Một buổi sáng mùa đông giá lạnh, Hạ Vy đứng nhìn cảnh vật phủ đầy tuyết trắng qua khung cửa sổ, những bông tuyết trắng tinh rơi đầy trên những cành thông nhỏ quanh nhà, giờ đây đã trở thành những hạt băng đá li-ti và óng-ánh lung-linh bởi sự phản chiếu của ánh nắng mặt trời, tạo nên một khung cảnh tuyệt đẹp của mùa Giáng-sinh trên đất khách quê người có biệt danh là “Xứ Lạnh Tình Nồng”. Hạ Vy thầm cảm tạ Đức Chúa Trời đã tạo nên bức tranh đầy tuyệt tác này. Khung cảnh tuyệt tác bởi quyền-năng của Ngài trên vũ trụ bao la: Trời, Đất, Biển, và các Suối Nước, trong đó có loài người để làm vinh-hiển danh Ngài. Hạ Vy chắc chắn rằng sự hiện diện của Hạ Vy trên xứ lạ quê người không phải là một sự hiển nhiên nhưng đó là chương trình của Đức Chúa Trời, Ngài đã bảo toàn sự sống cho Hạ Vy và những người chung thuyền trong những ngày lênh đênh trên biển cả mênh mông để đi tìm cho chính mình một sự sống mới.
Ngày đó … tại căn nhà tôn trong đêm khuya tối om, người mẹ hiền nắm tay con gái út nghẹn ngào bảo:
– Đi… đi… con! Hãy nghe lời anh con! Nhà chúng ta nghèo, không có tiền đóng lệ phí mà người ta cho hai anh em đi không như vậy là phước lắm đó con à.
Mặc dầu bảo như vậy, nhưng mẹ có muốn xa đứa con gái cưng của mẹ đâu, và Hạ Vy cũng vậy, Hạ Vy có muốn xa mẹ bao giờ. Hạ Vy chấp nhận sống với cảnh nghèo đói để có mẹ thôi! Thấy Hạ Vy không chịu rời mẹ, anh hai lên tiếng:
– Khuya rồi, đi mau!
Từ giã mẹ lần cuối trong bóng đêm thanh vắng, nước mắt cứ chảy dài trên đôi má, Hạ Vy cố gắng không để bật thành tiếng khóc. Đi bộ từ nhà đến bãi biển, Hạ Vy không khỏi thắc mắc: “Tại sao phải ra đi? Tại sao?”. Có lẽ lúc đó Hạ Vy còn quá nhỏ, chưa hiểu gì về cuộc sống hiện tại nên ấm ức lắm!
Cảm giác lành lạnh, trong ánh sáng lờ mờ, có tiếng nói rì rầm của ai đó đã chợt đánh thức Hạ Vy dậy. Nhận biết mình đang ở trên một con thuyền nhỏ bé, Hạ Vy chợt đưa mắt nhìn quanh thuyền để tìm kiếm anh của mình, bổng một giọng nói không mấy gì thân thiện vang lên:
– Anh của mày đã bị bỏ lại rồi!
Một cảm giác đơn độc đã làm Hạ Vy run hết cả người, nhìn chung quanh thì thấy hai phần ba người trên thuyền đều là họ hàng với ông chủ , họ nói chuyện với nhau rất hung dữ làm Hạ Vy càng thêm sợ hãi và lật đật chui vào ngồi một góc mà thút thít khóc. Chợt có một bàn tay ấm áp nắm lấy tay của Hạ Vy, giật mình ngước mắt lên, Hạ Vy thấy một phụ nữ tóc đã điểm bạc đang nhìn mình mỉm cười và dịu dàng nói:
– Không sao đâu cháu! Đức Chúa Trời sẽ cho chúng ta đến bến bờ bình an.
Người phụ nữ này vẫn đặt bàn tay nhỏ bé của Hạ Vy trong lòng bàn tay của bà và nhắm mắt thì thầm điều gì đó mà Hạ Vy không sao hiểu được. Hạ Vy cảm thấy bình an hơn, có một sức mạnh nào đó đã giúp Hạ Vy có can đảm hơn mặc dầu không có một ai thân quen và chung quanh con thuyền đều là những giòng nước mênh mông bất tận. Đêm đến, nhiệt độ trên biển xuống rất thấp, không chăn không gối, nằm co ro trên boong thuyền Hạ Vy phải chịu đựng cơn lạnh thấu xương thấm vào da thịt nên không thể nào ngủ được. Hạ Vy thấy con thuyền thật nhỏ bé so với mặt biển mênh mông và muôn ngàn vì sao lấp lánh tuyệt đẹp trên bầu trời bao la kia, Hạ Vy thầm nghĩ: “chỉ có Đấng Quyền-Năng mới dựng nên được khung cảnh hùng vỹ này: Trời, Đất, Biển và muôn vật trong nó.” Chợt có tiếng quen thuộc của người phụ nữ hồi sáng thì thầm:
– Cháu đang nghĩ gì đó?
