“Chúng tôi đã mua được hai thửa ruộng… đã có tất cả giấy tờ hợp lệ. Chúng tôi sẽ dâng tất cả hai thửa ruộng này cho công việc xây dựng Hội Thánh của Chúa tại miền tây bắc Campuchea…” Hai thành viên năng động, tích cực của Hội Thánh gốc Khờ-me vừa hồ hởi nói với chúng tôi, vừa đưa ra những hồ sơ giấy tờ dâng lên cho Chúa trong một chiều Chủ Nhật.
Tôi biết rõ việc làm của hai người bạn Campuchea này, họ đã từng bàn về việc mua đất và dâng hiến mấy tháng nay. Vậy mà khi nghe họ nói đếnviệc mua bán cùng giấy tờ hợp pháp đã thành công, tôi tò mò hỏi thêm.
“Đất mà hai vị mua thuộc khu vực nào?”
“Gần ngay thị trấn Xi-xi-phon, bên cạnh con sông Mông-cô-khơ-rây của tỉnh…”
Khi nghe đến tên của thị trấn, tên của dòng sông, cùng khu vực của tỉnh này, lời nói của người anh em trong Chúa trở thành một cái gì đó nhảy múa trong tâm trí tôi.
“Hai ông không đùa đấy chứ?”
“Mục sư…” Họ nhìn và đẩy những tờ giấy về phía tôi mà nói cười một cách hiền hoà.
“Hai mảnh đất mà chúng tôi mua cũng không xa cửa khẩu Poi-pết. Nếu đi xe đò thì chỉ mất khoảng một giờ chạy xe…” Hai người này và tất cả những anh em trong Chúa người gốc Campuchea của Hội Thánh, đều biết rõ, tôi đã có cả một thời gian sống, và suýt chết trên mảnh đất này.
“Đây là nơi đã xảy ra bao cuộc chiến đẫm máu. Đây là nơi mình trải qua bao nhiêu nỗi nhục…” Tôi nghĩ và lẳng lặng bước vào văn phòng lấy ra tấm bản đồ Campuchea, rồi trải rộng ra trên mặt bàn để tất cả chúng tôi đều biết rõ tọa độ hơn.
“Nào, đất các anh đã mua ở chỗ nào? Các anh chỉ cho tôi coi!” Tôi hỏi mà quên rằng, cả hai người Khờ-me này đều không biết đọc bản đồ để xác định tọa độ. Họ ngẩn người xua tay, ‘Chúng tôi không thể tìm được địa chỉ trên bản đồ!’ nhưng tôi thì tìm ra thị trấn Xi-xi-phone bên dòng sông Mông-cô-khơ-rây thật dễ dàng, để hướng dẫn những người bạn Campuchea lầntìm ra địa chỉ của hai mảnh đất.
“Đây này! Đúng chỗ này… Đất của Hội Thánh ở đây…” Họ vui vẻ lấy ngón tay chỉ trên bản đồ. Theo thói quen của người đã từng phục vụ trong quân đội, tôi đánh dấu địa điểm, đo đạc và phán đoán địa hình mà cảm thấy một sự xếp đặt đến ngạc nhiên không thể ngờ được.
Tôi đứng đó, nhìn bản đồ, nhìn hai người anh em trong Chúa mà ngẩn người, thầm kêu.
“Chúa ơi! Chính Ngài… Có phải Chúa lại muốn dẫn con trở về vùng đất này hay không?”
Hai người bạn Campuchea cũng đứng đó cùng tôi. Họ thấy tôi đo đạc trên bản đồ, đánh dấu địa chỉ nhưng lại đứng im mà không nói, không biểu lộ cảm xúc gì rồi lại lẩm nhẩm điều gì trong danh Chúa. Một người trong họ liền đặt ra câu hỏi xoáy lòng với tôi.
“Mục sư! Ông không kỳ thị dân tộc Khờ-me và đất nước Campuchea đấy chứ?” Tôi chưa kịp trả lời thì người kia lại nói thêm.
