghĩa sâu xa hơn.

Chương 4
Sự Vâng Phục Và Môn Đồ
Trong suốt khóa học của tôi về môn đồ hóa, một học viên có thể nói trong lòng rằng, “Tôi muốn là một môn đồ.” Thậm chí anh ta có thể cầu nguyện, “Lạy Chúa, xin khiến con trở nên môn đồ.” Nhưng khao khát của anh ấy, sự cầu nguyện của anh ấy sẽ không làm anh ấy trở nên một môn đồ. Chỉ phó dâng chính mình cho Chúa Jesus Christ, ủy thác chính mình cho Chúa Jesus Christ, hành động đó làm anh ấy trở nên môn đồ.
Vài người trong các bạn, đã ở trong trình trạng chưa quyết định, và bây giờ là lúc bạn đi đến chỗ xác định phó thác chính mình cho Chúa Jesus Christ để trở nên một môn đồ thật. Bạn biết những điều này sẽ đi theo. Một môn đồ, trước hết phải được chuộc bởi huyết của Đấng Christ. Người đó được dạy bởi lời của Đấng Christ và vâng phục lời Ngài. Người đó thuận phục uy quyền của Đấng Christ. Một môn đồ là người phụng sự Đấng Christ. Một môn đồ là người được biệt riêng cho Đấng Christ. Bây giờ một câu hỏi được đặt ra cho bạn: “Bạn có sẵn lòng phó chính mình cho Chúa Jesus Christ để làm môn đồ của Ngài?”
Đây là lời mời của Đấng Christ, “Nếu ai muốn theo ta, phải tự bỏ mình đi, mỗi ngày vác thập tự giá mình mà theo ta.” và “Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng tà, ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ. Ta có lòng nhu mì, khiêm nhường nên hãy gánh lấy ách của ta, và học theo ta; thì linh hồn các ngươi sẽ được yên nghỉ.” Sự phản hồi của bạn cho lời mời này là gì?

Đọc Lu-ca 9: 57-62
Chúa Jesus phán, “Chẳng phải hễ những kẻ nói cùng ta rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, thì đều được vào nước thiên đàng đâu; nhưng chỉ kẻ làm theo ý muốn của Cha ta ở trên trời mà thôi” (Ma-thi-ơ 7:21). Một yêu cầu mà Chúa Jesus Christ đặt ra cho các môn đồ đó là vâng phục tuyệt đối, không thắc mắc. Ngoài hành động vâng phục, một người không có quyền gọi mình là môn đồ của Chúa Jesus Christ.
Để minh họa cho điều này, Chúa chúng ta kể một chuyện ngụ ngôn được ghi lại trong chương 21 sách Ma-thi-ơ bắt đầu từ câu 28.
Một người nọ có hai con trai. Ông đến với đứa con đầu và phán, “Con ơi, bữa nay con hãy ra làm vườn nho.” Người cha đưa ra một mạng lịnh cho người con, bày tỏ ý chỉ của ông cho người con. Không có bất cứ nghi ngờ gì về lời hướng dẫn và không hề có sự nhầm lẫn nào trong mạng lịnh này. Ý chỉ của người cha là người con đi vào làm việc trong vườn nho. Người con nhận thức được trách nhiệm với sự bày tỏ ý chỉ của người cha, người con đáp, “Tôi không muốn đi,” nhưng sau đó anh ta ăn năn và đi. Rồi người cha đến cùng đứa con thứ hai và cho cùng một mạng lịnh và người con này trả lời, “Tôi sẽ đi, thưa cha,” rồi sau đó không đi. Đứa đầu đã không vâng lời nhưng sau đó vâng phục ý chỉ của cha và đi làm vườn. Đứa kia hứa vâng lời nhưng trở nên không vâng lời và dĩ nhiên không hoàn thành mạng lịnh của người cha.
Sau khi kể câu chuyện đó, Đấng Christ hỏi: “Trong hai con trai đó, đứa nào làm theo ý muốn của cha? Họ đáp rằng: Đứa thứ nhất.”
Không phải là lời tuyên bố để chứng minh sự vâng lời với ý chỉ của cha, đó là hành động vâng phục. Một đứa con vâng phục bất chấp lời tuyên bố của mình trước đó; đứa khác không vâng phục mặc dù lời tuyên bố trước đó của nó là thuận phục. Như vậy vấn đề không phải là lời nói khiến cho một người nào đó trở nên môn đồ Đấng Christ, nhưng là sự vâng phục. Trong việc khám phá sự dạy dỗ của Tân Ước về môn đồ, chúng ta sẽ đối mặt với chủ đề môn đồ và sự vâng phục.
Trong bài học trước, chúng ta thấy rằng từ môn đồ được dùng với các ý nghĩa khác nhau trong Tân Ước. Trước hết nó được dùng cho những người hiếu kỳ về sự dạy dỗ của Chúa. Thấy các phép lạ mà Ngài đã làm tại Ga-li-lê, họ biết rằng đằng sau phép lạ của Ngài sẽ là sự giảng dạy. Hiếu kỳ về những gì Ngài phán, và họ đến để lắng nghe Ngài dạy. Họ là những người mà chúng ta gọi là học trò – người học hay người đi theo để được dạy.
Nơi thứ hai mà chúng ta thấy những người được gọi là môn đồ là những người bị thuyết phục bởi lẽ thật là những điều Đấng Christ phán dạy. Họ lắng nghe lời Ngài và nhận biết những sự giảng dạy của Chúa Jesus không phải là sự khôn ngoan của con người; và họ được thuyết phục rằng Ngài đến từ Đức Chúa Trời và nói lẽ thật của Đức Chúa Trời.
Tuy nhiên, trong ý nghĩa thứ ba, môn đồ là người sau khi bị thuyết phục về lẽ thật của lời Chúa, thì hoàn toàn phó thác chính mình cho Đấng dạy dỗ họ. Nếu một người dừng lại trước bước tổng kết này, không hoàn toàn ủy thác chính mình cho Chúa Jesus Christ, người đó không phải là môn đồ. Người đó chỉ được kể là ở trong số những người hiếu kỳ, và cho dù người đó tiến đến bước bị thuyết phục về những gì Đấng Christ phán dạy. Cho đến khi người đó phó dâng chính mình cho Chúa Jesus, lúc đó người ấy mới là môn đồ đúng nghĩa trong Tân Ước.
Một ngày kia, một phụ nữ đến với tôi sau khi tôi trình bày những lẽ thật này. Cô nói, “Sau khi nghe bài giảng, tôi không tin rằng có nhiều môn đồ.” Cô tiếp tục, “Tôi cũng không biết ông có phải là một môn đồ hay không nữa?” Tôi tin rằng Thánh Linh của Đức Chúa Trời sẽ mang những tấm lòng tìm kiếm như vậy đến với mỗi một chúng ta khi chúng ta tra xét mối quan hệ của chúng ta với Chúa Jesus Christ trong ánh sáng của Lời Đức Chúa Trời.
Sẽ là kẻ giả hình khi tuyên bố rằng tôi là một môn đồ nhưng bước đi trong sự bất phục tùng với Lời Chúa. Khi một người ở vị thế không vâng phục, người đó không ở vào vị thế là môn đồ, vì Kinh Thánh đòi hỏi sự vâng phục tuyệt đối với Lời Đức Chúa Trời và uy quyền của Chúa Jesus Christ là yêu cầu cần thiết trước hết để làm môn đồ.
Trong Lu-ca 9:23 Chúa Jesus dạy, “Nếu ai muốn theo ta, phải tự bỏ mình đi, mỗi ngày vác thập tự giá mình mà theo ta.” Phải từ bỏ mình đi. Từ được dịch là từ bỏ là một lời rất mạnh trong nguyên văn mà nghĩa đen có thể được dịch là nói không với chính mình. Trong mỗi chúng ta có một bài trắc nghiệm đang diễn ra. Khi Chúa Jesus Christ cứu chuộc một người qua sự chết của Ngài, người đó trở nên tài sản được mua của Chúa. Vì chúng ta thuộc về Chúa Jesus Christ qua sự mua chuộc, nên Ngài có toàn quyền cai trị và kiểm soát chúng ta. Đây là lý do sứ đồ Phao-lô giới thiệu chính mình là nô lệ của Chúa Jesus Christ. Ông xem mình là người được mua bởi người khác và trở nên vật sở hữu của người khác.
Một nô lệ không có quyền thể hiện ý chí riêng của mình. Nô lệ không được cho quyền phản bác mạng lệnh đến từ chủ mình; người đó không có tự do để xác định các hành động của mình. Đó là quyền và trách nhiệm của người chủ. Nhưng nô lệ thường có tính khí thiên nhiên nổi loạn. Và chúng ta phản loạn với uy quyền của Đấng Christ; chúng ta muốn lấy ý chí của chúng ta đè bẹp ý chí của Đấng Christ và ngồi lên trong sự phán xét. Trong việc làm này, chúng ta từ bỏ vị trí của sự vâng phục, vị trí của môn đồ. “Nếu ai muốn theo ta [nghĩa là trở nên môn đồ trong lẽ thật và trong hành động], phải tự bỏ mình đi [đặt qua một bên bất cứ quyền lợi nào cho chính mình, cho tâm trí mình, cho ý chí mình, cho sự hướng dẫn của mình] mỗi ngày vác thập tự giá mình mà theo ta [đồng nhất mình với Đấng bị khước từ, và đi theo bất cứ nơi nào Ngài dẫn dắt trong sự thuận phục hoàn toàn]”
Khi Chúa Jesus gọi Phi-e-rơ, Gia-cơ, Giăng và Anh-rê trở nên môn đồ, nghĩa là họ phải từ bỏ lưới và thuyền của họ, công việc đánh cá mà họ đang làm. Ngay lập tức họ từ bỏ cuộc sống trước đây để trở nên môn đồ. Khi Đấng Christ gọi Ma-thi-ơ, nghĩa là ông phải từ bỏ công việc thu thuế với tiền lương và trách nhiệm. Ngày mà Đấng Christ gọi Ma-thi-ơ trở nên môn đồ, Ma-thi-ơ từ bỏ tất cả và theo Ngài.
Khi Đấng Christ kêu gọi Phi-líp, một nhà truyền giảng thì ông đang ở trong chức vụ rất kết quả tại Sa-ma-ri. Bây giờ ông phải từ bỏ Sa-ma-ri và mục vụ ông đang làm để đi vào đồng vắng. Phi-líp rời bỏ Sa-ma-ri.
Khi Đấng Christ kêu gọi Phao-lô trở nên môn đồ, nghĩa là ông phải từ bỏ các vinh dự và đặc quyền của một người trong hệ thống giáo phẩm tại Giê-ru-sa-lem. Cho đến khi ông sẵn lòng từ bỏ tất cả vì Chúa ông là một môn đồ đúng nghĩa.

MÔN ĐỒ ĐÚNG NGHĨA
Khi Đấng Christ kêu gọi Phao-lô trở nên môn đồ, nghĩa là ông phải từ bỏ các vinh dự và đặc quyền của một người trong hệ thống giáo phẩm tại Giê-ru-sa-lem. Cho đến khi ông sẵn lòng từ bỏ tất cả vì Chúa, ông là một môn đồ đúng nghĩa.
Phúc âm Lu-ca 9 đặt ra cùng một yêu cầu: Phải từ bỏ chính mình và theo Chúa trong sự vâng phục tuyệt đối. Chúng ta có vài minh họa về những người từ chối vâng phục. Hãy nhìn vào bài kiểm ra cho từng cá nhân khi mỗi người được kêu gọi làm môn đồ của Chúa Jesus Christ. Chúng ta sẽ thấy một số người trình bày lý do để họ không thể vâng phục theo ý chỉ của Đấng Christ, vì thế họ đã thối lui.
Những gì được dạy từ câu 51- 62 minh họa cho nguyên tắc mà Đấng Christ đã thiết lập trong Lu-ca 9:23. Đây là sự kêu gọi những cá nhân trở nên môn đồ, những người này được mời đến để ủy thác chính mình hoàn toàn cho Chúa Jesus Christ, tin lời Ngài và vâng phục ý chỉ Ngài. Nhưng vì một lý do nào đó hay điều gì khác mà họ đã xoay lưng với việc hoàn toàn ủy thác chính mình cho Đấng Christ, họ nghi ngờ về lời Chúa và khước từ ý muốn Ngài. Trong khi những lý do này không nói hết mọi khía cạnh trong các trải nghiệm của từng cá nhân, tuy nhiên chúng cũng minh họa những sự “từ chối có lý do chính đáng” khi một người không sẵn sàng trở nên môn đồ Đấng Christ.
Khi Đấng Christ đi lên Giê-ru-sa-lem, Ngài chọn con đường từ Ga-li-lê xuyên qua Sa-ma-ri để đến Giê-ru-sa-lem. Sự thù địch giữa người Do thái và người Sa-ma-ri xuất hiện kể từ thời của E-xơ-ra và Nê-hê-mi – thời kỳ phục hồi dân sót từ Ba-by-lôn trở về. Sự thù nghịch được dấy lên thời đó bởi vì người Do thái chiếm hữu việc xây lại đền thờ tại Giê-ru-sa-lem, đã từ chối lời đề nghị giúp đỡ của người Sa-ma-ri ngoại bang (người Sa-ma-ri là một sự pha trộn giữa người Do thái và người A-si-ri). Dân Sa-ma-ri đã lập một hệ thống tôn giáo độc lập riêng cho họ, không thừa nhận đền thờ tại Giê-ru-sa-lem. Họ dựng đền thờ trên núi Gerizim, họ không thừa nhận các tiên tri mà Đức Chúa Trời đã sai phái tới Giu-đa và Y-sơ-ra-ên. Họ chỉ thừa nhận Môi-se và sách Ngũ kinh của ông. Họ không thừa nhận chức tế lễ ban A-rôn; họ đã lập ban tế lễ riêng cho họ. Họ thiết lập các sự kiện tôn giáo theo một quyển lịch riêng. Rõ ràng là có một sự đối kháng giữa người Do Thái và Sa-ma-ri.
Chúa Jesus trên đường đến Giê-ru-sa-lem để dâng chính Ngài như là sinh tế vì các tội lỗi của thế gian. Đấng Christ đi ngang qua làng của người Sa-ma-ri. Theo câu 52-53, “Ngài sai kẻ đem tin đi trước mình. Họ ra đi, vào một làng của người Sa-ma-ri để sửa soạn nhà trọ cho Ngài; song người Sa-ma-ri không tiếp rước Ngài, vì Ngài đi thẳng lên thành Giê-ru-sa-lem.” Trước đó trong chức vụ của Ngài, Chúa Jesus đã dâng chính Ngài như là nước sự sống cho người Sa-ma-ri. Trong việc gặp người đàn bà Sa-ma-ri tại giếng nước, Ngài đã bày tỏ chính Ngài là Đấng Mê-si, là Đấng cứu rỗi thế gian. Nhiều người Sa-ma-ri qua sự làm chứng của người đàn bà và qua tiếp xúc với Ngài đã tin lời Ngài. Hãy đọc lại Phúc âm Giăng 4. Chương này kết luận với việc ghi nhận sự vui mừng của người Sa-ma-ri khi tin nhận Ngài. Bây giờ Đấng Christ đi qua con đường mà trước đây đã có rất nhiều người tin Ngài. Nhưng những người mà đã tuyên xưng tin Ngài ở đâu? Bây giờ Đấng Christ đang trên đường lên Giê-ru-sa-lem và cần một nhà để nghỉ đêm, không có bất cứ người nào đứng lên để nghênh tiếp Ngài. Không có ai cho Ngài một chỗ nghỉ chân, thức ăn hay bất cứ sự chào đón nào. Chúng ta chỉ có thể kết luận rằng những người nghe lời Ngài trong Giăng 4, đã tin lời Ngài nhưng không sẵn lòng ủy thác chính mình hoàn toàn và trọn vẹn cho Ngài. Họ đã đi đến bước có lòng tin nơi lời Ngài, nhưng không tiến đến bước phó thác chính mình cho Ngài. Khi Đấng Christ đến giữa vòng họ là những người tin Ngài. Ngài không tìm được ai cả! Người Sa-ma-ri đã khước từ và không tiếp nhận Ngài. Đó là một sự thật khiến chúng ta phải suy nghĩ.
Điều gì nắm giữ người Sa-ma-ri khiến họ không thể phó thác chính mình cho Chúa Jesus Christ? Đó là sự khác biệt tôn giáo giữa chủ nghĩa Sa-ma-ri và Do Thái giáo. Khi đối diện với câu hỏi phó thác hoàn toàn cho Thân vị của Đấng Christ, chấp nhận và vâng phục lời Ngài thì người Sa-ma-ri không thể đáp ứng. Các nghi thức và sự thực hành tôn giáo của họ lớn hơn Thân vị Đấng Christ. Chính tôn giáo đã cầm giữ những người này khiến họ không thể đến với Đấng Christ. Họ đã đi theo một hệ thống tôn giáo sai trật, và bị trượt ra khỏi Lời Đức Chúa Trời và Thân vị Đấng Christ.
Có bao nhiêu người gọi mình là môn đồ của Đấng Christ ngày nay, nhưng họ bị lệ thuộc bởi hệ thống tôn giáo và chối bỏ Thân vị cùng công tác của Chúa Jesus Christ? Khi có một sự lựa chọn giữa hình thức tôn giáo và Thân vị Chúa Jesus Christ, họ nắm giữ hình thức tôn giáo và từ chối Đấng Christ. Họ không sẵn lòng đề đồng nhất chính họ với Lời Đức Chúa Trời và với Thân vị Chúa Jesus Christ để được kể là môn đồ của Ngài. Sự chấp nhận của tổ chức tôn giáo có ý nghĩa cho họ hơn là sự chấp nhận bởi Chúa Jesus Christ. Một số người bị thuyết phục rằng Ngài là Đấng Mê-si, Con của Đức Chúa Trời, nhưng khước từ việc bước đi cùng với Ngài. Nếu họ phó thác chính mình cho Chúa có nghĩa là họ phải rời bỏ chủ nghĩa Sa-ma-ri, và các sự thực hành tôn giáo để theo Ngài lên Giê-ru-sa-lem. Họ chấp nhận lời Ngài nhưng không phải là môn đồ của Ngài.
TIÊU CHUẨN CHO MỘT MÔN ĐỒ
Khi chúng ta đọc Lu-ca 9:57 -58, “Đang khi đi đường, có kẻ thưa Ngài rằng: Chúa đi đâu tôi sẽ theo đó. Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Con cáo có hang, chim trời có ổ; song Con người không có chỗ mà gối đầu.” Chúng ta thấy ở đây một người chạy đến tình nguyện làm môn đồ của Đấng Christ. Người đàn ông này không đợi để được kêu gọi, anh ta đến và dâng chính mình. Nhưng Chúa chúng ta, Đấng biết điều trong lòng con người, biết điều gì trong lòng người này, anh ta không hoàn toàn phó thác và vâng phục Thân vị Đấng Christ. Người này được thôi thúc bởi những động cơ về vật chất. Cựu Ước đề cập đến điều này: khi Đấng Mê-si đến, Ngài sẽ cai trị trong sự bình an và công nghĩa; con người sẽ rèn gươm thành lưỡi cày và cây giáo thành cái liềm. Sự cai trị của Ngài sẽ đem tới thịnh vượng và tràn đầy sự cung ứng các nhu cầu vật chất cho mọi người là công dân của vương quốc. Một người đã bước vào vương quốc có thể biết lối vào sự thịnh vượng và phước hạnh. Tuy nhiên, người đàn ông này chỉ tập trung chú ý đến những điều trong Cựu Ước được hứa về sự cung ứng của Đấng Mê-si cho dân sự Ngài, ông nói, “Ta muốn trở nên môn đồ của Đấng Christ, do đó ta có thể bước vào mọi phúc lợi vật chất mà Ngài sẽ cung ứng cho những ai thuộc về Ngài.” Ông ta không được khích lệ bởi một tình yêu dành cho Thân vị Đấng Christ. Cũng không được khích lệ bởi khát vọng thuận phục ý muốn của mình theo ý muốn của Đấng Christ. Ông ta tham lam, ích kỉ và theo đuổi chủ nghĩa vật chất trong việc đến dâng chính mình để làm môn đồ Đấng Christ.
Người đàn ông này, bị thuyết phục bởi lẽ thật của lời nhưng ông ta không phó thác chính mình cho Thân vị Đấng Christ; ông ta theo đuổi sự giàu có vật chất. Khi Đấng Christ bày tỏ cho ông rằng “Con cáo có hang, chim trời có ổ; song Con người không có chỗ gối đầu,” người đàn ông này lui đi trong sự thất vọng. Thời kỳ phước hạnh có thể đến trên đất này chỉ sau khi Đấng Christ chính thức ngự ngôi là Vua các vua và Chúa các chúa. Đức Chúa Trời không hứa phần thưởng vật chất cho những ai thuộc về Ngài và cho những ai dâng chính mình hoàn toàn cho Thân vị Đấng Christ. Ngài xoay chuyển lòng ham muốn sự thịnh vượng vật chất của con người sang tình trạng trống không để Đức Chúa Trời có thể dạy con người bài học về sự đầy đủ trong Chúa Jesus Christ. Đức Chúa Trời có thể quét sạch những gì con người có để chỉ cho họ biết thế nào là tiêu chuẩn thật sự để trở nên môn đồ Đấng Christ. Chúng ta không có lời hứa rằng tài khoản ngân hàng của chúng ta sẽ tự động tăng gấp đôi khi chúng ta phó thác chính mình cho Chúa. Đấng Christ nhắc người này rằng, khi Ngài bước đi ngang dọc trên mảnh đất Palestine, Ngài không có nhà riêng cho mình. Ngài phụ thuộc vào những người đã được đụng chạm từ chức vụ của Ngài, và họ cảm động cung ứng những nhu cầu vật chất cho người thầy mà họ bước theo (một nhóm người nữ từ Ga-li-lê đã cung ứng cho Ngài các tài sản vật chất của họ). Người đàn ông này bị thử nghiệm sự thuận phục của ông cho ý chỉ Đấng Christ, và ông lui bước, vì ông muốn các lợi ích vật chất mà không phải thuận phục ý muốn mình cho ý muốn của Chúa.
Đấng Christ gọi một người khác trong câu 59, và phán, “Hãy theo Ta.” Đây là một sự kêu gọi cũng rõ ràng như sự kêu gọi đến với Phi-e-rơ hay Anh-rê tại bờ biển Ga-li-lê, hay sự kêu gọi sứ đồ Phao-lô trên đường Đa-mách. Người này biết những điều sẽ kèm theo, ông nói, “Xin cho phép tôi về chôn cha tôi trước đã. Nhưng Đức Chúa Jêsus phán rằng: Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết; còn ngươi, hãy đi rao giảng nước Đức Chúa Trời.” Trừ khi chúng ta hiểu vấn đề thực tế của câu chuyện, chúng ta không thể biết hay hiểu được câu trả lời của Chúa đối với người này. Thật là lý do hợp lý cho người đàn ông này khi yêu cầu sự cho phép để về và thi hành chức năng của người con lớn nhất trong việc chôn cất cha mình. Thật là phi lý khi đòi hỏi người này không làm những điều mà người con cả phải làm. Nhưng chúng ta hiểu một sự thật ở đây: người cha chưa chết, ông ấy vẫn còn cường tráng và khỏe mạnh. Người trai trẻ biết điều đó, khi nào cha anh ta chết, anh ta sẽ về để thừa hưởng; và khi anh ta đã thừa hưởng xong, anh ta sẽ có điều gì đó để tự cung cấp cho anh ta khi là môn đồ Đấng Christ. Những gì mà Đấng Christ phán cho người này? Ngài phán “…Con cáo có hang, chim trời có ổ; song Con người không có chỗ mà gối đầu.” Vì vậy, khi Đấng Christ mời người này theo Ngài thì một tiến trình tính toán diễn tra trong tâm trí của anh ta: “Cha ta có một cơ nghiệp sẽ để lại cho ta và khi cha ta để lại cơ nghiệp đó, ta sẽ tự chu cấp cho mình. Bây giờ vì Đấng Christ không có sự cung ứng vật chất cho ta, sẽ khôn ngoan nhất nếu ta không trở nên môn đồ cho đến khi ta có thể tự hỗ trợ cho ta; và sau đó ta tự do về tài chính, rồi ta sẽ đến để trở nên môn đồ, hoàn toàn phó thác chính mình cho Ngài.”
Có vấn đề gì với người này? Ông ta không thể tin vào Thân vị Đấng Christ sẽ thỏa đáp nhu cầu của ông ta khi trở thành môn đồ. Người đàn ông này thì muốn tự chu cấp, thích tự do, và ông ta không muốn lệ thuộc với Đấng Christ. Vì vậy, ông ta trì hoãn quyết định và cam kết với Đấng Christ cho đến khi ông ta không cần phải phụ thuộc vào Đấng Christ.
Đây là một sự cám dỗ chính yếu trong thời đại chúng ta đang sống. Sự tự cao đòi hỏi chúng ta phải tự cung ứng. Tự cung ứng đòi hỏi chúng ta phải làm và trả giá cho con đường của chúng ta – điều đó là chúng ta không phụ thuộc vào ai cả. Một người khao khát có thể tự chăm sóc chính mình thường cầm giữ người đó phó thác mình hoàn toàn và trọn vẹn cho Chúa Jesus Christ. Chỉ cho đến khi người đó sẵn lòng phụ thuộc Đấng Christ, người đó mới là một môn đồ của Ngài.
Người đàn ông thứ ba đến với Đấng Christ trong câu 61 và nói, “Lạy Chúa, tôi sẽ theo Chúa, song xin cho phép tôi trước về từ giã người trong nhà tôi. Đức Chúa Jêsus phán rằng: Ai đã tra tay cầm cày, còn ngó lại đằng sau, thì không xứng đáng với nước Đức Chúa Trời.” Người này đến và dâng chính mình, nhưng trước tiên ông xin được từ chối làm môn đồ tức thì bởi vì những mối quan hệ gia đình chưa bị phá vỡ. Sự thật là những mối quan hệ gia đình hiện hữu gợi ý cho chúng ta thấy rằng người này nhận biết uy quyền của người cha phần xác trên cả uy quyền của Đấng Christ. Dựa theo phong tục truyền thống, miễn là cha còn sống, người cha là đầu của gia đình. Bất luận người con có lớn tuổi thể nào, họ vẫn ở dưới uy quyền của cha họ cho đến khi người cha chết. Khi người này xin sự cho phép để về từ giã những người thân trong gia đình, ông ta có ý nói, “tôi nhận biết uy quyền của Chúa nhưng uy quyền của cha tôi trên cả uy quyền của Ngài và tôi không thể làm gì cả cho đến khi có sự cho phép của cha tôi.” Đây là một sự thừa nhận một uy quyền khác, cao hơn uy quyền của Chúa Jesus Christ. Chỉ đến khi người này sẵn lòng nhận biết uy quyền tuyệt đối của Jesus Christ trong cuộc đời mình, nếu không ông không phải và không thể là môn đồ Đấng Christ.
Khi chúng ta đến với Lu-ca 14, chúng ta thấy vài minh họa được Chúa dạy trong chương thứ chín cho chúng ta một sự tóm lược về điều này. Chúng ta đọc trong câu 16, “Có người kia dọn tiệc lớn, mời nhiều người ăn. Khi đến giờ ăn, sai đầy tớ mình đi nói với những kẻ được mời rằng: Hãy đến, mọi sự đã sẵn rồi. Song họ đồng tình xin kiếu hết. Người thứ nhứt nói rằng: Tôi có mua một đám ruộng, cần phải đi coi, xin cho tôi kiếu.” Công việc kinh doanh của người này đứng giữa ông và Chúa Jesus. “Kẻ khác rằng: Tôi có mua năm cặp bò, phải đi xem thử; xin cho tôi kiếu.” Sự suy xét về vật chất cầm giữ người này theo Chúa Jesus. “Kẻ khác nữa rằng: Tôi mới cưới vợ, vậy tôi đi không được.” Sự từ chối theo sau sự từ chối. Đấng Christ đòi hỏi sự thuận phục tuyệt đối đối với uy quyền của Ngài, sự thành tâm hoàn toàn đối với Thân vị Ngài, xác quyết trong lời Ngài, tin cậy nơi sự chu cấp Ngài, nhưng con người từ chối bởi vì họ không phó thác, không thể tin cậy vào Chúa.