– Dì ơi! Tại sao có dãy Thiên-hà lộng lẫy với hàng tỷ vì sao ở trên trời và biển Đại-dương bao la đáng sợ vậy dì?
– Đó là quyền năng của Đức Chúa Trời đã tạo nên những sự lớn lao diệu-kỳ này đó cháu à.
Hơi thắc mắc về ba chữ “Đức Chúa Trời” Hạ Vy liền hỏi:
– Dì ơi! Đức Chúa Trời có phải là ông Trời không vậy?
– Phải đó cháu! Đức Chúa Trời chính là ông Trời mà người Việt Nam chúng ta thường hay nhắc đến mỗi khi gặp khó khăn đó. Những người nông dân luôn cầu Trời cho mưa xuống để họ cày cấy, cho mùa màng được tốt tươi. Có người đau củng kêu Trời, đói no gì củng kêu Trời, vậy mà họ không chịu thờ ông Trời.
Hạ Vy thích nghe dì nói về ông Trời lắm, Hạ Vy tin chắc rằng Đức Chúa Trời của dì thật Quyền- năng và yêu-thương hết thảy mọi người. Mãi suy nghĩ miên man về ông Trời mà Hạ Vy chìm vào giấc ngủ hồi nào không hay, cho đến khi nghe tiếng nước rì rào và ánh nắng ban mai rọi vào mắt thì Hạ Vy mới chợt bừng tỉnh và thầm cám ơn ông Trời đã cho Hạ Vy một giấc ngủ thật ngon.
Người chủ thuyền vừa công bố rằng trên thuyền không còn đồ ăn hay nước uống gì nữa cả. Vì tối hôm qua đã có những đợt sóng lớn lắc con thuyền quá mạnh làm cho tất cả những bọc nước to, dầu và gạo đều bị hư hết. Mọi người trên thuyền bắt đầu xôn xao lo lắng, nhưng riêng dì và hai người em của dì thì rất bình tĩnh làm Hạ Vy ngạc nhiên hỏi:
– Dì có sợ bị đói và khát không?
– Hãy ngồi xuống đây với dì! Chúng ta sẽ không sao đâu, Đức Chúa Trời đã sắm sẵn cho chúng ta mọi điều cần thiết rồi. “Ấy vậy, các ngươi chớ lo-lắng mà nói rằng: Chúng ta sẽ ăn gì? Uống gì? Mặc gì? Vì mọi điều đó, các dân ngoại vẫn thường tìm, và Cha các ngươi ở trên trời vốn biết các ngươi cần dùng những điều đó rồi. Nhưng trước hết, hãy tìm-kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công-bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa.” (Ma-thi-ơ 6:31-32)
Kể từ sáng hôm ấy, Hạ Vy lúc nào củng ngồi sát bên dì để được nghe dì nói về Đức Chúa Trời đầy năng-quyền của dì. Qua dì, Hạ Vy học biết được rất nhiều điều về ông Trời của người Việt Nam và của tất cả nhân loại trên toàn trái đất: Ông Trời chính là Đấng Tạo Hóa, là Đức Chúa Trời toàn năng, là Đấng Tự Hữu và Hằng Hữu là Đấng sáng tạo nên vũ trụ, trời, đất lớn lao kỳ-diệu trước mắt thấy của loài người. Bởi quyền-năng và sự sáng tạo siêu-nhiên của Ngài mà mọi vật được dựng nên. Nhìn vào những kỳ công trong vũ trụ bao la diệu-kỳ này loài người sẽ thấy được sự cao-cả, vinh-quang, quyền-năng và vinh-hiển của Đấng tạo hóa. Ngoài Ngài không có một Đấng nào khác.