“Ông đã đi khá nhiều nơi để lập Hội Thánh. Ông đã về Thái Lan giúp họ xây nhà hội. Ông đóng góp cho Miến Điện, ông đi Nepal mấy lần… ông cổ xuý truyền giáo cho các quốc gia Trung Mỹ… Ông đi Việt Nam… Nhưng hình như chúng tôi chưa nghe thấy ông nói sẽ trở về Campuchea xây dựng Hội Thánh…”
Họ nói và nhìn tôi bằng ánh mắt chứa chan cảm xúc. Tôi quay lại nhìn họ ngấn lệ. Tôi cố nén cảm xúc xuống và muốn giải thích lòng mìnhrằng: “Tôi không kỳ thị, không phân biệt, từ đáy lòng tôi vẫn muốn đến xứ này…” Chưa kịp nói gì, thì một trong hai người bạn đó lại nói thêm: “Có lẽ vì ông đã quá khổ… quá nhục… lại bị thương và đổ máu nơi đây, rồi lại bị Pôl-pốt bắt và tù đày… ông trở nên sợ với vùng đất này… Có phải ông sợ trở về đây hay không?”
“Không! Tôi không kỳ thị…” Tôi trả lời họ khi đã nén xúc động xuống. “Tôikhông phân biệt, tôi không vì sợ hãi… nhưng trở về với mảnh đất này, là trở về với không biết bao nhiêu là kỷ niệm… Tôi vẫn luôn sẵn sàng. Khi nào Chúa gọi tôi sẽ đi…” Tôi định nói vài điều giải thích tâm hồn mình cho họ hiểu thì David bạn đồng liêu của tôi lên tiếng.
“Uông! Có phải đây là tiếng mời gọi chúng ta như tiếng của người xứ Ma-xê-đoan hay không?”
Tôi không dám khẳng định điều gì nhưng tôi biết lòng tôi với mảnh đất Campuchea và Thiên Chúa biết điều này.
**************************
Bao nhiêu năm trước khu vực mà tôi đánh dấu trên bản đồ, nơi mà hai tín hữu người Campuchea mua đất để gây dựng Hội Thánh là vùng đất tử thần. Nơi đây là đất của sự chết chóc. Đây chính là khu vực, tâm điểm của bộ phim Cánh Đồng Chết, đã dựa vào mà Bác sỹ Hang Ngor đã nổi danh. Nơi này, ngày xưa là lam chướng, nghĩa địa của khoảng gần nửa triệu người Khờ-me bị giết chết trong mấy năm cầm quyền của bè lũ diệt chủngKhờ-me đỏ. Cái đập nước Tà-ren mà đám kỹ sư người Khờ-me muốn ngăn dòng sông Mông-cô-khơ-rây để làm thuỷ lợi và thuỷ điện là nơi mà hàng trăm ngàn người vô tội bị chết đói, chết khát, chết vì bệnh tật nơi đây.
Được mời, được khích lệ trở về Campuchea gây dựng Hội Thánh, nơi mà người dân ở đây đã sẵn sàng cho Chúa. Tôi đứng đó, ngẩn người, ngẫm nghĩ cuộc đời! Khi biết rằng, Chúa sẽ dẫn tôi quay trở lại nơi đây khiến tôi vừa mừng, vừa lo và tâm trạng có cả sự run sợ.
“Ngày xưa mình đến đây bằng súng đạn và ý chí của quân đội… Mai này Chúa sẽ gửi mình về đây là một con người khác. Con người chuyển tải Phúc Âm của Chúa. Trách nhiệm này là xây dựng con người trên nền tảng của Chúa. Việc này khó khăn hơn công việc của ngày xưa. Ta xây bằng gì đây? Chúa ơi! Nếu Chúa không dẫn đường, nếu Chúa không hiện diện… Con sẽ không dám quay trở về đây…” Tôi thầm cầu nguyện.
Ai đó, khi quan sát cuộc sống của con người rồi ví von rằng: ‘cuộc đời như một dòng sông…’ thì trong lúc này đây là lúc mà tôi chiêm nghiệm dòng sông ấy.
Là con sông dài, sông sẽ chảy qua bao nhiêu cảnh vật, có rất nhiều khúc quanh, cùng rất nhiều khúc ngoặt. Dòng sông như đời ta ấy, ‘có khi đầy khi cạn,’ nhiều lúc do mưa lũ, sông chảy xuống cuồn cuộn như thác cuốn, sông thành ghềnh trôi xuôi, sông tạo thành sức tàn phá kinh khủng, khiếncảnh vật lâm nguy. Nhưng cũng có những lúc sông êm đềm, hiền hoà, sông chảy qua những khúc cua, sông tạo nên biết bao nhiêu những lưu vực, đồng cỏ và sông chiêm nghiệm thiên cảnh từ kinh ngạc này đến kinh ngạc khác.
