Hạ Màn
Trong bối cảnh của chính trị miền Nam, Việt Nam, tháng 4-1975 trong những giây phút cuối cùng của chính phủ, có một nhân sĩ là một trí sĩ, có danh tiếng tốt, vốn được mọi người quý trọng, và từng được bầu làm Chủ Tịch Thượng Viện thời Đệ Nhị Cộng Hòa. Ông là Nguyễn Văn Huyền, là nhân vật đứng ra làm chức Phó Tổng Thống cho chính thể mấy tiếng đồng hồ của Tổng Thống Dương Văn Minh.
Có người hỏi ông tại sao ông từ chối xuất ngoại, mà ở lại để xuất đầu lộ diện hầu mang cái nhục cho thân già, qua việc đầu hàng vô điều kiện thật là nhục nhã, e chề, chua chát như thế ? Ông trả lời “Tôi phải làm điều gì cho đất nước dù phải chịu nhục nhã và mang tiếng trước lịch sử.”
Vấn đề là: Tôi, một kẻ sĩ của nước Việt, phải có trách nhiệm làm thế nào cho thế giới nhìn vào hình ảnh cuối cùng của cuộc chiến, kết thúc một cách đỡ man rợ cho dân tộc Việt cùng giống nòi ! Phải có người đứng ra đầu hàng vô điều kiện, ký giấy bàn giao chính quyền, phải có người ăn mặc tề chỉnh, nghiêm trang cúi đầu chấp nhận thua cuộc, để tiết kiệm xương máu trong giai đoạn cuối của cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn!
Trong Thánh Kinh có một hình ảnh cuối cùng trên đất của Chúa Jêsus, tương tự đã xảy ra, trong chương cuối của chức vụ Con Trời trên đất. Cảnh hạ màn của Cứu Chúa Jêsus trên đồi Gôgôtha, trong buổi chiều tà, hai vị Nghị Viên Tòa Công luận, là người chính trực công chính đến xin nhận xác Chúa Jêsus, Nicôđem và Joseph người Arimathe.
Hai vị này không có mặt trong những phép lạ hóa bánh, hóa rượu trong tiệc cưới, hoặc khi Chúa chữa lành kẻ mù, câm điếc, khi Chúa làm phép lạ khiến cho kẻ chết sống lại. Hai vị này cũng không có mặt trong nhưng giây phút rộn ràng, vinh quang, niềm vui hãnh diện. Hai vị này ở trong bóng tối quan sát hành động và sự giảng dạy của “Người Khách lạ xứ Galilê”.
Rồi chiều nay, trên đồi Gôgôtha, một màu đen, màu tang giăng khắp trời Con Trời đã trút hơi rồi ! Khi các hy vọng thành lập một vương quốc trần gian mà vua Jêsus cai trị đã tan tành. Trong khi các môn đồ bỏ trốn, các phụ nữ khóc tức tưởi ! Đau thương, đổ vỡ, nghi ngờ, bối rối. Các môn đồ chưa biết trở tay làm sao, giải thích thế nào. Thì hai vị này đã dám xuất hiện, bước ra khỏi bóng tối tin Chúa một cách bí mật, kín nhiệm cách tuyệt đối. Hai ông công khai xin nhà cầm quyền nhận lãnh trách nhiệm. Hai ông bước ra khỏi bức màn bí mật, ẩn dật bao lâu. Chiều nay ra đi để “Xin nhận xác thầy!” Hai vị xin Philát được làm “nhận trách nhiệm” an táng Chúa Jêsus.
Thầy đã chết thật rồi! không còn gì để mà cậy trông ! Nhưng hai vị này can đảm, bình tĩnh đảm đương trong giai đoạn chức vụ Chúa Jêsus bị thất bại ư ? Đứng về phía kẻ bị nhục nhã, phía của kẻ bị án tử hình! hai vị xin nhận sự cuối cùng đó. Trong tuyệt vọng, bối rối thì hai ông không ngần ngại, không cần ai yêu cầu.