Dì nói cho Hạ Vy biết Chúa Giê-xu chính là Đức Chúa Trời Toàn-Năng, từ buổi sáng thế đã tạo nên những Thiên-htà hùng vĩ và những Thiên-vân lộng lẫy, chứa đựng muôn vàn tinh tú trên bầu trời bao la kia. Loài người không thể đếm hết các ngôi sao, nhưng Chúa đã đặt tên cho từng ngôi sao một và hàng tỷ ngôi sao ấy được sắp xếp một cách trật tự và cân đối kỳ-diệu trên bầu trời. (Ê-sai 40:26)“Hãy ngước mắt lên cao mà xem: Ai đã tạo những vật này? Ấy là Đấng khiến các cơ-binh ra theo số nó, và đặt tên hết thảy; chẳng một vật nào thiếu, vì sức-mạnh Ngài lớn lắm, và quyền-năng Ngài rất cao.”
Đức Chúa Trời là Đấng đầy lòng nhân-từ và yêu-thương con người, Ngài đã sắp xếp mặt trời vào một chỗ nhất định để cung cấp năng lượng và ánh sáng cho trái đất, vì không có năng lượng và ánh sáng của mặt trời thì toàn bộ sự sống trên trái đất đều bị hủy diệt. Không giống như những loài vật khác, Ngài đã tạo ra loài người để thờ phượng Ngài, loài người có lương tâm và có linh hồn vô giá, có quyền cai quản muôn vật trên đất. Đức Chúa Trời đã tạo sẳn vô số loài thú đồng, loài chim trời, cá dưới biển và muôn vàn cây trái trên đất để loài người cai quản và làm vật thực. Mặt trăng được Đức Chúa Trời tạo nên không những thể hiện vẻ đẹp thanh-nhã mỹ-miều của nó mà mặt trăng còn là tầm quan trọng lớn đối với trái đất nữa. Đức Chúa Trời dựng nên mặt trăng để điều khiển khí hậu của trái đất không bị thay đổi bất thường, để chỉ thì tiết, điều khiển thủy triều của sông biển. Mặt trăng còn giúp trái đất giữ vững độ nghiêng của nó trong suốt quá trình xoay chung quanh mặt trời mà không bị thay đổi như Chúa đã sáng tạo ra nó, chỉ cần độ nghiêng của trái đất xê dịch một chút thôi thì củng đủ cho một nửa phần trái đất gần hướng mặt trời sẽ bị đốt cháy và nửa phần xa mặt trời sẽ đều bị đóng băng. Tất cả những điều này chứng tỏ rằng Đức Chúa Trời là Đấng Quyền-năng, giàu lòng nhân-từ, và tình-yêu vĩnh-cửu của Ngài đã dành cho loài người thật sâu rộng dường bao. Trái đất là một trong những kỳ công mà Đức Chúa Trời đã tạo dựng trên vũ trụ bao la này đã chứng minh về sự hiện-hữu của Đấng Tạo Hóa Toàn-năng. Đức Chúa Trời dựng nên trái đất không phải là không có công dụng mà là để cho loài người ở. (Thi-thiên 104:24) “Hỡi Đức Giê-hô-va, công-việc Ngài nhiều biết bao! Ngài đã làm hết thảy cách khôn-ngoan; Trái đất đầy-dẫy tài-sản Ngài.” Trái đất đã được Đức Chúa Trời tạo nên cung cấp đầy đủ tiện nghi cho sự sống của loài người trên đất như: không khí, nước, ánh sáng và thực phẩm. Những tiện nghi hoàn hảo này chứng minh về sự nhân-từ và tình-yêu vô đối của Đấng Tạo Hóa Toàn-năng đã dành cho loài người bao la vô bờ bến và loài người không thể phủ nhận rằng “không có Đức Chúa Trời”. (Thi-thiên 8:3-4)“Khi tôi nhìn-xem các từng-trời là công-việc của ngón tay Chúa, Mặt trăng và các ngôi sao mà Chúa đã đặt, Loài người là gì, mà Chúa nhớ đến? Con loài người là chi, mà Chúa thăm-viếng nó?”. Qua những quyền năng sáng tạo vĩ đại của Đức Chúa Trời con người không thể nào phủ nhận rằng “không có Đấng-Tạo-Hóa”. (Rô-ma 1:20)“Bởi những sự trọn lành của Ngài mắt không thấy được, tức là quyền-phép đời đời và bổn tánh Ngài, thì từ buổi sáng-thế vẫn sờ-sờ như mắt xem-thấy, khi người ta xem-xét công-việc của Ngài. Cho nên họ không thể chữa mình được,”. Nhìn vào những tạo vật vĩ đại kỳ-diệu trên trái đất và trên bầu trời, nơi nào cũng thể hiện quyền-năng siêu-nhiên và tình-yêu cao cả của Đức Chúa Trời đối với loài người. (Thi-thiên107:31)“Nguyện người ta ngợi-khen Đức Giê-hô-va vì sự nhân-từ Ngài, Và vì các công-việc lạ-lùng Ngài làm cho con loài người!”. Càng nghe dì giải thích đến đâu Hạ Vy càng kính phục về uy-quyền và tình-yêu của ông Trời đến đó. Đoán được cái vẻ đăm chiêu của Hạ Vy, dì liền hỏi:
– Cháu đang thắc mắc do đâu mà dì biết được những điều đó phải không?
