– Việc đó có quan trọng không anh?
Anh cảm thấy vô cùng bực bội khi cô cứ hỏi đi hỏi lại câu hỏi đấy mỗi lần anh chuẩn bị rời nhà. Quả thực rất là nhàm chán. Chán đến mức lúc đầu anh còn giải thích đôi ba điều, lâu dần anh chỉ vỏn vẹn đáp một chữ “Có” cũng đủ khiến cô vui lòng thỏa dạ mà cười vui vẻ tiễn anh đi. Dĩ nhiên cần thiết thì mới phải đi, hẳn không phải lúc nào cũng thế, nhưng so với việc ở nhà cùng cô thì nó quan trọng hơn nhiều.
Họ lấy nhau chưa lâu và quen nhau cũng chẳng dài. Anh biết cô ngoan hiền, nhưng cái vẻ ngây ngây thơ thơ, khờ khờ dại dại đó thật khiến anh nhàm chán. Cả nét mặt nữa cũng mờ mờ nhạt nhạt chẳng có đường nào là sắc sảo, mê say. Chỉ duy nhất ánh mắt cô là mênh mông một màu khó đoán, tựa như hồ nước những ngày gợn sóng chẳng thể thấu được nó ẩn chứa điều chi. Thế nhưng anh chẳng khi nào thực tâm tìm hiểu, bởi anh chỉ sợ lúc chìm sâu trong nó sẽ nhận ra rằng chốn đấy cũng rỗng không, chán ngắt như tính cách của cô. Ấy thế thì làm sao chịu nổi, thôi hãy cứ để nó là điều bí ẩn khiến hồn anh còn hứng thú một phen.
Ngày đó, trong buổi chiều mưa dầm tầm tã, anh lại nhà cô nói lời cầu hôn. Chẳng hề dụng tâm hay phải chuẩn bị chi cả, bởi anh vừa mới thực hành rồi. Thực hành với người anh yêu nhưng đã thất bại hoàn toàn. Anh lần đầu thấu nỗi đau tê tái khi là kẻ bị người ta từ chối. Làm thế nào một con người hào hoa, đẹp đẽ, tài tử và quyền quý như anh lại có thể thất bại vì tình. Để tô vẽ và sửa chữa lại cái vết sai dại dột ấy, anh cần gấp một người thay thế, cho họ thấy rằng kẻ lầm chẳng phải là anh. Thế nên, trong lúc hỗn loạn giữa đau thương tức giận, anh bỗng nhớ tới ánh mắt mênh mông của một người con gái mà anh mơ hồ từng biết, đó là cô. Họ gặp nhau vài lần hồi nhỏ, nhưng bặt vô âm tín rất lâu sau, đến lúc cô nhận ra anh giữa đường phố tấp nập những người, họ cũng chẳng mảy may qua lại chi nhiều. Anh lùng tìm địa chỉ nhà cô bằng manh giấy viết vội ngày gặp lại. Anh tưởng mình đã bỏ mạng nhiều phen khi quyết định dấn thân đi giữa đêm tối đến cái nơi hẻo lánh, xa xôi đó, nhưng cũng cần phải cố để mọi ngày đều mĩ mãn như anh luôn có. Quả thật hệt như anh dự đoán, cô chẳng thắc mắc điều gì, chỉ mỉm cười đồng ý và vui vẻ nhận từ tay anh bó hoa mà người kia vừa vứt bỏ. Thế là xong, họ qua lại nhà nhau mấy phen rồi đám cưới, theo đúng kế hoạch anh mong muốn. Một cuộc hôn nhân khẩn cấp đã diễn ra như thế… để trả thù cho điều gì đó vu vơ.