Đứng về phía bị áp bức, đớn đau phải chấp nhận, phải có người nhận xác, phải được mai táng trong huyệt đá mới. Cũng như phải có người đầu hàng. Phải có người nhận thất bại.
Hai vị này hân hạnh được đặc ân mai táng Chúa tên hai ông xuất hiện trong chương cuối của các sách Tin lành. Vì các ông chấp nhận thương đau, dầu biết rằng sự nghiệp, tương lai chính trị, tài chánh sẽ đi theo mây gió khi các Thượng Nghị sĩ khác biết hành động này. Danh vọng trong Công hội Sanhedrin chắc chán sẽ bị mất, còn bị phân biệt đối xử vì đã có tiếng nói cho công lý.
Nhưng hai vị này đã thấy điều gì đó cao quý hơn. Một mối tình thiên thu với Đấng Tạo Hóa, sự sống vĩnh cửu mà Chúa Jêsus phán với chính ông trong một đêm kia. Đó là câu “trái tim” của toàn bộ Kinh Thánh Gioan 3:16 “Ai tin Con ấy thì được sự sống đời đời !”. Hai ông Nicôđem và Joshep đã làm điều lành mà Thiên Chúa đã dự bị sẵn cho Êph.2:10.
Qua các đoạn Kinh Văn: Giang 19: 38; Luca 23: 50, Mác 15: 43, chúng ta rút tỉa một kinh nghiệm tâm linh. Đôi khi chúng ta không được hiện diện trong các buổi lễ vinh danh, vui mừng trong hội thánh, cộng đồng. Nhưng lại có mặt trong khi các sự kiện đau buồn. Các bạn và tôi vẫn vui vẻ bằng lòng không? Hai vị này phải mang theo 100 cân mộc dược hòa với lư hội; dùng ngôi mộ của chính mình trong nỗi cay đắng, thất vọng, trộn lẫn trong nỗi xót thương. Không giải thích nổi nhưng phải chấp nhận, những điều ta không hiểu nổi.
Những khi đối diện với chết chóc, bệnh hoạn, mất việc, ly dị, con cái, gia đình, chủ nơi sở làm, bạn đồng nghiệp đối đãi không công bằng với các bạn và tôi. Đời không đẹp như ta trông mong, các bạn và tôi không hiểu nổi, nhưng cứ làm điều đáng phải làm.
Khác với Thượng Nghị Sĩ Nguyễn Văn Huyền sự đầu hàng đã đi vào lịch sử. Hai vị Nicôdem và Joseph này hoàn thành đặc nhiệm cuối cùng, để mở đầu cho trang sử vinh quang cho toàn thể nhân loại. Chỉ sau ba ngày, Con Trời, Cứu Chúa Jêsus, chiến thắng tử thần. Ngài có quyền trên mọi xác phàm, hầu cho hễ ai thuộc về Ngài thì được sự sống đời đời.
Sự Phục Sinh của Chúa Jesus, một sự kiện lịch sử, vô tiền khoáng hậu, không phải là triết thuyết, đã mở ra trang sử của mới của sự kiện Thánh Linh vận hành trong sách Công Vụ các sứ đồ. Công việc ấy còn tiếp diễn đến hôm nay, ngày càng mạnh mẽ. Hội Thánh đã được thành lập và các hội truyền giáo đã và đang đem Tin Mừng đến cho cả nhân loại. Đây là công việc vinh quang ý nghĩa nhất trong lịch sử nhân loại: Các Hội Truyền Giáo khắp năm châu được thành lập và hoạt động môn đồ hóa muôn dân.
Nên các bạn và tôi hãy luôn hăng hái lên, bền lòng lo tiếp tay trong việc truyền giáo, môn đồ hóa từ trong gia đình, hội thánh, đến ngoài cộng đồng trong và ngoài nước. Amen.