– Dạ phải!
– Nhìn vào những cảnh vật chung quanh và lời của Đức Chúa Trời trong cuốn Kinh Thánh này đã chứng minh những gì mà cháu đang thắc mắc đây.
Dì đưa cho Hạ Vy một cuốn sách nhỏ xíu bằng bàn tay và bảo:
– Cháu cứ tự nhiên lấy mà đọc mỗi khi cháu muốn.
Cầm cuốn sách nhỏ trên tay, Hạ Vy rất hiếu kỳ về dòng chữ “Kinh Thánh Cựu Ước Và Tân Ước” được in ngoài bìa. Qua Thánh-Kinh, Hạ Vy biết được “Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời và đất.” “Ban đầu có Ngôi-Lời, Ngôi-Lời ở cùng Đức Chúa Trời, và Ngôi-Lời là Đức Chúa Trời. Ban đầu Ngài ở cùng Đức Chúa Trời. Muôn vật bởi Ngài làm nên, chẳng vật chi đã làm nên mà không bởi Ngài.” Chính Chúa Jê-sus là Đức Chúa Trời toàn năng. Bởi quyền năng Ngài phán mà trời, đất, biển, và muôn vật đã được dựng nên vì “Ngài cho đó là điều tốt lành. Ngài phán có sự sáng thì có sự sáng, Ngài phân sáng ra cùng tối”. Chúa Giê-xu là ngôi thứ Hai trong Ba ngôi Đức Chúa Trời đã giáng thế làm người. Tuy mang thân xác loài người nhưng Chúa Giê-xu vẫn là Đức Chúa Trời và có quyền phép như Đức Chúa Trời, Ngài bình đẳng với Đức Chúa Trời về mọi phương diện. (Giăng 1:14)”Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, ở giữa chúng ta, đầy ơn và lẻ thật; chúng ta đã ngắm xem sự vinh hiển của Ngài, thật như vinh hiển của Con một đến từ nơi Cha.” Và chính Chúa Giê-xu sẽ ban sự cứu rỗi cho những ai tin nhận danh Ngài. (Giăng 20: 29)“Phước cho những kẻ chẳng từng thấy mà đã tin vậy”.
Đã trải qua chín ngày không có thức ăn và nước uống, Hạ Vy và tất cả mọi người trên thuyền đều đuối sức vì đói và khát, cộng với cái nắng chói chang của ban ngày và cái lạnh buốt tận xương của ban đêm đã làm Hạ Vy không còn đủ sức cầm cuốn Kinh-Thánh để đọc nữa. Suốt mấy đêm liền, thỉnh thoảng thấy dáng dấp và ánh đèn của những chiếc tàu lớn xa xa thì mọi người được lệnh của chủ thuyền phải gào thét thật lớn và cầm áo vẫy thật cao để may ra những chiếc tàu đó thấy mà đến cứu. Riết rồi không ai còn đủ sức mà làm như vậy nữa, ai cũng nằm dài ra như chờ chết. Riêng dì và hai người em của dì củng kiệt sức nhưng Hạ Vy thấy cả ba người đều rất bình an, không phàn nàn, không rên rỉ như những người khác. Thấy Hạ Vy cứ nhìn chằm chặp vào mặt, dì ôn tồn hỏi:
– Cháu có điều gì không ổn à?
– Dì ơi, sao con thấy dì không có chút nào lo sợ vậy? Dì có sợ chết không?
– Không, “sự sống và sự chết đều do Đức Chúa Trời quyết định”cháu à. Dì tin chắc rằng chính Chúa sẽ giải cứu chúng ta nay mai thôi.
– Dạ, con biết ông Trời thương mình lắm, ông Trời sẽ cứu mình sớm há dì!
