Thứ Hai , 23 Tháng Mười Hai 2024
Home / Trang Chủ / Sự Khác Biệt Giữa Cơ đốc giáo và Phật giáo?

Sự Khác Biệt Giữa Cơ đốc giáo và Phật giáo?

Là người Việt Nam, chúng ta cần tìm hiểu về Đạo Phật là đạo đang có nhiều người theo.  Chúng ta cần biết sự tương đồng lẫn sự dị biệt giữa Đạo Chúa và Đạo Phật. Chúng ta tôn trọng niềm tin và quyết định của người theo các tôn giáo khác, nhưng chúng ta cần biết sự thật về sự khác nhau giữa các tôn giáo để khỏi mơ hồ và khỏi hiểu lầm.

 

Những điểm tương đồng giữa Đạo Phật và Đạo Chúa:

Cả hai bên đều nhìn nhận về sự kiện vô thường. Nhìn cuộc đời chúng ta thấy sự đổi thay. Không có gì là vĩnh viễn cả, cỏ khô, hoa rụng, đế quốc nầy hưng thịnh rồi suy đồi, người ta sống rồi người ta chết. Đời sống con người sinh ra, lớn lên, trở nên già, mắc bệnh rồi chết. Đó là vô thường.

Cả hai bên đều nâng cao các tiêu chuẩn đạo đức. Cả hai đều dạy mọi người phải nói thật, kỹ luật, tâm trí tinh sạch, thương người. Cả hai đều cấm giết người, cấm gian dối, cấm tham muốn tình dục, cấm nói dối, tham ăn, và say sưa. Trong Đạo Phật có Ngũ Giới và Bát Chánh Đạo thì trong Đạo Chúa có Mười Điều Răn.

Cả hai bên đều nhấn mạnh đến sự suy gẫm và kỹ luật tự giác.

Cả hai bên đều khen ngợi sự thương người và kính trọng sự sống. 

Đạo Phật dạy hãy từ bỏ mọi ham muốn, Đạo Chúa dạy hãy giữ mình khỏi những dục vọng thấp hèn và ô uế.

Đạo Phật phái Đại Thừa tin nơi thiên đàng và địa ngục với phần thưởng hay hình phạt tương lai cũng tương tự như quan niệm về tương lai thưởng phạt của Đạo Chúa.

Cả hai đều nói về sự bình an trong tâm hồn.

Những điểm dị biệt giữa Đạo Phật và Đạo Chúa:

Đạo Chúa bắt đầu và kết thúc với Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời là Căn Nguyên Đầu Tiên và Mục Đích Cuối Cùng. Đạo Phật không muốn đề cập đến Đức Chúa Trời, chỉ chủ ý đến chính mình. Theo Đạo Phật đời là không có ý nghĩa, theo Đạo Chúa đời có ý nghĩa vì có Chúa.

Đức Phật kiên quyết phủ nhận bất cứ lời tuyên xưng thần thánh nào dành cho Ngài. Đức Phật chỉ dạy: “Ta đã tìm được con đường, và bây giờ ta chỉ cho các ngươi con đường.” Đức Chúa Giê-su tự nhận là Con Đức Chúa Trời, “Ta với Cha là một.” Ngài tuyên bố rõ ràng, “Ta là đường đi, chân lý và sự sống.” Chúa Giê-su chấp nhận sự thờ phượng của nhiều người đương thời dành cho Ngài.

Giữa sự vô thường của thế giới và đời sống (Đạo Phật nhấn mạnh), có một Đấng Christ bất biến và một nước Trời không hề lay chuyển (Đạo Chúa khẳng định).

Đạo Phật tập chú vào con người—nhu cầu của con người và nổ lực của con người trong khi Đạo Chúa tập chú vào Đức Chúa Trời–mục đích của Ngài và sự cung ứng của Ngài.

Đạo Phật tin rằng không có gì vĩnh cửu hay bất tử trong thân thể con người. Không có bản ngã đời đời nào cả. Đạo Chúa tuyên bố rằng con người có một linh hồn vĩnh cửu. Sự thực hữu của bản thân và cá tính là thật.

Nan đề căn bản trong Đạo Phật là sự đau khổ. Nan đề căn bản trong đức tin Đạo Chúa là tội lỗi.