Thánh Linh của Đức Chúa Trời hành động và ngay bây giờ đang nhìn vào trong đời sống của bạn. Ngài đang chỉ ngón tay Ngài lên một khu vực nào đó mà bạn không vâng phục. Khi sự không vâng phục ở đó, bạn không có quyền gọi mình là môn đồ, vì Chúa chúng ta đòi hỏi sự vâng phục tuyệt đối với lời Ngài, đối với ý chỉ Ngài như được bày tỏ trong Lời Đức Chúa Trời. Khi nào mà một tôi tớ lại có quyền ra lệnh cho chủ mình? Khi nào mà một nô lệ có quyền chất vấn mạng lệnh của Chúa? Khi Đa-vít thấy mình phản loạn đối cùng Lời Đức Chúa Trời, chỉ có một điều mà ông có thể làm. Chúng ta đọc điều đó trong Thi Thiên 51 và 32. Ông thừa nhận sự không vâng phục của mình, sự phản loạn của mình, sự vô luật pháp của mình đối với Đức Chúa Trời và đặt chính mình trong sự thuận phục uy quyền của Kinh Thánh và uy quyền của Chúa. Nếu bạn thấy một vài phần trong đời sống bạn không vâng phục theo ý chỉ và Lời Đức Chúa Trời, thì gương mẫu của Đa-vít đã được thiết lập dành cho trường hợp của bạn. Hãy để lời Đức Chúa Trời bày tỏ, và hãy để mạng lệnh của Lời Chúa hướng dẫn bạn. Nhận biết Chúa Jesus Christ – Đấng cứu rỗi, Ngài có quyền là Chủ và Chúa của đời sống bạn. Đây là yêu cầu trước hết để trở nên một môn đồ đúng nghĩa.
Chương 5
Lời Chúa và Môn đồ
Giăng 8: 31-47

Những câu mở đầu của Phúc âm Giăng giới thiệu Chúa Jesus Christ là sự sáng của thế gian. “Trong Ngài có sự sống, sự sống là sự sáng của loài người. Sự sáng soi trong tối tăm, tối tăm chẳng hề nhận lấy sự sáng.” Bởi vì con người đã chết phần thuộc linh, nên Chúa Jesus Christ đến để ban sự sống và sự sống mà Ngài ban phát là ánh sáng cho loài người. Con người đang ở trong tình trạng khước từ Đức Chúa Trời nên Đấng Christ đến để bày tỏ Đức Chúa Trời cho con người. Đây là sự khải thị của Đức Chúa Trời cho con người: Chúa Jesus Christ là sự sáng của thế gian. Giăng Báp-tít đã có vinh hạnh rao báo cho con người đang ở trong sự tối tăm tiếp cận với ánh sáng mặt trời công nghĩa, và sứ đồ Giăng trong chương thứ nhất liên kết chức vụ của Giăng Báp-tít với Đấng là ánh sáng của thế gian. Ông nói về Giăng Báp-tít rằng, “Người đến để làm chứng, là làm chứng về sự sáng, hầu cho bởi người ai nấy đều tin. Chính người chẳng phải là sự sáng, song người phải làm chứng về sự sáng. Sự sáng nầy là sự sáng thật, khi đến thế gian soi sáng mọi người.”
Như một con thoi di chuyển qua lại, chủ đề sự sáng đan dệt với nhau xuyên suốt Phúc âm Giăng. Trong Giăng 7, khi Đấng Christ đang thi hành chức vụ cho tuyển dân tại Giê-ru-sa-lem vào ngày Lễ Lều tạm, chúng ta thấy trong câu 14: “Giữa kỳ lễ, Đức Chúa Jesus lên đền thờ dạy dỗ. Các người Giu-đa sững sờ mà nói rằng: Người nầy chưa từng học, làm sao biết được Kinh Thánh? Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Đạo lý của ta chẳng phải bởi ta, nhưng bởi Đấng đã sai ta đến. Nếu ai khứng làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời, thì sẽ biết đạo lý ta có phải là bởi Đức Chúa Trời, hay là ta nói theo ý ta.”
Trong Giăng 1:18, “Chẳng hề ai thấy Đức Chúa Trời.” có nghĩa là con người đang xoay lưng lại với Đức Chúa Trời. Vì vậy Chúa Jesus Christ đến để khải thị Đức Chúa Trời cho con người. Sự thật là con người cần phải lệ thuộc vào khải thị đến từ Đức Chúa Trời để nhận biết Ngài, và Đấng Christ đến làm công việc đó. Chúa Jesus Christ đã thi hành sự khải thị này qua các công tác và lời dạy của Ngài. Các công tác của Đức Chúa Trời được thi hành bởi Đấng Christ. Phép lạ mà Ngài đã làm hiển nhiên là công tác của Đức Chúa Trời bởi vì không người nào có thể làm những việc đó. Ngài là Đấng kiểm soát: thiên nhiên, con người, ma quỷ, các bệnh tật và kể cả sự chết. Ngài bày tỏ Ngài là Đức Chúa Trời đến trong xác thịt. Những gì mà Đấng Christ làm nơi thế hạ là bức tranh mô tả những gì Đức Chúa Trời làm vì nhu cầu của con người trong vương quốc thuộc linh. Ngài sẽ cất bỏ sự mù lòa thuộc linh và làm kẻ câm thuộc linh hát mừng rỡ. Ngài sẽ làm kẻ chết thuộc linh sống động trở lại, và Ngài sẽ thỏa đáp cho những ai đói khát tâm linh. Ngài đến để khải thị những gì Đức Chúa Trời sẽ làm cho con người qua các công tác của Ngài.
Điều chắc chắn là con người không có khả năng tự chuyển dời từ vương quốc vật lý sang vương quốc thuộc linh, cho đến khi Đấng Christ bày tỏ lẽ thật. Họ có thể thấy các công tác của Đấng Christ nhưng họ không thể hiểu được chương trình của Ngài. Vì vậy công tác của Đấng Christ được bổ sung bởi các lời dạy của Ngài. Khi bạn đọc qua sách Phúc âm này, bạn khám phá ra rằng sau khi Chúa làm phép lạ thì theo sau nó có sự giải thích, áp dụng, và ý nghĩa của những việc mà Đấng Christ đã thực hiện. Phúc âm Giăng ghi lại bảy phép lạ khải thị về Cha, nó cũng tập trung vào những nội dung mà Chúa Jesus Christ giảng dạy để giải thích các mục vụ của Ngài. Sự khải thị ban cho con người là qua các lời của Chúa Jesus Christ, và các lời Ngài (không phải bởi công việc) trở nên ánh sáng mà Đức Chúa Trời ban cho con người. Khi Đấng Christ đứng lên công bố sứ điệp trong kỳ Lễ Lều tạm ở Giăng 8: 12, “Ta là ánh sáng của thế gian,” Ngài không đang tập trung quá nhiều vào cơ hội này để giải thích mọi điều liên quan đến các việc Ngài làm. Trong Giăng 7 khi Đấng Christ phán rằng đạo hay sự dạy dỗ của Ngài đến từ Đức Chúa Trời, và Ngài phán trong câu 17, “Nếu ai khứng làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời, thì sẽ biết đạo lý ta có phải là bởi Đức Chúa Trời, hay là ta nói theo ý ta,” Ngài đang mời con người đặt câu hỏi về uy quyền của Ngài. Có phải Ngài tự nói ra các sứ điệp hay là Đức Chúa Trời ban các lời cho Ngài? Nếu lời Ngài là bởi tự Ngài nói ra, thì những lời ấy chỉ là lời con người và không có ý nghĩa gì hay hơn các lời dạy từ các Ra-bi Do thái khác. Nhưng Chúa Jesus Christ phán rằng các lời Ngài đến từ Đức Chúa Trời, và vì vậy lời ấy có uy quyền thần thượng. Các lời này là chân lý và không có bất kỳ một lỗi nào. Vì vậy, các lời đó kiểm soát, hướng dẫn con người trong suy nghĩ và cách ứng xử của họ. Khi Đấng Christ (lúc mà thầy tế lễ thượng phẩm đi lên cầu thang ở sân ngoài và thắp sáng cây đèn cầy lớn vào đêm cuối của ngày Lễ Lều tạm) phán, “Ta là ánh sáng của thế gian”, lúc này Ngài đang có ý nói với con người: “Ta đã phán cho các ngươi. Các lời của Ta là sự khải thị của Đức Chúa Trời. Các lời này thì đáng cho các ngươi tin và vâng phục theo. Ta là ánh sáng của thế gian, không có ai khác.”
Khi kết luận bài giảng về ánh sáng của thế gian, Giăng 8:30 ghi lại, “Bởi Đức Chúa Jesus nói như vậy, nên có nhiều kẻ tin Ngài.” Họ đã nghe rằng Ngài phán dạy sứ điệp của Đức Chúa Trời ban cho họ, và Ngài đến để khải thị về Cha. Ngài đã làm các công tác của Đức Chúa Trời và bây giờ Ngài giải thích các thuộc tính của Cha. Kết quả là nhiều người tin nơi Ngài. Những điều này đến với nhóm môn đồ mà chúng ta đã phân loại họ là những người bị thuyết phục. Họ đã khởi đầu như những người hiếu kỳ, bị thu hút bởi các phép lạ của Ngài và họ chú ý đến những gì Ngài phán. Nhưng họ đang lắng nghe Ngài như đang lắng nghe một thầy dạy cải cách, Ra-bi hay nhà diễn thuyết mới. Có quá nhiều Ra-bi không thể đếm được và lúc đầu họ coi Ngài như một trong những Ra-bi của họ. Họ hiếu kỳ về những gì Ngài phán. Và họ đã chú ý lắng nghe sự dạy dỗ của Ngài, họ trở nên bị thuyết phục rằng Ngài có lẽ thật, rằng Ngài là lẽ thật, và rằng lời Ngài phán đến từ Đức Chúa Trời.
Trong khái niệm đầy trọn của Tân Ước, Chúa không xem những người như vậy là môn đồ. Chúa chúng ta khao khát có được những người tiến lên từ kẻ hiếu kỳ đến người bị thuyết phục và đạt đến chỗ hoàn toàn giao thác chính mình cho sự dạy dỗ của Ngài. Đối với những ai tin Ngài, Chúa chúng ta đã đưa ra một bài thử nghiệm xem họ có phải là môn đồ đúng nghĩa hay không.
Điều mà Chúa khải thị ở đây thì sống động và quan trọng cho những ai xem mình là môn đồ của Ngài trong lẽ thật. Khi chúng ta được thuyết phục về lẽ thật của lời Chúa Jesus Christ phán mà không giao thác chính mình cho Chúa thì không phải là môn đồ của Ngài. Chúng tôi nhắc bạn lần nữa rằng chúng tôi không đang bàn về chủ đề cứu rỗi – chúng tôi không đang bàn về điều kiện của sự cứu rỗi. Sự cứu rỗi không phụ thuộc vào hành động phó thác chính mình cho Chúa Jesus Christ của từng cá nhân. Chúng ta đang thảo luận về lãnh vực làm môn đồ của Đấng Christ.

MỐI QUAN HỆ GIỮA LỜI CHÚA VÀ TÍN NHÂN
Trong Giăng 8:31, Chúa Jesus phán với “những người Giu-đa đã tin Ngài”; nghĩa là cho những người bị thuyết phục rằng lời Ngài là lẽ thật, “Nếu các ngươi hằng ở trong đạo (lời) ta, thì thật là môn đồ ta.” Khi Đấng Christ phán về sự hằng ở trong lời Ngài, thì Ngài không dạy về việc tiếp tục tin rằng những gì Ngài phán là lẽ thật. Những người được thuyết phục về lời Chúa, họ cần giải quyết một số vấn đề theo sau đó. Ngài không phán nếu một người ở lại, dừng bước trong trạng thái được thuyết phục rằng lời Ngài là lẽ thật, thì người đó sẽ là môn đồ. Ngài cũng không phán rằng một người sẽ thôi không làm môn đồ nếu quan điểm của anh ta bị chao đảo và bắt đầu nghi ngờ sự chân thật của Lời Đức Chúa Trời. Được thuyết phục tin rằng lời Đấng Christ là lẽ thật sẽ như một cột mốc trong tiến trình đức tin, nhưng đây không phải là đích đến cuối cùng. Điều này không làm một người trở nên môn đồ.
Sự giải thích tiếp theo nhấn mạnh trên chữ hằng ở nghĩa là nếu chúng ta ở trong Lời Chúa mỗi ngày, và dành thời gian cho Lời, nếu chúng ta dâng chính mình để học Lời Đức Chúa Trời, lập thói quen mỗi ngày đọc, học Lời thì chúng ta sẽ là môn đồ. Dù điều này đúng, một người có thể được thuyết phục bởi lẽ thật của Lời Đức Chúa Trời và dâng mình học Lời mà vẫn chưa là môn đồ của Chúa Jesus Christ. Một người có thể tiếp xúc với Lời bằng tâm trí để hiểu lẽ thật, để thỏa mãn sự hiếu kỳ của tâm trí. Người đó có thể dâng chính mình học Lời Đức Chúa Trời ngày qua ngày cho đến khi tâm trí người được thấm đẫm với Lời nhưng vẫn chưa là môn đồ. Một người trở nên môn đồ của Chúa Jesus Christ chỉ dựa theo bài kiểm tra này: trong nếp sống hằng ngày người được kiểm soát bởi Lời mà người đã học từ Chúa Jesus Christ. Một người có thể đầy Lời trong tâm trí, nhưng Lời chưa bao giờ thẩm thấu qua ý chí để mọi hành động, lời nói, suy nghĩ của người đó được kiểm soát bởi Lời Đức Chúa Trời. Khi mà có một ngăn cách giữa tâm trí và ý chí, người đó chưa thể thỏa đáp yêu cầu của câu 31 “Nếu các ngươi hằng ở trong đạo ta, thì thật là môn đồ ta.”
Từ được dịch là hằng ở trong Giăng 8:31 thì tương tự với từ trong Giăng 15:7 được dịch là cứ ở. Ở đây Đấng Christ phán, “Ví bằng các ngươi cứ ở trong ta, và những lời ta ở trong các ngươi, hãy cầu xin mọi điều mình muốn, thì sẽ được điều đó.” Cái gì là cứ ở trong Ngài và có lời Ngài cứ ở trong chúng ta? Từ cứ ở có nghĩa là hút lấy dưỡng chất từ một nguồn nào đó để duy trì sự sống. Cái cây thì đang cứ ở trong đất, khi mà cái cây liên kết với môi trường đất, nó đang hút từ đất các dưỡng chất và duy trì sự sống của nó. Con cá cứ ở trong biển, không chỉ là nó bơi ngang dọc trong đại dương, nhưng nó gắn kết với môi trường sống và nhận lấy từ môi trường những dưỡng chất để duy trì sự sống. Con chim cứ ở trên không trung nhận lấy thực phẩm trong không gian của nó để duy trì sự sống. Khi có một sự gãy đổ giữa vật sống và môi trường thì mối gắn kết không còn nữa, bây giờ sẽ không còn là “cứ ở”… Tín nhân đang cứ ở trong Đấng Christ có nghĩa là khi sự sống người đó đang được nuôi dưỡng và được duy trì bởi Chúa Jesus Christ. Một tín đồ đang cứ ở trong Lời khi người ấy đang tiêu hóa thực phẩm từ Lời để duy trì sự sống thuộc linh. Điều này cũng có nghĩa là lời Chúa kiểm soát suy nghĩ, lời nói, hành động của người đó. Lời Chúa quyết định mục tiêu và thói quen của người đó. Khi mọi phần và mọi giai đoạn của đời sống một người được kiểm soát bởi Lời Đức Chúa Trời, người đó đang sống trong Lời, cư ngụ trong Lời và cứ ở trong Lời.
Những người trong Giăng chương 8 đã nghe Lời Chúa. Sự hiếu kỳ làm họ chú ý đến những gì Ngài phán. Họ đã bị thuyết phục những gì Ngài nói là lẽ thật, và Lời Ngài là Sự sáng. Họ đã chấp nhận một sự thật Ngài là Sự sáng. Tuy nhiên họ không phải là môn đồ cho đến khi họ đặt chính mình dưới uy quyền của Lời, thuận phục sự giảng dạy của Lời, cho đến khi họ được kiểm soát bởi Lời Đức Chúa Trời hầu cho họ không có suy nghĩ nào khác ngoại trừ những gì Lời Chúa dạy. Họ không có giáo lý nào khác ngoại trừ những gì Lời Đức Chúa Trời trình bày. Họ không còn mục đích hay gương mẫu và tham vọng nào xa cách với Lời Đức Chúa Trời. Đây là những gì Lời Chúa phán về đặc điểm của một môn đồ.

QUAN ĐIỂM CỦA PHAO-LÔ
Điều này sẽ phá đổ đồn lũy của tất cả những người thiên nhiên (người chưa được biến đổi bởi Lời Chúa) bởi vì từ khi người thiên nhiên bước vào trường mẫu giáo rồi lên đến đại học đã được dạy nhiều nguyên tắc cho tiến trình trưởng thành. Người thiên nhiên suy nghĩ thấu suốt, phân tích và nghiên cứu các vấn đề. Anh ta chấp nhận những thông tin dường như có lý và từ chối những điều phi lô-gíc. Không có chỗ nào cho đức tin trong những suy nghĩ hợp lý. Vì chúng ta lớn lên trong một nền văn hóa tin rằng uy quyền cao nhất là lý trí của con người. Từ đó chúng ta thuận phục những quan điểm của số đông người và không có cửa để thấy ánh sáng lẽ thật. Tuy nhiên khi đến với Lời Chúa, Chúa Jesus Christ yêu cầu toàn quyền kiểm soát mọi lĩnh vực của tín nhân. Ngài đòi hỏi quyền kiểm soát, hướng dẫn tín nhân hành động và nói năng như thế nào.
Ngoại trừ mối quan hệ gắn kết giữa tín nhân và uy quyền của Lời Đức Chúa Trời, không điều nào có thể khiến một người trở thành môn đồ Đấng Christ.
Đây là một định nghĩa nghiêm túc về môn đồ, nó khó cho người Y-sơ-ra-ên chấp nhận. Họ đã được ban luật pháp. Là tuyển dân, họ đã nhận lãnh luật pháp từ Đức Chúa Trời trên núi Si-nai. Các ra-bi đã giải thích luật pháp và dạy cho tuyển dân những gì luật đòi hỏi. Dần dần những ra-bi này lật đổ luật pháp cùng vị trí uy quyền của nó và thay vào đó giáo điều của họ. Các sự dạy dỗ của ra-bi được tập hợp lại, và hệ thống hóa. Họ thuận phục chính họ cho truyền thống và giáo lý của con người. Họ phế truất Lời Đức Chúa Trời khỏi vị trí đúng đắn của uy quyền tối thượng. Đó là lý do trong Ma-thi-ơ 5:20 Chúa Jesus phán, “nếu sự công bình của các ngươi chẳng trổi hơn sự công bình của các thầy thông giáo và người dòng Pha-ri-si, thì các ngươi chắc không vào nước thiên đàng.” Tại sao? Bạn không thể là môn đồ của Đấng Christ khi bạn còn vui thích với sự dạy dỗ từ truyền thống con người. Bạn phải vui hưởng Lời Đức Chúa Trời và áp dụng nó. Bạn không thể là môn đồ trong khi tán thưởng sự thực hành tôn giáo của con người; các sự thực hành của bạn phải ở trong sự hiệp một với Lời Đức Chúa Trời. Đấng Christ chê trách các tổ chức tôn giáo đang huấn luyện một người nên môn đồ theo một ý nghĩa rất cách xa với Tân Ước.
Những gì tuyển dân đã đối mặt thì tương ứng với những gì con người đối mặt ngày nay. Con người có truyền thống, triết lý, hệ thống và tổ chức tôn giáo. Những điều này làm cản trở con người đến với lẽ thật, mặc dù chúng được ngụy trang rất khéo khiến cho nhiều người lầm tưởng rằng đó là những phương tiện để khám phá chân lý. Chúng đã đặt qua một bên vị trí đúng đắn của Lời Đức Chúa Trời. Bạn sẽ suy nghĩ một lần nữa về những gì Đấng Christ phán? Trừ khi bạn cứ (hằng ở) hay phó thác chính mình cho uy quyền của Lời Đức Chúa Trời, bạn không thể là môn đồ Đấng Christ.
Đây là nền tảng suy nghĩ của sứ đồ Phao-lô trong sách Cô-lô-se chương 3. Vị sứ đồ đã bắt đầu với lời tôn cao vinh hiển Chúa Jesus Christ, Đấng đang ngồi bên hữu Đức Chúa Trời. Ông tóm tắt hy vọng của các thánh đồ trong câu 4: “Khi nào Đấng Christ, là sự sống của anh em, sẽ hiện ra, bấy giờ anh em cũng sẽ hiện ra với Ngài trong sự vinh hiển.” Vị sứ đồ đã đặt một nghĩa vụ trên những ai đã thấy và tin vào Đấng Christ. Họ có hy vọng về tiến trình trở nên giống như Ngài. Ông truyền bảo họ cởi bỏ người cũ, và mặc lấy người mới (câu 10). Rồi ông nói đến những điều liên quan tới việc mặc lấy người mới. Bắt đầu với câu 12 Phao-lô nói, “Vậy anh em là kẻ chọn lựa của Đức Chúa Trời, là người thánh và rất yêu dấu của Ngài, hãy có lòng thương xót. Hãy mặc lấy sự nhân từ, khiêm nhượng, mềm mại, nhịn nhục; hãy nhường nhin nhau, và tha thứ nhau … lòng thương yêu … và để cho sự bình an của Đức Chúa Trời cai trị lòng anh em.” Trong các câu 12-15 vị sứ đồ đang làm những gì mà ông đã làm trong chương 5 sách Ga-la-ti khi liệt kê cho chúng ta các trái của Thánh Linh – những phẩm chất tốt đẹp mà Đức Thánh Linh sẽ sản sinh trong con cái Đức Chúa Trời khi Ngài được toàn quyền hành động.
Trong câu 16, sứ đồ Phao-lô giải thích làm thế nào để những bông trái của Thánh Linh được bày tỏ trong đời sống hằng ngày của con cái Đức Chúa Trời: “Nguyền xin lời của Đấng Christ ở đầy trong lòng anh em.” Vị sứ đồ dạy rằng tất cả những thuộc tính của Đấng Christ được tái sản sinh bởi Thánh Linh Đức Chúa Trời được hoàn tất qua mối quan hệ giữa con cái Đức Chúa Trời và Lời Ngài. “Nguyền xin lời của Đấng Christ ở đầy trong lòng anh em.” Từ ở đầy là một từ thú vị. Từ này nghĩa là sự đầy đủ của Lời trong tâm trí của các thánh đồ khi ở nhà, hay lúc đi từ nơi này đến nơi khác mà không bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Lời Chúa đi vào, vững lập trong lòng thánh đồ, và kiểm soát hướng dẫn từng chi tiết trong cuộc sống. Ý tưởng của vị sứ đồ được xây dựng trên những điều mà Đấng Christ đã dạy trong Phúc âm Giăng 8 – là một người không thể trở nên môn đồ chỉ bởi vì người ấy đồng ý với lẽ thật mà Đấng Christ dạy, nhưng người ấy trở nên môn đồ khi anh ta đặt chính mình dưới uy quyền của Lời Đức Chúa Trời và để Lời Đức Chúa Trời kiểm soát mọi ngõ ngách của đời sống.
Khi chúng ta đọc chương 3 của Sáng thế ký, ghi lại sự cám dỗ của Ê-va, chúng ta thấy sự cám dỗ bắt đầu với một câu hỏi về sự toàn vẹn và uy quyền của Lời Đức Chúa Trời. Satan đến với Ê-va, “Mà chi! Đức Chúa Trời há có phán?” Đức Chúa Trời đã ban khải thị cho cho Ê-va. Sự khải thị này được phán trong Lời. Ê-va biết, hiểu và thừa nhận một nghĩa vụ phải vâng phục Lời. Sự cám dỗ đầu tiên là khước từ lẽ thật và uy quyền của Lời Đức Chúa Trời. Ngày nay trong cùng một phương các giống như vậy, Satan đang cám dỗ, lừa gạt các tín đồ. Nếu nó có thể, nó sẽ khiến chúng ta rất bận rộn để chúng ta không có thời gian cho Lời Chúa. Nhưng nó không thể chống lại nếu chúng ta khăng khăng dâng chính mình để đọc Lời và áp dụng những chân lý của Kinh Thánh vào đời sống. Satan biết rằng con người có thể trích dẫn Kinh Thánh từ buổi ban đầu cho đến khi kết thúc, và sẽ tiếp tục phụng sự Ngài và được an toàn trong vương quốc Ngài. Satan không thể làm gì được nếu một cá nhân đọc và học Lời Đức Chúa Trời. Người đó được thuyết phục, cuộc đời anh ta phải thay đổi để đồng hóa với Lời Đức Chúa Trời, và giao thác mình cho uy quyền của Lời Đức Chúa Trời.
Nếu chúng tôi hỏi bạn có tin Kinh Thánh là Lời Đức Chúa Trời và toàn bộ sự mặc khải của Kinh văn? Bạn phải thừa nhận uy quyền, sự đúng đắn, không sai trật, và không sai lầm của Lời Đức Chúa Trời. Trong trường hợp khi tôi hỏi bạn có tin Kinh Thánh là Lời Đức Chúa Trời, và bạn đang sống bởi Lời Đức Chúa Trời? Khi đó bạn thừa nhận là bạn không như vậy. Làm sao bạn có thể gọi chính mình là một môn đồ mà không thỏa đáp bài kiểm tra cơ bản này? “Nếu các ngươi hằng ở trong đạo ta, thì thật là môn đồ ta.” Bạn đã được đặt câu hỏi: Kinh Thánh là Lời Đức Chúa Trời? Giờ bạn cần đối mặt với câu hỏi bạn sẽ làm gì với Lời Đức Chúa Trời? Bạn sẽ giao thác chính mình cho uy quyền của Lời? Khi Đức Chúa Trời khải thị lẽ thật về chính Ngài và những gì Ngài đòi hỏi bạn trong Lời, bạn sẽ vâng phục? Bạn được thuyết phục bởi Lời Đức Chúa Trời – hay bạn giao thác chính mình cho Lời Chúa? Đó là vấn đề!
Lời Đức Chúa Trời đòi hỏi uy quyền tuyệt đối trên đời sống bạn. Trừ khi bạn chấp nhận uy quyền của Lời, bạn không có quyền đòi hỏi trở nên môn đồ của Chúa Jesus Christ.