Dì ôm Hạ Vy vào lòng, vòng tay ấm áp của dì làm cho Hạ Vy càng tưởng nhớ đế mẹ hơn lúc nào hết. “Không biết bây giờ mẹ đang làm gì nhỉ, chắc mẹ đang nhớ thương và lo lắng cho Hạ Vy lắm”. Nghĩ đến đó, Hạ Vy vừa lấy tay chùi hai hàng nước mắt chảy dài trên má vừa nói:
– Con nhớ mẹ lắm!
Dì ngậm ngùi cúi xuống hôn lên trán và ôm Hạ Vy chặt hơn. Tình cảm của dì đã dành cho Hạ Vy như tình yêu một người mẹ đã dành cho đứa con gái bé nhỏ làm Hạ Vy yên tâm lắm. Dì luôn rờ trán và bắt mạch vì thấy Hạ Vy đã quá yếu vì đói và khát. Cứ mỗi lần như vậy dì luôn cầm tay Hạ Vy và cầu nguyện: “Lạy Chúa Toàn-Năng, con biết Ngài đang hiện diện nơi đây, xin Ngài hãy thêm sức cho con trẻ và đưa con trẻ đến bến bờ bình an. Nhân danh Đức Chúa Giê-xu Christ, A-men.” Lời cầu nguyện nghe thật đơn sơ, nhưng có tác động thật phi thường. Cứ mỗi lần dì cầu nguyện là mỗi lần Hạ Vy cảm thấy như có một nguồn sự sống nào đó được chuyền vào cơ thể làm cho Hạ Vy cảm thấy đỡ mệt hơn và cái bụng đỡ đau vì đói hơn. Hạ Vy thấy Đức Chúa Trời của dì thương Hạ Vy thật đó! Bổng có tiếng la lớn của ông chủ thuyền cắt ngang dòng suy nghĩ của Hạ Vy:
– Không thể ngồi đây mà chờ chết nữa! Mỗi người hãy cầu Trời cho mưa xuống để khỏi bị chết khát nghe không!
Như một cái máy, mọi người ai cũng rầm rì điều gì đó trong miệng. Riêng dì nắm Hạ Vy cùng hai người em rồi cầu nguyện: “Lạy Chúa Từ Ái, sự sống và sự chết đều do Cha quyết định. Chúng con tin chắc rằng Ngài là Đấng đã tạo dựng nên trời, đất, biển là vũ trụ bao-la diệu-kỳ này. Ngài là Đấng quyền-năng duy nhất mới có thể ra lịnh cho mưa xuống để cứu chúng con. Nguyện xin Cha bày tỏ cho tất cả mọi người trên con thuyền nhỏ bé này thấy được Tình-yêu và Năng-quyền của Ngài ngay trong giờ này. Cảm tạ ơn Cha, nhơn danh Chúa Giê-xu Christ a-men!”.
Một lúc sau, Hạ Vy thật sửng sốt khi ngước mắt lên trời thấy một đám mây đen đang ở tận trên đỉnh đầu từ bao giờ rồi. Mọi người náo nhiệt hẳn lên khi cơn mưa bắt đầu đổ xuống. Thật oái ăm thay, ai cũng cố gắng lè lưỡi ra mà bắt những giọt nước mưa hiếm hoi ấy, vì trên thuyền không có một vật gì để có thể hứng được nước mưa cả. Nhưng được tắm trong một trận mưa lớn thì tất cả củng cảm thấy được hồi sinh phần nào. Vừa tờ mờ sáng hôm sau, ông chủ thuyền lại ra lịnh cầu xin ông Trời cho có cái gì để hứng được nước mưa, thì ra ông chủ thuyền này bề ngoài tuy hung tợn mà trong thâm tâm ông, đâu đó ông cũng biết có Đấng tối cao là ông Trời để cầu cứu, nhìn cái mặt cau có vì lo lắng của ông ấy làm Hạ Vy xém bật cười thành tiếng. Không bao lâu sau, mưa lại đổ xuống trong khi mọi người đang loay hoay không biết lấy gì để hứng thì chợt thấy bên hông con thuyền có một cái thùng cạt-tông, bên trong có một miếng vải nhựa lớn màu lính và vài lon đồ hộp trống không, thế là sự sống đã trở lại trong mỗi con người đáng thương ấy, nhưng Hạ Vy không nghe có một ai lên tiếng cám ơn ông Trời cả. “Ha-lê-lu-gia! Cảm tạ Chúa Quyền-năng!” đó là lời của dì vang lên mà thôi. Cuối cùng niềm mơ ước của tất cả mọi người trên thuyền đều được toại nguyện khi được ngồi trên một chiếc tàu hải quân to lớn của Nhật Bản để nhập vào trại tị nạn tại thành phố Hiroshima của nước Nhật.