Gặp những tín hữu người Campuchea mà đa số thân nhân của họ bị giết chết. Nhìn thấy tính mộc mạc, lòng chân thành của họ dù trải qua bao nhiêu nỗi đau mà lòng tôi thêm khiêm nhường trước mặt Chúa. Những tín hữu mộc mạc này, được Chúa cứu để thực hiện mục đích của Ngài. Tôi suy ngẫm nhiều và nước mắt thường rơi khi nhận ra sự che chở và dẫn dắt lạ lùng của Chúa.
Tại sao tôi lại có quá nhiều cảm xúc khi biết mình sẽ quay trở lại Campuchea cho đại sự của Chúa? Tại vì, như anh bạn người Campuchea mộc mạc đã nhận ra cảm xúc của những ai từng trải qua đau khổ. Vòng xoáy của cuộc đời đã khiến tôi trở thành người lính, theo đoàn quân sang Cam-pu-chea để làm ‘nghĩa vụ quốc tế’ cho nước bạn. Sự hăm hở của tuổi trẻ dám xông xáo vào tận rừng sâu nơi tàn quân Pôl-pốt kiểm soátlàm nhiệm vụ, để rồi tiểu đội của tôi đã bị lọt vào giữa ổ phục kích của đám tàn quân đó. Bao nhiêu người có thể sống sót khi bị phục kích giữa rừng sâu? Câu trả lời là không. Phép lạ đã xảy ra vì tôi chỉ bị thương nhưng không mất mạng, rồi bị thất lạc trong rừng sâu núi thẳm nhiều ngày. Đói khát và vết thương đã khiến tôi chỉ còn là một cái xác không hồn, hoàn toàn bị mất phương hướng. Khi tôi đã gần chết vì đói, vì khát, tôi bị quân Khơ-me đỏ bắt được ở nơi con suối cạn.
Bao nhiêu người có thể sống sót dưới bàn tay man rợ của lính Khờ-me đỏ? Câu trả lời là hiếm. Không ai có thể tưởng tượng một người lính Việt Nam còn có thể sống sót trong tay những kẻ diệt chủng tàn bạo nhất được biết đến trong thế kỷ Hai Mươi. Ngay cả với bản thân tôi, nhiều năm sau đó, tôi vẫn không thể trả lời được câu hỏi: “Mình đã sống sót như thế nào?” Phép lạ đã xảy ra, chính tôi không bao giờ nghĩ rằng mình có thể tồn tại để rồi trở thành câu chuyện kể lại cho nhiều người. Điều kỳ diệu là Chúa đã ở đó. Ngài đã ở trong tất cả những gian lao, nguy hiểm cùng cực của đời tôi.
Trải qua bao ngón đòn tra tấn khốc liệt vì tàn quân Pôl-pốt muốn lấy khẩu cung để tìm ra những tin tức, bí mật quân sự trong cuộc hành quân của quân đội Việt Nam trong thời gian đó. Tôi đã trải qua tất cả, bị hành hạ, bịđưa đi chôn sống, nhưng không hiểu sao tôi vẫn tồn tại.
Có người khi nghe tôi san sẻ và làm chứng về Chúa đã hỏi: “Nếu Chúa hiện diện trong tất cả những sự khốn khó của anh, vậy tại sao Ngài không cứu anh thoát khỏi tình trạng lâm ly đó?” Tôi thật sự không thể trả lời câu hỏi đầy thách thức ấy. Tôi không biết cách Chúa làm việc trong thế gian như thế nào. Tôi cũng không biết tại sao, nhưng tôi biết về sự hiện diện của Chúa trong thế giới mà Ngài tạo dựng. Tôi muốn làm chứng về phép lạ của Đức Chúa Trời, và cuộc đời của tôi đã được Ngài thương xót.