Chương 6

DẤU HIỆU CỦA MÔN ĐỒ

Khi Đức Chúa Trời hiện ra và kêu gọi Áp-ra-ham tại U-rơ, xứ Canh-đê, Ngài cũng kêu gọi ông giao phó chính mình cho Ngài. Áp-ra-ham đã từ bỏ những mối liên hệ của đời sống vào lúc đó để bước theo Chúa. Từ đây ông là con người của đức tin hành động trên hành trình theo Chúa về miền đất hứa. Sau khi Áp-ra-ham từ giã U-rơ, Đức Chúa Trời ban cho ông dấu hiệu của sự phân rẽ. Ngài hiện ra với Áp-ra-ham và phán: “Phần ngươi cùng dòng dõi ngươi, từ đời nọ sang đời kia, sẽ giữ sự giao ước của ta. Mỗi người nam trong vòng các ngươi phải chịu phép cắt bì; ấy là giao ước mà các ngươi phải giữ, tức giao ước lập giữa ta và các ngươi, cùng dòng dõi sau ngươi. Các ngươi phải chịu cắt bì; phép đó sẽ là dấu hiệu của sự giao ước giữa ta cùng các ngươi. Trải qua các đời, mỗi người nam trong vòng các ngươi, hoặc sanh đẻ tại nhà, hoặc đem tiền ra mua nơi người ngoại bang, chẳng thuộc về dòng giống ngươi, hễ lên được tám ngày rồi, đều phải chịu phép cắt bì. Chớ khá bỏ làm phép cắt bì cho ai sanh tại trong nhà ngươi, hay đem tiền ra mua về; sự giao ước của ta sẽ lập đời đời trong xác thịt của các ngươi vậy. Một người nam nào không chịu phép cắt bì nơi xác thịt mình, sẽ bị truất ra khỏi ngoài dân sự mình; người đó là kẻ bội lời giao ước ta.” (Sáng 17:9-14)
Áp-ra-ham đã phân rẽ với đời sống cũ trước đây. Phép cắt bì là dấu hiệu đặc trưng để minh chứng cho mối quan hệ đặc biệt của ông với Đức Chúa Trời. Nó là dấu hiệu của giao ước mà Chúa đã ban cho ông. Từ đây ông sẽ chuẩn bị nhận lãnh vùng đất hứa và trở thành nguồn phước cho nhiều dân tộc. Đức Chúa Trời nhắc cho Áp-ra-ham biết rằng phép cắt bì được duy trì trên dòng dõi ông sau đó. Trong tuyển dân nếu có một bé trai nào không chịu phép cắt bì, thì nó sẽ bị truất khỏi dân sự. Một người nam mà không nhận phép cắt bì được xem như tách ra khỏi cộng đồng tuyển dân. Đây là một luật lệ không thay đổi mà Chúa đã thiết lập cho tuyển dân.
Khi chúng ta nhìn vào lịch sử Israel, chúng ta thấy rằng Đức Chúa Trời đã giải cứu các con trai của Áp-ra-ham tại Ai-cập trong sách Xuất Ê-díp-tô-ký qua một sự giải cứu bằng huyết của chiên con. Tuyển dân đi vào trong đồng vắng và trở thành một dân tộc được biệt riêng ra để thờ phượng Chúa. Khi Áp-ra-ham từ biệt U-rơ, Đức Chúa Trời ban cho ông một dấu hiệu là phép cắt bì mà dòng dõi ông phải có trong thân thể. Nhiều năm sau đó người Israel phân rẽ ra khỏi Ai-cập, Chúa ban cho họ một dấu hiệu trên núi Si-nai. Đây là một dấu hiệu đặc biệt và duy nhất chỉ dành cho tuyển dân. Chúng ta đọc trong Xuất 20:8-10, “Hãy nhớ ngày nghỉ đặng làm nên ngày thánh. Ngươi hãy làm hết công việc mình trong sáu ngày; nhưng ngày thứ bảy là ngày nghỉ của Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi: trong ngày đó, ngươi, con trai, con gái, tôi trai tớ gái, súc vật của ngươi, hoặc khách ngoại bang ở trong nhà ngươi, đều chớ làm công việc chi hết.” Đến chương 31 của sách Xuất Ê-díp-tô ký chúng ta tìm thấy ý nghĩa của ngày Sa-bát trong câu 12-13, “Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se rằng: phần ngươi hãy nói cùng dân Y-sơ-ra-ên rằng: Nhứt là các ngươi hãy giữ ngày Sa-bát ta, vì là một dấu giữa ta và các ngươi, trải qua mọi đời, để thiên hạ biết rằng ta là Đức Giê-hô-va, làm cho các ngươi nên thánh.” Đức Chúa Trời đã phân rẽ Áp-ra-ham ra khỏi U-rơ và Israel ra khỏi Ai-cập để biệt riêng cho chính Ngài.
Phép cắt bì và giữ ngày Sa-bát là dấu hiệu của sự thánh hóa và phân rẽ mà Đức Chúa Trời đã ban cho dân tộc Israel. Nó rất đặc trưng và riêng biệt cho tuyển dân. Chúng ta đọc thấy trong Sáng thế ký 17 về phép cắt bì. Và trong Xuất 31:14, “Vậy, hãy giữ ngày Sa-bát, vì là một ngày thánh cho các ngươi. Kẻ nào phạm đến ngày đó, phải bị xử tử; kẻ nào làm một việc chi trong ngày đó, cũng sẽ bị truất khỏi vòng dân sự.” và trong câu 16- 17, “Ấy vậy, dân Y-sơ-ra-ên sẽ giữ ngày Sa-bát trải các đời của họ, như một giao ước đời đời. Ấy là một dấu đời đời cho ta cùng dân Y-sơ-ra-ên,” Như vậy phép cắt bì và giữ ngày Sa-bát là dấu hiệu bắt buộc cho từng cá nhân trong tuyển dân. Nếu không tuân giữ, người nam đó sẽ bị truất ra khỏi vòng dân sự.
Tuyển dân từ thời của Áp-ra-ham và từ thời điểm luật pháp được ban trên núi Si-nai phải giữ hai dấu hiệu đặc trưng này. Mỗi người nam Israel phải làm phép cắt bì, và cả dòng dõi tuyển dân phải giữ ngày Sa-bát để họ được biệt riêng ra thánh cho Đức Giê-hô-va. Bây giờ khi Đấng Mê-si là Chúa Jesus đến, hai dấu hiệu này vốn đã được nhận thức rõ ràng và đang tuân giữ từ phía tuyển dân.
Giăng Báp-tít, người mở đường của Chúa Jesus đưa ra một dấu hiệu xác định khác cho tuyển dân. Trong chương đầu của Phúc Âm Giăng, câu 26-28, chúng ta đọc, “Giăng trả lời: Về phần ta, ta làm phép báp-têm bằng nước; nhưng có một Đấng ở giữa các ngươi mà các ngươi không nhận biết. Ấy là Đấng đến sau ta, ta chẳng đáng mở dây giày Ngài. Những việc đó đã xảy ra tại thành Bê-tha-ni, bên kia sông Giô-đanh, là nơi Giăng làm phép báp-têm.”
Chức vụ của Giăng Báp-tít rất mới lạ và duy nhất. Ông tập họp những người Israel – là những người tuân giữ phép cắt bì và ngày Sa-bát của Cựu Ước. Họ là những người tin rằng Đức Chúa Trời sẽ sai Đấng Mê-si đến để cứu chuộc và trị vì. Khi nghe Giăng Báp-tít rao giảng về Đấng Mê-si, họ tin rằng ông là tiên tri từ Đức Chúa Trời đến. Và rồi Giăng đã đưa ra cho họ một dấu hiệu mới – đó là phép báp-tem bằng nước. Họ chấp nhận sứ điệp và phép báp-tem của Giăng. Họ đã giữ hai dấu hiệu trước đó là phép cắt bì và ngày Sa-bát để làm dân biệt riêng cho Đức Chúa Trời. Bây giờ họ tiếp nhận dấu hiệu thứ ba của Giăng (phép báp-tem). Qua dấu hiệu này họ tin vào sứ điệp của Giăng rao giảng là Đấng Mê-si sẽ được Đức Chúa Trời sai đến để làm Đấng Cứu Chuộc và cai trị Israel.
Lịch sử tuyển dân được đánh dấu qua ba sự kiện đầy ý nghĩa: 1/ Sự kêu gọi Áp-ra-ham. 2/ Sự giải phóng ra khỏi Ai-cập. 3/ Đấng Christ đến.
Khi đọc lại Phúc Âm Giăng 13, chúng ta thấy Chúa Jesus đã phán dạy cho các môn đồ – là những người đã giữ ngày Sa-bát và tiếp nhận phép báp-tem của Giăng Báp-tít. Xa hơn nữa họ tiếp nhận sứ điệp của Giăng giới thiệu một Đấng Mê-si sẽ đến. Trong Giăng 13: 34-35 Chúa Jesus phán, “Ta ban cho các ngươi một điều răn mới”. Điều răn mới Chúa dạy tương phản với điều răn cũ trước đây. Điều răn cũ là: chịu phép cắt bì, giữ ngày sa-bát, tiếp nhận phép báp-tem của Giăng như là một dấu hiệu xác định mối quan hệ với mục đích của Đức Chúa Trời được hoàn thành trong Đấng Cứu Chuộc. Điều răn mới là: “các ngươi phải yêu nhau; như ta đã yêu các ngươi thể nào, thì các ngươi cũng hãy yêu nhau thể ấy. Nếu các ngươi yêu nhau, thì ấy là tại điều đó (nhờ dấu hiệu đó) mà thiên hạ sẽ nhận biết các ngươi là môn đồ ta.” Như vậy tình yêu là dấu hiệu để nhận biết môn đồ thật của Chúa. Nếu một người không chịu cắt bì và giữ ngày sa-bát, thì người đó không được nhìn nhận là hậu tự của Áp-ra-ham. Một người từ chối phép báp-tem của Giăng thì không được gọi là môn đồ của Giăng. Theo lô-gíc này, một người không có tình yêu với anh em mình không thể gọi là môn đồ của Chúa Jesus Christ.
Tình yêu mà Đấng Christ đòi hỏi nơi những người theo Ngài là một dấu hiệu để nhận biết mối quan hệ của người đó với Đức Chúa Trời. Đây là dấu hiệu chứng tỏ rằng Đức Thánh Linh làm việc bên trong tín hữu. Một người có thể miễn cưỡng chấp nhận phép cắt bì hay giữ ngày Sa-bát, nhưng chỉ có Đức Thánh Linh mới sản xuất ra tình yêu thương thật sự đúng nghĩa theo lời Chúa dạy. Đó là lý do để nói rằng tình yêu thương là bằng chứng cho một môn đồ thật. Chúng ta đọc lại lần nữa: “…tại điều đó (nhờ dấu hiệu đó) mà thiên hạ sẽ nhận biết các ngươi là môn đồ ta.” Câu này rất rõ ràng. Bằng chứng nào để nhận ra một người là con cháu của Áp-ra-ham? – Phép cắt bì. Bằng chứng nào để nhận ra một người là môn đồ của Môi-se? – Giữ ngày Sa-bát. Bằng chứng nào chứng tỏ một người là môn đồ của Giăng? – Qua báp-tem bằng nước. Và Chúa Jesus có ý phán: “Nếu các ngươi muốn chứng tỏ là môn đồ của Ta, các ngươi phải có bằng chứng là yêu mến nhau.”

YÊU THƯƠNG LẪN NHAU
Trong Giăng 14:23 Đức Chúa Jesus dạy rằng: “Nếu ai yêu mến ta, thì vâng giữ lời ta, Cha ta sẽ thương yêu người, chúng ta đều đến cùng người và ở trong người.” Lời dạy của Chúa ở đây rất rõ ràng: Nếu một người yêu mến Chúa Jesus, người đó sẽ tuân thủ lời dạy của Ngài. Cha thiên thượng yêu mến người đó. Cả Cha và Con sẽ đến cư trú bên trong người đó. Ở đây Chúa Jesus dạy về mối tương giao gần gũi với Đức Chúa Trời khi một người nhận Ngài làm Cứu Chúa. Tình yêu của Đức Chúa Trời đã tuôn đổ ra trên thế giới qua sự chết của Chúa Jesus Christ. Nhưng con người không thể vui hưởng những phúc lợi của tình yêu này cho đến khi họ tiếp nhận Chúa Jesus Christ làm Cứu Chúa. Mỗi một tín nhân có đặc ân sở hữu tình yêu của Chúa Jesus. Cha thiên thượng không chỉ yêu mến tín nhân đó mà còn đến ở với anh ta. Khi hai người đã gắn bó với nhau trong tình yêu thì muốn dành thời gian cho nhau, và bất kỳ một sự phân rẽ nào cũng sẽ gây ra đau đớn. Cha thiên thượng sẽ không tách rời khỏi những đối tượng mà Ngài yêu thương. Ngài đến và lập gia cư bên trong cuộc đời của họ. Vì vậy khi Chúa Jesus dạy rằng dấu hiệu của người môn đồ thật là tình yêu thương lẫn nhau, thì Ngài đang đặt căn bản trên tiền đề: một người phải tiếp nhận Ngài làm Cứu Chúa và trải nghiệm tình yêu của Đức Chúa Trời dành cho, người đó mới có khả năng yêu thương người khác.
Trên căn bản của Giăng 14:23 Chúa phán dạy thêm một mạng lệnh trong Giăng 15:9, “Như Cha đã yêu thương ta thể nào, ta cũng yêu thương các ngươi thể ấy; hãy cứ ở trong sự yêu thương của ta”. Từ “cứ ở” trong câu 9 ở đây thì giống với từ “cứ ở” trong câu 4. Động từ “cứ ở” bao hàm người đó được kéo đến với Đấng Christ để Ngài bảo vệ, chống đỡ, nuôi dưỡng trong tình yêu thương. Lúc đó tâm trí, động cơ của tín nhân được Chúa kiểm soát. Ý muốn của người đó trở nên qui phục với Lời Đức Chúa Trời. Chúa Jesus tiếp tục nâng cao sự dạy dỗ của Ngài trong Giăng 14:23. Một người cứ ở trong Chúa phải phát triển tình yêu đó qua sự châm rễ lập nền trong Nguồn của tình yêu. Người đó tiếp tục được trưởng thành trong tình yêu của Đức Chúa Trời.
Trong câu Giăng 15:12-13, Chúa Jesus phán, “Điều răn của ta đây nầy: Các ngươi hãy yêu nhau, cũng như ta đã yêu các ngươi. Chẳng có sự yêu thương nào lớn hơn là vì bạn hữu mà phó sự sống mình.” Ở đây Chúa đã đẩy sự dạy dỗ của Ngài lên một trình độ cao hơn cho các môn đồ. Khi chúng ta đã châm rễ lập nền trong tình yêu thương, chúng ta có khả năng bày tỏ tình yêu như mạng lệnh Chúa ban ra, “Các ngươi hãy yêu nhau, cũng như ta đã yêu các ngươi”.
Chúa Jesus nhìn xem các môn đồ của Ngài bày tỏ ra dấu hiệu là những môn đồ thật. Trong lời cầu nguyện được ghi lại trong Giăng 17, Chúa Jesus đã cầu nguyện cho nhu cầu được bảo vệ của các môn đồ. Đỉnh cao của lời cầu nguyện ở đây là: “để cho ai nấy hiệp làm một, như Cha ở trong Con, và Con ở trong Cha; lại để cho họ cũng ở trong chúng ta” (câu 21). Tiếp đến trong câu 26, Chúa cầu nguyện, “Con đã tỏ danh Cha ra cho họ, Con lại sẽ tỏ ra nữa, để cho tình yêu thương của Cha dùng yêu thương Con ở trong họ, và chính mình Con cũng ở trong họ nữa.” Chúng ta chú ý rằng đây là lời cầu nguyện cuối cùng của Chúa dành cho các học trò của Ngài được Kinh Thánh ghi lại để bày tỏ thế nào là dấu hiệu của môn đồ thật.
Như vậy tình yêu thương rõ ràng là một dấu hiệu của môn đồ Đấng Christ. Người môn đồ thật bày tỏ ra tình yêu với những người mà Đấng Christ đã yêu.
Sứ đồ Phao-lô lý giải thêm điều này trong Ê-phê-sô 3:18-19, “để anh em khi đã đâm rễ vững nền trong sự yêu thương, được hiệp cùng các thánh đồ mà hiểu thấu bề rộng, bề dài, bề cao, bề sâu của nó là thể nào, và được biết sự yêu thương của Đấng Christ, là sự trổi hơn mọi sự thông biết, hầu cho anh em được đầy dẫy mọi sự dư dật của Đức Chúa Trời.”
Sau khi đã giới thiệu về lẽ thật của tình yêu, Phao-lô cầu nguyện cho tín hữu ở Ê-phê-sô trải nghiệm nhiều hơn trong tình yêu của Đấng Christ. Tại sao các tín hữu cần phải bày tỏ ra các dấu hiệu họ là môn đồ? Phao-lô tiếp tục trong Ê-phê-sô 4:2-3, “phải khiêm nhường đến điều, mềm mại đến điều, phải nhịn nhục, lấy lòng thương yêu mà chìu nhau, dùng dây hòa bình mà giữ gìn sự hiệp một của Thánh Linh.” Và trong câu 30-31, “Anh em chớ làm buồn cho Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời, vì nhờ Ngài anh em được ấn chứng đến ngày cứu chuộc. Phải bỏ khỏi anh em những sự cay đắng, buồn giận, tức mình, kêu rêu, mắng nhiếc, cùng mọi điều hung ác.” Những gì là: cay đắng, buồn giận, tức mình, kêu rêu…. là những điều chống lại các anh chị em trong Chúa, cần phải được loại bỏ. Ông tiếp tục, “Hãy ở với nhau cách nhân từ, đầy dẫy lòng thương xót, tha thứ nhau như Đức Chúa Trời đã tha thứ anh em trong Đấng Christ vậy.” Vị sứ đồ cũng nói trước đó trong Êph. 3:19, ông mong đợi các tín hữu: “biết sự yêu thương của Đấng Christ, là sự trổi hơn mọi sự thông biết, hầu cho anh em được đầy dẫy mọi sự dư dật của Đức Chúa Trời.” Đây chính là gánh nặng trong lòng vị sứ đồ.
Chúng ta cũng tìm thấy chủ đề này trong Hêb. 12:15, “Khá coi chừng kẻo có kẻ trật phần ân điển của Đức Chúa Trời, kẻo rễ đắng châm ra, có thể ngăn trở và làm ô uế phần nhiều trong anh em chăng.” Rễ đắng đối kháng với tình yêu thương sẽ làm thất bại tư cách là môn đồ thật. Đó là điều mà chúng ta phải cảnh giác. Rễ đắng đôi khi tồn tại âm ỉ giữa hai người rồi lan ra cả cộng đồng sẽ làm hỏng hội thánh. Khi một người chưa tin nhìn thấy những rễ đắng – sự xung đột giữa vòng các Cơ đốc nhân, lúc ấy lời chứng của Phúc Âm sẽ ra sao? Đây là gánh nặng lớn lao trong lòng sứ đồ Giăng khi ông viết thư tín thứ nhất. Ông nhấn mạnh trách nhiệm của các tín hữu là phải yêu mến lẫn nhau bằng hành động.
Thật không dễ dàng gì để bày tỏ dấu hiệu của một môn đồ thật trong thế giới chúng ta đang sống. Người chưa tin thường nhầm lẫn tình yêu của Đấng Christ với những điều khác. Nếu một người nam yêu mến một người nam và chăm sóc người này bằng tình yêu của Đấng Christ, thế gian có thể gán cho anh ta là đồng tính luyến ái. Nếu một người nam quan tâm đến một chị em trong hội thánh, một số người có thể hiểu lầm anh ta có động cơ thầm kín. Người chưa tin không thể hiểu được tình yêu mến anh em trong Chúa cho đến khi họ được Thánh Linh soi sáng. Sự ngộ nhận thường xảy ra trong thế giới chúng ta đang sống. Vì vậy chúng ta phải khéo léo và quân bình trong các mối quan hệ. Tuy nhiên phải nhớ rằng dấu hiệu để nhận biết môn đồ thật chính là tình yêu mến lẫn nhau giữa vòng con dân Chúa.
Có bao giờ bạn tự hỏi Phao-lô có ý gì khi ông viết, “Anh em hãy lấy cái hôn thánh mà chào nhau” (Rô. 16:16). Phao-lô biết rằng có một dấu hiệu để chứng tỏ một người là môn đồ thật đó là anh ta phải yêu mến người khác. Tình yêu không cần phải giấu giếm, che đậy. Nó phải được mở ra. “Cái hôn thánh” là khái niệm của một tình yêu mở ra. Khi một anh chị em đau yếu hay bất lực trước những hoàn cảnh đối diện đang cần sự giúp đỡ, chúng ta cần bày tỏ tình yêu qua hành động. Đó là dấu hiệu để thế giới biết rằng chúng ta là môn đồ Đấng Christ.
Không điều gì có thể thay thế cho dấu hiệu đặc trưng này. Đấng Christ không dạy rằng các ngươi sẽ là môn đồ ta khi các ngươi gia nhập vào một hội thánh, tham gia một lớp học Kinh Thánh, hay là nhận báp-tem… Ngài dạy rằng nếu các ngươi yêu nhau thì đó là dấu hiệu để mọi người nhận biết các ngươi là môn đồ ta.
Một lời chào thông thường giữa vòng chúng ta là: “Bạn thế nào?” Hy vọng lời chào này không chỉ là sáo ngữ, nhưng nó thể hiện sự quan tâm của chúng ta với người đối diện. Đó là tôi muốn biết: sức khỏe, công việc, những khó khăn bạn đang đối diện…? Chúng ta có thể làm giảm bớt đi những căng thẳng, khó khăn của người khác khi nói lời thích hợp để động viên, an ủi. Bạn phải có tình yêu để cảm thông và chia sẻ các gánh nặng.
Đức Chúa Trời không có ý định để cho con cái Ngài phải sống đơn độc. Ngài cung ứng sự thông công, liên hiệp giữa vòng những người tin. Sự nối kết các tín nhân sẽ làm cho tình yêu, sức mạnh, sự khích lệ được gia tăng. “Nếu các ngươi yêu nhau, thì ấy là tại điều đó mà thiên hạ sẽ nhận biết các ngươi là môn đồ ta.” Bạn có thể là một tín nhân không bày tỏ tình yêu, nhưng bạn không thể là một môn đồ thật sự đúng nghĩa nếu bạn không có dấu hiệu mà bạn đã nhận lãnh trong tình yêu của Chúa Jesus Christ.

Chương 7

UY QUYỀN VÀ MÔN ĐỒ
Lu-ca 14:16-27
“Nhưng Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Có người kia dọn tiệc lớn, mời nhiều người ăn. Khi đến giờ ăn, sai đầy tớ mình đi nói với những kẻ được mời rằng: Hãy đến, mọi sự đã sẵn rồi. Song họ đồng tình xin kiếu hết. Người thứ nhứt nói rằng: Tôi có mua một đám ruộng, cần phải đi coi; xin cho tôi kiếu. Kẻ khác rằng: Tôi có mua năm cặp bò, phải đi xem thử; xin cho tôi kiếu. Kẻ khác nữa rằng: Tôi mới cưới vợ, vậy tôi đi không được. Đầy tớ trở về, trình việc đó cho chủ mình. Chủ bèn nổi giận, biểu đầy tớ rằng: Hãy đi mau ra ngoài chợ, và các đường phố, đem những kẻ nghèo khó, tàn tật, đui, què vào đây. Sau lại đầy tớ trình rằng: Thưa chủ, điều chủ dạy, đã làm rồi, mà hãy còn thừa chỗ. Chủ nhà lại biểu rằng: Hãy ra ngoài đường và dọc hàng rào, gặp ai thì ép mời vào, cho được đầy nhà ta. Vì, ta nói cùng các ngươi, trong những kẻ đã mời trước, không có ai được nếm bữa tiệc của ta đâu.
Có đoàn dân đông cùng đi với Đức Chúa Jêsus; Ngài xây lại cùng họ mà phán rằng: Nếu có ai đến theo ta mà không ghét cha mẹ, vợ con, anh em, chị em mình, và chính sự sống mình nữa, thì không được làm môn đồ ta. Còn ai không vác thập tự giá mình mà theo ta, cũng không được làm môn đồ ta.”
Chúa Jesus giới thiệu chính Ngài là Vua và Cứu Chúa cho tuyển dân Israel. Ngài đòi hỏi những người đi theo Ngài phải thuận phục uy quyền của chính Ngài và Lời Ngài. Chúa kêu gọi, “Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng ta, ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ” (Mat. 11:28). “Hãy đến cùng ta” là hành động đức tin. Mạng lệnh của Chúa dành cho những người đến với Ngài: “Ta có lòng nhu mì, khiêm nhường; nên hãy gánh lấy ách của ta, và học theo ta; thì linh hồn các ngươi sẽ được yên nghỉ. Vì ách ta dễ chịu và gánh ta nhẹ nhàng.” (c. 29-30). Một người không thể trở thành môn đồ cho đến khi anh ta thuận phục uy quyền của Đấng Christ và mang lấy ách của Ngài.
Tuyển dân Israel hiểu cả hai mệnh đề: “Hãy đến cùng ta” và “gánh lấy ách của ta”. Trong Lu-ca 14, Chúa đề cập đến sự đáp ứng của những người được mời đến dự tiệc. Chúng ta đọc câu 16-17, “Có người kia dọn tiệc lớn, mời nhiều người ăn. Khi đến giờ ăn, sai đầy tớ mình đi nói với những kẻ được mời rằng: Hãy đến, mọi sự đã sẵn rồi.” Không khó lắm để nhận ra người chủ bữa tiệc chính là Đấng Mê-si. Trong ví dụ này Chúa giới thiệu chính Ngài là người chủ chuẩn bị bàn tiệc. Mọi công tác chuẩn bị cho bữa tiệc đã xong. Bây giờ chỉ còn chờ thực khách tới. Nhưng tất cả khách mời “đồng tình xin kiếu hết”.
Bức tranh của tuyển dân ở đây là: họ được mời đến bàn tiệc nhưng tất cả đều từ chối. Mỗi người đều đưa ra những lý do chính đáng. Vì thế trong phần kết luận của câu chuyện này, Chúa Jesus phán một lời mang tính thách thức trong câu 26-27, “Nếu có ai đến theo ta mà không ghét cha mẹ, vợ con, anh em, chị em mình, và chính sự sống mình nữa, thì không được làm môn đồ ta. Còn ai không vác thập tự giá mình mà theo ta, cũng không được làm môn đồ ta.” Ở đây Chúa đưa ra một cái giá phải trả để trở thành môn đồ thật sự. Đó là một người chỉ trở thành môn đồ khi anh ta không còn dành ưu tiên hàng đầu cho cha mẹ, anh chị em ruột thịt, và chính sự sống của mình. Anh ta phải “ghét” những điều thân yêu đó, khi ấy anh mới trở nên môn đồ.
Điều này dường như mâu thuẫn với kiến thức thần học của chúng ta? Đức Chúa Trời đã thiết lập hôn nhân cho tổ phụ loài người trong vườn Ê-đen, từ đó đơn vị gia đình được hình thành. Con cái phải hiếu kính cha mẹ, anh em yêu thương nhau. Sứ đồ Phao-lô dạy trong Êph. 5:25, “Hỡi người làm chồng, hãy yêu vợ mình, như Đấng Christ đã yêu Hội thánh.” Vậy thì làm thế nào để người chồng có thể ghét vợ, cha mẹ, anh em… của mình? Làm thế nào để một người vợ trở nên môn đồ trong khi Phao-lô yêu cầu một người vợ phải thuận phục chồng mình trong mọi sự? Người vợ ấy có thể nào “ghét” chồng mình hay không?
Đức Chúa Trời đã thành lập phạm vi của uy quyền. Trong gia đình Chúa đã thiết lập người chồng – người cha là đầu của gia đình. Người vợ và các con phải vâng phục uy quyền của người chồng – người cha. Sự vâng phục trong gia đình sẽ không có cho đến khi các thành viên của gia đình vâng phục theo khuôn mẫu mà Đức Chúa Trời đã thiết kế. Tuy nhiên Đấng Christ đòi hỏi “ghét” trong nơi chốn của tình yêu. Điều này có nghĩa gì?
Theo cách sử dụng thành ngữ của người Israel, tình yêu và lòng căm ghét là những cảm xúc thuộc lĩnh cực của ý chí. Cụ thể là khi một người nam yêu thương một đối tượng nào đó thì anh ta tự đầu hàng và giao nộp ý chí của mình cho người đó. Điều ngược lại đối với lòng căm ghét có nghĩa là từ chối không giao nộp ý chí của mình cho một người khác. Những lời dạy của Đấng Christ trong Lu-ca 14:26, “Nếu có ai đến theo ta mà không ghét cha mẹ, vợ con, anh em, chị em mình, và chính sự sống mình nữa, thì không được làm môn đồ ta.” không đề cập đến những cảm xúc bình thường của con người nhưng nó giải quyết vấn đề của ý chí. Chúa Jesus không tác động đến tình cảm của con người nhưng Ngài đang giải quyết vấn đề: phạm vi uy quyền trên đời sống của con người. Bạn đang giao nộp ý chí của mình cho ai? Đó là vấn đề!
Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, chúng ta quay trở về với Ma-la-chi 1:2-3, “Đức Giê-hô-va có phán: Ta yêu các ngươi; và các ngươi nói rằng: Chúa yêu chúng tôi ở đâu? Đức Giê-hô-va phán: Ê-sau há chẳng phải là anh Gia-cốp sao? Nhưng ta yêu Gia-cốp, mà ghét Ê-sau…” Đức Chúa Trời xác nhận Ngài yêu tuyển dân Israel. Chúng ta tự hỏi Ngài yêu tuyển dân ở đâu? Câu trả lời là: “ta yêu Gia-cốp, mà ghét Ê-sau”.
Để hiểu ý tưởng chính của lời tuyên bố này của Chúa, chúng ta cần quay trở về với lịch sử tuyển dân trong Sáng thế ký. Khi hai bé trai song sinh vẫn còn trong bụng mẹ, Đức Chúa Trời bày tỏ rằng Ngài chọn Gia-cốp để hoàn thành lời hứa của Ngài. Ngài đặt Ê-sau qua một bên. Đây không phải là vấn đề của cảm xúc hay tình cảm. Nó là vấn đề của ý chỉ Đức Chúa Trời trong việc toàn quyền kiểm soát, tể trị mọi biến cố xảy ra. Lời hứa của Chúa dành cho Áp-ra-ham và Y-sác được thực hiện thông qua Gia-cốp nhiều hơn là Ê-sau, mặc dù cả hai anh em song sinh này trở thành tổ phụ của hai dòng giống lớn. Ý chỉ và kế hoạch của Đức Chúa Trời là Ngài chọn Gia-cốp, yêu Gia-cốp mà ghét Ê-sau.
Khi Ma-la-chi hỏi, “Chúa yêu chúng tôi ở đâu?” Câu trả lời được tìm thấy là Chúa đặt đứa con đầu sang một bên và Ngài để cho đứa thứ hai đứng ở vị trí cao hơn. Lẽ thật này được nhấn mạnh khi sứ đồ Phao-lô viết Rô-ma 9, ông trích dẫn sách Ma-la-chi. “như có chép rằng: Ta yêu Gia-cốp và ghét Ê-sau” (Rôm. 9:13). Điều này được giải thích trong Rôm. 9:11, “Vì, khi hai con chưa sanh ra, chưa làm điều chi lành hay dữ – hầu cho được giữ vững ý chỉ Đức Chúa Trời, là ý định sẵn bởi sự kén chọn tự do của Ngài, chẳng cứ việc làm, nhưng cứ Đấng kêu gọi.” Chúa bày tỏ: Đứa lớn sẽ phục vụ đứa nhỏ. Bạn có chú ý là tình yêu dành cho Gia-cốp trong câu 13 thì liên quan đến mục đích của Đức Chúa Trời trong câu 11?
Khi một người cha Israel nhận nuôi một đứa con trong gia đình (vì ông ta và vợ không có con). Và đứa con được tuyển chọn để nhận nuôi này được người cha yêu mến, trong khi những đứa trẻ còn lại không được chọn để làm con nuôi được xem là bị ghét bỏ. Tình yêu khiến người cha đem đứa con được chọn vào trong gia đình làm người kế thừa. Sự lựa chọn này hoàn toàn là ý muốn của người cha. Người cha yêu đứa con được chọn và “ghét” những đứa còn lại không được chọn. Khi Chúa Jesus phán dạy trong Lu-ca 14:26, Ngài đòi hỏi người theo Ngài phải ghét cha mẹ, anh em, vợ con… trong ý nghĩa là người đó phải lựa chọn giữa uy quyền tối thượng, ý chỉ của Đức Chúa Trời và uy quyền của con người. Mặc dù Chúa đã thiết lập trật tự uy quyền trong gia đình, nhưng uy quyền đó phải ở dưới uy quyền tối cao của Ngài. Người cha có uy quyền trên con cái trong gia đình, vì ông ta nhận được uy quyền đó trong sự thuận phục uy quyền của Đức Chúa Trời. Người vợ thuận phục uy quyền của người chồng trong nhận thức rằng chính Đức Chúa Trời ban cho chồng mình có uy quyền đó. Nhưng có thể một số người đã làm suy yếu uy quyền tối thượng của Chúa Jesus Christ, và họ đặt uy quyền của con người lên trên Chúa. Trong trường hợp đó, người này không được kể là môn đồ của Chúa.
Chúng ta có thể chú giải Lu-ca 14:26 theo cách này? Chúa Jesus có ý nói, nếu một người đến theo Ngài mà không để lại một bên các uy quyền của con người và chọn Ngài làm uy quyền tối thượng, người đó không thể làm môn đồ Ngài. Chúa đang xử lý vấn đề uy quyền ở đây. Vấn đề trở nên sáng tỏ cho chúng ta: Trừ phi một người mang lấy ách chung với Chúa Jesus Christ – thuận phục uy quyền tối thượng, người đó không thể là môn đồ của Ngài.
Câu chuyện trong Lu-ca 14 đề cập đến ba hạng người cự tuyệt uy quyền tối thượng. Ba người này tiêu biểu cho những nhóm người bỏ cuộc không thể làm môn đồ Chúa. Người thứ nhất nói lời từ chối: “Tôi có mua một đám ruộng, cần phải đi coi; xin cho tôi kiếu.” Có thể xem người này như một nhà đầu cơ về địa ốc, ông ta tích trử của cải dưới đất. Đối với ông “đám ruộng” lớn hơn lời mời đến bàn tiệc. Lòng ham muốn vật chất của ông trổi hơn uy quyền của người chủ mời ông ta đến dự tiệc. Đơn giản là ông ta cự tuyệt uy quyền của người chủ bàn tiệc. Một người không thể ôm ấp những điều thuộc về vật chất mà đồng thời thuận phục uy quyền tối cao của Chúa.
Một người có thể thành công trong kinh doanh và là môn đồ thật của Chúa. Nhưng không thể nào một người đặt vật chất lên hàng đầu có thể gọi là môn đồ.
Nhiều người ngày hôm nay muốn trở nên môn đồ của Chúa, nhưng họ thất bại ở điếm này: vật chất, của cải, tiền bạc đối với họ là uy quyền tối thượng. Uy quyền của Chúa đối với họ chỉ đứng ở vị trí thứ hai.
Bây giờ chúng ta nghe lời từ chối của người thứ hai, “Tôi có mua năm cặp bò, phải đi xem thử; xin cho tôi kiếu.” Người này đã thành lập công việc kinh doanh của mình trên năm cặp bò – đó là số tiền anh ta đã đầu tư cho doanh nghiệp. Một sự đầu tư có cân nhắc và vấn đề sinh tử của anh ta nằm ở đó. Người đàn ông này có khác với người “mua đám ruộng”. Anh ta theo đuổi một công việc và mong đợi thành công với nó. Công việc của anh là khẩn cấp, nó cần thời gian, sức lực của anh, vì vậy anh ta không còn thời gian dành cho Chúa Jesus Christ. Anh ta đã cự tuyệt uy quyền tối thượng. Nhiều người ngày hôm nay đứng trước hai sự lựa chọn: thành công trong sự nghiệp riêng theo cách nhìn của thế giới hay trở thành người phục vụ Chúa Jesus Christ?
Người thứ ba nói gì? “Tôi mới cưới vợ, vậy tôi đi không được”. Người này đang vui hưởng một cuộc sống hôn nhân phước hạnh. Và hôn nhân là điều mà Chúa đã thiết lập cho con người. Nó là một món quà đến từ Chúa. Lý do rất chính đáng, nhưng người này thực ra đã từ chối uy quyền tối thượng của Chúa Jesus Christ. Đó là lý do Chúa phán trong câu 26, “Nếu có ai đến theo ta mà không ghét cha mẹ, vợ con, anh em, chị em mình, và chính sự sống mình nữa, thì không được làm môn đồ ta.” Vấn đề của người này là anh ta đã để cho những mối quan hệ cá nhân trong gia đình chi phối, ảnh hưởng. Nó trở thành điều ưu tiên lớn nhất trong cuộc sống, vì vậy anh ta không thể là môn đồ của Chúa.
Có thể lời từ chối của người thứ ba và lời thách thức của Chúa sau đó làm chúng ta cảm thấy rất khó khăn. Mối quan tâm của chúng ta với những người thân yêu trong gia đình bao gồm: cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh chị em sẽ được sắp xếp ra sao khi chúng ta muốn trở nên môn đồ Đấng Christ? Vấn đề nằm ở chỗ này: Mối liên hệ với những người thân trong gia đình chỉ đúng đắn và quân bình khi chúng ta đặt tất cả những mối quan hệ này trong mối liên hệ cá nhân giữa chúng ta với Chúa Jesus.
Một ngày nọ, một người phụ nữ bước vào phòng tôi với đôi mắt đẫm lệ. Tôi chờ đợi lắng nghe. Người phụ nữ nói rằng bà vừa nhận được lá thư của cô con gái thân yêu từ Trường Cao đẳng báo tin cô ấy sẽ từ giã gia đình để đi truyền giáo. Đó là một cú sốc, vì người mẹ này đã đầu tư rất nhiều tiền bạc cho cô con gái trong việc học hành, và một cuộc hôn nhân tươi đẹp cũng đã được chuẩn bị. Thế nhưng giờ đây cô con gái vứt tất cả để làm một nữ giáo sĩ không có tương lai!? Rõ ràng một thái độ như thế làm cho cả thế giới dường như sụp đổ trong đôi mắt của người mẹ đáng thương.
Hãy nhớ bài học ở đây là: Nếu bạn không bạn đặt Chúa Jesus lên trên cha mẹ, vợ chồng, anh chị em, những người thân yêu và chính sự sống của bạn, bạn không bao giờ là môn đồ Đấng Christ. Đây là vấn đề uy quyền của ai lớn nhất trên đời sống bạn? Theo ý nghĩa ban đầu của hôn nhân trong vườn Ê-đen, người nam phải lìa cha mẹ và dính líu với vợ mình trong một mối quan hệ hiệp nhất. Ý nghĩa ở đây là có sự chuyển đổi phạm vi và vị trí của uy quyền sau hôn nhân. Cũng vậy khi bạn quyết định đi theo Chúa Jesus, bạn phải hiểu rõ vấn đề này. Bạn phải thấy rằng trong các mối quan hệ với gia đình, với xã hội và sự nghiệp đang theo đuổi, Đấng Christ phải có uy quyền tối hậu trên những điều đó. Chỉ khi ấy bạn mới thực sự là môn đồ Đấng Christ.
Chúng ta phải khiêm cung thừa nhận rằng, chúng ta chưa đặt uy quyền của Đấng Christ lên trên các mối quan hệ của chúng ta với gia đình, công việc, tài sản, con cái….Chúng ta muốn ý chí, chương trình của chúng ta được thành tựu hơn là ý chỉ và đường lối của Đức Chúa Trời. Chúng ta rất khó để thừa nhận rằng: chúng ta tin Chúa nhưng chưa phải là môn đồ của Ngài. “Hãy đến cùng ta” Chúa Jesus mời gọi bạn. “Mang lấy ách của ta và thuận phục uy quyền của ta” – Đó là điều kiện. Bạn có thực sự là môn đồ của Chúa Jesus Christ?
Chương 8