Vài tháng sau, dì và hai người em được đi định cư tại Anh quốc, còn Hạ Vy sau khi học nói lưu loát tiếng Nhật thì được sống tự lập tại Nagasaki thủ đô của nước Nhật. Không có dì bên cạnh, Hạ Vy buồn lắm nhưng vẫn luôn ghi nhớ những lời dạy dỗ của dì, luôn cầu xin ông Trời bảo vệ Hạ Vy và sắp xếp cho Hạ Vy được đi định cư tại một nước nào đó. Trong bốn năm dài dăng dẳng, ban ngày đi làm còn ban đêm đi học trường trung học, tưởng chừng ông Trời đã quên Hạ Vy lâu lắm rồi. Cho đến một ngày Hạ Vy tốt nghiệp trường trung học thì đó cũng là ngày Hạ Vy được cấp thẻ thông hành đi định cư tại một đất nước giàu có đầy tuyết trắng này.
Bởi tình-yêu của Đức Chúa Trời, Ngài đã sắp xếp cuộc sống cho Hạ Vy thật chu đáo trên đất nước xa lạ này. Bởi quyền-năng và tình-yêu của Ngài đã đưa dắt Hạ Vy cùng gia-đình đến sinh hoạt và tiếp nhận Chúa Giê-xu vào đời sống tại một Hội-thánh trong thành phố đang ở. Đây là nơi mà Hạ Vy thấy được tình yêu thương của mọi người đối với Hạ Vy và gia-đình như tình cảm yêu-thương và chăm-sóc của dì đã dành cho Hạ Vy trên thuyền xưa kia vậy. Từ khi biết Chúa, Hạ Vy thực sự kinh nghiệm được hạnh phúc, ý nghĩa và mục đích sống của cuộc đời là gì. Trong Chúa Giê-xu Hạ Vy có một đời sống sung-mãn và đắc-thắng. Bây giờ Hạ Vy mới thực sự hiểu rằng Đức Chúa Trời đã tạo nên loài người giống như hình Ngài, cho dù loài người ở thế-gian phạm tội đầy dẫy, càng ngày càng xa cách Đức Chúa Trời nhưng không gì ngăn cách được tình-yêu vĩnh-cửu của Ngài đã dành cho loài người. (Rôma 8:38-39)“bất-kỳ sự chết, sự sống, các thiên-sứ, các kể cầm quyền, việc bây giờ, việc hầu đến, quyền-phép, bề cao, hay là bề sâu, hoặc một vật nào, chẳng có thể phân-rẽ chúng ta khỏi sự yêu-thương mà Đức Chúa Trời đã chứng cho chúng ta trong Đức Chúa Jêsus-Christ, là Chúa chúng ta.” Kinh-thánh bày tỏ tấm lòng của Đức Chúa Trời đó là Lời của Ngài, đại mạng lệnh mà Chúa đã phán trong toàn bộ Kinh-thánh và mười điều luật của Ngài là loài người phải “Kính Chúa và Yêu Người”. Hễ ai phạm một trong mười điều luật này thì được kể là có tội (Xuất Ê-díp-tô Ký 20:1-17)
Trước mặt Ta, ngươi chớ có các thần khác.
Ngươi chớ làm tượng chạm cho mình.
Ngươi chớ lấy danh Đức Chúa Trời mà làm chơi.
Hãy nhớ ngày nghỉ đặng làm nên ngày thánh.
Hãy hiếu kính cha mẹ ngươi.
Ngươi chớ giết người.
Ngươi chớ phạm tội ngoại tình.
Ngươi chớ trộm cướp.
Ngươi chớ nói chứng dối.
Ngươi chớ tham lam.
Đức Chúa Trời là Đấng Thánh-khiết, là Đấng Công-bình Ngài không dung thứ tội lỗi nhưng Ngài yêu tội nhân. Tất cả con người đều là tội nhân cần Đấng Cứu Thế, nhờ vào huyết của Chiên Con để che phủ tội lỗi của họ, để họ được xưng công-bình trước mặt Đức Chúa Trời. Không một ai trên thế-gian này có thể tự cứu mình được, ngay cả các giáo chủ củng là người cho nên củng không thể nào gánh thế tội lỗi của loài người. Đến ngày phán xét, tất cả con người đều phải nhận tội trước mặt Đức Chúa Trời. (Rô-ma 3:10-20) Lời Chúa có chép rằng:
“Chẳng có một người nào công-bình nào hết, dẫu một người cũng không.
