CHUYẾN HÀNH TRÌNH CUỐI CÙNG – 1929
“Sadhuji, đừng bao giờ liều lĩnh nữa! Ðừng trở lại nữa!”
Saundar trả lời như bao lần: “Tôi không bao giờ nghĩ rằng tôi sẽ trở về từ Tây Tạng!”
Ông đã cam chắc với các bạn rằng ông đã từng sắp xếp hết mọi sự, mọi vật dụng tư hữu trong trường hợp không trở về được. Hầu hết đó là những vật dụng cần ích cho con cái của người tin Chúa hoặc lợi ích cho các Giáo sĩ làm việc tại Tây Tạng.
Những người bạn tại Sabathu nhắc nhở ông rằng từ nhiều tháng nay, ông không luyện tập thể dục cho cường tráng và nhất là chuyến hành trình ngang qua các đèo cao 5,486.4 thước (18000 bộ) như thế mà người leo núi không chuyên tâm tập luyện kỹ càng thì chỉ chuốc lấy nguy hiểm mà thôi. “Tôi sẵn sàng cho cuộc hành trình mà tôi phải thực hiện” Sadhu trả lời.
Ðã vào tháng Tư năm 1929. Sadhu phải dừng lại Sabathu qua mùa đông và cũng có tham dự đại hội tại Bareilley. Một lần nữa tuyết của mùa đông vừa qua lại bắt đầu tan chảy làm cho những con sông tràn đầy nước. Rồi các tay lái buôn Tây Tạng cũng lại về quê vào hè. Những người hành hương tụ tập tại Kalka, họ đi dọc theo bờ sông Ganges cho chuyến du hành vĩ đại trong năm để về đất thánh Badrinath.
Gần Badrinath đường đi đã cụt, người ta phải đi dọc theo con sông Dauli cho đến đèo Niti, nơi đây có một vài gia đình tín hữu Tin Lành trú ngụ. Một lần nữa, “đoàn hành hương” rời Badrinath, mà lộ trình là con đường núi non cao tới 6096 mét (20,000 bộ). Những tảng đá khổng lồ treo ngang qua những con đừng mòn chật hẹp và bên kia là dốc đứng cao vời vợi trên 300 thước (1000 bộ). Vào mùa hè có nhiều ngựa và người leo núi đã từng bị rớt chết thảm thiết. Tuyết và băng đá làm cầu bắc ngang kẽ đá sâu thăm thẳm và bây giờ chỉ vài ba khúc gỗ thông làm cầu thay thế chiếc cầu bị gãy. Những cây gỗ ấy chẳng có vật chi chống đỡ từ bên dưới cũng không có gì bám chặt ở đầu cuối. Chúng có thể bị trật rớt giữa hai bờ đá dựng đứng rộng cỡ trên 15 mét mà bên dưới thác nước đổ ầm ầm sâu trên 150 mét.
Tuyết quanh năm, ngay trước mắt và chạy dài đàng xa làm chói mắt, đôi khi không thấy được con đường đi. Vào ngày 13 tháng 4 năm 1929, Sadhu con người cao ráo ấy tiến về cánh cổng nhà thương cùi. Ông cùng với thầy giảng Sunnu Lal, một thầy giảng Ấn Độ đã từng dấn thân vào việc phục vụ cho người cùi ở đây, bắt tay ông Watson, Giám đốc nhà thương cùi tại cổng vào. Sadhu đeo kính râm , cầm gậy và cũng như bao lần, chân không giày. Ông và Sunnu Lal đi xuống đồi hướng về Kalka, một thành phố nhỏ trên đồng bằng giáp ranh với những vùng đất cao nguyên và đường xe lửa đưa về Rishikesh, nơi khởi hành của “đoàn hành hương”
Không ai để ý khi Sadhu rời khỏi Kalka, mặc áo cà sa vàng và đeo kính đen dễ làm cho người ta nhận rõ ông. Không có cuốn sách du hành nào ký tên ông. Không có phúc trình nào của cảnh sát báo cáo bất cứ việc gì về ông trong “đoàn hành hương” đi về Badrinath. Những gia đình Cơ đốc nhân ở gần hồ Mansorowar, trong rặng núi Kailasss cũng không có tin tức gì về ông. Nhưng gần cuối tháng sáu, là thời gian mà ông đã báo trước cho các bạn thân là sẽ trở về và vì vậy mọi người bắt đầu lo âu về ông.
Ðã đến lúc thấy quá trễ để lo và quá trễ để điều tra.
Mọi dấu tích về Sadhu đã biến mất.
Ông không trở về nữa.
Cả ngàn bạn hữu Cơ đốc tin rằng ông đã gia nhập vào những vị ẩn tu trên vùng cao nguyên Kailas mà thật ra ông không hề có ý định tìm kiếm một đời sống tĩnh mịch như vậy. Những người khác tin rằng ông đã đi vào đất cấm Tây Tạng và đã tử đạo giống như người đồng hương của ông là Kartar Singh dạo nọ.
Nguời nào đã từng biết rõ ông hoặc đã từng gặp ông lần chót đều nghĩ về sức khỏe đáng ngại của ông: sức khỏe kém và cặp mắt một phần đã mù của ông. Họ nhớ đến sự leo trèo lên dốc đứng, những khoảng trống sâu thăm thẳm không có cầu. Họ nhớ lại những lời ông nói sẵn sàng cho sự chết và sự sửa soạn trong trường hợp không còn trở về nữa.
Họ biết điều gì đã xảy ra.
Họ biết người mặc áo cà sa vàng là người mong muốn biến đổi xã hội Ấn Độ, là người đã biệt tích và sẽ chẳng trở về nữa.
Sự chết của ông với đời sống mầu nhiệm ấy ít người hiểu cho được trọn vẹn. Họ tin rằng một ngày nào ông sẽ xuống khỏi những núi non hiểm trở đó chắc chắn không còn đúng nữa. Giữa những rặng núi mà ông đã từng băng ngang cũng không có mộ bia ghi nhớ tên ông. Dần hồi, truyền thuyết về ông cũng bị lãng quên. Tuy nhiên những người biết rõ về ông hơn hết cho rằng ông không chết đâu. Quả thật họ nói không sai. Tinh thần của ông vẫn sống trong Hội Thánh của Chúa Cứu Thế Jesus ở miền Bắc Ấn, làm phục hưng cho ý nghĩa của sự hiệp một, tinh thần trách nhiệm và mạo hiểm và một ngày nào đó có ai viết lịch sử Hội Thánh sẽ tìm thấy thông điệp của ông trong những đời sống được biến đổi, sự lãnh đạo và sự phục vụ của biết bao nhiêu người không đếm được cả nam lẫn nữ mà đối với họ, ông là tiếng nói của Thượng Đế.
Bài trước:
https://huongdionline.com/2016/04/07/ngon-lua-chay-tan/