SỰ TẬN HIẾN VÀ MÔN ĐỒ
Lu-ca 14:28-35
“Vả, trong các ngươi có ai là người muốn xây một cái tháp, mà trước không ngồi tính phí tổn cho biết mình có đủ của đặng làm xong việc cùng chăng sao? E khi đã xây nền rồi, không làm xong được, thì mọi người thấy liền chê cười, và rằng: Người nầy khởi công xây, mà không thể làm xong được! Hay là có vua nào đi đánh trận cùng vua khác, mà trước không ngồi bàn luận xem mình đem đi một muôn lính có thể địch nổi vua kia đem hai muôn cùng chăng sao? Bằng chẳng nổi, khi vua kia còn ở xa, sai sứ đi xin hòa. Như vậy, nếu ai trong các ngươi không bỏ mọi sự mình có, thì không được làm môn đồ ta.
Muối là giống tốt, nhưng nếu muối mất mặn, thì lấy chi làm cho nó mặn lại được? Không dùng chi được cho ruộng hoặc cho phân; người ta phải bỏ nó ra ngoài. Ai có tai mà nghe, hãy nghe!”
Một người là kẻ cắp, đồng thời cũng là môn đồ của Chúa? Một kẻ tham ô, biển thủ cũng có thể làm môn đồ Đấng Christ? Bạn chắc sẽ trả lời: Không bao giờ. Cũng theo cách đặt vấn đề này, tôi muốn nhắm tới những người mà không phải là môn đồ của Chúa Jesus.
Một kẻ cắp là người lấy và sử dụng những thứ của người khác không thuộc về mình. Một người tham ô hay biển thủ không khác lắm so với kẻ cắp, nhưng ở một trình độ tinh vi hơn: anh ta lấy đi những thứ của cơ quan, nhà nước, công ty …. vốn không thuộc về anh ta bằng bằng nhiều mánh khóe.
Một người có thể vừa tham ô, vừa làm môn đồ Đấng Christ? Câu trả lời rõ ràng là không.
“Nếu ai trong các ngươi không bỏ mọi sự mình có, thì không được làm môn đồ ta.” (Lu-ca 14:33). Trừ phi một người từ bỏ mọi sự mình có, người đó không phải là môn đồ Đấng Christ.
Chúa Jesus quan tâm đến sự kiện một người tham ô, biển thủ trở nên môn đồ. Nhưng trong một phương diện Ngài không chấp nhận một người vẫn còn tham ô trở thành môn đồ. Chúng ta hãy nhìn vấn đề này dưới lăng kính của Kinh Thánh. Một sự thật là Đức Chúa Trời sáng tạo vạn vật trên đất và tất cả đều thuộc về Ngài. Không một người nào có thể tranh cãi về thẩm quyền sở hữu của Chúa, bởi vì Chúa sáng tạo nên thế giới bằng lời của Ngài. “Vì muôn vật đã được dựng nên trong Ngài” (Côl. 1:16). Trong buổi bình minh sáng tạo Chúa giao uy quyền quản trị cho tổ phụ loài người. Tuy nhiên điều này có nghĩa là Chúa không từ bỏ uy quyền tối cao của Ngài, nhưng Ngài mong đợi con người nhận thức uy quyền của Ngài vượt trên tất cả mọi quyền bính của thế giới.
Từ rất sớm trong thời các tổ phụ đầu tiên, con người đã biết Đức Chúa Trời là chủ của tất cả mọi sự, và họ dâng một phần mười về cho Ngài. Chúng ta đọc trong Sáng thế ký 14:20, “Áp-ram lấy một phần mười về cả của giặc mà dâng cho vua đó.” Như vậy trước khi luật pháp được ban ra từ núi Si-nai, Áp-ra-ham đã thực hành việc dâng một phần mười. Ông nhận thức Mên-chi-xê-đéc là thầy tế lễ của Đức Chúa Trời chí cao – một người trung gian giữa Chúa và ông, vì vậy ông đã dâng hiến về cho thầy tế lễ này. Trong một ý nghĩa xa hơn, Áp-ra-ham dâng hiến không phải vì ông tôn trọng thầy tế lễ Mên-chi-xê-đéc, nhưng là ông tôn trọng Đức Chúa Trời mà thầy tế lễ này đang phục vụ.
Sau khi Áp-ram đánh bại Kết-rô-Lao-me và các vua đồng minh, ông ý thức được rằng chiến thắng của ông đến từ Đức Chúa Trời, vì vậy những chiến lợi phẩm ông lấy được trong cuộc chiến, ông phải dâng trở lại cho Đức Chúa Trời. Ông nhìn nhận Đức Chúa Trời là chủ sở hữu trên những tài vật ông có được.
Sự dâng hiến một phần mười được phát triển rõ ràng hơn sau khi Môi-se nhận lãnh luật pháp trên núi Si-nai. Cựu ước đã bày tỏ đầy đủ nguyên tắc các phần mười cho chúng ta. Một phần mười là thuế bắt buộc đối với tuyển dân Israel. Xa hơn nữa chúng ta phải thấy rằng không chỉ một phần mười nhưng là ba phần mười được đòi hỏi nơi tuyển dân Israel.
Phần mười đầu tiên được nói đến trong Dân số ký 18:21-24, “Còn về con cháu Lê-vi, nầy ta đã ban cho làm cơ nghiệp, mọi thuế một phần mười của Y-sơ-ra-ên làm lương về công việc mình làm trong hội mạc. Dân Y-sơ-ra-ên chớ lại gần hội mạc nữa, e phải mắc tội và chết chăng. Nhưng ấy là người Lê-vi sẽ làm công việc của hội mạc; bằng có phạm tội, thì tự mang lấy; chúng nó sẽ không có phần cơ nghiệp giữa dân Y-sơ-ra-ên; ấy sẽ là một lệ định đời đời trải qua các thế đại. Vì ta đã ban cho người Lê-vi làm cơ nghiệp, những thuế một phần mười của dân Y-sơ-ra-ên dâng giơ lên cho Đức Giê-hô-va. Bởi cớ đó, ta đã phán về họ rằng: Họ sẽ không có cơ nghiệp giữa dân Y-sơ-ra-ên.” Một phần mười thêm nữa được đòi hỏi trong Lê-vi ký 27: 30-33, “Phàm thuế một phần mười thổ sản, bất kỳ vật gieo hay là hoa quả của cây, đều thuộc về Đức Giê-hô-va; ấy là một vật thánh, biệt riêng ra cho Đức Giê-hô-va. Nếu ai muốn chuộc lại vật chi về một phần mười của mình, thì phải phụ thêm một phần năm. Còn về một phần mười của bầy bò hay là chiên, tức là mọi vật chi đi ngang dưới gậy, con thứ mười sẽ là thánh, biệt riêng ra thánh cho Đức Giê-hô-va. Họ không nên phân biệt con tốt hay là con xấu, và cũng không nên đổi. Nếu đổi, thì con thú bị đổi, và con đổi, cả hai đều biệt riêng ra thánh: không phép chuộc nó lại.”
Hai phần Kinh thánh trên diễn tả, phần mười đầu tiên là dành cho người Lê-vi. Phần mười này cũng được nhìn nhận như là phần mười dành cho Đức Giê-hô-va. Nó là phần mười dùng để hỗ trợ người Lê-vi trong chức vụ của họ tại đền tạm. Như vậy tất cả sản vật, hoa lợi sinh ra từ đất và những bầy đàn súc vật đều phải dâng về cho Đức Giê-hô-va và người Lê-vi. Tuyển dân phải hiểu rằng tất cả những gì họ có là thuộc về Đức Chúa Trời.
Phần mười thứ hai được nói đến trong Phục truyền luật lệ ký. Phần mười thứ nhất được tính theo chu kỳ hàng năm, và phần mười thứ hai cũng vậy. Có một phần mười nhắc nhở tuyển dân phải giữ trong kỳ lễ hằng năm dâng lên cho Chúa. Trong Phục. 14:22-26, “Mỗi năm ngươi chớ quên đóng thuế một phần mười về huê lợi của giống mình gieo, mà đồng ruộng mình sanh sản. Tại trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, trong nơi Ngài sẽ chọn đặng để danh Ngài ở, ngươi phải ăn vật thuế một phần mười về ngũ cốc, rượu, dầu, và con đầu lòng của bầy bò hay chiên của ngươi, hầu cho ngươi tập hằng kính sợ Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi. Khi Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi đã ban phước cho, nếu đường đi lấy làm xa quá cho ngươi, đến đỗi không thế đem nộp của thuế một phần mười ấy được, – vì chỗ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi chọn để đặt danh Ngài, cách xa ngươi, – thì bấy giờ, ngươi hãy đổi thuế một phần mười đó ra bạc, cầm bạc nầy trong tay, đi đến nơi Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi đã chọn, rồi đưa bạc ấy đổi lấy mọi thức chi mình ước ao, hoặc bò hay chiên, hoặc rượu hay là đồ uống say, tức là mọi món chi mình muốn. Ngươi phải ăn nó tại đó, trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, và vui vẻ với gia quyến mình.”
Đức Chúa Trời đã lập nên 7 kỳ lễ trong năm mà tuyển dân phải tuân giữ. Trong những kỳ lễ này, tuyển dân phải tuân thủ theo các trình tự mà Chúa đã ban lời hướng dẫn. Đức Chúa Trời đòi hỏi mỗi người Israel phải để riêng ra phần mười thứ hai. Như vậy tổng số sẽ là 20% mà mỗi năm một người phải dâng lên cho Đức Chúa Trời.
Nhưng đó chưa phải là tất cả các phần mười. Khi đọc lại Phục truyền 14:28-29, “Cuối hạn ba năm, ngươi phải lấy một phần mười của huê lợi năm ấy ra, chứa tại trong thành mình. Bấy giờ, người Lê-vi, vốn không có phần chi, cũng chẳng hưởng cơ nghiệp chi chung với ngươi, luôn với người khách, kẻ mồ côi, và người góa bụa ở trong thành ngươi, sẽ đều đến ăn cho no nê, hầu cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi ban phước cho mọi công việc tay ngươi đã làm. ở trong thành ngươi, sẽ đều đến ăn cho no nê, hầu cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi ban phước cho mọi công việc tay ngươi đã làm.” Phần mười thứ ba này là phần mười dành cho người nghèo, người góa bụa, kẻ mồ côi, khách lạ. Đây chính là phúc lợi an sinh xã hội mà tuyển dân phải thực hiện. Điều này cho thấy rằng Chúa quan tâm đến tất cả mọi người.
Như vậy chúng ta thấy rằng trong năm thứ nhất và năm thứ hai tuyển dâng phải dâng lên cho Chúa 20% và đến năm thứ ba thuế một phần mười tăng lên là 30%. Nhưng chuyện này vẫn chưa kết thúc ở đó. Chúng ta nhớ rằng Đức Chúa Trời còn đòi hỏi các của dâng khác bên cạnh một phần mười. Các của dâng này là tình nguyện và nó nhắc cho người Israel biết rằng những gì họ có vốn đến từ Chúa, và họ phải dâng lại cho Ngài với tấm lòng cảm tạ biết ơn. Tuyển dân tuân giữ luật Môi-se đều biết rằng ít nhất họ phải dâng về cho Chúa ba mươi phần trăm tổng lợi tức hằng năm.
Lịch sử tuyển dân đã trải qua một thời kỳ ảm đạm khi họ bị đế quốc Ba-by-lôn bắt làm phu tù. Các tiên tri trong vòng tuyển dân vẫn làm chức vụ của mình. Và người Israel biết rằng họ phải tuân giữ việc dâng hiến các phần mười, vì mọi vật họ có đều thuộc về Đức Chúa Trời.
Đến thời tiên tri Ma-la-chi, tuyển dân phớt lờ việc dâng hiến, vì vậy họ bị quở trách, “Từ những ngày tổ phụ các ngươi, các ngươi đã xây bỏ luật lệ ta và không vâng giữ. Hãy trở lại cùng ta, thì ta sẽ trở lại cùng các ngươi, Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy. Nhưng các ngươi nói rằng: Bởi đâu chúng tôi sẽ trở lại? Người ta có thể ăn trộm Đức Chúa Trời sao? Mà các ngươi ăn trộm ta. Các ngươi nói rằng; Chúng tôi ăn trộm Chúa ở đâu? Các ngươi đã ăn trộm trong các phần mười và trong các của dâng.” (Mal. 3:7-8) Hậu quả của điều này là: “Các ngươi bị rủa sả, vì các ngươi, thảy cả nước, đều ăn trộm ta. Các ngươi hãy đem hết thảy phần mười vào kho, hầu cho có lương thực trong nhà ta; và từ nay các ngươi khá lấy điều nầy mà thử ta, Đức Giê-hô-va vạn quân phán, xem ta có mở các cửa sổ trên trời cho các ngươi, đổ phước xuống cho các ngươi đến nỗi không chỗ chứa chăng! Ta sẽ vì các ngươi ngăn cấm kẻ cắn nuốt, nó sẽ không phá hại bông trái của đất các ngươi; và những cây nho các ngươi trong đồng ruộng cũng sẽ không rụng trái trước khi đến mùa, Đức Giê-hô-va phán vậy. Mọi nước sẽ xưng các ngươi là có phước, vì các ngươi sẽ là đất vui thích, Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy” (Mal. 3:9-12). Phần Kinh thánh này nêu lên chính xác thực trạng của tuyển dân lúc đó.
Chúng ta tìm thấy một bài học trong câu 13, “Đức Giê-hô-va phán: Các ngươi đã lấy lời ngang trái nghịch cùng ta. Nhưng các ngươi nói rằng: Chúng tôi có nói gì nghịch cùng Ngài?” Ở đây tuyển dân đã từ bỏ quyền cai trị của Đức Chúa Trời trên lối sống của họ. Họ đã biển thủ tiền bạc trong các phần mười và của dâng mà đáng lẽ ra nó vốn thuộc về Chúa. Vì thế Đức Giê-hô-va có ý phán: các người đã đối nghịch cùng ta, và bằng chứng là đã giữ lại (biển thủ) các phần mười.
Khi chúng ta tiếp tục nghiên cứu bài học này trong Tân Ước. Chúng ta thấy tuyển dân vẫn còn tuân giữ luật về các phần mười, cụ thể là 30% trên tổng thu nhập của họ, cộng vào đó họ còn phải đóng các loại thuế khác cho chính quyền La-mã. Tất cả những điều này trở thành gánh nặng cho họ. Thế nhưng họ không từ chối các phần mười trả về cho Đức Chúa Trời. Chúng ta đọc trong Ma-thi-ơ 23:23, “Khốn cho các ngươi, thầy thông giáo và người Pha-ri-si, là kẻ giả hình! Vì các ngươi nộp một phần mười bạc hà, hồi hương, và rau cần, mà bỏ điều hệ trọng hơn hết trong luật pháp, là sự công bình, thương xót và trung tín; đó là những điều các ngươi phải làm, mà cũng không nên bỏ sót những điều kia.” Sự trung tín về một phần mười của người Pha-ri-si là một thực tế, nhưng những người này cần phải điềù chỉnh những điều khác quan trọng hơn. Bây giờ có một câu hỏi đặt ra cho những người đã biết Chúa Jesus là Vua và là Cứu Chúa: “Các bạn dâng bao nhiêu cho Đấng Christ? Các bạn đang mệt mỏi về các gánh nặng này?” Chúng ta hãy nghe Chúa phán, “Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng ta, ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ” (Mat. 11:28). Một câu hỏi khác dành cho những người muốn trở thành môn đồ của Chúa: “Sau khi trừ đi các khoản thu về thuế, thì các bạn có trách nhiệm thế nào về 30% tổng lợi tức mà các bạn phải dâng về cho Đức Chúa Trời?” Hãy nhớ lại lời Chúa phán trong Lu-ca 14:33, “Nếu ai trong các ngươi không bỏ mọi sự mình có, thì không được làm môn đồ ta.” Cần phải hiểu rõ lời dạy của Chúa ở đây. Đức Chúa Trời không cưỡng ép bạn phải dâng một phần mười, hai phần mười hay ba phần mười. Ngài cũng không yêu cầu một người Israel phải dâng nộp ba mươi phần trăm lợi tức về cho nhà Chúa cộng với các khoản đóng thuế cho chính quyền La-mã thì mới được làm môn đồ Đấng Christ. Đức Chúa Trời không đòi hỏi một người nào đó trở nên môn đồ cho đến khi anh ta hiểu rằng Chủ Sở Hữu mọi vật toàn quyền kiểm soát từng đồng xu người ấy có.
QUẢN GIA TỐT
Bây giờ có một câu hỏi đặt ra cho những người đã biết Chúa Jesus là Vua và là Cứu Chúa: Các bạn dâng bao nhiêu cho Đấng Christ? Chúng ta hãy nghe Chúa phán, “Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng ta, ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ” (Mat. 11:28). Một câu hỏi khác dành cho những người muốn trở thành môn đồ của Chúa: “Sau khi trừ đi các khoản thu về thuế, thì các bạn có trách nhiệm thế nào về 30% tổng lợi tức mà các bạn phải dâng về cho Đức Chúa Trời?” Hãy nhớ lại lời Chúa phán trong Lu-ca 14:33, “Nếu ai trong các ngươi không bỏ mọi sự mình có, thì không được làm môn đồ ta.” Cần phải hiểu rõ lời dạy của Chúa ở đây. Đức Chúa Trời không cưỡng ép bạn phải dâng một phần mười, hai phần mười hay ba phần mười. Ngài cũng không yêu cầu một người Israel phải dâng nộp ba mươi phần trăm lợi tức về cho nhà Chúa cộng với các khoản đóng thuế cho chính quyền La-mã thì mới được làm môn đồ Đấng Christ. Đức Chúa Trời không đòi hỏi một người nào đó trở nên môn đồ cho đến khi anh ta hiểu rằng Chủ Sở Hữu mọi vật toàn quyền kiểm soát từng đồng xu người ấy có.
Để minh họa cho điều này Chúa Jesus đã đề cập đến hai câu chuyện ngụ ngôn. Câu chuyện thứ nhất về một người kia có dự án xây một cái tháp. Anh ta cẩn thận tính toán các chi phí xây dựng. Trong câu chuyện thứ hai nói về một vị vua kia chuẩn bị chiến tranh. Vua này ngồi thảo luận với các tướng sĩ xem thử mười ngàn binh lính của ông có thể địch nổi với hai mươi ngàn quân lính đối phương? Nếu chúng ta hiểu hai câu chuyện ngụ ngôn này. Chúng ta thấy rằng Chúa không nói đến tổng số của cải của một người đang có. Nhưng Ngài đang muốn nói đến tổng số của cải một người phó thác vào trong một dự án. Người xây dựng cái tháp có bằng lòng đầu tư tất cả những gì mình có để hoàn thành công trình? Vị vua chuẩn bị chiến tranh có dám điều động tất cả binh sĩ của mình vào trận tuyến? Vấn đề nằm ở chỗ đó. Nếu chúng ta không dám cam kết dâng hết mọi sự mình có, có nghĩa là chúng ta từ chối quyền kiểm soát tối cao của Chúa trên của cải của mình, khi ấy chúng ta chưa phải là môn đồ của Chúa.
Yêu cầu cơ bản ở đây là chúng ta phải nhận thức rằng Đức Chúa Trời là chủ của tất cả mọi thứ. Tất cả những gì chúng ta có là đến từ Ngài và chúng ta phải dâng lại cho Ngài. Chúng ta chỉ là những quản gia cho Đấng Chủ sỡ hữu vạn vật là Đức Chúa Trời. Chúng ta có trách nhiệm với Đức Chúa Trời trên những gì mình quản lý. Chúng ta không chỉ là con người được Chúa tạo dựng, nhưng còn là những người được cứu chuộc bằng chính mạng sống – huyết của chúa Jesus Christ. Như thế chúng ta thuộc về Đức Chúa Trời đến hai lần. Qua sự cứu chuộc, chúng ta thuộc về Đức Chúa Trời, chúng ta là của Ngài và Ngài ủy thác chúng ta với chức vụ quản gia. Chúng ta không có uy quyền tuyệt đối trên những tài sản đang nắm giữ, nhưng là Chúa.
Từ những phân tích trên đây chúng ta trở về với vấn đề đã đặt ra: “Một người là kẻ cắp, đồng thời cũng là môn đồ của Chúa? Một kẻ tham ô, biển thủ cũng có thể làm môn đồ Đấng Christ?” Chúng ta biển thủ, giữ lại những của cải mà nó vốn không thuộc về chúng ta (chúng ta đã ăn trộm trong các phần mười và trong các của dâng). Tại sao? Vì chúng ta nghĩ rằng chúng ta là chủ sở hữu của những tài vật đó. Một quan niệm như thế đến từ văn hóa của thế giới chứ không phải đến từ Lời Đức Chúa Trời.
Một môn đồ thật phải nhận thức rằng những gì người ấy có là của Đức Chúa Trời. Thay vì hỏi: “Chúng ta dâng bao nhiêu về cho Đức Chúa Trời?” thì câu hỏi này thực tế hơn: “Chúng ta được Chúa cho phép sử dụng bao nhiêu tiền với những nhu cầu của chính mình?” Nếu tôi sử dụng USD 5 để mua một cái bánh mì mà không có sự cho phép của Chúa, thì tôi là một người lạm dụng tiền bạc của Ngài. Vấn đề là mọi chi tiêu của chúng ta có ở trong sự kiểm soát và hướng dẫn của Chúa hay không?
Một môn đồ thật là người quản gia trung tín phải được Chúa hướng dẫn trong mỗi chi tiết, đặc biệt là trong cách sử dụng tiền bạc. Bạn có trách nhiệm với mỗi đồng xu mà Đức Chúa Trời đặt trong tay bạn. Lời cầu nguyện của chúng ta: Lạy Chúa xin Ngài hướng dẫn con sử dụng những đồng tiền này?
Đức Chúa Trời không keo kiệt. Ngài không ngăn cản bạn làm những điều tốt đẹp. Ngài có thể cho phép bạn sử dụng nhiều hơn những gì thuộc về Ngài cho những ước ao hay nhu cầu của bạn, nhưng Ngài muốn bạn phải xin phép trước khi làm điều đó. Hãy nhớ bạn là quản gia chứ không phải ông chủ. Vì vậy câu hỏi dành cho chúng ta không phải là: “Dâng hiến bao nhiêu?” nhưng là: “Bao nhiêu tiền mà Chúa cho phép chúng ta giữ lại để sử dụng cho những nhu cầu cá nhân?”
“Nếu ai trong các ngươi không bỏ mọi sự mình có, thì không được làm môn đồ ta.” (Lu-ca 14:33). Câu này có thể hiểu là: ai trong chúng ta không nhận thức được quyền kiểm soát của Chúa Jesus trên tất cả những gì mình có, người đó không được làm môn đồ của Chúa.
Trong ánh sáng của Lời Đức Chúa Trời, chúng ta có còn tiếp tục làm người biển thủ, giữ lại cho mình những tài vật vốn thuộc về Chúa? Khi chúng ta nhận ra uy quyền tối hậu của Chúa trên những của cải chúng ta đang quản lý, chúng ta sẽ không còn là người biển thủ, nhưng là quản gia tốt.
Nguyện Đức Chúa Trời sử dụng chúng ta như những quản gia trung thành – là những môn đồ thật được Ngài khen ngợi.
Chương 9