Là một tù binh chiến tranh, từng sống trong cảnh tượng khốn khổ và đau buồn cùng cực, tôi đã chất vào lòng bao căm ghét hận thù. Mấy ai có thể quên những cay đắng với đời vì đã bị đồng đội phản bội. Do sự phản bội ấy đã khiến đời tôi phải trải qua những thử thách khắc nghiệt như trong tù Pôl-pốt. Khi ở trong tù, gọi là tù nhưng thực chất là bị xích chân tay vào gốc cây như một con thú mặc kệ cho những trận mưa rừng đổ xuống đày đọa thân thể khi tôi bị ngã bệnh sốt rét. Những cơn gió cuốn của mùa mưa vùng tây bắc Cao-mê-lai lạnh lẽo làm gia tăng những nỗi cô đơn. Bị hành hạ trong thể xác do đám tàn quân gây ra, và những trận sốt rét kinh niên khiến thân thể của tôi ngày càng còm cõi. Nhưng có lẽ, cái đau đắng nhất của tôi là một kẻ thất trận do bị đồng đội phản bội lúc mình cần họ nhất trong đời. Đây mới thực là mối đày đoạ sâu thẳm trong tâm hồn tôi, có thể nói nỗi đau này, đau hơn những cái đau của thể xác khi bị tra tấn.
Bị vào tù, ở đời mấy ai muốn! Một nhà lãnh đạo nọ ở Việt Nam khi bị sa cơ, ở trong tù đã tâm sự lại rằng, ‘Nhất nhật tại tù bằng thiên thu tại ngoại.’ Có lẽ ông ta hiểu rõ nỗi đau của người ngồi tù hằng ngày chờ chết. Tôi là người tù không có bản án, không có hy vọng.
Sau đó, nhờ Chúa, tôi được tổ chức Chữ Thập Đỏ Quốc Tế vào tù giải cứu. Họ đã đưa tôi thoát khỏi địa ngục trần gian và cái chết cận kề của Khơ-me đỏ. Người của Thập Tự Đỏ đưa tôi sang Thái Lan.
Mọi người nghĩ rằng, khi đến Thái Lan cuộc đời tôi sẽ tốt đẹp hơn đúng không? Thật ra tôi không có gì nghi ngờ về điều này. Thế nhưng trên đất Thái Lan, Hội Chữ Thập Đỏ Quốc Tế không thể can thiệp vì người Thái cho rằng tôi đã vào đất Thái bất hợp pháp và vì là quân nhân cho nên tôi bị tống vào nhà tù của quân đội Thái. Trong tù này, tôi lại phải chịu đựng những hình thức tra tấn khác của cơ quan tình báo Thái Lan. Hồi ấy vì có binh biến giữa Việt Nam và Thái Lan trong suốt tuyến biên giới từ Lào đến Campuchea, cho nên người Thái rất muốn tìm những thông tin về hoạt động của quân đội Việt Nam và tôi là mục tiêu cho họ điều tra…
Rồi tôi cũng được gửi đến Trại Phanatnikhom làm một người tị nạn. Tôi đã sống ở đó trong thời gian khá lâu. Trong trại, tôi kết thân với nhiều người có tôn giáo bởi vì tự bản thân tôi đã đi đến một kết luận rằng: quan điểm vô thần không thể đưa mình đến một nơi nào để có thể thoát ra khỏi tâm trạng cay đắng ngập lòng. Tất cả những gì mà tôi đã chứng kiến với Khờ-me đỏ không hiểu sao cứ ám ảnh cuộc đời. Sự việc hàng triệu người Cam-pu-chea bị giết hại do quan điểm vô thần đã buộc tôi phải đi tìm kiếm lẽ thật.
Làm thế nào tôi có thể nhận biết Đức Chúa Trời một cách cá nhân? Ở nơi Trại tị nạn đó, trong tình trạng thiếu thốn, tuyệt vọng, và do dại dột, tôi cùng với một số cựu chiến binh khác đã lấy hai cuốn Kinh Thánh tiếng Việt rồi xé rời các trang đó ra. Nhiều trang được đem làm giấy cuốn thuốc lá và những trang còn lại được dùng làm giấy dán tường khắp xung quanh nhà. Tôi thực sự không biết rằng chính Chúa đã cho phép những điều này xảy đến, để rồi tôi biết chú ý tới Ngài. Chính trong căn phòng đó, mảnh giấy dán tường mà chúng tôi xé ra từ cuốn Kinh Thánh đã trở thành những trang đầu tiên của Kinh Thánh mà tôi từng đọc được, đó là câu Kinh Thánh trong sách Truyền Đạo 11:9. Hỡi kẻ trẻ kia, hãy vui mừng trong buổi thiếu niên, khá đem lòng hớn hở trong khi còn thơ ấu, hãy đi theo đường lối lòng mình muốn, và nhìn xem sự mắt mình ưa thích, nhưng phải biết rằng vì mọi việc ấy, Đức Chúa Trời sẽ đòi ngươi đến mà đoán xét.
