Bốn mươi bốn năm – Sau hơn nửa đời người, chị tìm về chốn xưa! Qua bao sân vườn, qua bao con đường, qua bao đèo dốc chập chùng rừng thông, đồi cỏ … chuyến xe rồi cũng đến nơi cần đến!
An Khê của một thời thơ ấu đây rồi!
Chị tìm về khuôn viên ngôi giáo đường xưa nhưng qua bom đạn chiến tranh, qua những đổi thay thời cuộc, tất cả đều không còn nữa! Tất cả chỉ còn là kỷ niệm! Kỷ niệm của một thời trẻ con ngây dại, trốn ngủ trưa vô tư đuổi theo những cánh bướm, cánh chuồn chuồn la đà, chập chờn bay thấp, bay cao.
An Khê trong trí nhớ non nớt thời tiểu học của chị là những vườn cà, vườn rau xanh um nhưng có khi chỉ sau một đêm, cây cối đã rũ lá bởi đạn bom chiến tranh!
Nhớ ơi là nhớ những buổi trưa, ba chị em đầu trần dưới nắng, bắt chuồn chuồn, bứt đuôi, cắm cỏ may vào rồi thả ra xem con nào bay cao nhất trong tiếng cười giòn giã. Thình lình, có một con rắn bò qua, em trai chị cắm đầu cắm cổ rượt theo. Con rắn sợ hãi chui vô cái lỗ hổng gần nhà bà Tư gánh nước, Nguyện ta nắm đuôi rắn kéo ra. Sau một hồi giằng co, cậu bé năm tuổi vuột đuôi rắn nên té nhào. Nguyện mếu máo:
– Con rắn trốn mất rồi chị ơi!
-Ừa, tại con rắn này mạnh hơn em đó mà! Lần sau, gặp nó chị sẽ phụ với em kéo đuôi nó nhen!
Lớn lên rồi, mấy chị em mới biết và cảm tạ Chúa là Giê – hô – va Salom đã ban bình an, không cho gặp rắn nữa. Nếu không, chắc hẳn mấy chị em sẽ rượt theo bắt rắn và thế nào cũng bị rắn cắn!
Một buổi chiều, trời chuyển mưa, sấm sét đùng đùng …
Ầm, … ầm, … ầm! …
Tia sét đánh trúng vào em trai chị. Thành Nguyện mất hồn, chết điếng, không nói năng gì nữa. Ba bồng Nguyện, chỉ những hình ảnh trên tường có những con thú tượng trưng cho tội lỗi để hỏi Nguyện. Bình thường, Nguyện trả lời vanh vách nhưng lúc đó cứ im re, không nói lời nào. Ba má sợ hãi kêu cầu cùng Chúa, sau vài giờ đồng hồ, Nguyện mới chạy chơi và nói cười trở lại. Ba má vui mừng nói:
– Cảm tạ Chúa bình an, là Giê – hô – va Salom của chúng con!
Trưa hè trên cao nguyên, nắng lung linh trên những cành lá biếc, ba chị em dắt nhau lên đồi cỏ gần ấp chiến lược. Nhìn thấy một vật lạ cắm dưới đất ánh lên trong nắng, chị reo lên:
– Cái này đẹp quá! Ba đứa mình khiêng về nhà chơi hén!
Nói là làm liền! Ba chị em hè nhau khiêng cái vật xinh đẹp, sáng choang dưới nắng ấy về nhà ngay. Vừa đến sân nhà, mọi người hốt hoảng la to:
– Nguy hiểm quá! Ba đứa bay khiêng đầu đạn, lỡ nó nổ chết rồi sao?!
Tội nghiệp chú Thủy vừa mang “chiến lợi phẩm nguy hiểm” của ba chị em đi quăng vừa run lập cập vì nó có thể nổ cái “bùm” bất cứ lúc nào.
Cảm tạ Chúa là Giê – hô – va Salom đã ban bình an cho mọi người!
Sáng Chúa nhựt, mọi người đang ngồi nhóm trong nhà thờ, chị chạy về nhà uống nước. Ngang qua phòng ngủ, thấy chị Bình là người trông em bé đang soi gương, cạo lông mày, chị đứng yên quan sát. Chờ chị Bình xuống nhà dưới, chị cầm gương và dao lam thực hành ngay.