MÔN ĐỒ VÀ ĐỜI SỐNG CẦU NGUYỆN
Lu-ca 11:1-110
“1 Có một ngày, Đức Chúa Jêsus cầu nguyện, ở nơi kia. Khi cầu nguyện xong, một môn đồ thưa Ngài rằng: Lạy Chúa, xin dạy chúng tôi cầu nguyện, cũng như Giăng đã dạy môn đồ mình. 2 Ngài phán rằng: Khi các ngươi cầu nguyện, hãy nói: Lạy Cha! Danh Cha được thánh; nước Cha được đến; 3 xin cho chúng tôi ngày nào đủ bánh ngày ấy; 4 xin tha tội chúng tôi, vì chúng tôi cũng tha kẻ mích lòng mình; và xin chớ đem chúng tôi vào sự cám dỗ!
5 Đoạn, Ngài phán cùng môn đồ rằng: Nếu một người trong các ngươi có bạn hữu, nửa đêm đến nói rằng: Bạn ơi, cho tôi mượn ba cái bánh. 6 vì người bạn tôi đi đường mới tới, tôi không có chi đãi người. 7 Nếu người kia ở trong nhà trả lời rằng: Đừng khuấy rối tôi, cửa đóng rồi, con cái và tôi đã đi ngủ, không dậy được mà lấy bánh cho anh; – 8 ta nói cùng các ngươi, dầu người ấy không chịu dậy cho bánh vì là bạn mình, nhưng vì cớ người kia làm rộn, sẽ dậy và cho người đủ sự cần dùng. 9 Ta lại nói cùng các ngươi: Hãy xin, sẽ ban cho; hãy tìm, sẽ gặp; hãy gõ cửa, sẽ mở cho. 10 Vì hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, và sẽ mở cửa cho ai gõ.”
Các môn đồ nhận thức mối liên hệ gần gủi giữa Chúa Jesus và Cha thiên thượng trong những ngày Chúa thi hành chức vụ. Họ nhìn thấy thầy của mình thường xuyên ở một mình với Cha sau những lần giảng dạy cho đoàn dân đông. Vì vậy họ đến với Chúa xin Ngài dạy họ cầu nguyện. Và họ được Chúa dạy bảo trực tiếp về nghệ thuật cầu nguyện.
Các môn đồ nhận thức rằng họ không có mối tương giao mật thiết với Cha giống như thầy của mình. “Lạy Chúa, xin dạy chúng tôi cầu nguyện, cũng như Giăng đã dạy môn đồ mình”. Lời nài xin, “Lạy Chúa, xin dạy chúng tôi cầu nguyện” mang một ý nghĩa: trong khi họ tin vào Chúa Jesus, họ vẫn chưa phải là môn đồ thật cho đến khi họ có một đời sống cầu nguyện, tương giao gắn bó với Cha thiên thượng giống như Chúa Jesus đã có. Họ cần vui hưởng mối gắn kết sâu đậm với Cha giống như thầy của mình.
“Lạy Chúa, xin dạy chúng tôi cầu nguyện” dường như không còn cần thiết cho chúng ta ngày nay? Vì từ những năm đầu tiên đến với Chúa, chúng ta đã nghe những người khác cầu nguyện. Người cha hướng dẫn con cái trong gia đình cầu nguyện, vị mục sư hướng dẫn giáo đoàn cầu nguyện. Những lời cầu nguyện ấy chúng ta đã quá quen thuộc! Nhưng giờ đây chúng ta hãy đặt chính mình vào trong vị trí của những môn đồ đầu tiên để khám phá những gì Chúa dạy. Trong khi Cựu Ước ký thuật lại những buổi lễ của tuyển dân Israel, thì sự cầu nguyện chỉ chiếm một phần khiêm tốn. Họ đến trong đền tạm, dâng các của lễ chuộc lỗi. Có rất ít sự tương giao mật thiết của từng cá nhân với Cha thiên thượng.
Trong thời Tân Ước, người Pha-ri-si gây ảnh hưởng lên nếp sống cầu nguyện của tuyển dân. Những người này cầu nguyện theo một khuôn mẫu truyền thống của họ. Cách cầu nguyện đó đã bị Chúa Jesus quở trách trong Ma-thi-ơ 6:5, “Khi các ngươi cầu nguyện, đừng làm như bọn giả hình; vì họ ưa đứng cầu nguyện nơi nhà hội và góc đường, để cho thiên hạ đều thấy. Quả thật, ta nói cùng các ngươi, bọn đó đã được phần thưởng của mình rồi.” Ở đây sự cầu nguyện của người Pha-ri-si không phải là bước vào trong mối tương giao thật sự sâu kín, mật thiết với Đức Chúa Trời nhưng là trình diễn cho công chúng thấy để nhận được sự thán phục và khen ngợi từ phía con người. Họ muốn tạo ấn tượng cho người khác nhằm khoe khoang nếp sống tôn giáo của họ. Chúa Jesus đã quở trách người Pha-ri-si là kẻ giả hình, bởi vì sự cầu nguyện là mối tương giao giữa con người và Đức Chúa Trời chứ không phải là sự trình diễn giữa công chúng nơi góc đường phố hay trong nhà hội.
Các môn đồ không nên bắt chước người Pha-ri-si, Chúa Jesus dạy trong Mat. 6:6, “Song khi ngươi cầu nguyện, hãy vào phòng riêng, đóng cửa lại, rồi cầu nguyện Cha ngươi, ở nơi kín nhiệm đó; và Cha ngươi, là Đấng thấy trong chỗ kín nhiệm, sẽ thưởng cho ngươi.” Ngài đang nhấn mạnh điểm chính yếu trong sự cầu nguyện là sự kết nối giữa tín nhân với Cha thiên thượng. Đây không phải là vấn đề giữa người với người, cũng không phải là sự trình diễn chứng minh cho tính cách “sùng đạo” của mình.
Các môn đồ không nên bắt chước sự cầu nguyện theo phong cách Pha-ri-si, họ phải học bài học thứ hai Chúa dạy ở đây. “Vả, khi các ngươi cầu nguyện, đừng dùng những lời lặp vô ích như người ngoại; vì họ tưởng vì cớ lời mình nói nhiều thì được nhậm: (Mat. 6:7). Các môn đồ không nên thực hành sự cầu nguyện như người ngoại đạo, là những người “dùng những lời lặp vô ích… tưởng vì cớ lời mình nói nhiều thì được nhậm”. Sự cầu nguyện của môn đồ tương phản với người ngoại – những người cầu nguyện với các thần linh của họ theo một truyền thống sai trật. Còn chúng ta là những môn đồ phải nhận thức rằng những nhu cầu của mình vốn đã được Cha thiên thượng biết từ trước, và Ngài sẵn sàng chu cấp cho chúng ta những điều đó.
Ở đây các môn đồ thiếu hụt kiến thức về sự cầu nguyện. Họ cần được Chúa dạy dỗ. Phong cách cầu nguyện của người Pha-ri-si không phải là giáo lý từ Kinh Thánh. Các môn đồ cũng phải tránh xa không rập khuôn theo cách cầu nguyện của dân ngoại bang. Họ nhìn thấy thầy của mình có một mối liên hệ sâu đậm với Cha thiên thượng qua nếp sống cầu nguyện. Họ nhận thức ra họ cần phải học tập và bắt chước thầy của mình. “Lạy Chúa, xin dạy chúng tôi cầu nguyện” là một cách để nói rằng: Chúng tôi chưa biết cầu nguyện thế nào cho phải cách, nhưng chúng tôi muốn giống như Chúa trong sự cầu nguyện.
Từ được dùng chỉ về sự cầu nguyện (prayer) trong Tân Ước là một từ thú vị nhất. Theo nghĩa đen từ này có nghĩa là trở nên giống như một con chó trước một ai đó. Khi nhìn thoáng qua, chúng ta có thể ngạc nhiên, hoặc phẫn nộ khi nghe rằng tín nhân giống như một con chó?! Nhưng chúng ta phải nhớ rằng bối cảnh Chúa đang dạy thì quen thuộc với tuyển dân. Người Israel rất quen thuộc với các vật nuôi tập trung thành bầy đàn trong thời của họ. Một người chăn bầy cừu thường có một con chó. Hầu hết mọi công việc trông nom bầy cừu được giao cho con chó tinh khôn này. Con chó này được huấn luyện thành thạo những kỹ năng bảo vệ cừu, nó không phải là ông chủ nhưng nó nhận mệnh lệnh từ chủ. Nó không chạy trước người chủ, nhưng nó đi phía sau chờ đợi và sẵn sàng thực thi mọi mệnh lệnh. Nó tùy thuộc vào người chủ. Nó không có quyền đi vào giữa bầy cừu bắt một con làm bữa ăn tối. Hình ảnh con chó chờ đợi trước mệnh lệnh của người chủ là hình ảnh được dùng để diễn tả tín nhân đến trước mặt Đức Chúa Trời trong sự cầu nguyện.
Con cái của Đức Chúa Trời phải tùy thuộc vào Ngài. Giống như một con chó chăn cừu, nó phải theo dõi mọi động thái của người chủ để di chuyển, tiến lên hay nằm xuống. Theo âm thanh từ ống tiêu (một loại kèn) của người chăn, nó hiểu và thuận phục ý của chủ. Vì vậy “Lạy Chúa, xin dạy chúng tôi cầu nguyện” hàm ý là: xin huấn luyện chúng tôi tùy thuộc vào Chúa, biết ý của Chúa, trung thành với ý chỉ của Ngài như một con chó chăn cừu tùy thuộc vào ý chủ mình. Đức Chúa Trời không chỉ là Cha của chúng ta, Ngài còn là Chủ. Chúng ta là đầy tớ và môn đồ của Ngài.

Lạy Cha! Danh Cha được thánh.

Trong Lu-ca 11:2-4, Chúa Jesus phác thảo những ý chính mà một môn đồ thật phải cầu nguyện. “Ngài phán rằng: Khi các ngươi cầu nguyện, hãy nói: Lạy Cha! Danh Cha được thánh; nước Cha được đến; xin cho chúng tôi ngày nào đủ bánh ngày ấy; xin tha tội chúng tôi, vì chúng tôi cũng tha kẻ mích lòng mình; và xin chớ đem chúng tôi vào sự cám dỗ!”
Các môn đồ cần vượt qua sự cầu nguyện nông cạn của tình trạng chưa trưởng thành, đó là cầu nguyện lập đi lập lại giống như người ngoại. Sự cầu nguyện của một tín nhân trưởng thành phải trực tiếp liên quan đến những gì Chúa dạy ở đây.
Lời cầu nguyện đầu tiên của môn đồ liên quan đến quyền lợi của Cha. Ngài là Đấng kiểm soát, tể trị mọi biến cố xảy ra trên trời và dưới đất. “Danh Cha được thánh; nước Cha được đến” có nghĩa là môn đồ phải cầu nguyện cho Danh và Nước của Cha thiên thượng trước khi cầu nguyện cho những nhu cầu cá nhân. “Ý Cha được nên, ở đất như trời” (Mat. 6:10 b). Những ai mà bước vào trong sự cầu nguyện và nói được những lời này đều học biết rằng Đức Chúa Trời là Vua, là Đấng đã thiết lập giao ước với Áp-ra-ham và Đa-vít. Đấng Christ, được sinh ra từ dòng dõi của Đa-vít đã đến và ngồi trên ngai Đa-vít để chinh phục thế giới và cai trị. Đến cuối cùng Ngài sẽ được muôn dân nhìn nhận là Vua của muôn vua và Chúa của muôn chúa. Vị Vua này chính là Đấng Cứu chuộc. Theo kế hoạch của Cha thiên thượng Chúa Jesus bị con người khước từ, họ đóng đinh Ngài trên cây thập tự, Ngài đã chết và sống lại để hoàn tất sự cứu chuộc. Trong một phương diện Danh của Chúa chưa được tôn thánh, Nước của Chúa chưa được thể hiện cách rõ ràng hiện nay. Nên các môn đồ phải cầu nguyện để danh Cha được thánh, nước Cha được đến. Họ phải cầu nguyện để một ngày đến, Chúa Jesus sẽ ngồi trên ngôi và cai trị cả trái đất này.
Chúa Jesus dạy rằng các môn đồ không chỉ cầu nguyện cho Danh của Cha, nhưng còn cầu nguyện cho công tác của Cha được vận hành qua các đầy tớ Ngài không chỉ trong một địa phương nhỏ bé nhưng lan rộng ra đến tận cùng trái đất. Họ phải nhận thức điều này. Ngày hôm nay Đức Chúa Trời đã ủy thác cho chúng ta trách nhiệm hỗ trợ các nhà truyền giáo trên khắp thế giới. Đức Chúa Trời vẫn đang làm việc xuyên qua họ, và chúng ta phải cầu nguyện cho công tác Ngài trên cả trái đất.
Chúa không muốn chúng ta mơ hồ, không biết gì cả về công tác của Ngài đang được thực thi chung quanh chúng ta. Một môn đồ thật là người tham dự vào chương trình làm việc của Chúa. Chúng ta không đứng ngoài cuộc với công tác của Ngài.
Sau khi cầu nguyện cho quyền lợi của Chúa, chúng ta đưa ra lời cầu nguyện cho nhu cầu cá nhân của mình. “Xin cho chúng tôi ngày nào đủ bánh ngày ấy” dường như không còn phù hợp với thời đại hiện nay, đặc biệt là nếu bạn đang sống ở Hoa Kỳ – là nơi mà mọi nhu cầu vật chất không còn là vấn đề. Tuy nhiên một môn đồ thật phải nhận thức rằng: Đức Chúa Trời là tác giả của những phúc lành và những món quà tuyệt hảo. Mọi điều chúng ta có được đều đến từ Ngài. Thái độ của chúng ta là lệ thuộc vào Chúa cho những nhu cầu hằng ngày của mình, giống như một con chó nuôi trung thành trông đợi nơi ông chủ của mình hằng ngày trước bàn ăn.
Bài học về cầu nguyện được Chúa tiếp tục dạy: “Xin tha tội lỗi cho chúng tôi, như chúng tôi cũng tha kẻ phạm tội nghịch cùng chúng tôi”. Ở đây Chúa đang nói về những tội lỗi diễn ra hằng ngày trong nếp sống tín nhân. Điều này không thuộc phạm vi của sự cứu rỗi nhưng là phạm vi của sự phục hồi mối tương giao giữa Đức Chúa Trời thánh khiết và con người tội lỗi. Đồng thời mối thông công giữa người với người cũng được khai thông. Một tín nhân nhận thức rằng anh ta đã phạm tội, nhưng một môn đồ thật thì sẵn sàng để Chúa xử lý tội lỗi đó.
Trong 1 Giăng 1:9, “Còn nếu chúng ta xưng tội mình, thì Ngài là thành tín công bình để tha tội cho chúng ta, và làm cho chúng ta sạch mọi điều gian ác”. Để có thể dạn dĩ đến trước ngôi chí thánh, chúng ta cần được Chúa tha tội, và chính chúng ta cũng phải tha thứ cho những người đã làm tổn thương chúng ta. Một môn đồ thật là người “xưng tội mình” – bằng lòng xử lý tội lỗi và sau đó vui hưởng, phục hồi mối thông công với Chúa và con người.
Lời cầu nguyện tiếp theo được Chúa Jesus dạy cho các môn đồ, “Xin chớ để chúng tôi bị cám dỗ, mà cứu chúng tôi khỏi điều ác!” Chúa biết rằng các môn đồ của Ngài đang sống trên đất của kẻ thù. Họ đang bị các cám dỗ vây quanh. Xa hơn họ đang ở trong một chiến trận thuộc linh – một chiến trận mà Phao-lô đã mô tả: “chúng ta đánh trận, chẳng phải cùng thịt và huyết, bèn là cùng chủ quyền, cùng thế lực, cùng vua chúa của thế gian mờ tối nầy, cùng các thần dữ ở các miền trên trời” (Ê-phê-sô 6:12). Vì vậy các môn đồ cần được Chúa bảo vệ trong chiến trận thuộc linh. Một môn đồ thật là một người được Chúa bảo vệ trong những cám dỗ, thử thách và được cứu ra khỏi những điều ác.
Chúa Jesus đã tóm lược những lĩnh vực khác nhau của đời sống mà một môn đồ thật cần phải hoàn toàn phụ thuộc vào Đức Chúa Trời. Sau khi thấu hiểu những điều này, chúng ta đọc tới phần Kinh Thánh Lu-ca 11:5-10, “ Đoạn, Ngài phán cùng môn đồ rằng: Nếu một người trong các ngươi có bạn hữu, nửa đêm đến nói rằng: Bạn ơi, cho tôi mượn ba cái bánh. vì người bạn tôi đi đường mới tới, tôi không có chi đãi người. Nếu người kia ở trong nhà trả lời rằng: Đừng khuấy rối tôi, cửa đóng rồi, con cái và tôi đã đi ngủ, không dậy được mà lấy bánh cho anh; ta nói cùng các ngươi, dầu người ấy không chịu dậy cho bánh vì là bạn mình, nhưng vì cớ người kia làm rộn, sẽ dậy và cho người đủ sự cần dùng. Ta lại nói cùng các ngươi: Hãy xin, sẽ ban cho; hãy tìm, sẽ gặp; hãy gõ cửa, sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, và sẽ mở cửa cho ai gõ.”
Một môn đồ thật cần nhận thức rõ ràng bài học Chúa dạy từ phân đoạn Kinh Thánh này. Hãy xem xét bối cảnh của câu chuyện là một người không mong đợi có bất cứ ai đến gõ cửa nhà mình lúc nửa đêm. Theo luật truyền thống vào thời đó, người chủ nhà có trách nhiệm cung cấp thực phẩm cho những khách tới nhà mình. Tuy nhiên người chủ nhà này có một nan đề là tất cả bánh và thức ăn trong nhà bếp của anh ta vừa mới hết. Anh ta không còn gì cả để chuẩn bị một bữa ăn cho khách. Vì vậy người chủ nhà này đến nhà một người bạn khác lúc nửa đêm để “mượn ba cái bánh”. Có thể nào bạn từ chối một trường hợp như vậy? Chúng ta chú ý câu 8, “dầu người ấy không chịu dậy cho bánh vì là bạn mình, nhưng vì cớ người kia làm rộn, sẽ dậy và cho người đủ sự cần dùng.” Vấn đề đã sáng tỏ: cầu nguyện là khuấy động lòng cảm thông của người có thực phẩm, cho dù người ấy đã đi ngủ, và cánh cửa nhà đã đóng lại. Người có thực phẩm và ban cho này có thể xem như là người trung gian giữa hai người kia. Từ “làm rộn” trong câu 8 ở đây có nghĩa là “kiên trì cầu nguyện”. Và vì thế những ai kiên trì cầu nguyện sẽ nhận được câu trả lời cho nhu cầu của mình.
Kinh Thánh giới thiệu Cha thiên thượng không phải có một lỗ tai “gỗ, điếc” đối với những lời thỉnh cầu của con cái Ngài. Ngài nghe hết! Chúng ta không nên hiểu sai câu chuyện ngụ ngôn trên đây. Chúa đang dạy chúng ta bền đỗ trong sự cầu nguyện cho đến khi nhu cầu được đáp ứng. Bền lòng, kiên trì cầu nguyện là phẩm chất của một tín đồ thật. Kết luận cho bài học này, Chúa dạy, “Hãy xin, sẽ ban cho; hãy tìm, sẽ gặp; hãy gõ cửa, sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, và sẽ mở cửa cho ai gõ.”
Chúng ta thừa nhận rằng, có những trường hợp chỉ cần dâng lời thỉnh cầu cho Chúa một lần, và rồi Chúa đáp lời cầu nguyện. Tuy nhiên sự cầu nguyện không chỉ như vậy mà thái độ cầu nguyện của chúng ta còn phải là luôn luôn tìm kiếm, luôn luôn gõ cửa, luôn luôn cầu xin. Sự bền lòng, kiên trì cầu nguyện sẽ đem tới những kết quả lớn lao, đặc biệt là khi sự cầu nguyện ấy phù hợp với tấm lòng của Đức Chúa Trời. Một người được cứu chưa hẳn đã là một người cầu nguyện đúng nghĩa. Nhưng một môn đồ thật phải là một người có đời sống cầu nguyện theo sự dạy dỗ của Tân Ước. Bạn có vượt qua được bài trắc nghiệm này của Chúa Jesus để làm một môn đồ chân thật?
Chương 10
MÔN ĐỒ LÀ MỘT NGƯỜI PHỤC VỤ
Giăng 13:2-16
“Đương bữa ăn tối (ma quỉ đã để mưu phản Ngài vào lòng Giu-đa Ích-ca-ri-ốt con trai Si-môn), Đức Chúa Jêsus biết rằng Cha đã giao phó mọi sự trong tay mình, và mình đã từ Đức Chúa Trời đến, cũng sẽ về với Đức Chúa Trời, nên đứng dậy khỏi bàn, cởi áo ra, lấy khăn vấn ngang lưng mình. Kế đó, Ngài đổ nước vào chậu, và rửa chân cho môn đồ, lại lấy khăn mình đã vấn mà lau chân cho. Vậy, Ngài đến cùng Si-môn Phi-e-rơ, thì người thưa rằng: Chúa ôi, chính Chúa lại rửa chân cho tôi sao? Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Hiện nay ngươi chẳng biết sự ta làm; nhưng về sau sẽ biết. Phi-e-rơ thưa rằng: Chúa sẽ chẳng rửa chân tôi bao giờ! Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Nếu ta không rửa cho ngươi, ngươi chẳng có phần chi với ta hết. Si-môn Phi-e-rơ thưa rằng: Lạy Chúa, chẳng những rửa chân mà thôi, lại cũng rửa tay và đầu nữa! Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Ai đã tắm rồi, chỉ cần rửa chân, thì được sạch cả. Vả, các ngươi đã được tinh sạch, nhưng chưa được tinh sạch đều. Vì Ngài đã biết ai sẽ phản Ngài; tại thế cho nên Ngài phán rằng: Các ngươi chẳng phải hết thảy đều được tinh sạch.
Sau khi đã rửa chân cho môn đồ, Ngài mặc áo lại; đoạn ngồi vào bàn mà phán rằng: Các ngươi có hiểu điều ta đã làm cho các ngươi chăng? Các ngươi gọi ta bằng Thầy bằng Chúa; các ngươi nói phải, vì ta thật vậy. Vậy, nếu ta là Chúa là Thầy, mà đã rửa chân cho các ngươi thì các ngươi cũng nên rửa chân lẫn cho nhau. Vì ta đã làm gương cho các ngươi, để các ngươi cũng làm như ta đã làm cho các ngươi. Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, đầy tớ chẳng lớn hơn chủ mình, sứ giả cũng chẳng lớn hơn kẻ sai mình.”
Trong những năm thi hành chức vụ trên đất, Chúa Jesus đã bày tỏ Ngài là Vua theo lời hứa đã đến, ngồi trên ngôi Đa-vít và cai trị nhà Đa-vít. Ngài cũng bày tỏ vinh quang của Ngài trên núi hóa hình cho các môn đồ thân tín. Các môn đồ tiếp nhận một lẽ thật quan trọng: trong một ngày tương lai Chúa Jesus sẽ trở thành Vua muôn vua, và Chúa muôn Chúa và họ sẽ được cùng ngồi trên ngai với Ngài để cai trị mười hai chi phái Israel. Các môn đồ bị ám ảnh và chờ đợi cái ngày vinh quang đó, khi thầy của họ sẽ thực thi uy quyền trên đất.
Khi Chúa lên Giê-ru-sa-lem trong chuyến đi cuối cùng của chức vụ. Các môn đồ háo hức nói chuyện với nhau về sự cai trị của thầy mình và vị trí của họ sắp đến. Họ hoàn toàn quên mất những lời dạy của Chúa Jesus trước đó nói về thập tự giá và khổ nạn của Ngài tại Giê-ru-sa-lem. Ngài phải chịu chết, sau đó sống lại cách khải hoàn, thăng thiên về trời. Sự trị vì của Ngài sẽ trì hoãn một thời gian, và rồi Ngài sẽ trở lại lần thứ hai để cai trị. Các môn đồ đã không nhớ gì cả về những điều này. Trong tâm trí họ không có bất cứ suy nghĩ nào về những chuyện quan trọng đó. Họ háo hức muốn nhìn thấy Chúa Jesus được mọi người tôn lên làm Vua, và khi đó họ đang suy tính xem ai trong vòng họ sẽ là “nhân vật quyền lực thứ hai” sau Chúa Jesus.
Lễ vượt qua của người Israel gần đến, Chúa Jesus và các môn đồ chuẩn bị kỷ niệm lễ này. Đây là kỳ lễ nhắc cho tuyển dân nhớ lại sự giải cứu của Đức Chúa Trời đối với họ tại Ai cập. Ngài sai phái hai môn đồ vào thành phố Giê-ru-sa-lem chuẩn bị một căn phòng trên cao để cùng nhau dự lễ này, trước khi Chúa đi con đường khổ nạn. Trong bữa tiệc cuối cùng đó các môn đồ đã không suy nghĩ về sự giải phóng tuyển dân dưới sự lãnh đạo của Môi-se, họ cũng không nghĩ đến ý nghĩa hy sinh của chiên con trong lễ vượt qua. Theo một cái nhìn nông cạn, họ chỉ quan tâm đến vị trí, quyền lực của họ một khi Chúa Jesus trở thành Vua cai trị.
“Đương bữa ăn tối (ma quỉ đã để mưu phản Ngài vào lòng Giu-đa Ích-ca-ri-ốt con trai Si-môn), Đức Chúa Jêsus biết rằng Cha đã giao phó mọi sự trong tay mình, và mình đã từ Đức Chúa Trời đến, cũng sẽ về với Đức Chúa Trời, nên đứng dậy khỏi bàn, cởi áo ra, lấy khăn vấn ngang lưng mình. Kế đó, Ngài đổ nước vào chậu, và rửa chân cho môn đồ, lại lấy khăn mình đã vấn mà lau chân cho.” (Giăng 13:2-5) Hành động này của Chúa có một ý nghĩa lớn lao cho các môn đồ. Theo phong tục vào thời đó, khi bắt đầu vào bữa ăn, người chủ nhà lấy một chậu nước và một cái khăn, rửa tay cho từng người được mời đến. Trong câu chuyện ở đây, chúng ta thấy Chúa Jesus đã rửa chân cho các môn đồ (hành động này còn đi xa hơn cả rửa tay). Chúa Jesus là một Ra-bi đúng nghĩa của người Do-thái, Ngài đã từng vào các nhà hội mở quyển sách luật pháp ra và giảng dạy cho mọi người ở đó. Nhưng trong câu chuyện rửa chân cho các môn đồ, Chúa Jesus đã hành xử như một đầy tớ – không giống như một Ra-bi, Ngài đã “lấy khăn vấn ngang lưng mình” – hành động này là của một người phục vụ, không phải là hành động thích hợp cho một Ra-bi. Chúa Jesus là Vua, là ông chủ nhưng Ngài đã trở nên một đầy tớ qua hình ảnh của một người phục vụ bàn tiệc rửa chân cho thực khách. Đây là bài học dành cho tất cả những ai tự nhận mình là môn đồ của Chúa.
Rửa Chân Cho Nhau
Chúa Jesus là một đầy tớ phục vụ, không phải là một ông chủ theo ý nghĩa của văn hóa con người. Điều này làm các môn đồ và chúng ta ngạc nhiên! Nhưng đó là một bài học quí giá. “Ngài đến cùng Si-môn Phi-e-rơ, thì người thưa rằng: Chúa ôi, chính Chúa lại rửa chân cho tôi sao?” (Giăng 13:6). Sự nhấn mạnh ở câu này là: “chính Chúa” là ông Chủ bàn tiệc lại rửa chân cho tôi? Một thân vị vĩ đại như Ngài là Đấng Christ, đấng Mê-si lại cúi xuống rửa chân cho tôi? Trước đó Phi-e-rơ là một trong những môn đồ đầu tiên đã thừa nhận chức vị siêu việt của thầy mình qua sự mặc khải thiên thượng. Ông nhận thức rằng thầy của mình là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời hằng sống đã đến trong thế gian qua thân xác của một con người. Phi-e-rơ biết Chúa Jesus là Đấng sẽ trở thành Vua của muôn vua, Chúa của muôn chúa. Sự trị vì và vinh quang của Ngài là tuyệt đỉnh. Vì vậy ông muốn ngăn trở Chúa thực hiện công việc của một đầy tớ là rửa chân cho người khác.
Chúa giải thích cho Phi-e-rơ trong câu 7, “Hiện nay ngươi chẳng biết sự ta làm; nhưng về sau sẽ biết”. Phi-e-rơ đã biết về Chúa, nhưng còn nhiều điều khác của Chúa ông vẫn chưa hiểu biết đủ. Ông chưa hiểu được rằng con người chỉ có thể được cứu thông qua Con của Đức Chúa Trời mà đã trở nên một đầy tớ phục vụ. Với tư cách là một người phục vụ (đầy tớ của Đức Giê-hô-va), Chúa Jesus đã vâng phục Đức Chúa Trời và trở nên Cứu Chúa của mọi người.
Khi Phi-e-rơ đưa ra lời quyết đoán, “Chúa sẽ chẳng rửa chân tôi bao giờ!” Chúa Jesus đã trả lời như thế nào? “Nếu ta không rửa cho ngươi, ngươi chẳng có phần chi với ta hết”. Phi-e-rơ bắt đầu hiểu ra vấn đề, lời thỉnh cầu tiếp theo sau đó của ông cho chúng ta thấy tấm lòng vị sứ đồ này đói khát được hiệp nhất với Đấng Christ. Ông muốn cùng tham gia với Chúa trong sự cứu chuộc và sự cai trị. Vì thế Phi-re-rơ thưa với Chúa, “Lạy Chúa, chẳng những rửa chân mà thôi, lại cũng rửa tay và đầu nữa!” Câu này có thể hiểu là Phi-e-rơ muốn Chúa tắm gội luôn cho ông từ chân tới đầu.
Trong câu 10, Chúa dạy: “Ai đã tắm rồi, chỉ cần rửa chân, thì được sạch cả”. Chúng ta liên hệ câu này với lời dạy của sứ đồ Phao-lô trong Tít 3:5-6, “không phải cứu vì việc công bình chúng ta đã làm, nhưng cứ theo lòng thương xót Ngài, bởi sự rửa về sự lại sanh và sự đổi mới của Đức Thánh Linh, mà Ngài đã rải ra trên chúng ta cách dư dật bởi Đức Chúa Jêsus Christ, Cứu Chúa chúng ta”. Như vậy chúng ta có thể hiểu là Chúa Jesus đã tự hạ mình xuống thấp trong thân phận của một đầy tớ để rửa chân (làm sạch) cho các môn đồ. Chúa Jesus đã đến, và qua sự chết của Ngài trên thập giá – Ngài trở thành Cứu Chúa cho mọi người. Chúng ta được cứu chỉ trong Chúa Jesus là Đấng đã xưng công bình cho chúng ta và được đổi mới bởi Đức Thánh Linh. Để thực hiện ơn cứu rỗi đó, Đấng Christ đã đi con đường của một đầy tớ vâng phục Đức Chúa Trời cách trọn vẹn trong mọi hành động.
Trong 1 Giăng 1:9, “Còn nếu chúng ta xưng tội mình, thì Ngài là thành tín công bình để tha tội cho chúng ta, và làm cho chúng ta sạch mọi điều gian ác.” Một người chỉ được tha tội và được làm sạch mọi sự bất nghĩa khi người đó xưng tội với Đức Chúa Trời. Chúa Jesus rửa chân cho các môn đồ là ý nghĩa hình bóng họ được làm sạch mọi điều gian ác. Thông điệp mà Chúa muốn dạy Phi-e-rơ và các môn đồ trong Giăng đoạn 13: Phi-e-rơ cần phải trở nên như một đầy tớ sẵn sàng cúi xuống rửa chân cho người khác trong cuộc đời lữ khách trên đất. Hành động này thực sự có nhiều ý nghĩa thuộc linh! Phi-e-rơ không thể đáp ứng cho những nhu cầu thuộc linh của người khác trừ phi vị sứ đồ này trở nên một đầy tớ – người phục vụ.
Công việc của một đầy tớ là yếu tố cần thiết để đáp ứng cho nhu cầu của mọi người. Và Chúa Jesus đã lấy chính Ngài làm một mô hình mẫu cho chúng ta.
Bây giờ chúng ta đi đến câu 12, sau khi Chúa rửa chân cho các môn đồ, Ngài hỏi, “Các ngươi có hiểu điều ta đã làm cho các ngươi chăng?” Câu trả lời của các môn đồ là một sự yên lặng. Trong lòng các môn đồ đang bối rối với những suy nghĩ cá nhân. Họ ngỡ ngàng trước bài học Chúa muốn truyền đạt. Có thể là họ đã bị một cú sốc, khi nhìn thấy vị thầy mà họ đi theo lại cúi xuống rửa chân cho họ! Vì vậy họ đã không thể trả lời câu hỏi Chúa đưa ra ở đây. Chúa Jesus giải thích, “Các ngươi gọi ta bằng Thầy bằng Chúa; các ngươi nói phải, vì ta thật vậy. Vậy, nếu ta là Chúa là Thầy, mà đã rửa chân cho các ngươi thì các ngươi cũng nên rửa chân lẫn cho nhau (có nghĩa là các ngươi phải đặt chính mình trong cương vị của một đầy tớ)”. Những lời tiếp theo của Chúa không quá khó hiểu cho các môn đồ, “ta đã làm gương cho các ngươi, để các ngươi cũng làm như ta đã làm cho các ngươi…. đầy tớ chẳng lớn hơn chủ mình, sứ giả cũng chẳng lớn hơn kẻ sai mình. Ví bằng các ngươi biết những sự nầy, thì có phước, miễn là các ngươi làm theo.” Các môn đồ lúc đó và chúng ta ngày nay có thực sự thấy rõ bài học này!
Các môn đồ ham muốn một địa vị cao trọng và vinh hiển trong vương quốc khi Chúa Jesus trị vì. Còn Chúa mong đợi họ được tôn trọng và vinh hiển khi họ hạ mình xuống phục vụ người khác với tư cách của một đầy tớ trong danh của Ngài.
Môn đồ là một người phục vụ, không chỉ phục vụ Chúa Jesus Christ nhưng cũng phục vụ cho tất cả các tín hữu trong cộng đồng Cơ đốc. Môn đồ là đầy tớ cho tất cả những người mà Đức Chúa Trời yêu mến và vì họ Con Ngài – Chúa Jesus đã hy sinh. Đây là bài học cho sứ đồ Phi-e-rơ, nó trở thành nền tảng khi ông viết thư tín thứ nhất chương năm. Vị sứ đồ khuyên các trưởng lão:
“Hãy chăn bầy của Đức Chúa Trời đã giao phó cho anh em; làm việc đó chẳng phải bởi ép tình, bèn là bởi vui lòng, chẳng phải vì lợi dơ bẩn, bèn là hết lòng mà làm”. Mặc dù các trưởng lão là những người có trách nhiệm và uy quyền trên bầy chiên, tuy nhiên họ không thể tự đặt mình vào vị trí nổi bật, nhưng phải làm gương tốt cho cả bầy – phục vụ bầy chiên trong tư cách của một đầy tớ. Trách nhiệm của họ là phục vụ. Trong câu 5, Phi-e-rơ viết, “Cũng khuyên bọn trẻ tuổi, hãy phục theo các trưởng lão. Hết thảy đối đãi với nhau phải trang sức bằng khiêm nhường”. Chữ “trang sức hay mặc lấy” trong câu 5 là chữ được dùng trong Giăng 13:5, “Kế đó, Ngài đổ nước vào chậu, và rửa chân cho môn đồ, lại lấy khăn mình đã vấn mà lau chân cho.” Cụm từ lấy khăn mình đã vấn tương đương với từ trang sức hay mặc lấy. Như vậy có thể thấy rằng khi Phi-e-rơ viết thư cho các trưởng lão ông đã nhớ lại hình ảnh của thầy mình trong Giăng đoạn 13. Vị sứ đồ đã chia sẻ lại bài học ông đã nhận lãnh từ người thầy siêu việt của mình. Một môn đồ thật sự là một người phục vụ cho những ai đang có những nhu cầu chính đáng.
Trong Giăng 13, chúng ta dễ dàng nhìn thấy Đấng Christ đã đặt chính Ngài trong cương vị của một đầy tớ, bởi vì Ngài biết Ngài là ai, con đường nào Ngài phải đi và đi tới đâu. “Đức Chúa Jêsus biết rằng Cha đã giao phó mọi sự trong tay mình, và mình đã từ Đức Chúa Trời đến, cũng sẽ về với Đức Chúa Trời, nên đứng dậy khỏi bàn, cởi áo ra, lấy khăn vấn ngang lưng mình…” Đức Chúa Jesus không tính toan, cân nhắc khi hành động như một người phục vụ sẽ làm giảm đi chức vụ của Ngài. Ngài đặt chính mình trong chỗ đứng của một người đầy tớ, điều này sẽ là một thách thức cho tất cả các môn đồ khi họ muốn đạt được sự tôn trọng trước mặt Đức Chúa Trời.
Có một nghịch lý là ngày nay nhiều người trong cộng đồng Cơ đốc muốn làm cho chính mình nổi bật trong cương vị của một người lãnh đạo. Bài học môn đồ là một người phục vụ chỉ có thể thành hiện thực khi một người nhận ra anh ta phải học tập và làm theo phong cách của Đấng Christ. Đặt chính chúng ta trong cương vị của một đầy tớ là đòi hỏi từ nơi Chúa cho tất cả những ai muốn trở nên môn đồ thật.
Phục vụ trong tình yêu là bằng chứng cho một môn đồ. “Nếu các ngươi yêu nhau, thì ấy là tại điều đó mà thiên hạ sẽ nhận biết các ngươi là môn đồ ta.” (Giăng 13:35) Hay nói một cách khác tình yêu được thể hiện ra bên ngoài qua sự phục vụ. Câu hỏi thường được mọi người sử dụng: “Tôi có thể làm gì để giúp đỡ bạn?” Và cách giúp đỡ cụ thể nhất là hãy đặt chính mình trong tư cách của một người đầy tớ để phụng sự tha nhân.
“Vậy, nếu ta là Chúa là Thầy, mà đã rửa chân cho các ngươi (ta đặt chính mình trong vị trí của một người phục vụ) thì các ngươi cũng nên rửa chân lẫn cho nhau. Vì ta đã làm gương cho các ngươi, để các ngươi cũng làm (các ngươi cũng phải đặt chính mình trong cương vị của một đầy tớ) như ta đã làm cho các ngươi.”
Một người có thể được cứu, nhưng không phải là một đầy tớ. Nhưng một người không thể là môn đồ khi anh ta không phải là một đầy tớ.