Chẳng có một người nào hiểu-biết,
Chẳng có một người nào tìm-kiếm Đức Chúa Trời.
Chúng nó đều sai-lạc cả, thảy cùng nhau ra vô-ích;
Chẳng có một người làm điều lành, dẫu một người cũng không.
Họng chúng nó như huyệt-mả mở ra,
Dùng lưỡi mình để phỉnh-gạt;
Dưới môi chúng nó có nọc rắn hổ-mang.
Miệng chúng nó đầy những lời nguyền-rũa và cay-đắng.
Chúng nó có chân nhẹ-nhàng đặng làm cho đổ máu.
Trên đường-lối chúng nó rặc những sự tàn-hại và khổ-nạn,
Chúng nó chẳng hề biết con đường bình an,
Chẳng có kính sợ Đức Chúa Trời trước mặt chúng nó.
Vả, chúng ta biết rằng những điều mà luật-pháp nói, là nói cho mọi kẻ ở dưới luật-pháp,
hầu cho miệng nào củng phải ngậm lại, cả thiên-hạ đều nhận tội trước mặt Đức Chúa Trời, vì chẳng có một người nào bởi việc làm theo luật-pháp mà sẽ được xưng công-bình trước mặt Ngài, vì luật-pháp cho người ta biết tội-lỗi.”
Cho nên chỉ duy Chúa Giê-xu là Đấng thánh-khiết mới cứu chuộc được nhân loại ra khỏi tội lỗi của thế-gian bởi huyết của Ngài đã đổ ra trên cây thập-tự. Vì tội lỗi ngăn cách loài người với Đức Chúa Trời và kết quả của tội lỗi của loài người dẫn đến sự chết đời đời nơi hỏa ngục. “Loài Người là tạo vật của Đức Chúa Trời” mà không thờ Ngài cho nên có tội với Ngài. Căn bản tội của loài người là không tin Chúa Giê-xu, (Giăng 16:9)”Về tội-lỗi, vì họ không tin Ta;” Do đó Đức Chúa Trời đã sai Chúa Giê-xu xuống thế-gian để làm của lễ chuộc tội cho nhân loại. Đây là một món quà vô giá mà Đức Chúa Trời đã ban cho loài người là chính Chúa Giê-xu, những ai tin nhận Chúa Giê-xu sẻ được biến đổi những suy nghĩ, tánh khí và số phận đời đời của người ấy. “Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế-gian đến nỗi đã ban con một của Ngài hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời.”(Giăng3:16) Chúa Jê-sus là Đấng Cứu Thế, là con của Đức Chúa Trời hằng sống. (Giăng 10:10)”Kẻ trộm chỉ đến cướp giết và hủy-diệt; còn ta đã đến, hầu cho chiên được sự sống, và được sự sống dư-dật.” Ngài đã giáng thế làm người, chịu đóng đinh trên cây thập tự để làm của lễ chuộc tội cho nhân loại, sự hy sinh của Chúa Giê-xu chính là nhịp cầu bắc ngang qua vực thẳm không đáy của tội lỗi và sự chết, để cho loài người có đời sống hy vọng không còn sống trong tội lỗi nữa, qua đó loài người mới được đến gần với Đức Chúa Trời. (Giăng 14:6)”Ta là đường đi, lẽ thật, và sự sống; chẳng bởi ta thì không ai được đến cùng Cha.” Vì yêu nhân loại nên Chúa Giê-xu phải hy sinh để làm giá cứu chuộc tội lỗi của toàn thể mọi người trên thế gian. Vì yêu nhân loại mà Ngài đã chịu chết và chôn, ba ngày sau Chúa Giê-xu đã sống lại trong sự vinh-hiển của danh Ngài. Vì Chúa Giê-xu là Đấng vô tội cho nên Ngài là giải pháp duy nhất, không những để chịu chết thay cho tội lỗi của loài người mà Chúa Giê-xu cũng đã sống lại trong sự vinh hiển, vì vậy hễ ai tin nhận danh Chúa Giê-xu vào đời sống mình thì sẽ được cứu. (Giăng 1:12)”Nhưng hễ ai đã nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền-phép trở nên con-cái Đức Chúa Trời, là ban cho những kẻ tin danh Ngài.” Ngài