Phập! Lưỡi dao lam không cắt tỉa lông mày mà cắt ngay vào da trán chị làm máu chảy ròng ròng.
Chị hoảng hồn vừa khóc vừa chạy lên nhà thờ kêu ba kêu má ới ời! Ba bồng chị vô tư thất xử lý vết thương xong, đét cho mấy phát vô mông:
– Từ nay về sau không được chơi dao nữa nghe con!
Sau khi chị gặp sự cố đó, ba chị em thấy dao là tránh xa nên không có tai nạn nào về dao xảy ra trong nhà nữa!
Như bao đứa trẻ khác, ba chị em hay chơi trò rượt đuổi nhau. Chị chạy trước, hai em đuổi theo sát nút. Chị chạy nhanh vun vút rồi lao thẳng vô chùm dây kẽm gai trong sân luôn. Da chân chị móc dính vô dây kẽm gai đau điếng, càng cựa quậy máu càng chảy nhiều. Chị sợ hãi khóc òa lên trong khi hai em của chị ngơ ngác đứng nhìn sững, không biết phải làm gì!
May sao lúc đó có thầy Quách Chữ, thư ký hội thánh đi ngang qua. Thầy đặt tay lên đầu chị, nhắm mắt cầu nguyện. Thầy chưa mở mắt ra, chị đã rứt da chân ra khỏi dây kẽm gai và chạy biến. Chiều hôm đó, ba chị em bị phạt “dây chuyền” vì cái tội “chạy nhảy lung tung, rước họa vào thân” như lời ba rầy la.
Nhà thờ có Cô nhi viện nuôi các bạn thiếu niên, nhi đồng hoàn cảnh khó khăn, mồ côi cha mẹ. Lâu lâu, chị xuống đó ngủ chung với các chị cùng trang lứa. Buổi sáng thức dậy, không thấy bạn Hải của chị nằm bên cạnh đâu nữa. Chị đi tìm Hải và nghe mấy cô nói:
– Hải vì bịnh dịch hạch, đã lên thiên đàng với Chúa rồi con ơi!
Hai hàng nước mắt lăn dài từ đôi mắt trong sáng, ngây thơ của chị. Căn bịnh dịch hạch đã làm em gái chị suýt chết vì bị chích ngừa quá liều. Căn bịnh dịch hạch đã cướp đi sinh mạng người bạn nhỏ thân thiết của chị! Chị biết thiên đường có Chúa yêu trẻ thơ và xinh đẹp, yên vui lắm như những bức tranh nhiều sắc màu, cô hướng dẫn nhi đồng cho coi. Thế nhưng chị vẫn buồn thiệt buồn vì bạn Hải của chị đã đi xa lắc xa lơ và không hẹn ngày trở về!
Một hôm, ba đi chứng đạo trên núi về, kể cho cả nhà nghe:
– Sáng sớm, ba vô rừng để làm chứng về Chúa, một tín đồ cưỡi ngựa đi ngược chiều kêu to lên: “Thầy ơi! Tránh đi hướng bên đó, ông ba mươi đang đến.”
– Ông ba mươi là ai vậy ba?
– Là con cọp ăn thịt người đó con.
– Eo ôi! Ghê quá! Rồi sao nữa ba?
– Thì ba cầu nguyện và quẹo qua hướng khác đi tiếp. Đi được một đoạn ba nghe mùi hôi thúi nồng nặc xộc vô mũi. Ba nhìn sang rừng cây bên kia đường thấy thấp thoáng bóng một con cọp to như con bò. Bữa trước, ba còn gặp một con rắn hổ mang to cỡ cườm tay. Kinh khiếp vậy đó nhưng ba cứ đi đi, về về qua vùng rừng núi có nhiều thú dữ nguy hiểm nhưng vô hại đối với ba. Vì Đức Giê – hô – va Salom luôn ban bình an cho ba để ba truyền rao danh Chúa cho đồng bào sắc tộc.