Chương 11
CHỨC VỤ CỦA MÔN ĐỒ
Mác 6: 30-44
“Các sứ đồ nhóm lại cùng Đức Chúa Jêsus, thuật cho Ngài mọi điều mình đã làm và dạy. Ngài phán cùng sứ đồ rằng: Hãy đi tẻ ra trong nơi vắng vẻ, nghỉ ngơi một chút. Vì có kẻ đi người lại đông lắm, đến nỗi Ngài và sứ đồ không có thì giờ mà ăn. Vậy, Ngài và sứ đồ xuống thuyền đặng đi tẻ ra trong nơi vắng vẻ. Nhưng nhiều người thấy đi, thì nhìn biết; dân chúng từ khắp các thành đều chạy bộ đến nơi Chúa cùng sứ đồ vừa đi, và đã tới đó trước.
Bấy giờ Đức Chúa Jêsus ở thuyền bước ra, thấy đoàn dân đông lắm, thì Ngài động lòng thương xót đến, vì như chiên không có người chăn; Ngài bèn khởi sự dạy dỗ họ nhiều điều. Trời đã chiều, môn đồ tới gần Ngài mà thưa rằng: Chỗ nầy là vắng vẻ, và trời đã chiều rồi; xin cho dân chúng về, để họ đi các nơi nhà quê và các làng gần đây đặng mua đồ ăn. Ngài đáp rằng: Chính các ngươi phải cho họ ăn. Môn đồ thưa rằng: chúng tôi sẽ đi mua đến hai trăm đơ-ni-ê bánh để cho họ ăn hay sao? Ngài hỏi rằng: Các ngươi có bao nhiêu bánh? Hãy đi xem thử. Môn đồ xem xét rồi, thưa rằng: Năm cái bánh và hai con cá. Ngài bèn truyền cho môn đồ biểu chúng ngồi xuống hết thảy từng chòm trên cỏ xanh. Chúng ngồi xuống từng hàng, hàng thì một trăm, hàng thì năm chục. Đức Chúa Jêsus lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, tạ ơn, rồi bẻ bánh ra mà trao cho môn đồ, đặng phát cho đoàn dân; lại cũng chia hai con cá cho họ nữa. Ai nấy ăn no nê rồi; người ta lượm được mười hai giỏ đầy những miếng bánh và cá còn thừa lại. Vả, số những kẻ đã ăn chừng năm ngàn người.”
Để chuẩn bị cho tuyển dân nghe tin mừng về một Đấng Mê-si đã đến và sẽ hoàn thành sự cứu chuộc, Đức Chúa Jesus đã huấn luyện mười hai sứ đồ và các môn đồ đi ra công bố Phúc âm. Trong các sách Phúc âm, Chúa Jesus trao cho các sứ đồ một sứ điệp để rao giảng: “Hãy ăn năn vì nước thiên đàng đã đến gần.” Họ đã trung tín với sự ủy thác của Chúa trong lời giảng và trải nghiệm các phép lạ từ chính chức vụ của mình, giống như trước đó Chúa Jesus đã thực hiện. Các môn đồ đã rất hào hứng với những gì họ làm được. Họ trở về tường trình lại với Chúa Jesus về các mục vụ thành công của họ.
Chúa Jesus nhìn thấy những yếu tố thiếu sót của các môn đồ trong chức vụ. Họ cần được chỉ dẫn thêm để hoàn thiện các công tác. Sự lưu ý ở đây là: Các phép lạ họ thực hiện chỉ là phần được gia cố thêm vào lời giảng của họ. Một người bình thường có khuynh hướng đề cao các phép lạ. Và các môn đồ thì quan tâm đến quyền năng thiên thượng của Đức Chúa Trời được bày tỏ qua họ. Sau khi đã trải nghiệm những điều kỳ diệu trong công tác, mười hai sứ đồ được Chúa Jesus đem ra nơi vắng vẻ để được huấn luyện thêm. Họ cần được trang bị những kỹ năng cần thiết cho công tác mục vụ tương lai, vì thầy của họ chuẩn bị kết thúc chức vụ trên đất. Họ sẽ là những đại sứ của vương quốc thiên đàng còn ở lại trần gian sau khi Chúa về trời.
Trong Phúc âm Giăng, vị sứ đồ cho chúng ta biết rằng Lễ vượt qua của người Do thái đang đến gần. Trong một ý nghĩa Lễ này là bài học nhắc nhở cho tuyển dân nhớ lại sự giải cứu của Đức Chúa Trời đối với họ trong quá khứ và từ đó hướng họ đến trông chờ một Đấng giải cứu tương lai. Trong buổi lễ này, Chúa Jesus đã giải thích cho các môn đồ về chức vụ mà họ đã được ủy thác.
Chúa Jesus bày tỏ rõ ràng về công tác mà các môn đồ phải làm. Đoàn dân đông đã tìm đến với Chúa để nghe những gì Ngài phán dạy. Sau khi nghe Chúa giảng, họ không thể trở về với cái bụng đói. Chúa truyền lệnh cho các môn đồ: “Chính các ngươi phải cho họ ăn”. Đây là công tác của họ. Phép lạ nuôi dưỡng năm ngàn người ăn từ năm cái bánh và hai con cá là bài học lớn cho các môn đồ và chúng ta ngày nay. Các môn đồ có trách nhiệm và nghĩa vụ đáp ứng nhu cầu thuộc linh và cả thuộc thể cho đoàn dân đông. Chức vụ của Chúa Jesus trên đất về căn bản là giảng dạy, nhưng bên cạnh những lời giảng là các phép lạ siêu nhiên nhằm đáp ứng nhu cầu của con người để minh chứng cho chức vụ đầy quyền năng của Ngài. Bây giờ đến lượt các môn đồ, họ cũng phải làm như thầy của mình trong chức vụ của họ.
“Trời đã chiều, môn đồ tới gần Ngài mà thưa rằng: Chỗ nầy là vắng vẻ, và trời đã chiều rồi; xin cho dân chúng về, để họ đi các nơi nhà quê và các làng gần đây đặng mua đồ ăn.” Trong bối cảnh này, Chúa đã dạy cho các môn đồ một bài học thuộc linh sâu sắc. Phép lạ nuôi dưỡng năm ngàn người ăn không chỉ là đổ đầy thức ăn vào trong những cái bụng đói, nhưng là soi sáng hay đổ đầy tâm trí cho các môn đồ vốn chậm hiểu biết về công tác của họ. Chúa đã thực hiện một phép lạ vật lý để dạy dỗ các môn đồ một bài học thuộc linh về công tác thực sự của họ: chính họ phải đáp ứng nhu cầu vật lý cho đoàn dân đông, sau khi đoàn dân này được nghe Chúa giảng dạy.
Đoàn dân đông đến với Chúa, và họ thỏa lòng khi được nghe Lời Đức Chúa Trời. Họ vui hưởng thức ăn thuộc linh mà Chúa đã cung ứng, và dường như họ quên mất nhu cầu thuộc thể. Không có người nào trong vòng họ đến trình bày với các môn đồ: “Chúng tôi đang đói, và các anh sẽ cho chúng tôi ăn chứ?” Tại sao họ không làm điều này? Lý do là họ đã được thỏa mãn từ những lời dạy của Chúa, và hầu như họ quên mất đi nhu cầu vật lý là phải ăn một thứ gì đó. Chúng ta không quên trường hợp của Chúa khi Ngài dạy dỗ một người phụ nữ bên giếng Gia-cốp thuộc thành phố Si-kha. Lúc này các môn đồ quan tâm đến nhu cầu thuộc thể của Chúa, và họ đi vào làng gần đó để mua đồ ăn cho thầy của mình. Và khi họ trở lại, họ ngạc nhiên biết bao khi Chúa phán: “Ta có một thứ lương thực để nuôi mình mà các ngươi không biết…. Đồ ăn của ta tức là làm theo ý muốn của Đấng sai ta đến” (Giăng 4). Chúa Jesus đã chống đỡ được với nhu cầu vật lý về việc ăn uống, Ngài không nhớ tới tình trạng của dạ dày trong khi đang thi hành ý chỉ của Cha.
Các môn đồ bận tâm đến nhu cầu vật lý của mọi người chung quanh là lẽ đương nhiên. Trong Giăng 6, ghi lại câu chuyện Chúa hỏi Phi-líp về việc mua bánh cho đoàn dân đông đang đến cùng Ngài: “Chúng ta sẽ mua bánh ở đâu, để cho dân nầy có mà ăn?” Phi-líp vốn là người địa phương nên chắc ông biết rõ chỗ nào có thể mua bánh. Phi-líp và các môn đồ nhìn đoàn dân đông, họ đang làm một phép tính trong đầu: Với số người đông như thế này, thì “hai trăm đơ-ni-ê bánh không đủ phát cho mỗi người một ít”. Các môn đồ đang đối diện một bài toán khó, giải pháp của họ đưa ra là cho dân chúng ra về để mặc họ tự lo liệu lấy. Rõ ràng là các môn đồ không có sẵn hay chuẩn bị từ trước phần ăn cho đoàn dân đông. Sự thoái thác của họ dường như có lý do chính đáng, nhưng Chúa phán cùng họ: “Chính các ngươi phải cho họ ăn” (Mác 6:37). Đây là trách nhiệm mà Chúa giao phó cho họ. Thực ra đây chính xác là mục vụ của họ. Bài học nào ở đây? Chúa muốn họ phải thừa nhận sự bất lực hoàn toàn của họ trước mạng lệnh của Ngài? Và khi con người nhìn nhận sự bất lực của mình thì đó là khởi điểm để Đức Chúa Trời hành động.
Một thực tế ở đây là các môn đồ không có trách nhiệm cung ứng thực phẩm cho đoàn dân đông. Chính đoàn dân đông phải tự lo liệu lấy. Nhưng điều gì sẽ xảy ra, nếu đám đông sau khi nghe lời Chúa trở về dọc đường bị mệt, đói và khát? Chúa Jesus nhìn thấy nhu cầu này, nên Ngài trao trách nhiệm cho các môn đồ: “Chính các ngươi phải cho họ ăn”.
Chú ý rằng, Chúa chúng ta không giao trách nhiệm cho các môn đồ cung cấp thực phẩm để nuôi dưỡng người nghèo trong thế giới này. Nhiều người ngày nay dùng đoạn Kinh Thánh này để đặt câu hỏi về vai trò của Hội thánh trong việc giúp đỡ lương thực cho những người người đang đói khát vật lý trên khắp thế giới. Chúa Jesus trong phần Kinh Thánh trên quan tâm đến nhu cầu của những người đói khát thuộc linh, mà họ đã dành trọn cả ngày để nghe Ngài giảng dạy. Một đám đông như vậy cần được đáp ứng cả nhu cầu thuộc thể, sau khi họ đã bày tỏ sự đói khát thuộc linh.
Chúa Jesus “thấy đoàn dân đông lắm, thì Ngài động lòng thương xót đến, vì như chiên không có người chăn”. Trong câu chuyện này Chúa muốn các môn đồ nhìn đoàn dân đông như một bầy chiên, mà họ là những người chăn chiên. Những con chiên không có khả năng tìm đến người chăn chiên để lấy được thực phẩm, nhưng người chăn phải dẫn chiên đến nơi có đồng cỏ xanh và suối nước. Người Pha-ri-si tự nhận mình là người chăn chiên trong tuyển dân Israel, nhưng họ để chiên đói khát và chết. Các môn đồ thật sự của Đấng Christ không thể như vậy.

Chính Các Ngươi Phải Cho Họ Ăn
Không có điều gì giữa vòng những người Pha-ri-si có thể làm thỏa mãn những linh hồn đang đói khát. Người Pha-ri-si dạy cho tuyển dân vâng giữ luật pháp để được Đức Chúa Trời chấp nhận. Nhưng không ai có thể tuân thủ theo luật pháp. Người Sa-đu-sê cũng không hơn gì người Pha-ri-si. Cả hai hạng người này được xem là những người chăn dắt tuyển dân, nhưng họ đều không phải là những người chăn bầy thật sự. Trong bối cảnh thuộc linh như vậy, Chúa Jesus đang có ý dạy mười hai sứ đồ: “Các ngươi phải làm công việc của một người chăn bầy. Nếu các ngươi thật sự là môn đồ ta, các ngươi phải cho chiên ta ăn.” Hay nói một cách khác: “Ta đến để ban cho con người bánh sự sống và nước hằng sống. Nếu các ngươi là môn đồ ta, các ngươi phải làm giống như những gì ta đang làm. Các ngươi phải tiếp tục thực hiện những gì ta đã làm qua chức vụ của các ngươi. Hãy cho chiên ta ăn”.
Bài học thuộc linh Chúa muốn dạy chúng ta ở đây là làm thỏa mãn những linh hồn đang đói khát Lời Đức Chúa Trời. Một người có thể thực hiện các phép lạ, nhưng điều đó không đồng nghĩa rằng người đó sẽ làm thỏa lòng những linh hồn đang đói khát thuộc linh. Không phải phép lạ, nhưng là Lời Chúa có khả năng đáp ứng, làm thỏa lòng những con người đang đói khát phần tâm linh.
Trở lại câu chuyện trên. Các môn đồ xem xét những gì họ hiện có: năm cái bánh và hai con cá. Các bạn hãy tưởng tượng vẻ mặt bối rối của các môn đồ khi họ đem phần thức ăn này đến với Chúa? Tuy nhiên phần thức ăn bé nhỏ này khi đặt vào trong tay Chúa thì nó đã trở nên khác biệt.
“Đức Chúa Jêsus lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, tạ ơn, rồi bẻ bánh ra mà trao cho môn đồ, đặng phát cho đoàn dân; lại cũng chia hai con cá cho họ nữa. Ai nấy ăn no nê rồi; người ta lượm được mười hai giỏ đầy những miếng bánh và cá còn thừa lại. Vả, số những kẻ đã ăn chừng năm ngàn người.” Điều gì đã xảy ra? Đám đông thỏa lòng sau khi nhận phần ăn từ các môn đồ. Chỉ với năm cái bánh và hai con cá đã nuôi dưỡng năm ngàn người trong buổi chiều hôm đó. Nguồn thức ăn này khi được đặt vào tay Chúa, nó đã trở nên khác biệt và đó là một phép lạ!
Chúa Jesus đang dạy cho các môn đồ về chức vụ thực sự của họ. Có thể nói đại ý như thế này: Chúa truyền lệnh cho các môn đồ hãy phục vụ tha nhân như chính Ngài đã phục vụ. Ngài muốn họ tiếp tục làm những gì Ngài đã làm. Sự nuôi dưỡng năm ngàn người ăn là một minh họa. Trong Phúc Âm Giăng 15:26-27, Chúa Jesus dạy, “Khi nào Đấng Yên-ủi sẽ đến, là Đấng ta sẽ bởi Cha sai xuống, tức là Thần lẽ thật ra từ Cha, ấy chính Ngài sẽ làm chứng về ta. Còn các ngươi cũng sẽ làm chứng về ta, vì các ngươi đã ở cùng ta từ lúc ban đầu vậy.” Hãy suy nghĩ thấu đáo về những lời này. Đức Thánh Linh bày tỏ lẽ thật để làm chứng về Chúa Jesus. Các môn đồ cũng làm chứng về Đấng Christ. Chúng ta thấy hai điều song hành ở đây: Các môn đồ được giao phó làm chứng về Chúa Jesus Christ, nhưng họ không làm điều đó một mình. Họ không thể tự mình nuôi dưỡng năm ngàn người ăn. Họ cần sự trợ giúp thiên thượng để làm chứng về Christ. Sự trợ giúp thiên thượng đó ở đâu? Câu trả lời là: “Đấng Yên-ủi sẽ đến, là Đấng ta sẽ bởi Cha sai xuống, tức là Thần lẽ thật ra từ Cha, ấy chính Ngài sẽ làm chứng về ta.” Vấn đề trở nên rõ ràng: Con Đức Chúa Trời cùng với các môn đồ thực hiện mục vụ cấp dưỡng năm ngàn người ăn; Các môn đồ cùng với Thánh Linh của Đức Chúa Trời cũng sẽ đáp ứng nhu cầu thuộc linh của con người để làm chứng về Đấng Christ.
Chúng ta đọc thêm Giăng 17:4, “Con đã tôn vinh Cha trên đất, làm xong công việc Cha giao cho làm.” Hãy chú ý là những lời này được thốt ra trước khi Chúa đi con đường thập tự. Chúa Jesus đã làm xong công việc Cha giao. Và trong Giăng 1:18, “Chẳng hề ai thấy Đức Chúa Trời; chỉ Con một ở trong lòng Cha, là Đấng đã giãi bày Cha cho chúng ta biết.” Chúa Jesus đến để bày tỏ về Cha thiên thượng cho con người. Ngài đến để giới thiệu Cha. Ngày dạy các lẽ thật về Cha thiên thượng hầu cho mọi người có thể nhận biết Cha. Một trong những công tác chính yếu của Chúa Jesus là bày tỏ về Cha thiên thượng. Đây là điều được nhấn mạnh trong các sách Phúc Âm. Và bây giờ khi Ngài chuẩn bị kết thúc chức vụ trên đất. Chúa muốn truyền đạt một thông điệp cho các môn đồ: Ta đã hoàn thành công tác bày tỏ về Cha thiên thượng cho các ngươi. Chúa Jesus thưa với Cha trong câu 6, “Con đã tỏ danh Cha ra cho những người Cha giao cho Con từ giữa thế gian”. Điều này có nghĩa là Đấng Christ đã làm cho Danh của Cha được nhận biết giữa vòng các môn đồ. Ngài đã chuyển tải đến các môn đồ những gì mà Ngài đã nhận lãnh từ Cha. “Vì Con đã truyền cho họ những lời Cha đã truyền cho Con” (c. 8); “Con đã truyền lời Cha cho họ” (c. 14).
Khi chúng ta đọc đến câu 18, thì đây là một mạng lệnh Chúa trao cho các môn đồ. “Như Cha đã sai Con trong thế gian, thì Con cũng sai họ trong thế gian” (c. 18). Chúng ta thấy sự nối kết ở đây? Đức Chúa Trời đã sai Con Ngài vào thế gian để bày tỏ về Cha. Và bây giờ đến lượt Chúa Jesus (Con Đức Chúa Trời) sai những môn đệ của Ngài đi vào trong thế giới để tiếp tục bày tỏ về Cha – giảng dạy lẽ thật về Đức Chúa Trời. Chúa Jesus đã trở thành tấm gương cho các môn đồ. Những gì Ngài đã thực hiện trong hơn ba năm chức vụ trên đất, trong đó có việc nuôi dưỡng năm ngàn người ăn và nhiều phép lạ khác. Ngài đã đến để đem ánh sáng vào trong tối tăm, giải cứu những linh hồn đang ở dưới bóng sự chết… Thánh Linh của Đức Chúa Trời đã ở cùng Ngài để làm nên một chức vụ đầy quyền năng. Bây giờ các môn đồ của Ngài cũng sẽ đi con đường của Ngài. “Cha đã sai ta thể nào, ta cũng sai các ngươi thể ấy”. Đó là mạng lệnh Chúa trao cho các môn đệ. Chúa Jesus đã đến trần gian để bày tỏ những lẽ thật về Cha – Ngài đã “tôn vinh Cha trên đất và làm xong công việc Cha giao cho làm”. Đến lượt các môn đồ, họ cũng phải làm những gì giống như thầy của mình đã làm.
Bây giờ chúng ta đọc thêm trong Ma-thi-ơ 28:18, “Đức Chúa Jêsus đến gần, phán cùng môn đồ như vầy: Hết cả quyền phép ở trên trời và dưới đất đã giao cho ta.” Đấng Christ đã nắm giữ hết cả quyền phép ở trên trời và dưới đất, và Ngài chuyển giao uy quyền đó cho các môn đồ là những người đại diện của Ngài. Những môn đồ này sẽ đi ra để thực thi sứ mạng: “dạy dỗ muôn dân, hãy nhân danh Đức Cha, Đức Con, và Đức Thánh Linh mà làm phép báp-têm cho họ, và dạy họ giữ hết cả mọi điều mà ta đã truyền cho các ngươi.” Câu này được nối kết với những lời Chúa bày tỏ trong Giăng 17, cho chúng ta thấy trách nhiệm và đặc ân của các môn đồ là giảng dạy lẽ thật về Đức Chúa Trời, Cha thiên thượng của mọi người.
Những gì chúng ta có thể thấy trong các phần Kinh Thánh trên đây về chức vụ của môn đồ Đấng Christ? Đó chính là giới thiệu Đức Chúa Trời là Cha và Chúa Jesus cho những người chưa biết Ngài thông qua quyền năng của Đức Thánh Linh. Công tác của các môn đồ trở thành một kênh dẫn mà qua đó Thánh Linh của Đức Chúa Trời soi sáng lẽ thật thần thượng đến cho những con người đang bị ma quỉ là chúa đời này cầm buộc và cho làm cho đui mù phần thuộc linh.
Chú ý là một người không trở thành môn đồ chỉ qua những gì anh ta làm hay ban cho đối với người khác. Nhưng một người trở thành môn đồ là vì anh ta rao giảng – giới thiệu cho người khác về Chúa Jesus. Chúng ta học biết rằng Chúa Jesus có hai phương cách cơ bản để giới thiệu về Cha thiên thượng cho các môn đồ. Trong chương 14 của Phúc Âm Giăng tóm lược điều này. Nếu bất cứ ai hỏi về thân vị, chức vụ của Chúa Jesus thì có hai lời chứng về Ngài: Công việc của Ngài và lời dạy của Ngài. Những lời dạy của Ngài đến từ Cha và bày tỏ về Cha cho mọi người. Công tác của Ngài trên đất tôn vinh Cha và đó là lời chứng cho sự giảng dạy của Ngài. Từ đây chúng có kết luận gì? Chức vụ của một môn đồ thật được trắc nghiệm qua hai nguyên tắc này: nếp sống đạo và lời nói của anh ta. Lời của Đức Chúa Trời được rao giảng qua môi miệng của một môn đồ phải được chứng thực bởi công tác của Thánh Linh bên trong đời sống của người này. Khi đời sống và lời nói hòa hợp với nhau để truyền tải lẽ thật về Đức Chúa Trời và Đấng Christ thì đó là sự phục vụ đích thực của một môn đồ.
Môn đồ được ví như muối của đất. Ăn muối làm cho người ta khát nước. Đời sống của một môn đồ thật làm cho những người chung quanh khao khát về Chúa Jesus Christ (Ngài vốn là nước hằng sống) – và họ chỉ thỏa mãn khi gặp được Ngài. Nhưng bản thân nếp sống đạo dù tốt đến đâu cũng không khiến người khác trở nên tin cậy Chúa và trở thành môn đồ. Nếp sống đạo phải song hành với lời chia sẻ về Đấng Christ. Hai điều này kết hợp lại sẽ thuyết phục người chưa tin đi đến chỗ nhận biết Chúa Jesus.
Đức Chúa Trời đòi hỏi điều gì từ một môn đồ? Nuôi dưỡng người đói – hãy cho họ ăn. Một người trở thành môn đồ Đấng Christ khi anh ta nhìn thấy đời sống và môi miệng của chúng ta có cùng một lời chứng về Chúa Jesus Christ. Sứ mạng truyền giáo không chỉ là sai phái các giáo sĩ đi ra với những gánh nặng về tài chánh cho việc thực hiện đại mạng lệnh, nhưng là chính mỗi chúng ta – ngay tại vị trí mình đang đứng thực hiện môn đồ hóa một người nào đó thông qua hai điều thực tiễn đã được đề cập ở trên. Cầu xin Chúa làm cho chúng ta trở nên những môn đồ đúng nghĩa, là những người có khả năng nuôi dưỡng chiên của Chúa tại nơi chúng ta sống mỗi ngày.