Lại một ngày nữa anh đi không hứa hẹn giờ trở về, cô ngồi một mình trong nhà đợi chờ cho đến tận đêm khuya. Soi bóng mình nơi tấm gương to phản chiếu được hết thảy cả gian phòng, cô lặng lẽ mỉm cười. Được sống chung trong một căn nhà cùng ai đó, nhất là căn nhà lại sang trọng thế này, được quyền nhung nhớ và mong ngóng một bóng hình cụ thể chứ không phải những ảo ảnh chốn đâu đâu, và được là thành viên của một gia đình nào đó, chẳng phải bấy nhiêu đã vượt xa mơ ước trước đây sao. Thế nên khi còn đang ở trong cơn mơ êm đẹp này, cô thấy mình nên vui vẻ mà tận hưởng, biết đâu lúc nào đó giật mình tỉnh giấc lại cảm thấy hối hận xiết bao…
Ba giờ sáng anh về, mệt mỏi đi vào phòng muốn ngủ một giấc thật ngon thì thấy cô đang ngồi co ro ngủ gục cạnh đầu giường. Nhìn tấm ảnh cưới để ngay ngắn kề bên, anh nhớ lại ngày hôm đó. Trong lễ tân hôn anh chẳng mảy may cảm giác được điều gì, chỉ có cô tỏ ra hạnh phúc khôn tả cứ luôn miệng nở nụ cười. Khi cùng nhau nhận cuốn album ngày cưới, vị nhiếp ảnh có đôi lời khen ngợi gương mặt rạng rỡ của cô dâu thì cô đã cười mà đáp lại rằng: “Vào ngày được xem là hạnh phúc nhất đời, chẳng phải nên cười một phen cho hết cả tâm hồn, biết đâu sau này chẳng còn lần nào nữa”. Đến bây giờ anh mới chợt băn khoăn phải chăng cô đã nhận ra chẳng thể kì vọng quá nhiều vào cuộc hôn nhân này từ ngay… lúc bắt đầu? Cũng chẳng sao, anh cảm thấy không nên suy nghĩ chi nhiều, miễn tới lúc cuộc chơi dừng lại, anh biết mình vẫn không thua là được, mặc kệ ai ai đã đánh cược điều gì…
Cô tỉnh lại sau khi anh đã ngủ say giữa giường. Nhớ về những kỉ niệm ngày xưa cũ, họ biết nhau khi cha con anh đến làm từ thiện tại nơi cô nhi viện mà cô sinh sống. Lúc đó, anh lẻn ra vườn chơi, giữa đám đông trẻ con lanh lẹ và hiếu động đang nô giỡn ở đấy, anh bắt gặp cô đang ngồi im lìm chìm đắm tại một gốc cây. Anh đứng quan sát cái hình hài bé nhỏ ấy một lát mà vẫn chẳng thấy động đậy tí ti. Anh liền không kìm được mà tò mò chạy lại gần nhìn ngó. Anh dí sát tay mình vào đôi mắt cô, quả nhiên khiến nó lay động, chuyển hướng. Cô hơi ngẩng lên, tròn mắt sợ hãi nhìn anh. Anh thích thú mở bung tay, đưa ra nắm kẹo đỏ xanh lộng lẫy. Cô ngơ ngác ngắm nhìn chúng rồi hỏi anh cái gì. Anh bật cười nói rằng cô ngu ngốc đến trẻ ba tuổi cũng biết đấy là kẹo. Nhưng anh vẫn ân cần chỉ bảo cho cô những gì cô thắc mắc chứ không cáu gắt như những người bạn ở đấy của cô. Tuy nhiên sự vụ vui thích ấy chẳng kéo dài được lâu, sau vài lần anh đến thăm cô, anh nói rằng anh được biết cô đang có bệnh, mà anh không nhớ nổi cái tên bệnh dài dòng đó, đại loại là bệnh “ngốc”. Thế nên, một người bình thường như anh chẳng thể kết giao với kẻ như cô. Lúc đó cô không hiểu lời anh nói, hằng