Ôi! Những năm tháng chiến tranh khốc liệt như lời người lớn nói với nhau: “Ban ngày, vùng đất này là của quốc gia nhưng ban đêm là của cộng sản”. Đêm đêm, nhìn hỏa châu lóe sáng trên bầu trời như những cụm pháo bông; ngày ngày, nghe súng nổ đì đùng bên tai. Lâu lâu, còn hít phải mùi lựu đạn cay, khó chịu vô cùng! An Khê không một ngày bình yên nhưng Giê – hô – va Salom luôn bảo vệ gia đình chị yên bình trong bóng cánh Chúa! Ba đứa em nhỏ của chị – hai gái, một trai đã chào đời yên bình trên vùng đất xinh đẹp đầy bom rơi, đạn lạc ấy! Cảm tạ Đức Giê – hô – va Salom luôn ban bình an như lời Chúa trong Thi thiên 91: Người nào nhờ cậy Đức Giê-hô-va được bình an vô sự!
Chiều nay, trở về An Khê – Gia lai sau hơn 40 năm xa cách, tìm về chốn xưa nơi ba má từng hầu việc Chúa, chị bồi hồi nhớ đến người ba kính yêu.
“Vậy là đã gần mười năm rồi phải không ba? Mùa Thu lại sắp về rồi đó ba ạ! Mùa Thu buồn cách đây mười năm, gia đình mình đong đầy nước mắt tiễn ba đi … Mười năm đủ để con thấy nỗi mất mát lớn lao đến dường nào khi không còn có ba bên cạnh. Nhớ đến ba, con lại nhớ đến gương mặt nhân hậu với nụ cười hiền lành! Nhớ đến ba, con lại nhớ đến những lời dạy khuyên ân cần nhưng không kém phần nghiêm khắc! Nhớ đến ba là con nhớ đến tình yêu thương, lòng vị tha vô bờ bến! Nhớ đến ba là nhớ đến sự chịu đựng, đức hy sinh cho con cái đến nao lòng! Nhớ đến ba là nhớ đến lời nguyện cầu khẩn thiết mỗi đêm, ba má dâng lên Thiên Chúa! Nhớ đến ba là nghẹn lời yêu thương vì có nhiều điều con chưa kịp nói, chưa kịp làm … Ba ơi!!!”
Thung lũng giờ đây đã tươi xanh màu lá, thảo nguyên bên đèo An Khê yên ả, thanh bình trong gió chiều thoảng nhẹ! Một màu xanh bát ngát, mênh mông của đồng cỏ nên thơ gợi lên trong tôi những dòng thơ phổ theo Thi thiên 23:
Giê hô va! Chúa tôi ơi
Ngài luôn chăn giữ cuộc đời của tôi
Dắt tay tôi chẳng buông lơi
Đến đồng xanh ngát, tuyệt vời suối reo
Đời tôi sẽ chẳng thiếu nghèo
Linh hồn bồi bổ vì theo chân Ngài
Lối đi công chính thẳng ngay
Vì danh Ngài chẳng đổi thay, suy tàn.
Dẫu tôi đến trũng tử thần
Lòng tôi chẳng chút ngại ngần, khiếp kinh
Giê-hô-va – Đấng anh minh
Ở cùng dẫn dắt linh trình vững an!
Chén tôi sung túc đầy tràn
Đầu tôi thơm ngát tỏa lan dầu Ngài
Gậy trượng Ngài đỡ nâng tay
Bàn ăn Chúa dọn vui vầy lắm thay!
Chúa luôn thương xót tôi rày
Phước hạnh Ngài sẽ láng lai suốt đời
Giê-hô-va, Chúa cao vời
Nhà Ngài tôi sống muôn đời thỏa vui!
Ha-lê-lu-gia! Cảm tạ Đức Giê – hô – va Salom, Đấng ban bình an giữa thế giới luôn thay đổi, rối reng và chẳng mấy khi thật sự an bình này!
Nguyện cầu Giê – hô – va Salom ban an bình cho con dân Ngài trên quê hương Việt nam! Nguyện cầu Giê – hô – va Salom ban hòa bình trên khắp hành tinh xanh tươi đẹp do Ngài tạo dựng này!
Thương về An Khê qua lời kể chị yêu
DIÊN VĨ