Chương 12
SỰ THÔNG CÔNG CỦA MÔN ĐỒ
Mác 3:13-14
“Kế đó, Đức Chúa Jêsus lên trên núi, đòi những người Ngài muốn, thì những người ấy đến kề Ngài. Ngài bèn lập mười hai người, gọi là sứ đồ, để ở cùng Ngài và sai đi giảng đạo.”
Từ trước vô cùng Chúa Jesus vui hưởng mối tương giao mật thiết với Cha thiên thượng, vì Cha với Con là một. Khi Chúa Jesus nhập thế làm người, Ngài tạm thời rời khỏi vương triều xuống trần gian, nhưng Ngài vẫn giữ mối tương giao sâu đậm với Cha. Khi đọc qua các sách Phúc Âm, chúng ta nhanh chóng nhận ra Chúa Jesus luôn cầu nguyện, giữ sự tương giao với Cha. Có khi Ngài lánh hết mọi người để lên núi ở một mình suốt đêm với Cha. Trong khi thi hành chức vụ, Chúa Jesus không chỉ khao khát tương giao với Cha nhưng Ngài cũng muốn thông công với con người. Trong bản chất tự nhiên con người là một loài tạo vật sống theo quần thể bầy đàn. Họ được tạo dựng để sống chung với người khác. Vì thế họ không thể thỏa lòng khi sống cô độc một mình. Chúa Jesus là Đức Chúa Trời trở thành người, Ngài có những cảm xúc của con người, vì vậy Ngài khao khát mối thông công với con người trong những năm tháng sống trên đất. Khi chọn nhóm mười hai người làm sứ đồ, Chúa Jesus có hai mục đích dành cho họ: 1/ thông công. 2/ phục vụ. “Ngài bèn lập mười hai người, gọi là sứ đồ, để ở cùng Ngài – thông công; và sai đi giảng đạo – phục vụ” (Mác 3:14).
Trong những chương trước chúng ta đã thấy rằng môn đồ là một người phục vụ trong vai trò của đầy tớ. Người phục vụ đặt ý muốn của mình qua một bên và chọn ý muốn của chủ làm ý muốn của mình. Chúng ta thường có khuynh hướng làm việc này việc kia, nhưng lại quên đi mối tương giao sâu đậm với chính Đức Chúa Trời. Đây là một sai lầm, trước hết mọi điều Chúa đã kêu gọi và lựa chọn chúng ta để thiết lập một mối quan hệ cá nhân gần gũi với Ngài. Sự tương giao phải đi trước sự phục vụ. Trừ phi chúng ta vui thích trong sự tương giao với Đức Chúa Trời, khi đó chúng ta mới là những quản gia tốt và là môn đồ thật. Sự thông công chính là sự tương tác của chúng ta với người khác trong một mối dây thân ái. Đức Chúa Jesus Christ chính là Đức Chúa Trời hóa thân thành con người để giới thiệu Đức Chúa Trời cho con người tội lỗi. Ngài đã đến trong xác thịt để giao tiếp với những con người trong xác thịt. Chúa đến để soi sáng tâm trí con người đang ở trong sự tối tăm vì tội lỗi. Chúa Jesus giảng dạy cho họ, vì theo bản chất tự nhiên họ không thể tìm thấy Đức chúa Trời. Ngài dạy cho đám đông các lẽ thật căn bản về Đức Chúa Trời. Ngài giới thiệu chương trình cứu rỗi của Đức Chúa Trời cho con người. Nhưng với những người được chọn lựa làm môn đồ, Chúa Jesus dạy họ những lẽ thật sâu nhiệm hơn mà Đức Chúa Trời đã ủy thác Ngài bày tỏ.

Trong Mác 4:34, chúng ta thấy Chúa Jesus giảng dạy cho đoàn dân đông các lẽ thật thông qua các ẩn dụ, và khi ở riêng với các môn đồ, Ngài giải thích những ngụ ngôn đó cho họ. “Ngài chẳng hề giảng cho chúng mà không dùng thí dụ; nhưng, khi ở riêng, Ngài cắt nghĩa hết cho môn đồ mình.” Và trong Giăng 8: 28-32, “Đức Chúa Jêsus phán rằng: Khi các ngươi treo Con người lên, bấy giờ sẽ biết ta là ai, và biết ta không tự mình làm điều gì, nhưng nói điều Cha ta đã dạy ta. Đấng đã sai ta đến vẫn ở cùng ta, chẳng để ta ở một mình, vì ta hằng làm sự đẹp lòng Ngài. Bởi Đức Chúa Jêsus nói như vậy, nên có nhiều kẻ tin Ngài. Bấy giờ Ngài phán cùng những người Giu-đa đã tin Ngài, rằng: Nếu các ngươi hằng ở trong đạo ta, thì thật là môn đồ ta; các ngươi sẽ biết lẽ thật, và lẽ thật sẽ buông tha các ngươi.” Từ đây chúng ta thấy rằng một người không thể trở thành môn đồ cho đến khi người đó biết lẽ thật của Đức Chúa Trời, tin nơi lẽ thật – Lời của Chúa, và để Lời đó trở nên sự sáng của chính mình. Một người cần phải được dạy dỗ để có sự thông công đúng đắn với Chủ của mình. Chúa Jesus mong muốn con người tương giao với chính Ngài. Họ sẽ nhận biết lẽ thật mà Ngài rao giảng.
Chúa Jesus không chỉ soi sáng tâm trí của con người nhưng Ngài cũng đụng chạm đến tấm lòng của họ. Chúng ta hãy đọc Giăng 13:1, “Trước ngày lễ Vượt Qua, Đức Chúa Jêsus biết giờ mình phải lìa thế gian đặng trở về cùng Đức Chúa Cha đến rồi; Ngài đã yêu kẻ thuộc về mình trong thế gian, thì cứ yêu cho đến cuối cùng.” Ngài đã yêu thương họ. Đây là tấm lòng của Chúa Jesus đối với những người mà Ngài đã kêu gọi trở nên môn đồ. Điều này vượt lên trên những tình cảm thông thường. Họ là đối tượng của tình yêu mà Chúa hướng đến. Ngài quan tâm đến phúc lợi và những nhu cầu của họ. Chúa Jesus trở thành sức mạnh thay thế cho những yếu đuối vật lý của họ. Trong những lúc bị ngược đãi, Ngài là Đấng bảo vệ họ. Khi họ có nhu cầu, Ngài là Đấng cung ứng. Chính những điều này bày tỏ ra tình yêu của Ngài dành cho họ. Các môn đồ không chỉ được soi sáng trong tâm trí mà họ còn được tình yêu của Ngài đụng chạm.
Xa hơn nữa, Chúa Jesus còn đụng chạm đến ý chí của môn đồ. Vì một tâm trí được soi sáng và một tấm lòng bị khuấy động vẫn chưa làm cho một người trở nên môn đồ. Cho đến khi nào ý chí của người đó đáp ứng và thuận phục ý chỉ của Chúa trong mối tương giao gắn bó, người đó mới trở nên môn đồ. Chúa Jesus đến trần gian để thực hiện ý chỉ của Cha cách hoàn hảo. Bây giờ Ngài bày tỏ ý chỉ – bài học của Ngài dành cho các môn đồ và chờ đợi họ đáp ứng.

Có Một Việc Cần Mà Thôi
Trong Lu-ca 9:23, “Chúa Jesus phán cùng mọi người rằng: Nếu ai muốn theo ta, phải tự bỏ mình đi, mỗi ngày vác thập tự giá mình mà theo ta.” Ngài dạy rằng một người không thể trở thành môn đồ cho đến khi người đó từ bỏ mọi tham vọng và ý muốn cá nhân để đầu phục kế hoạch của Đức Chúa Trời dành cho mình. Điều này phải là kinh nghiệm hàng ngày liên tục của một người được kêu gọi làm môn đồ. Người đó phải hoàn toàn lệ thuộc vào Đức Chúa Trời và vâng phục ý chỉ Ngài.
Khi tâm trí của một người hòa hợp với tâm trí của Chủ mình, tấm lòng của người đó đáp ứng với tình yêu của Chủ, ý muốn của người vâng phục ý chỉ của Chủ thì người đó đang ở trong mối tương giao với Chủ. Chúa Jesus đã chọn nhóm mười hai người cho những trải nghiệm đặc biệt này – họ phải đi tới sự nhận biết chính Ngài, yêu mến Ngài, ở với Ngài và vâng phục Ngài. Câu Kinh Thành này trở nên rõ ràng: “Ngài bèn lập mười hai người, gọi là sứ đồ, để ở cùng Ngài.”
Đức Chúa Trời kiểm soát và cai trị mọi tạo vật từ trước vô cùng. Các thiên sứ biết Ngài và họ phục vụ trong hiện diện của Ngài. Khi Đức Chúa Trời truyền bảo các thiên sứ, họ vâng phục (ngoại trừ những thiên sứ nổi loạn). Tuy nhiên các thiên sứ không được xem là môn đồ. Sự hiểu biết về Chúa là chưa đủ để trở nên một môn đồ. Một người chỉ trở nên môn đồ khi người đó bước vào trong mối tương giao sâu đậm, cá nhân, mật thiết với Đấng mà người đó yêu thương, bởi vì người đó dâng hiến chính mình cho Đấng mà anh ta phục vụ một cách trọn vẹn.
Trong Lu-ca 10: 38-42 minh họa về tầm quan trọng của sự tương giao làm cho một người trở nên môn đồ. “Khi Đức Chúa Jêsus cùng môn đồ đi đường, đến một làng kia, có người đàn bà, tên là Ma-thê, rước Ngài vào nhà mình. 39 Người có một em gái, tên là Ma-ri, ngồi dưới chân Chúa mà nghe lời Ngài. 40 Vả, Ma-thê mảng lo về việc vặt, đến thưa Đức Chúa Jêsus rằng: Lạy Chúa, em tôi để một mình tôi hầu việc, Chúa há không nghĩ đến sao? Xin biểu nó giúp tôi. 41 Chúa đáp rằng: Hỡi Ma-thê, Ma-thê, ngươi chịu khó và bối rối về nhiều việc; 42 nhưng có một việc cần mà thôi. Ma-ri đã lựa phần tốt, là phần không có ai cất lấy được.”

Nếu bạn hỏi Ma-thê, “Cô có phải là môn đồ của Chúa Jesus?” Rất có thể câu trả lời sẽ là: “Dĩ nhiên tôi là môn đồ của Ngài, hãy xem tôi đang phục vụ Ngài đây”. Rõ ràng là Ma-thê đã có một tinh thần phục vụ tốt, bày tỏ tấm lòng hiếu khách của mình. Theo câu 38, chính Ma-thê đã mời Chúa vào nhà mình, chứ không phải La-xa-rơ hay Ma-ri. Ma-thê có thể bảo vệ quan điểm của mình: “Tôi mời Chúa đến nhà, vì tôi là một môn đồ của Ngài. Tôi đã làm hết khả năng để có thể bày tỏ tấm lòng của tôi dành cho Chúa.” Nhưng ý nghĩa câu chuyện không dừng lại ở đây. Ma-thê đã gặp rắc rối trong cách phục vụ của mình là chuẩn bị cho Chúa những nhu cầu vật lý. Thực ra sự phục vụ và hy sinh vẫn chưa làm cho một người trở nên môn đồ thật. Có vài điều thiếu hụt trong Ma-thê, vì vậy đây là lý do chúng ta sẽ chuyển hướng qua một người khác: Ma-ri.
“Ma-thê có một em gái, tên là Ma-ri, (cũng/hơn nữa/ngoài ra) ngồi dưới chân Chúa mà nghe lời Ngài.” And she had a sister called Mary, who also sat at Jesus’[a] feet and heard His word. (NKJV – bản KT New King James Version). Chúng ta chú ý đến từ “also” có nghĩa là “cũng/hơn nữa/ngoài ra.” Trong bản KT Tiếng Việt thiếu từ này. Câu 39 hàm ý rằng: Ma-ri làm tất cả những gì Ma-thê đã làm để đón tiếp Chúa Jesus, ngoài ra cô còn ngồi xuống dưới chân Chúa để nghe lời Ngài. Như vậy chúng ta thấy Ma-ri tuyệt vời hơn Ma-thê ở điểm: giữ sự tương giao với Chúa sau khi đã làm xong mọi việc cần thiết. Ma-thê bị bận rộn vì cớ Christ. Còn Ma-ri cũng bận rộn nhưng biết cách vui hưởng mối thông công ngọt ngào với Thầy của mình. Đó là sự khác biệt giữa hai chị em.
Sự phục vụ vất vả mà không nối kết mối thông công với Đấng mình phục vụ sẽ là một sai lầm. Đây chính là lý do mà Chúa nhắc nhở Ma-thê: “Hỡi Ma-thê, Ma-thê, ngươi chịu khó và bối rối về nhiều việc; nhưng có một việc cần mà thôi…”. Bài học cho Ma-thê ở đây không phải là quan tâm và chuẩn bị một bàn ăn trước mặt Chúa, nhưng là phải chú ý đến chính Chúa và trông đợi được hầu chuyện Ngài. Chúa nhấn mạnh “chỉ có một việc cần mà thôi” – và việc đó Ma-ri đã chọn lấy, trong khi Ma-thê đã đánh mất cơ hội.
Đức Chúa Trời kiểm soát và cai trị mọi tạo vật từ trước vô cùng. Các thiên sứ biết Ngài và họ phục vụ trong hiện diện của Ngài. Khi Đức Chúa Trời truyền bảo các thiên sứ, họ vâng phục (ngoại trừ những thiên sứ nổi loạn). Tuy nhiên các thiên sứ không được xem là môn đồ. Sự hiểu biết về Chúa là chưa đủ để trở nên một môn đồ. Một người chỉ trở nên môn đồ khi người đó bước vào trong mối tương giao sâu đậm, cá nhân, mật thiết với Đấng mà người đó yêu thương, bởi vì người đó dâng hiến chính mình cho Đấng mà anh ta phục vụ một cách trọn vẹn.
Chúa Jesus đến trần gian không phải để cho con người phục vụ Ngài, nhưng Ngài đến để phục vụ con người. Ngài không trông chờ con người phục vụ Ngài, nhưng Ngài trông đợi con người đến cùng Ngài để Ngài có thể giúp đỡ họ. Khi Ma-ri ngồi dưới chân Chúa và nghe lời Ngài. Lời Chúa dạy thẩm thấu vào trong tấm lòng Ma-ri để cô có thể bước đi trong sự thông hiểu và vâng phục. Chúa Jesus đã tìm thấy một môn đồ thật!
Không khó lắm để đo lường sự phục vụ. Chúng ta có thể nhìn thấy một người bận rộn khi tiến hành các mục vụ trong hội thánh. Tâm sức, thời gian và năng lực đổ ra cho công việc Chúa làm cho người đó cảm thấy thỏa lòng! Còn sự tương giao với Chúa không phải là điều mà con người nhìn thấy (nhưng Chúa biết). Chúng ta thường đánh giá một con người qua công tác họ làm hơn là qua đời sống cầu nguyện tương giao sâu đậm với Chúa của họ. Chúng ta cũng thường đánh giá chính chúng ta qua những công tác hơn là số lượng thời gian chúng ta dành ra ở riêng với Ngài.
Trong xã hội hiện đại chúng ta thường bận rộn với các mệnh lệnh từ sáng đến tối dù ở nhà hay tại văn phòng làm việc. Thật là khó khăn để có thể hành động giống như Ma-ri, đó là dành thời gian vui hưởng mối thông công mật thiết với Chúa. Nhưng cho đến khi chúng ta chọn lấy phần mà Ma-ri đã chọn, chúng ta mới thực sự là môn đồ Đấng Christ. Không có bất cứ hoạt động nào của Ma-thê có thể thay thế cho điều Ma-ri đã làm. Bởi vì lẽ thật ở đây là: Chỉ có một việc cần mà thôi.
Ma-thê đã dành thời gian, tâm sức và năng lực cho sự phục vụ. Ma-ri đơn giản là biệt riêng chính mình cho Chúa. “Có một việc cần mà thôi. Ma-ri đã lựa phần tốt, là phần không có ai cất lấy được.” Chúng ta không được Chúa chọn lựa để làm công tác phục vụ, nhưng chính xác hơn là để ở với Ngài – vui hưởng mối thông công với Ngài. Điều quan trọng là chúng ta được tuyển chọn để ở với Đấng Christ hơn là vì công việc của Đấng Christ.
Trong Lu-ca chương thứ chin, các môn đồ còn được Chúa đem riêng lên núi và Ngài biến hóa trước mặt họ. Đây là khải tượng lớn nhất mà chưa ai từng thấy trước đây.
28 Độ tám ngày sau khi phán các lời đó, Đức Chúa Jêsus đem Phi-e-rơ, Giăng và Gia-cơ đi với mình lên trên núi để cầu nguyện. 29 Đương khi cầu nguyện, diện mạo Ngài khác thường, áo Ngài trở nên sắc trắng chói lòa. 30 Và nầy, có hai người nói chuyện cùng Ngài; ấy là Môi-se và Ê-li, 31hiện ra trong sự vinh hiển, và nói về sự Ngài qua đời, là sự sẽ phải ứng nghiệm tại thành Giê-ru-sa-lem. 32 Phi-e-rơ cùng đồng bạn mình buồn ngủ lắm, nhưng vừa tỉnh thức ra, thấy vinh hiển của Đức Chúa Jêsus và hai đấng ấy đứng gần Ngài. 33 Lúc hai đấng ấy lìa khỏi Đức Chúa Jêsus, Phi-e-rơ thưa Ngài rằng: Thưa thầy, chúng ta ở đây tốt lắm, hãy đóng ba trại, một cái cho thầy, một cái cho Môi-se, và một cái cho Ê-li. Vì Phi-e-rơ không biết mình nói chi. 34 Khi người còn đương nói, có một đám mây kéo đến, bao phủ lấy; và khi vào trong đám mây, các môn đồ đều sợ hãi. 35 Bấy giờ, nghe có tiếng từ trong đám mây phán ra rằng: Nầy là Con ta, Người được lựa chọn của ta, hãy nghe Người. 36 Khi tiếng ấy phát ra, thì Đức Chúa Jêsus ở một mình. Các môn đồ nín lặng, không nói cùng ai về sự mình đã thấy. (Lu-ca 9)
Các môn đồ ở đây thấy sự vinh hiển của Chúa Jesus, “diện mạo Ngài khác thường, áo Ngài trở nên sắc trắng chói lòa”. Đối chiếu với Mác 3:14, chúng ta có thể nói rằng sau khi nhìn thấy Chúa hóa hình trong vinh hiển, các môn đồ được Chúa sai phái đi ra giảng đạo. Và cũng trong Mác 3:14, có một điều quan trọng hơn việc đi ra rao giảng đó là “ở cùng Chúa” – thông công với Ngài. Trước khi các môn đồ rời ngọn núi mà nơi đó bày tỏ vinh quang Chúa, chúng ta đọc thấy trong Lu-ca 9: 35, “Bấy giờ, nghe có tiếng từ trong đám mây phán ra rằng: Nầy là Con ta, Người được lựa chọn của ta, hãy nghe Người”. Kinh Thánh đã không viết rằng: “Nầy là Con ta, Người được lựa chọn của ta, hãy đi rao giảng về Người”. Chúng ta đi đến kết luận nào ở đây? Có hai mục đích mà Chúa đã tuyển chọn các môn đồ: 1/ Ở cùng Ngài – lắng nghe Ngài. Đây là mục đích đầu tiên và quan trọng hơn mục đích thứ hai. 2/ Đi ra giảng đạo.
Bạn có ao ước trở nên môn đồ Đấng Christ? Bạn cần phải lắng nghe lần nữa thứ tự mà Chúa ưu tiên. “Ngài chọn mười hai người để ở với Ngài”.
Tâm trí của chúng ta cần được soi sáng để nhận biết lẽ thật quan trọng này mà Chúa đã truyền đạt cho chúng ta qua Lời Ngài. Bây giờ đến lượt chúng ta đáp ứng với lẽ thật đó bởi đức tin. Tấm lòng của chúng ta phải tiếp nhận tình yêu của Đấng đã kêu gọi chúng ta cho chính Ngài, và yêu Ngài bằng một tấm lòng thuần khiết. Ý chỉ của Chúa đã được giải bày cho chúng ta trong Lời thông qua Đức Thánh Linh. Chúng ta cần đầu phục ý chỉ Ngài cách trọn vẹn. Một môn đồ thật là người để Đấng Christ làm trung tâm của đời sống mình. “Ngài chọn bạn để bạn ở với Ngài!”. Có điều nào còn ngăn trở sự tương giao giữa bạn với Đấng kêu gọi bạn làm môn đồ?

Chương 13
MÔN ĐỒ TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI THẾ GIAN
18 Ví bằng người đời ghét các ngươi, thì hãy biết rằng họ đã ghét ta trước các ngươi. 19 Nếu các ngươi thuộc về thế gian, thì người đời sẽ yêu kẻ thuộc về mình; nhưng vì các ngươi không thuộc về thế gian và ta đã lựa chọn các ngươi giữa thế gian, bởi cớ đó người đời ghét các ngươi. 20 Hãy nhớ lời ta đã nói cùng các ngươi: Đầy tớ chẳng lớn hơn chủ mình. Nếu họ đã bắt bớ ta, ắt cũng bắt bớ các ngươi; bằng họ đã giữ lời ta, ắt cũng giữ lời các ngươi. 21 Nhưng vì danh ta họ sẽ lấy mọi điều đó đãi các ngươi, bởi họ không biết Đấng đã sai ta đến. 22 Nếu ta không đến và không phán dạy họ, thì họ chẳng có tội lỗi gì; song bây giờ họ không có thể chữa chối được tội lỗi mình. 23 Kẻ nào ghét ta cũng ghét Cha ta nữa. 24 Ví thử ta không làm giữa họ những việc mà chưa có người khác làm, thì họ vô tội, nhưng bây giờ họ đã thấy các việc ấy, và lại ghét ta cùng Cha ta. 25 Dường ấy, để cho ứng nghiệm lời đã chép trong luật pháp họ rằng: Họ ghét ta vô cớ. 26 Khi nào Đấng Yên-ủi sẽ đến, là Đấng ta sẽ bởi Cha sai xuống, tức là Thần lẽ thật ra từ Cha, ấy chính Ngài sẽ làm chứng về ta. 27 Còn các ngươi cũng sẽ làm chứng về ta, vì các ngươi đã ở cùng ta từ lúc ban đầu vậy. (Giăng 15).
Từ những ngày đầu tiên của chức vụ, Chúa Jesus đã rao giảng một sứ điệp lôi cuốn sự chú ý của mọi người. Sứ điệp ấy đem đến sự yên ủi và hy vọng, nó liên quan đến sự cứu rỗi giải thoát khỏi tội lỗi. Chúa Jesus được Cha sai xuống trần gian để bày tỏ về Cha cho con người. Ngài đến để thực hiện chương trình cứu chuộc. Để hoàn thành sứ mạng đó Ngài đã xuất hiện như một thầy giảng đạo. Và Chúa chúng ta đòi hỏi con người nghe, tin lời Ngài và sống theo lời ấy.
Chức vụ của Chúa Jesus đã thu hút nhiều người chạy đến với Ngài. Để gia tăng điều này, Chúa đã tuyển chọn và huấn luyện nhóm mười hai người hầu cho Phúc âm của Ngài được lan rộng khắp đất. Nhóm mười hai sứ đồ được tuyển chọn để dự phần thông công với Chúa Jesus, họ sẽ được sai đi vào trong thế giới làm chứng nhân cho Ngài sau khi được huấn luyện. Trong chương 10 của Phúc Âm Ma-thi-ơ, Chúa Jesus sai họ đi tìm kiếm những con chiên lạc mất của nhà Israel (câu 6). Trong câu 7, Chúa truyền bảo: “Khi các ngươi đi ra, hãy rao giảng…” Họ phải rao giảng về Tin Mừng mà Ngài đã ủy thác cho họ. Rất có thể khi họ đi ra, họ sẽ đối diện với những thử thách khó khăn, chống đối…Vì thế Chúa đã cảnh báo trước những điều này. Tin tức tốt lành là Đấng Christ đến đem theo sự cứu chuộc, nhưng các môn đồ sẽ gặp nhiều người chống đối sứ điệp này, vì vậy đám đông cũng sẽ chống đối sứ giả được sai đi.
Chúa cảnh báo các môn đồ là họ sẽ bị chối từ, họ không khác nào như chiên con đi vào giữa bầy muông sói. Một số người trong vòng họ có thể bị tống vào tù, hoặc thậm chí bị giết vì cớ Đấng Christ. Họ sẽ phải đối diện với nhiều loại thử thách khác nhau. Khi chúng ta đọc chương 10 của Phúc Âm Ma-thi-ơ, chúng ta tự hỏi ai sẽ nghe và đáp ứng cách tích cực với sứ điệp của các môn đồ? Ai sẽ tiếp đón họ?