tháng vẫn cứ mong ngóng một bóng hình trở lại. Rồi nhiều năm sau cho đến lúc trưởng thành, cô đã quên đi vô số thứ và cũng không tiếp thu thêm được nhiều điều, nhưng có một hình ảnh cô vẫn chẳng quên đó là gương mặt và ánh mắt dịu dàng của một cậu bé trai. Có lẽ do nghĩ đến quá nhiều hoặc cơ duyên đã trở lại lần nữa, cô nhận ra sự thân quen quá đỗi từ một người con trai xa lạ trên đường. Cô đưa ra đám vỏ kẹo mà cô vẫn giữ bên mình rồi kể lể dài dòng gì đó, anh bỗng chợt nhớ ra quả thật có biết đôi điều. Anh hỏi thăm cô sơ sài rồi lại vội vã bước đi như ngày chia tay hôm ấy. Nhưng lần này cô hi vọng thật nhiều, và rất đỗi bất ngờ cô được toại nguyện ước mơ sống cùng anh dưới một mái nhà…
Mấy tuần sau, anh đi công tác đâu đó trở về, mang theo rất nhiều giỏ hoa xinh đẹp. Anh kêu người vào trồng trọt sau vườn. Rồi căn dặn cô ở nhà phải thường xuyên nhổ sạch đám cỏ hoang. Cô lại hỏi anh có quan trọng không. Anh bảo rằng loài cỏ dại nếu chẳng diệt đi sẽ gây hại cho những cây hoa xinh đẹp anh vừa trồng. Rồi cô lại hỏi anh trồng hoa để làm chi. Lần này anh cảm thấy thật tức điên. Anh cau có thẳng thừng chia sẻ rằng anh đang chán ngán đến tận cổ cái sự nhạt nhòa, đơn điệu của cả người lẫn vật chốn đây. Anh muốn thay đổi, trang trí đôi điều cho có cảm giác hứng thú với căn nhà thêm một thời gian. Anh cũng khuyên cô nên chấn chỉnh một phen cái dung nhan nhạt nhòa như loài cỏ kia. Không biết cô có hiểu gì không, nhưng anh nhận thấy cỏ trong vườn kể từ ngày ấy không còn mọc nữa, hoa lá xinh tươi, và cô thì bỗng dưng chỉ toàn mặc một gam màu đỏ như loài hồng nhung mà anh yêu thích.
Tuy nhiên có lẽ vườn hoa xinh đẹp ấy không đủ thu hút anh bằng một bông hoa đích thực trong đời. Anh đang quen và hẹn hò cùng một cô nàng kiều diễm. Thế nên, ít lâu sau anh quyết định ly hôn. Anh đang rất gấp rút chuẩn bị một số việc nên chẳng có thời gian mà từ từ giải thích cô nghe. Và anh nghĩ vấn đề phức tạp này có cố nói cô cũng không hiểu biết gì, thế nên anh chở cô trở về căn nhà cũ của mình, rồi dùng vẻ mặt giận dữ để khiến cô sợ hãi không thắc mắc gì mà dứt áo bỏ đi.
Vài ngày trước lễ cưới lần thứ hai của anh, có một lá thư được chuyển tới. Anh nhìn sơ cũng biết rằng của cô, nên anh định không đọc nhưng đột nhiên anh giật mình không lẽ cô đã biết được điều gì? Cuối cùng anh quyết định mở ra xem. Trong đó viết có mỗi mấy dòng: “Có lẽ giấc mộng nào cũng chỉ đến một lần, chẳng cách chi mơ lại lần thứ hai. Hoặc phải chăng em đã nhận lầm anh trên đường ngày hôm đấy. Nhưng nếu đúng là anh, thì chắc chắn anh sẽ trở lại phải không?” Chỉ có ba câu mà khiến anh một phen kinh ngạc, người nhận lầm là cô hay chính là anh, khi cứ tưởng rằng cô vẫn là cô bé ngốc nghếch ngày nào.