Sự giải thoát theo Đạo Phật là hết khổ, thoát ra khỏi vòng sinh tử luân hồi không bao giờ dứt. Sự cứu rỗi theo Đạo Chúa là được giải phóng khỏi ách tội lỗi và giải hoà với Đức Chúa Trời. Đó là sự phát triển trưởng thành trong đời sống mới sau khi được Chúa tái sinh.

Trong Đạo Phật mỗi cá nhân phải tạo ra sự giải thoát cho mình qua nổ lực riêng của chính mình. Sự giải thoát thành đạt được là qua sự suy gẫm (thiền định), các việc lành, và sự hiểu biết. Đạo Chúa tuyên bố rằng không một ai có thể tự cứu chính mình. Sự cứu rỗi là một món quà của Chúa ban. Tội nhân được cứu “nhờ ân điển … bởi đức tin” (Ê-phê-sô 2:8).

 Tin Lành Cho Người Theo Phật

Điều khó nhất khi người Tin Lành nói chuyện với các Phật tử là Đạo Phật không tin có Trời, cũng không bàn về Trời. Vì thế, nếu không ai có tội với Trời thì cũng không ai cần sự giải phóng khỏi tội lỗi. Theo Đạo Phật đau khổ là cái ác lớn nhất, và tham muốn là căn nguyên của đau khổ. Không còn tham muốn thì đau khổ sẽ chấm dứt. Theo Đạo Phật thì yêu cũng là tham muốn trong khi Đạo Chúa dạy hãy yêu Chúa và yêu nhau, thậm chí yêu cả kẻ thù. Vậy chúng ta sẽ thuyết phục các Phật tử trở lại với lẽ thật và tin cậy Chúa như thế nào?

Có một tín đồ của Chúa đã đề nghị cách trình bày Tin Lành dễ hiểu đối với người theo Phật như sau: Chúng ta có thể gọi đây là “Bốn Lẽ Thật” của người tin Chúa giống như người theo Phật có “Tứ Diệu Đế”.

Bốn Lẽ Thật là:

  1. Đau khổ là một sự kiện của đời sống.
  2. Căn nguyên của đau khổ là tội lỗi.
  3. Giải pháp cho tội lỗi là sự chịu khổ thế của Chúa Giê-su.
  4. Phương pháp giải cứu là lấy đức tin nhờ cậy Chúa Giê-su. Không tự cứu nhưng hoàn toàn nhờ Chúa cứu. Tin cậy vâng lời Chúa.

images (24)

Ý Nghĩa của Bốn Lẽ Thật. 

    1. Đau khổ là một sự kiện của đời sống.

Không ai chối cãi là đời sống đầy đau khổ. Khổ về tâm trí như thất bại, thất vọng, chia lìa, buồn lo, cô đơn, sợ hãi, băn khoăn xao xuyến… Khổ về thể xác như bệnh hoạn, tật nguyền, khó chịu, đau đớn thân xác và chết chóc. Sự đau khổ không từ một ai, từ già đến trẻ, từ giàu đến nghèo, từ có học đến thất học, từ người Á đến người Âu, không ai tránh thoát được đau khổ trên cuộc đời nầy.

    1. Căn nguyên của đau khổ là tội lỗi.

Đạo Phật tuyên bố rằng tham muốn là căn nguyên của đau khổ, và do đó chúng ta cần chấm dứt tất cả các tham muốn—ngay cả niềm khao khát muốn sống. Nhưng chúng ta cần biết không phải tất cả mọi ham muốn đều ác. Có một số điều ham muốn do Chúa ban cho và hợp pháp như đói, khát, yêu, nguyện vọng và tình thương. Chỉ khi chúng ta không biết kiềm chế những ham muốn nầy và cố gắng thỏa mãn những ham muốn nầy cách sai trái thì chúng mới trở thành ác. Kinh Thánh nói rõ rằng gốc rễ của đau khổ còn đi sâu xa hơn là sự ham muốn. Ham muốn chỉ là một hiện tượng của một chứng bệnh thật. Chứng bệnh đó là tội lỗi.