là Đấng sáng tạo loài người, Ngài là sự sống của thế-gian, qua sự sống lại của Ngài bảo đảm cho Hạ Vy và những ai đã tin nhận danh Ngài sẽ được sống lại. Vì sự sống lại của Chúa Giê-xu đã chứng minh Ngài là Đức Chúa Trời đã làm người giữa loài người để hòa mình, để cảm thông sự yếu đuối loài người và để cứu giúp loài người có thể thoát khỏi sự chết của tội lỗi. (Rô-ma 3:23)”Vì mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh-hiển của Đức Chúa Trời.” Chúa Giê-xu là cứu Chúa duy nhất, Ngài là Đức Chúa Trời Yêu-thương, Thánh khiết và Nhân-từ ngoài Ngài không còn ai cả. Ngài là cứu Chúa toàn-năng, Ngài là Đấng trung-bảo để giúp loài người được tương-giao với Đức Chúa Trời. (Mathiơ 26:28)”nầy là huyết ta, huyết của sự giao-ước đã đổ ra cho nhiều người được tha tội.” Vì Chúa Giê-xu là người nên Ngài có thể chịu chết và Ngài là Đức Chúa Trời nên Ngài có thể sống lại. Sự sống lại với thân thể Thần Linh của Chúa Giê-xu từ trong cõi chết là yếu tố quyết định tương lai đời sau của Hạ Vy và toàn thể nhân loại trên thế gian. Chúa Giê-xu đã sống lại từ trong kể chết thể nào thì Hạ Vy và những người đã tin nhận Ngài củng được sống lại từ trong kể chết thể ấy. Ngày đó Hạ Vy và những người đã tin nhận Ngài sẽ được biến hóa, sẽ không còn sống cực-nhọc và lao-khổ nữa, sẽ không còn than khóc nữa mà được ở trong Thiên-quốc của Đức Chúa Trời đời đời. (ICô-rinh-tô 15:22-23)”Như trong A-đam mọi người đều chết, thì cũng một lẽ ấy, trong Đấng Christ mọi người đều sẽ sống lại, nhưng mỗi người theo thứ-tự riêng của mình: Đấng Christ là trái đầu mùa; rồi tới ngày Đấng Christ đến, những kẻ thuộc về Ngài sẽ sống lại.” Bên kia sự chết là Đức Chúa Trời đang chào đón và chăm sóc cuộc đời mới của Hạ Vy và của những ai đã tin nhận danh Ngài. (Khải-huyền 1:17-18)”Đừng sợ chi, ta là Đấng trước hết, và là Đấng sau cùng, là Đấng Sống, ta đã chết, kìa nay ta sống đời đời, cầm chìa khóa của sự chết và Âm-phủ.” Chúa Giê-xu cầm chìa khóa của sự chết và âm phủ, Ngài có thể mở và Ngài có thể đóng, Ngài cầm quyền sự chết trong tay Ngài. Không có một tôn giáo nào có uy-quyền đó, chỉ duy nhất Chúa Giê-xu mới có uy-quyền đó mà thôi.
Mỗi năm khi mùa Giáng-sinh về, Hạ Vy luôn đứng ngắm nhìn những bông tuyết trắng rơi đầy trên sân cỏ, Hạ Vy lúc nào cũng cảm tạ về sự Giáng-sinh của Chúa Giê-xu. Chính Chúa đã cứu chuộc Hạ Vy và gia-đình trở thành những con trai và con gái yêu dấu của Ngài. Biết bao phước hạnh mà Ngài đã ban cho Hạ Vy và gia-đình trong suốt thời gian qua. Trải qua hai mùa Giáng- sinh rồi, bởi Quyền-năng và Tình-yêu của Đức Chúa Trời, Hạ Vy đã được Chúa cho sống lại qua một cơn bạo bệnh hiểm nghèo để trở lại với chồng con và Hội-thánh. Ngài đã bồng ẵm dìu dắt Hạ Vy qua những chặn đường khó khăn, dù “khi đi trong trũng bóng chết, Hạ Vy vẫn bình-an: vì Chúa luôn ở cùng”. Chúa Giê-xu là bánh của sự sống, Ngài là thức ăn vĩnh-cửu loài người. Phước cho những ai tin nhận danh Ngài thì đều được tha-thứ, được cứu-rỗi, sẽ được sống cuộc đời thánh-khiết, đắc-thắng và vinh-hiển trong danh Ngài.
HẠ 2012