16 Kìa, ta sai các ngươi đi khác nào như chiên vào giữa bầy muông sói. Vậy, hãy khôn khéo như rắn, đơn sơ như chim bồ câu. 17 Hãy coi chừng người ta; vì họ sẽ nộp các ngươi trước tòa án, đánh đòn các ngươi trong nhà hội; 18 lại vì cớ ta mà các ngươi sẽ bị giải đến trước mặt các quan tổng đốc và các vua, để làm chứng trước mặt họ và các dân ngoại. 19 Song khi họ sẽ đem nộp các ngươi, thì chớ lo về cách nói làm sao, hoặc nói lời gì; vì những lời đáng nói sẽ chỉ cho các ngươi chính trong giờ đó. 20 Ấy chẳng phải tự các ngươi nói đâu, song là Thánh Linh của Cha các ngươi sẽ từ trong lòng các ngươi nói ra. 21 Anh sẽ nộp em cho bị giết, cha sẽ nộp con cho bị giết, con cái sẽ dấy lên nghịch cùng cha mẹ mà làm cho người phải chết đi. 22 Các ngươi lại sẽ bị thiên hạ ghen ghét vì danh ta; song ai bền lòng cho đến cuối cùng, thì sẽ được rỗi. 23 Khi nào người ta bắt bớ các ngươi trong thành nầy, thì hãy trốn qua thành kia; vì ta nói thật, các ngươi đi chưa khắp các thành dân Y-sơ-ra-ên thì Con người đã đến rồi. (Ma-thi-ơ 10)
Tuy nhiên các môn đồ đã đi ra rao giảng sứ điệp và họ trở về tường trình với Chúa Jesus trong sự vui mừng về những trải nghiệm của họ. Mặc dù có những người từ chối sứ điệp, nhưng họ đã có những kết quả ban đầu trong mục vụ. Khi chúng ta nghiên cứu trong các sách Phúc âm, chúng ta thấy rằng có lúc Chúa Jesus đã rút họ ra khỏi chức vụ công khai với đoàn dân đông, và Ngài tiếp tục huấn luyện họ. Khi chúng ta đọc Giăng chương 15, chúng ta thấy Chúa Jesus đã chuẩn bị hành trang cho các học trò của Ngài đi vào trong thế giới. Có thể tuyển dân Israel sẽ từ chối sứ điệp của họ, nhưng dân ngoại lại vui mừng tiếp nhận sứ điệp và sứ giả.
Các môn đồ phải chuẩn bị tư tưởng đứng về phía Đức Chúa Trời để chống lại cả thế giới. Trong Giăng 15:16, Chúa Jesus phán, “Ấy chẳng phải các ngươi đã chọn ta, bèn là ta đã chọn và lập các ngươi, để các ngươi đi và kết quả, hầu cho trái các ngươi thường đậu luôn.” Như vậy các môn đồ được tuyển chọn bởi sự tể trị thần thượng từ trước. Không phải vì họ có tài năng, ân tứ hay thông minh hơn những người khác. Họ được chọn theo ý chỉ của Cha thiên thượng để làm vui lòng Ngài. Họ được chọn cho những chức vụ đặc biệt để thực hiện các mục vụ theo tấm lòng của Chúa. Họ phải đi ra rao giảng Tin mừng cho muôn dân. “Khi đi đường, hãy rao giảng…” (Mat. 10:7). Họ được ủy thác cho một sứ mạng cao cả từ thiên thượng. Họ không rao giảng những quan điểm cá nhân, nhưng chỉ rao giảng những gì họ được Chúa ủy nhiệm trong tư cách là những đại sứ nước trời. Sứ điệp của họ tập trung vào công việc và thân vị của Chúa Jesus Christ. Ma-thi-ơ 10 và Giăng 15 là những nội dung quan trọng mà họ được Chúa ủy thác để công bố cho thế giới hư mất.
Trong Giăng 15: 26-27, Chúa Jesus phán, “Khi nào Đấng Yên-ủi sẽ đến, là Đấng ta sẽ bởi Cha sai xuống, tức là Thần lẽ thật ra từ Cha, ấy chính Ngài sẽ làm chứng về ta. Còn các ngươi cũng sẽ làm chứng về ta, vì các ngươi đã ở cùng ta từ lúc ban đầu vậy”. Câu này cho chúng ta biết là các môn đồ sẽ không đơn độc khi đi ra làm những chứng nhân – sứ giả cho Chúa. Đức Thánh Linh sẽ đồng hành cùng họ. Đức Thánh Linh đến để bày tỏ Chúa Jesus cho thế giới hư mất, và Ngài cũng là Đấng công bố Tin mừng cho mọi người. Đức Chúa Trời xác nhận lẽ thật này sau đó trong Giăng 16:13-14, “Lúc nào Thần lẽ thật sẽ đến, thì Ngài dẫn các ngươi vào mọi lẽ thật; vì Ngài không nói tự mình, nhưng nói mọi điều mình đã nghe, và tỏ bày cho các ngươi những sự sẽ đến. Chính Ngài sẽ làm sáng danh ta, vì Ngài sẽ lấy điều thuộc về ta mà rao bảo cho các ngươi.” Đối chiếu với Giăng 15:27, “các ngươi (các môn đồ) cũng sẽ làm chứng về ta.” Như vậy có hai chứng nhân – sứ giả được đề cập ở đây: 1/ Các môn đồ. 2/ Đức Thánh Linh. Hai chứng nhân này cùng làm chung một công việc: giới thiệu Chúa Jesus.
Các môn đồ với sự trợ giúp của Đức Thánh Linh có khả năng đối đầu với những thế lực chống đối Phúc Âm. Chúa Jesus đã cảnh báo trước cho các môn đồ: “Ví bằng người đời ghét các ngươi, thì hãy biết rằng họ đã ghét ta trước các ngươi. (Giăng 15:18). Trong những câu sau đó Chúa chúng ta đã phác thảo ra một số các nhân tố chống đối những môn đồ được sai đi. Thế gian với những tham dục của nó đều phục dưới quyền ma quỉ, các môn đồ không thuộc về thế gian, vì vậy người đời ghét những môn đệ của Chúa. Những ngược đãi mà người đời dành cho Chúa, họ cũng sẽ làm như vậy với các môn đồ. Chúa Jesus phán dạy rõ ràng về điều này: “Nếu thế gian ghét các người, thì hãy biết rằng họ ghét ta trước các ngươi”.
Từ câu 19 – 24 Chúa Jesus giải thích vì sao thế gian ghét các môn đồ. Câu 19, “Nếu các ngươi thuộc về thế gian, thì người đời sẽ yêu kẻ thuộc về mình; nhưng vì các ngươi không thuộc về thế gian và ta đã lựa chọn các ngươi giữa thế gian, bởi cớ đó người đời ghét các ngươi”. Các môn đồ được cứu ra khỏi thế gian và những hệ thống của nó. Trong một ý nghĩa họ không còn thông công với thế gian nữa, thế gian ghen ghét họ vì các môn đồ đã được cứu ra khỏi thế giới hư mất và đối với họ “những sự cũ đã qua đi, này mọi sự đều trở nên mới.” Đức Chúa Trời đã chọn họ ra khỏi thế gian. Chúng ta biết rằng mỗi người sinh ra trong dòng máu A-đam là một phần của hệ thống thế giới. Hệ thống này ở dưới quyền Sa-tan. Thế giới hay thế gian là môi trường mà người đó sống. Cho đến khi người này tiếp nhận ơn cứu chuộc trong Chúa Jesus, thì anh ta được cứu ra khỏi hệ thống thế giới với những giá trị qui ước của nó. Và bây giờ người này sống trong ánh sáng của lẽ thật và không còn qui phục dưới uy quyền của Satan. Một người được cứu tuy vẫn còn sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian. Và đó là lý do đầu tiên mà thế gian ghét người đó.
Lý do thứ hai được tìm thấy trong câu 20 – 21, “Hãy nhớ lời ta đã nói cùng các ngươi: Đầy tớ chẳng lớn hơn chủ mình. Nếu họ đã bắt bớ ta, ắt cũng bắt bớ các ngươi; bằng họ đã giữ lời ta, ắt cũng giữ lời các ngươi. Nhưng vì danh ta họ sẽ lấy mọi điều đó đãi các ngươi, bởi họ không biết Đấng đã sai ta đến.” Chúa Jesus đã phán dạy cho các môn đồ là không bao lâu nữa Ngài sẽ chia tay với họ và trở về với Cha. Khi Ngài không còn ở với các môn đồ, họ sẽ trải nghiệm những sự bắt bớ mà Ngài phán dạy trong thời điểm này. Bởi vì thế gian không tìm kiếm Chúa Jesus, nó ở trong vị trí đối nghịch với Đức Chúa Trời, vì vậy hệ thống này ghét những người thuộc về Chúa Jesus. Bạn là một môn đồ của Christ, bạn sẽ bị thế gian ghét là lẽ đương nhiên.
Hãy Biết Rằng Họ Đã Ghét Ta Trước Các Ngươi
Lý do thứ ba được tìm thấy trong câu 22 – 24, “Nếu ta không đến và không phán dạy họ, thì họ chẳng có tội lỗi gì; song bây giờ họ không có thể chữa chối được tội lỗi mình. Kẻ nào ghét ta cũng ghét Cha ta nữa. Ví thử ta không làm giữa họ những việc mà chưa có người khác làm, thì họ vô tội, nhưng bây giờ họ đã thấy các việc ấy, và lại ghét ta cùng Cha ta.” Thế gian ghét Chúa vì Ngài đến quở trách, lên án những sai trật, tội lỗi của nó. Con người tự nhiên thích sống trong tội lỗi. Bây giờ Chúa cảnh cáo những điều đó. Hậu quả là người thế gian ghét Ngài và cũng ghét luôn Cha. Họ ghét cả hai ngôi Đức Chúa Trời. Người thuộc về thế gian ghét Chúa vì Ngài rao giảng cho họ biết sự bất nghĩa, vô luân và những việc làm gian ác của họ.
Sau khi Chúa nhắc nhở các môn đồ về lòng căm ghét của người đời. Bây giờ chúng ta đọc đến Giăng 16: 1-2, “Ta bảo các ngươi những điều đó, để cho các ngươi khỏi vấp phạm. Họ sẽ đuổi các ngươi ra khỏi nhà hội; vả lại, giờ đến, khi ai giết các ngươi, tưởng rằng thế là hầu việc Đức Chúa Trời.” Có thể nói rằng mối dây thông công giữa các môn đồ và thế giới đã bị bẻ gãy. Các môn đồ bị đuổi ra khỏi nhà hội Do Thái, thậm chí là bị giết. Tuy nhiên những người khủng bố các môn đồ lại có quan điểm riêng của họ: khi họ bách hại các môn đồ, thì đó là hầu việc Đức Chúa Trời.
Là môn đồ Đấng Christ, chúng ta phải chịu khổ vì lòng căm ghét của thế gian. Đôi khi chúng ta có thể trở nên thánh tử đạo vì cớ Chúa Jesus Christ.
Khi Chúa Jesus phán trong Ma-thi-ơ 28:19, “Hãy đi khắp thế gian giảng tin lành…”. Chúng ta hiểu rõ rằng sứ mạng này đòi hỏi chúng ta phải có một sự chọn lựa. Chúng ta không thể nào vừa làm môn đồ thực thi sứ mạng Chúa giao, đồng thời cũng làm bạn – kết giao với thế gian. Hãy nhớ rằng thế gian luôn đối nghịch cùng Đức Chúa Trời. “Chớ yêu thế gian, cũng đừng yêu các vật ở thế gian nữa; nếu ai yêu thế gian, thì sự kính mến Đức Chúa Cha chẳng ở trong người ấy.” (1 Giăng 2:15). Sứ đồ Gia-cơ cũng nói, “Hỡi bọn tà dâm kia, anh em há chẳng biết làm bạn với thế gian tức là thù nghịch với Đức Chúa Trời sao? Cho nên, ai muốn làm bạn với thế gian, thì người ấy trở nên kẻ nghịch thù cùng Đức Chúa Trời vậy.” (Gia-cơ 4: 4). Một người không thể nào đồng thời làm bạn với thế gian và làm môn đồ Đấng Christ. Chúa Jesus đã không sai phái các môn đồ đi vào trong thế gian để nói “những lời có cánh” làm cho người ta dễ chịu. Nhưng sứ điệp của họ mang tính quở trách, cảnh báo tội lỗi. Những người nghe sẽ phải đối mặt với Chúa Jesus trong ngày phán xét, điều này tùy thuộc vào phản ứng của họ trước các sứ điệp.
Chúng ta thường áp dụng nhiều phương cách truyền thông với thế gian và làm cho những người khác trở nên thoải mái dễ chịu khi có sự hiện diện của chúng ta. Đôi khi chúng ta còn ao ước người đời trong thế gian hoan nghênh chào đón chúng ta. Thực ra thế giới ngoại bang không dễ chịu khi chúng ta xuất hiện, vì vậy nếu chúng ta trong tư cách là những người phục vụ Chúa tìm cách đồng hóa mình với thế gian, lúc đó chúng ta đã phủ nhận Đấng Christ. Còn một cám dỗ khác là chúng ta giả vờ che giấu ánh sáng lẽ thật mà chúng ta đã được ban cho từ Chúa. Một người không thể là môn đồ khi người đó “đeo mặt nạ” – không bày tỏ ra sự sáng – Phúc âm cho người khác. Chúa Jesus phán, “sự sáng các ngươi phải soi trước mặt người ta.” Sự sáng ấy phải chiếu soi vào nơi tối tăm và chỉ lối cho người ta đến với Cứu Chúa.
Trong Ga-la-ti 6:14, sứ đồ Phao-lô nói, “tôi hẳn chẳng khoe mình, trừ ra khoe về thập tự giá của Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, bởi thập tự giá ấy, thế gian đối với tôi đã bị đóng đinh, và tôi đối với thế gian cũng vậy!” Nếu Phao-lô loại bỏ thập tự giá ra khỏi sứ điệp của ông, ông cũng không nói gì cả về huyết Chúa Jesus, không kết án tội lỗi…Khi đó ông sẽ được người Hy lạp và thế giới ngoại bang hoan nghênh. Nếu vị sứ đồ bỏ bớt một vài điều trong sứ điệp mà Chúa ủy thác cho ông, lúc đó ông trở thành một người không còn đáng để tin cậy nữa, (nếu chúng ta không muốn nói đó là một môn đồ xảo trá.) Đó là lý do Phao-lô khẳng định rằng ông không rao giảng điều gì khác hơn ngoài Chúa Jesus Christ, và Jesus Christ bị đóng đinh trên cây thập tự. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta bị cuốn vào những công việc kinh doanh trên thế giới, và hầu như không còn làm chứng gì được cho Phúc Âm. Thế nhưng chúng ta vẫn tự xem mình là môn đồ Đấng Christ!
Một trong những bằng chứng rõ nhất của sự chịu khổ vì Phúc Âm được tìm thấy trong thư tín Hê-bơ-rơ. Các thánh đồ ở đây đã phải chấp nhận nhiều đau khổ ngoài sức chịu đựng vì đức tin trong Đấng Christ. Nếu những Cơ đốc nhân này bằng lòng trở về với Do Thái giáo, họ chắc sẽ được hoan nghênh và sự bách hại dành cho họ không còn nữa. Nhưng rõ ràng là họ chấp nhận đau khổ và sẵn sàng chết cho Đấng đã cứu chuộc họ.
Chúng ta đọc lại lời chứng của Phao-lô, “Bởi vậy Chúa phán rằng: Hãy ra khỏi giữa chúng nó, hãy phân rẽ ra khỏi chúng nó.” (2 Côr 6:17) và “hầu cho anh em ở giữa dòng dõi hung ác ngang nghịch, được nên con cái của Đức Chúa Trời, không vít, không tì, không chỗ trách được, lại giữa dòng dõi đó, giữ lấy đạo sự sống, chiếu sáng như đuốc trong thế gian; cho đến nỗi tới ngày của Đấng Christ, tôi có thể khoe mình rằng chẳng đã chạy vô ích và khó nhọc luống công.” (Phil. 2: 15-16). Đây chính là chức vụ của môn đồ: phân rẽ ra khỏi thế giới, giữ lấy đạo sự sống và chấp nhận bị căm ghét, bắt bớ, bền chịu mọi sự vì cớ Christ.
Bạn bằng lòng chọn đứng chung với Đấng Christ, mặc dù cả thế giới dường như chống lại bạn?

Chương 14
SỰ TÍNH SỔ CỦA MÔN ĐỒ

1 Kế đó, Chúa chọn bảy mươi môn đồ khác, sai từng đôi đi trước Ngài, đến các thành các chỗ mà chính Ngài sẽ đi.
2 Ngài phán cùng môn đồ rằng: Mùa gặt thì trúng, song con gặt thì ít. Vậy, hãy xin Chủ mùa gặt sai con gặt đến trong mùa của mình. 3 Hãy đi; nầy, ta sai các ngươi đi, khác nào như chiên con ở giữa bầy muông sói. 4 Đừng đem túi, bao, giày, và đừng chào ai dọc đường. 5 Hễ các ngươi vào nhà nào, trước hết hãy nói rằng: Cầu sự bình an cho nhà nầy! 6 Nếu nhà đó có người nào đáng được bình an, sự bình an của các ngươi sẽ giáng cho họ; bằng không, sẽ trở về các ngươi. 7 Hãy ở nhà đó, ăn uống đồ người ta sẽ cho các ngươi, vì người làm công đáng được tiền lương mình. Đừng đi nhà nầy sang nhà khác. 8 Hễ các ngươi vào thành nào, mà người ta tiếp rước, hãy ăn đồ họ sẽ dọn cho. 9 Hãy chữa kẻ bịnh ở đó, và nói với họ rằng: Nước Đức Chúa Trời đến gần các ngươi. ….17 Bảy mươi môn đồ trở về cách vui vẻ, thưa rằng: Lạy Chúa, vì danh Chúa các quỉ cũng phục chúng tôi. 18 Đức Chúa Jêsus bèn phán rằng: Ta đã thấy quỉ Sa-tan từ trời sa xuống như chớp. 19 Nầy, ta đã ban quyền cho các ngươi giày đạp rắn, bò cạp, và mọi quyền của kẻ nghịch dưới chân; không gì làm hại các ngươi được. 20 Dầu vậy, chớ mừng vì các quỉ phục các ngươi; nhưng hãy mừng vì tên các ngươi đã ghi trên thiên đàng. (Lu-ca 10:1-20)
Những người được kêu gọi làm môn đồ chắc chắn là những người có đặc quyền. Họ được Chúa sai đi và ban cho quyền năng, các phép lạ giống như Ngài đã ban cho Môi-se, Ê-li và Ê-li-sê trước đây. Họ được hưởng đặc ân nhận lấy sự hỗ trợ, dâng hiến từ những người mà họ phục vụ. Trong việc này họ cũng giống như các thầy tế lễ và tiên tri, là những người công bố Lời Chúa cho dân sự của Đức Chúa Trời trong thời Cựu Ước. Môn đồ Đấng Christ là những người có đặc quyền, nhưng họ phải giải trình trách nhiệm rao giảng Phúc âm mà họ đã được ủy thác cho Đức Chúa Trời.
Trong Lu-ca 9, Chúa Jesus sai phái mười hai sứ đồ đi ra thi hành mục vụ, và rồi họ trở về báo cáo, giải trình công tác của họ. “Các sứ đồ trở về trình cùng Đức Chúa Jêsus mọi việc mình đã làm.” (Lu-ca 9:10). Chúng ta tự hỏi họ có đặc ân gì ở đây? Đặc ân đó là họ phải giải trình các mục vụ mà họ đã được Chúa giao phó. Trong Lu-ca chương 10 Chúa Jesus muốn các môn đồ phải mở rộng, gia tăng hơn nữa số lượng những người được sai đi hầu cho Phúc Âm được rao giảng khắp mọi nơi. Chúng ta đọc trong Lu-ca 10:2, “Ngài phán cùng môn đồ rằng: Mùa gặt thì trúng, song con gặt thì ít.” Nhiều người cần nghe tin mừng về một Đấng Mê-si đến để cứu chuộc họ – đây là mùa gặt. Nhưng thực tế là có rất ít thợ gặt ra đi. Vì vậy Chúa phán dạy, “hãy xin Chủ mùa gặt sai con gặt đến trong mùa của mình.” Phương pháp của Chúa là gia tăng các thợ gặt, chứ không phải là tổ chức những chiến dịch qui mô hoành tráng, hay là những phương pháp của con người. Trách nhiệm của môn đồ với tư cách đại sứ Đấng Christ là phải rao giảng Phúc Âm cho người khác và Đức Thánh Linh thuyết phục những người nghe giảng để họ tiếp nhận sứ điệp.
“Hãy xin Chủ mùa gặt sai …” Cầu nguyện chính là ý thức sự bất lực của chính mình và hoàn toàn lệ thuộc vào Đức Chúa Trời. Chúa Jesus tuyển chọn những con người nhận biết chương trình cứu chuộc của Ngài, biết được tấm lòng của Ngài, biết được sự cung ứng của Ngài cho mọi nhu cầu. Chính những con người này sẽ đi ra lao tác trong mùa gặt và thu hoạch cho Chúa. Cánh tay của Đức Chúa Trời sẽ không đưa ra giúp đỡ các thợ gặt cho đến khi các thợ gặt này đưa cánh tay của sự cầu nguyện hướng về Chúa. Đức Chúa Trời luôn đáp lời sự cầu nguyện, và Ngài sai phái những người cầu nguyện đi vào mùa gặt lớn.
Trong Lu-ca chương 10, Chúa Jesus cũng sai bảy mươi môn đồ khác đi ra rao giảng Tin Mừng. Nhóm bảy mươi người này cũng có những đặc quyền, đặc ân giống như nhóm mười hai sứ đồ. Họ ra đi, và trở về cách vui vẻ giải trình với Chúa, “Lạy Chúa, vì danh Chúa các quỉ cũng phục chúng tôi.” (Lu-ca 10:17).
Các môn đồ này đã tiếp nhận một lẽ thật quan trọng: Đức Chúa Trời đã sai Con Ngài đến thế gian để cứu tội nhân. Họ có trách nhiệm thông báo lẽ thật này đến với cộng đồng thế giới. Họ là những quản gia của vương quốc có trách nhiệm và đặc ân ra đi và trở về “tính sổ” công tác của mình với Chủ mùa gặt.
Điều quan trọng nhất cho các môn đồ ở đây là họ phải mang lấy ách chung với Chúa và vác thập tự giá mình đi theo Chúa. Tuy nhiên điều này vẫn chưa đủ. Khi một người chấp nhận chính mình là một môn đồ, anh ta phải có trách nhiệm của một môn đồ trong việc tính sổ.
Để nhấn mạnh lẽ thật này, Chúa Jesus đã phán dạy cho các môn đồ một số các ẩn dụ. Cầu xin Thần lẽ thật soi sáng để chúng có thể thấy điều này và hoàn thành công việc tính sổ của môn đồ Đấng Christ.
Trong Lu-ca 19:12-27, Chúa Jesus dạy rằng, “12 Có một vị thế tử đi phương xa, đặng chịu phong chức làm vua rồi trở về; 13 bèn gọi mười người trong đám đầy tớ mình, giao cho mười nén bạc, và dạy rằng: Hãy dùng bạc nầy sanh lợi cho đến khi ta trở về. …15 Khi người đã chịu phong chức làm vua rồi, trở về, đòi các đầy tớ đã lãnh bạc đến, đặng cho biết mỗi người làm lợi được bao nhiêu. 16 Đầy tớ thứ nhứt đến trình rằng: Lạy chúa, nén bạc của chúa sanh lợi ra được mười nén. 17 Chủ rằng: Hỡi đầy tớ ngay lành kia, được lắm; vì ngươi trung tín trong sự nhỏ mọn, ngươi sẽ được cai trị mười thành. 18 Người thứ hai đến thưa rằng: Lạy chúa, nén bạc của chúa sanh lợi ra được năm nén. 19 Chủ rằng: Ngươi được cai trị năm thành. 20 Người khác đến thưa rằng: Lạy chúa, đây nầy, nén bạc của chúa tôi đã gói giữ trong khăn; 21 bởi tôi sợ chúa, vì chúa là người nghiêm nhặt, hay lấy trong nơi không để, gặt trong chỗ không gieo. 22 Chủ rằng: Hỡi đầy tớ ngoan ác kia, ta cứ lời ngươi nói ra mà xét ngươi. Ngươi đã biết ta là người nghiêm nhặt, hay lấy trong nơi không để, gặt trong chỗ không gieo; 23 cớ sao ngươi không giao bạc ta cho hàng bạc? Khi ta về, sẽ lấy lại vốn và lời. 24 Chủ lại nói cùng các người đứng đó rằng: Hãy lấy nén bạc nó đi, cho người có mười nén. 25 Họ bèn thưa rằng: Lạy chúa, người ấy có mười nén rồi. 26 Ta nói cùng các ngươi, ai có, thì sẽ cho thêm; song ai không có, thì sẽ cất luôn của họ đã có nữa. 27 Còn như những kẻ nghịch cùng ta, không muốn ta cai trị họ, hãy kéo họ đến đây, và chém đi trước mặt ta.”
Trong câu chuyện dụ ngôn này, vấn đề nằm ở chỗ người đầy tớ được giao cho một nén bạc. Người này đã không sinh lợi ra nén bạc của chủ giao, và kết quả: anh ta bị chủ quở trách là đầy tớ gian ác. Cùng một ý nghĩa này chúng ta cũng đọc một câu chuyện khác trong Ma-thi-ơ chương 25.
“14 Vả, nước thiên đàng sẽ giống như một người kia, khi đi đường xa, gọi các đầy tớ mà giao của cải mình. 15 Chủ đó cho người nầy năm ta-lâng, người kia hai, người khác một, tùy theo tài mỗi người; đoạn, chủ lên đường. 16 Tức thì, người đã nhận năm ta-lâng đi làm lợi ra, và được năm ta-lâng khác. 17 Người đã nhận hai ta-lâng cũng vậy, làm lợi ra được hai ta-lâng nữa. 18 Song người chỉ nhận một thì đi đào lỗ dưới đất mà giấu tiền của chủ.
19 Cách lâu ngày, chủ của những đầy tớ ấy trở về khiến họ tính sổ. 20 Người đã nhận năm ta-lâng bèn đến, đem năm ta-lâng khác nữa, và thưa rằng: Lạy chúa, chúa đã cho tôi năm ta-lâng; đây nầy, tôi làm lợi ra được năm ta-lâng nữa. 21 Chủ nói với người rằng: Hỡi đầy tớ ngay lành trung tín kia, được lắm; ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ lập ngươi coi sóc nhiều; hãy đến hưởng sự vui mừng của chúa ngươi. 22 Người đã nhận hai ta-lâng cũng đến mà thưa rằng: Lạy chúa, chúa đã cho tôi hai ta-lâng; đây nầy, tôi đã làm lợi ra được hai ta-lâng nữa. 23 Chủ đáp rằng: Hỡi đầy tớ ngay lành trung tín kia, được lắm; ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ lập ngươi coi sóc nhiều; hãy đến hưởng sự vui mừng của chúa ngươi. 24 Người chỉ nhận một ta-lâng cũng đến mà thưa rằng: Lạy chúa, tôi biết chúa là người nghiêm nhặt, gặt trong chỗ mình không gieo, lượm lặt trong chỗ mình không rải ra; 25 nên tôi sợ mà đi giấu ta-lâng của chúa ở dưới đất; đây nầy, vật của chúa xin trả cho chúa. 26 Song chủ đáp rằng: Hỡi đầy tớ dữ và biếng nhác kia, ngươi biết ta gặt trong chỗ ta không gieo, và lượm lặt trong chỗ ta không rải ra; 27 vậy thì ngươi phải đưa bạc của ta lại cho người buôn bạc, rồi khi ta trở về, sẽ lấy vốn và lời. 28 Vậy, các ngươi hãy lấy ta-lâng của người nầy mà cho kẻ có mười ta-lâng. 29 Vì sẽ cho thêm kẻ nào đã có, thì họ sẽ dư dật; nhưng kẻ nào không có, thì cũng cất luôn điều họ đã có nữa. 30 Còn tên đầy tớ vô ích đó, hãy quăng nó ra ngoài là chỗ tối tăm, ở đó sẽ có khóc lóc và nghiến răng.”
Như vậy bài học này tập trung vào công tác tính sổ của các môn đồ, được gọi là những quản gia – đầy tớ, khi Chúa trở lại. Chúng ta không thể nói rằng: “Thưa Chúa tôi đã mang lấy ách của Chúa và vác thập tự giá mình theo Chúa. Tôi đã dâng thân thể mình làm của lễ sống và thánh… như vậy tôi được bước vào trong bàn tiệc của Chúa và nhận lấy phần thưởng.” Thực ra những điều này chỉ là bắt đầu nhưng chưa phải là kết thúc cho chức vụ của môn đồ. Với tư cách là những đầy tớ của Đấng Christ, chúng ta còn phải tính sổ công tác của mình với Chúa. Những gì Chúa đã giao phó và ủy thác cho chúng ta, chúng ta có làm cho nó được nhân bội, sinh lợi ra hay không? Nếu câu trả lời là không, thì chúng ta có khác gì tên đầy tớ dữ và biếng nhác trong hai ví dụ trên?
Khi Chúa trở lại, Ngài sẽ đánh giá chúng ta theo hai thang điểm: trung tín hay không trung tín? Trung tín có nghĩa là những gì Chúa ủy thác, chúng ta có trách nhiệm tính sổ với Chúa và làm lợi ra. Còn không trung tín có nghĩa là một đầy tớ xảo trá, không thể tin cậy được, chỉ biết chôn giấu những gì chủ giao và tất nhiên hậu quả nào theo sau chúng ta đã biết.
Sứ đồ Phao-lô cũng dạy chúng ta trong 1 Côr. 3:13-15, “công việc của mỗi người sẽ bày tỏ ra. Ngày đến sẽ tỏ tường công việc đó; nó sẽ trình ra trong lửa, và công việc của mỗi người đáng giá nào, lửa sẽ chỉ ra. 14 Ví bằng công việc của ai xây trên nền được còn lại, thì thợ đó sẽ lãnh phần thưởng mình. 15 Nếu công việc họ bị thiêu hủy, thì mất phần thưởng. Còn về phần người đó, sẽ được cứu, song dường như qua lửa vậy.” Và trong 2 Côr. 5: 9-10, “Cho nên chúng ta dầu ở trong thân thể nầy, dầu ra khỏi, cũng làm hết sức để được đẹp lòng Chúa. 10 Bởi vì chúng ta thảy đều phải ứng hầu trước tòa án Đấng Christ, hầu cho mỗi người nhận lãnh tùy theo điều thiện hay điều ác mình đã làm lúc còn trong xác thịt.”
Tới đây bạn hãy tự đánh giá, “tôi có phải là môn đồ của Đấng Christ?” Bạn có cam kết sẽ tiếp tục đi theo ý muốn Chúa và làm theo Lời Ngài? Đức Chúa Trời kêu gọi bạn trong chức vụ quản gia. Bạn có những đặc ân, đặc quyền. Và bạn cũng có những trách nhiệm phải tính sổ với Chúa. Mỗi một đặc quyền đều mang lại một trách nhiệm, và mỗi trách nhiệm đều dẫn đến một sự tính sổ trong ngày chung cuộc.

The end
J.DWIGHT PENTECOST
Translated by Tuong Vi

Trả lời

Hướng Đi Ministries Hướng Đi Ministries
9/10 1521 bình chọn