Nan đề căn bản của đời sống không phải là đau khổ nhưng là tội lỗi. Tội lỗi không phải chỉ là mối quan hệ không tốt với người khác như dối trá, trộm cướp… Tội lỗi chủ yếu là mối liên hệ sai trật của con người với Đức Chúa Trời. Đó là sự phản nghịch, sự bất trung mà chúng ta chứng tỏ với Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Thành chúng ta. Đó là tinh thần cậy chính mình là trung tâm, là tự mãn, là tin rằng tự mình có thể quyết định số phận của mình. Hậu quả của mối quan hệ sai trật với Chúa biểu hiện trong mối quan hệ sai trật với người khác. Giống như chúng ta từ khước hay lạm dụng Chúa, chúng ta cũng từ khước hay lạm dụng người khác. Chúng ta quên rằng không có điều gì chúng ta đang có (kể cả mạng sống của chúng ta) mà không phải nhận lãnh từ Đức Chúa Trời. “Đức Chúa Trời ban sự sống, hơi sống, muôn vật cho mọi loài” (Công Vụ 17:25).

Tính chất tội lỗi nằm ở mối liên hệ bị đứt đoạn của chúng ta với Đức Chúa Trời. Không phải chúng ta chỉ vi phạm những luật lệ đạo đức của Chúa truyền, nhưng chúng ta còn xúc phạm đến chính bản tính của Chúa. Chúng ta bất tín, bất trung, chúng ta không chịu vâng lời Chúa. Chúng ta xây lưng không tìm kiếm Chúa. Chúng ta chiều theo ý riêng và không muốn chiều theo ý Chúa. Vì thế nếu chúng ta cố tu sửa, đi theo người nào đó chỉ đường, làm một vài việc lành, nhưng không làm gì đối với ý muốn của Chúa thì chắc chắn không đủ. Kinh Thánh mô tả, “Vì mọi người đều đã phạm tội, hụt mất sự vinh hiển của Chúa.” Nhu cầu cấp thiết nhất của chúng ta là một Đấng Cứu Thế có thể làm cho chúng ta chính cái điều chúng ta không làm được. Ngài sẽ là Đấng biến đổi tôi, cất khỏi tôi bản tính phản nghịch với Chúa, giúp tôi giải hoà với Chúa, thiết lập một mối liên hệ hoà bình, tự nhiên và thông suốt với Chúa. Chính tôi là nan đề chứ không phải thế giới, chính tội lỗi tôi mới là căn nguyên chứ không phải là sự đau khổ. Đau khổ chỉ là hậu quả của mối giao thông của tôi với Chúa bị đứt đoạn. Chúa là nguồn sống, nguồn phước của đời sống tôi và tôi không còn giao thông gì với Chúa. Kinh Thánh chỉ rõ rằng sự đau khổ trên thế gian—như sợ hãi, lo âu, đau đớn, bệnh tật, tang tóc–tất cả là do tội lỗi của loài người mang đến. Tội lỗi là chứng bệnh nan y.

    1. Giải pháp cho tội lỗi là sự chịu khổ thay của Chúa Giê-su.

Đúc Chúa Trời với tình yêu của Ngài đã đi bước đầu tiên để giải quyết vấn đề tội lỗi của loài người. Nên nhớ Đức Chúa Trời dựng nên loài người với ý chí tự do. Điều nầy có nghĩa con người có thể đi sai lạc và gây đau khổ cho chính mình. Sự đau khổ của loài người làm cho lòng Chúa buồn. Khi loài người phạm tội, Đức Chúa Trời khởi đầu chịu khổ đau. Ngay từ đầu Đức Chúa Trời đã nghĩ đến “một chiên con bị giết từ buổi sáng thế.” Đó là giải pháp chết thế của Con Ngài trên thập tự giá vì tội lỗi của toàn nhân loại.

Chúng ta chỉ biết được điều nầy khi nhìn thấy chính Chúa Giê-su, Con Một Đức Chúa Trời đã trở thành một người trong dòng lịch sử, sống giữa tội lỗi và khổ đau của thế gian. Ngài sống như một người hoàn toàn với những kinh nghiệm như một người nghèo, làm nghề thợ mộc, biết đói, biết khát, biết khóc, biết cười… nhưng không phạm tội. Ngài sống như một Ông Trời sống giữa thế gian, Ngài bày tỏ quyền năng trong lời nói, việc làm, Ngài có quyền trên thiên nhiên, trên ma quỷ, trên bịnh tật, trên sự sống. Cuối cùng Ngài đã đã chấp nhận để cho loài người đóng đinh Ngài trên cây thập tự trên đồi Gô-gô-tha ở nước Do Thái. Ngài chết thay cái án chết của hết thảy loài người.