Bỗng nhiên, tôi chú ý đến lời cảnh báo một cách nghiêm túc với phân đoạn Kinh Thánh đó. Chúa đã đụng chạm tới tận đáy lòng, Ngài khiến tôi bắt đầu kính sợ Đức Chúa Trời, Đấng đã cứu tôi thoát khỏi cái chết trong rừng sâu và cũng là Ngài đã đem tôi ra khỏi cảnh bị tù giam. Sau đó, tôi được chính phủ Australia chấp thuận cho tôi đến định cư ở đất nước này với tư cách là người tị nạn.
Đến Australia là một điều tuyệt vời đối với tôi, nhưng niềm vui ấy chẳng được bao lâu bởi vì tôi bắt đầu phải đối mặt với hàng loạt những vấn đề. Định cư ở vùng giàu có của người bảo trợ và trong cảnh an bình trù phú của khu phía bắc Sydney, tất cả những nan đề của hôm xưa mà tôi cố chôn vùi nay bắt đầu lộ diện. Cô đơn, trầm cảm khiến tôi không đủ khả năng để đối mặt với những nan đề ấy. Tôi trở thành một kẻ nát rượu, vì tôi nghĩ: ‘uống cho quên đời’. Cho đến một khi tôi được mời đi tham gia sinh hoạt trong một Hội Thánh Tin Lành và ở đó tôi được nghe được lời Chúa. Tôi bị cáo trách, hoàn toàn ăn năn và đoạn tuyệt với rượu, với quá khứ của mình trước Chúa, Đấng đã tìm và cứu tôi trong hoạn nạn.
Cuộc đời tôi bắt đầu được đổi mới từ đây. Tôi học cách biết quý trọng cuộc sống, học cách sống có tha vị và thi vị, học cách sống một cách cởi mở và biết bày tỏ về bản thân mình một cách thoải mái. Tôi học để sống một cuộc đời mới dưới sự dẫn dắt của Đức Thánh Linh.
Cuộc đời thật như một dòng sông chảy xuôi với những khúc quanh, nhiều gập ghềnh và bao lối rẽ, để rồi con sông ấy dốc đổ ra biển. Tôi đã dốc đổ bản thân, quá khứ tội lỗi của mình vào Chúa giống như dòng sông đổ ra biển cả vậy. Nhưng điều kỳ diệu là chính sự biết khiêm nhường và dốc đổ ấy tôi đã tìm thấy lại chính bản thân mình. Tôi được dư dật trong mọi lĩnh vực của đời sống. Tôi được Chúa ban cho quyền năng, được sống vui, sống khoẻ trong Ngài. Và trên hết tất cả, tôi sống một đời sống với đầy lòng biết ơn vì tất cả những gì Chúa đã làm cho cuộc đời tôi. Trong Đấng Christ, tôi thực sự có một cuộc sống mới và giờ đây tôi trân trọng từng khoảnh khắc nhỏ nhất của cuộc sống ấy…
Vâng, Chúa đã dấy tôi lên và Ngài gọi tôi quay trở lại với Campuchea,mảnh đất đầy chết chóc này để chứng minh một sự đổi thay do tay Ngài.
“Sẽ có khoảng hơn hai chục các em trong trường trung học cơ sở địa phương muốn thụ lễ Bap-têm lần này… Họ muốn chính các Mục sư làm báp-têm cho họ.” Người bạn Campuchea, là hướng dẫn viên của chúng tôi nói vậy khi chúng tôi đã đến khu vực Tây Bắc nước này.
Đến Campuchea vài lần, tôi không phải chỉ thăm lại bãi chiến trường năm xưa nữa. Tôi muốn đem một số anh em là lãnh đạo trẻ của Việt Nam đem Phúc Âm đến cho người nơi đây. Có lẽ ít chuyến đi nào đầy cảm xúc như lần đi cùng anh em trẻ của Chúa ở Việt Nam qua xứ đầy chết chóc này. Ngôn ngữ của con người không thể tả được nỗi lòng tôi khi nhìn thấy anh em con cái của Chúa trong hai cộng đồng chung vui với nhau. Đây cũng là lần đầu tiên tôi giới thiệu bản nhạc Ăn Năn để những người anh em trong Chúa hát ngợi ca Chúa, và quyền năng thay đổi con người của Ngài. Đây cũng là bản nhạc tâm sự lên nỗi lòng của người đã từng đau khổ tại vùng đất chết chóc này.