…
Nhiều năm sau, người ta thấy một cặp đôi già cả ngồi khoác tay nhau ở ghế đá công viên. Người đàn ông cứ hỏi đi hỏi lại một câu có phải cỏ màu đỏ còn hoa màu xanh lá? Nhưng vợ ông chẳng hề tức giận tí ti, vẫn dịu dàng giải thích để ông lặp lại mà không bị lẫn lộn điều chi. Rồi bỗng dưng ông nhìn bà bảo rằng ông không thích hoa mà rất thích cỏ, bởi đi đâu cũng thấy màu xanh um tươi tốt ở mọi khắp nơi mà chẳng cần ai nhọc công chăm sóc. Bà cười móm mém hỏi ông chẳng phải sắc hoa đỏ thắm kia rực rỡ và thu hút hơn sao. Ông cau có cố gắng nghĩ lời giải thích, sau hồi lâu mới ngập ngừng đáp lại vì ông thích bà, bà giống như cỏ hiện diện rất nhiều trong cuộc đời ông. Bà không nói gì, nhìn vào mênh mông khẽ hỏi: “Anh có muốn đến thăm ngôi nhà cũ của chúng ta?” Ông ngơ ngác hỏi rằng sao gọi là nhà cũ. Bà mỉm cười đáp: “Bởi vì có một thời gian chúng ta đã từng ở đó trước lúc chuyển đến nhà mình hiện nay.” Ông gật gù hỏi thêm nơi ấy có đẹp không, nhưng bà bảo rằng không rõ thế nào, phải đến mới biết được.
Trên đường đi bà nhớ lại những tháng năm ấy, lúc họ còn trẻ trung. Bỗng nhiên một ngày ông chở bà ra khỏi căn nhà mà hai người đang chung sống. Khi để lại bà trong căn nhà của mình nơi vùng quê hẻo lánh này, ông chẳng giải thích điều chi, chỉ vội vã quay đi không một lời tạm biệt. Bà cũng không thắc mắc gì, bắt đầu sống như những ngày tháng trước lúc kết hôn, một mình và đi làm tại xưởng may gần đó, với hi vọng ông sẽ trở lại tìm bà. Rồi một hôm trong lúc đợi chờ, bà quyết định viết thư gửi cho ông theo những gì lòng bà suy nghĩ. Quả thật ông trở lại vào mấy tuần sau. Nhưng ông không đến một mình. Cha ông đưa ông đến với miếng băng trắng đang quấn trên đầu. Cha ông bảo rằng ông bị tai nạn xe vài tuần trước đó nên đã bị chấn thương não ít nhiều, tình trạng hiện không mấy khả quan, mong bà hãy quên đi những giận hờn hay lỗi lầm của nhau mà trở lại nhà chăm sóc và bầu bạn với ông. Cha ông cứ sợ bà sẽ từ chối bởi trước đây chính con trai ông đòi ly dị bà mà gia đình ông cũng không mấy bận tâm ngăn cản. Tuy nhiên, không cần thêm bất cứ lời năn nỉ hay giải thích dài dòng nào nữa, bà bảo rằng chăm sóc lẫn nhau chẳng phải là nhiệm vụ của vợ chồng hay sao, nhưng bà mong muốn được cùng ông sống ở nơi này, chứ không phải là căn nhà cũ. Câu chuyện của họ được kể đi kể lại nhiều lần bởi những người hàng xóm và trong Hội thánh mà ông bà sinh hoạt. Những ngày tháng khó khăn ấy khi bà vừa đi làm vừa chăm sóc cho ông, mọi người xung quanh biết được đã giúp đỡ rất nhiều. Rồi họ dẫn ông bà đến Hội thánh gần đó sinh hoạt. Sau khi tiếp nhận Chúa và được ông mục sư chia sẻ nhiều điều, bà cảm thấy tự tin hơn với bản thân mình. Bà không còn nghĩ mình ngu ngốc nữa, rồi bà nhận ra tình yêu thương, sự bình an đang nảy nở khắp trong tâm hồn mình. Bà tin rằng ông cũng cảm thấy giống như bà. Họ trở thành những Cơ đốc nhân chân chính, luôn được khích lệ trong tình yêu thương của Chúa và được an ủi mỗi lúc khó khăn. Đó chính là niềm hạnh phúc đích thực mà họ biết rằng sẽ chẳng bao giờ có thể mất đi…
Cuối cùng, họ cũng đã đến lại chốn xưa, nơi căn nhà cũ đã loang lổ những dấu rêu phong. Và khu vườn nhỏ phía sau hè còn lại chút ít dấu tích xơ xác của những loài hoa xinh đẹp vốn từng được trồng một thưở trước đây. Tất cả sức sống nơi này dường như chỉ còn thấy được trong những mảng màu xanh um tươi tốt của loài cỏ dại…
VÂN PHONG