Đối với người theo triết lý Phật, chúng ta có thể nói Chúa Cứu Thế Giê-su đã gánh lấy hết cái nghiệp (karma) của chúng ta, Chúa gánh hết tội của chúng ta trên chính mình Ngài. Ngài gánh hết mọi đau khổ cả tinh thần lẫn thể chất của hết thảy loài người và biến sự chết đó thành một giải pháp cứu rỗi loài người. Ngài gánh lấy sự đau khổ bi đát nhất để biến nó thành sự đắc thắng vĩ đại nhất.

 

    1. Phương pháp giải cứu là lấy đức tin nhờ cậy Chúa Giê-su. Không tự cứu nhưng hoàn toàn nhờ Chúa cứu.

Người theo Phật tin lời Phật cho rằng con người có thể tự cứu mình bằng kỹ luật hãm mình, tu sửa. Đạo Phật dạy mỗi người phải tự cứu mình. Không có Đấng nào ở bên ngoài có thể cứu mình. Trái lại, Kinh Thánh quả quyết con người là tội nhân và tuyệt đối không ai có thể tự cứu bằng bất cứ cố gắng nào. Nếu có sự cứu rỗi nào thì giải pháp đó phải đến từ Đức Chúa Trời. Giải pháp của loài người là phải vâng theo các lời chỉ dẫn, giáo huấn trong các kinh kệ, trái lại giải pháp của Chúa là hãy tin cậy và vâng lời một mình Con Đức Chúa Trời.

Ý Nghĩa Của Món Quà Cứu Rỗi

Chúa Giê-su phán, “Ta đã đến hầu cho các con được sống và được sự sống dư dật” (Giăng 10:10). Chúa cứu chúng ta để đem đến cho chúng ta đời sống có ý nghĩa. Điều nầy có nghĩa là nhập thế chứ không phải xuất thế. Chúng ta đi vào đời và làm cho đời đẹp hơn. Chúng ta được cứu khỏi tội lỗi không có nghĩa chúng ta tự động được giải thoát khỏi đau khổ và sự chết trong cuộc đời nầy. Chúng ta vẫn còn đau khổ và phải chết. Nhưng Chúa Giê-su đã rút hết nọc độc ra khỏi sự đau khổ và sự chết. Chúa đã gánh hết đau khổ để biến sự  chết của Ngài thành giá cứu chuộc và bây giờ Ngài ban cho chúng ta quyền năng để đối diện sự đau khổ một cách đắc thắng. Chúa đã chiến thắng sự chết qua sự sống lại của Ngài, nhờ thế chúng ta không còn sợ chết nữa. Chết chỉ là cánh cửa để chúng ta bước vào sự hiện diện vinh hiển của Chúa cách bình an. Ngày nay chúng ta làm việc Chúa không phải để tiến tới chiến thắng nhưng là từ chiến thắng, chiến thắng của Ngài.

Một tin mừng cần biết là sự cứu rỗi chúng ta vui hưởng trong cuộc đời nầy chỉ là tiên vị chúng ta sẽ nếm biết về sự cứu rỗi hoàn toàn trong tương lai. Thời gian sẽ đến khi ngay cả tội lỗi, đau khổ và sự chết sẽ không còn nữa. Lúc đó chúng ta sẽ được sống lại với thân thể mới để sống đời đời. Chúng ta sẽ sống cùng với Chúa Giê-su trên thiên đàng.

Sự cứu rỗi đã được Chúa làm xong, nhưng phần con người thì phải biết đón nhận. Đức Chúa Trời đã đáp ứng nhu cầu của con người, bây giờ con người phải hưởng ứng với giải pháp Chúa đã làm xong. Chúng ta có thể đón nhận món quà Chúa ban hay cũng có thể khước từ. Nếu tôi từ khước sự cứu rỗi trong Chúa Giê-su và sống tiếp tục trong tội lỗi thì sự đau khổ là “tiền công” tôi phải trả. Tôi sẽ khổ trong đời nầy và sẽ khổ hơn trong đời sau. Nhưng nếu tôi ăn năn tội (thay đổi thái độ đối với chính mình và với Chúa) và tôi tin cậy Chúa Giê-su là Đấng Cứu Rỗi tôi, thì tôi sẽ nhận lãnh sự tha tội và sự sống đời đời Chúa ban. Tôi sẽ kinh nghiệm sự bình an vui thoả trong đời nầy và cả sự vinh hiển trong đời sau.