Theo thói quen, lần nào khi người Campuchea, gần thị trấn Mông-cô-khơ-rây biết chúng tôi sẽ về thăm, là họ lại yêu cầu chúng tôi làm lễ Báp-têm cho những người mới tuyên xưng vào danh Chúa. Nhưng lần này thì khác. Chúng tôi không làm lễ Báp-têm ở đâu xa trên con sông, trên cánh đồng mà hành lễ ngay tại khuôn viên, nơi mà hai người bạn của tôi đã bỏ tiền ra mua đất để xây Hội Thánh.
Khi cử hành lễ Báp-têm cho những tín hữu trẻ tuổi, trong khuôn viên này, tất cả các em trẻ và phái đoàn từ Việt Nam đều không biết rằng: cách đây không lâu, cách dòng sông này không xa, nơi lễ Báp-têm cho các em trẻtrong cái ao đó lại là bãi chiến trường ngày xưa. Cách chỗ này không xa là nơi máu của đồng đội tôi đã đổ. Cách chỗ này không xa là bao nhiêu ngànngười dân của quốc gia này đã bị giết chết. Cách nơi này không xa là nơi tôi đã trải qua nỗi nhục của kẻ thất trận. Cách đây không xa là nơi tôi đã bị tù đày, bị xiềng xích, bị tra tấn cho đến chết ngất. Tôi thật sự không bao giờ có thể ngờ rằng mình sẽ sống và quay trở lại nơi này để làm những việc mà mình không bao giờ có thể tưởng tượng. Nhưng Đức Chúa Trời, Cha từ ái của tôi đã cho tôi chứng kiến những gì mà tôi không bao giờ có thể nghĩ ra.
Có lẽ càng trưởng thành trong Chúa, tôi càng sống bằng tình cảm nhiều hơn là lí trí. Trở lại vùng đất này đã nhiều lần rồi đó, nhưng cảm xúc lại vẫn cứ dấy lên. Nghe các em trẻ hát những bài thánh nhạc, nhìn thấy họ vui tươi nhảy múa với cuộc đời mới, còn tôi thì chỉ biết quay mặt cho những giọt lệ rơi xuống và vội lau đi. Những người đi chung cùng chuyến với tôi, có thể họ biết tôi dễ xúc động khi nhìn thấy cảnh và nghĩ về dĩ vãng nhưng họ không bao giờ biết rõ cảm xúc trong tôi. Đây là sự xúc động của một người đã sống và trải qua tất cả ở xứ chết chóc này và giờ đây, xứ sở chết chóc ấy lại là nơi mà mầm sống của Chúa đang nở rộ thêm lên…
Giọt lệ của một cựu chiến binh không dễ chảy khi bị thương, bị thất lạc, bị bắt làm tù binh, bị tra tấn hay do gian khổ của tù đày, nhưng lại cứ chảy, cứ rơi xuống do xúc động khi nhìn thấy những cuộc sống mới. Giọt lệ đó là gì? Có phải là tôi khóc thương cho những khổ đau và chết chóc mà mình đã trải qua năm xưa hay không? Có! Có đó. Nhưng hơn thế nữa, tôi khóc vì tôi nhìn thấy mầm sống do Phúc Âm của Chúa đã đâm chồi nẩy lộc nơi đây. Có ai không vui khi nhìn thấy sự sống của Chúa đang vươn lên để đợi một mùa gặt nở rộ.
Giọt lệ còn chảy dài hơn nữa khi tôi biết được, cuộc đời của tôi đã đượcđổi thay, từ tồi cho đến tốt và tốt hơn trong cuộc hành trình cùng Ngài. Ôi cuộc đời làm người! Đây là một cuộc hành trình, nó như dòng sông chảy, nó chảy ra từ lời Chúa, từ mối tình thuỷ chung của Ngài. Nếu không phải vì Ngài đã cho tôi biết nếm mùi gian khổ, làm sao tôi hân hoan cuộc sống trong Chúa của những em trẻ nơi đây.
Chúa ơi! Ngài đã đem con trở về với Campuchea, mảnh đất của chết chóc hôm xưa, không phải chỉ thăm viếng mà là nhịp cầu, để Chúa đem vào đây chính sự sống của Ngài cho dân tộc này.
UÔNG NGUYỄN