Kết quả của một đời sống được cứu rỗi là đời sống đạo đức và làm những việc lành. Kinh Thánh dạy, “đức tin mà không việc làm là đức tin chết” (Gia-cơ 2:26). Khi đã tin Chúa bạn sẽ có khả năng làm các việc lành như Chúa muốn. Đây là khả năng Chúa ban vì bạn có Chúa trong lòng. Người tin Chúa có Đức Thánh Linh ngự trị trong đời sống, Ngài sẽ ban ơn để giúp chúng ta trở nên con người Chúa muốn.

Dưới gốc cây bồ đề hay dưới chân thập tự giá?

Người theo Phật kính trọng cây bồ đề vì dưới gốc bồ đề, Đức Thích Ca đã ngồi thiền, đã suy gẫm, đã được sự hiểu biết và đạt được sự giải thoát cho chính mình. Gốc cây bồ đề có 3 ý nghĩa:

  1. Nó tượng trưng sự hiểu biết trọn vẹn. Bồ-đề có nghĩa là sự hiểu biết hay sự khôn ngoan.
  2. Nó có nghĩa là thành đạt của sự tự cứu rỗi. Đức Phật đạt được sự giác ngộ cho chính mình. Đức Phật không tuyên bố sẽ cứu rỗi được ai.
  3. Nó có nghĩa là thoát ly khỏi thế gian. Một người có thể được giải thoát nếu thoát ly thế gian.

Người theo Chúa yêu mến cây thập tự. Chúa Cứu Thế chết trên thập tự giá. Thập tự giá là biểu hiệu của Đạo Chúa. Trong khi Đức Phật ngồi thiền suy gẫm dưới chân cây bồ đề thì Chúa Giê-su chịu chết trên cây thập tự. Cây thập tự có ý nghĩa khác với cây bồ đề.

  1. Nó tượng trưng tình yêu trọn vẹn. Chính tình yêu đã thúc đẩy Chúa Giê-su tiến lên thập tự giá, Ngài không phải đi tìm sự hiểu biết.
  2. Nó có nghĩa sự cứu rỗi cho mọi người trên thế gian, vì Chúa chết cho mọi người.
  3. Nó có ý nghĩa nhập thế chứ không phải xuất thế. Chúa Giê-su dạy hãy đi khắp thế gian để giảng Tin Lành cứu mọi người.

Bạn có quyền lựa chọn, bạn sẽ chọn ai? Đã biết đường, bạn sẽ chọn đường nào?

Mời bạn suy nghĩ đến lời chứng của Tiến Sĩ Lâm Ngữ Đường, một học giả nổi tiếng người Trung Quốc, khi ông nói đến quyết định của mình về Chúa.

“Bây giờ thì tôi tin rằng nếu không có tôn giáo, con người không thể nào sống còn…

Con người không thể nào, và sẽ chẳng bao giờ có thể tự giải quyết vấn đề của chính mình, và tôn giáo nào dựa vào khả năng tự trở thành hoàn thiện để cứu giúp người thì chưa thể kể là tôn giáo…

Con người cần được nối kết với một Sức Mạnh ở bên ngoài và lớn hơn chính mình.

Tôi tin rằng đức tin Cơ-đốc, qua sự mặc khải của Chúa Cứu Thế, đã cung ứng cho con người con đường duy nhất dẫn đến Đức Chúa Trời.”

Đọc báo Hướng Đi tại đây:

http://huongdi.today

 

Mục Sư Nguyễn Văn Huệ

Sách tham khảo:

John T. Seamands, Tell It Well: Communicating The Gospel Across Cultutres, Missouri: Beacon Hill Press Of Kansas City, 1981.

Trả lời

Hướng Đi Ministries Hướng Đi Ministries
9/10 1521 bình chọn