Quý Vân
————————————-
GẶP CHÚA TRONG ĐÊM
-Bà lấy giùm tôi cái áo choàng, tôi sẽ ra ngoài để tìm gặp một con người đặc biệt.
-Tại sao ông phải đi vào ban đêm?
-Ồ, tôi có một lý do riêng, bà sẽ biết nhanh thôi.
Ni-cô-đem khoác vội chiếc áo choàng từ tay của người vợ, ông đến để gặp một con người đã làm ông ngưỡng mộ trong những ngày gần đây.
Đó là một đêm tối trời của năm 30. Giê-xu, người Na-xa-rét đang ở trong ngôi nhà của một bạn hữu trên bước đường lưu hành giảng đạo xuyên qua vùng Ga-li-lê, Ngài đã bắt đầu chức vụ từ sáu tháng trước đó. Có tiếng gõ cửa bên ngoài:
-Tôi muốn tìm gặp một người đàn ông tên là Giê-xu.
-Chính là ta.
Ni-cô-đem được mời vào nhà, ngồi đối diện với Chúa Giê-xu, ông bắt đầu câu chuyện:
-Thưa Ra-bi, chúng tôi biết thầy là giáo sư từ Đức Chúa Trời đến; vì nếu không có Đức Chúa Trời ở cùng, thì chẳng ai có thể làm được những dấu lạ mà thầy đã làm đó. Cá nhân tôi muốn được thầy chỉ giáo thêm.
Mặc dù Ni-cô-đem là giáo sư thuộc hệ thống hàng giáo phẩm Pha-ri-si dạy về luật pháp cho dân Do Thái nhưng ông là một con người khiêm nhường hiếm có giữa vòng sáu ngàn người Pha-ri-si vào lúc đó. Ni-cô-đem cũng là thành viên của một tổ chức gồm bảy mươi người lãnh đạo tuyển dân có tên San-he-rin (Tòa Công Luận), và sứ đồ Giăng viết về họ là “những người cai trị dân Giu-đa”. Tổ chức San-he-rin này tương đương với Tối Cao Pháp Viện và Thượng Viện Hoa Kỳ. Ni-cô-đem thuộc về ê-kíp lãnh đạo cả Do Thái Giáo và tuyển dân. Chức vụ của ông ngang bằng với một thượng nghị sĩ kiêm thẩm phán tối cao của chính phủ liên bang hiện nay. Như vậy Ni-cô-đem là quan chức với phẩm hàm lớn, được kính trọng và hưởng nhiều đặc quyền trong vòng dân sự lúc bấy giờ. Ông đã âm thầm quan sát các phép lạ, lắng nghe các bài giảng của Chúa Giê-xu và ông biết mình đang nói chuyện với một bậc thầy có uy quyền. Ông chọn một đêm tối trời, kín đáo đến với Chúa để “tầm sư học đạo”. Ông không muốn bị người khác theo dõi, vì có thể họ sẽ tố cáo ông giao thiệp với Chúa Giê-xu – đây lại là điều không nên có với một người lãnh đạo như ông. Nếu chuyện này bị đồn ra ngoài, sinh mạng chính trị của ông có thể bị nguy hiểm. Người ta thường nói rằng khi hai thầy thuốc ở cùng trong một khu vực thì không có ông nào thích ông nào. Về một phương diện Chúa Giê-xu cũng là một giáo sư giống như Ni-cô-đem, nhưng lời Ngài dạy có uy quyền mà một giáo sư bình thường trong tuyển dân không hề có. Hơn nữa Chúa Giê-xu còn thực hiện các phép lạ đồng thời với công tác giảng dạy của Ngài, chính điều này đã làm cho Ni-cô-đem trở nên hiếu kỳ xen lẫn ngạc nhiên. Ông tìm đến với Chúa Giê-xu để hỏi Ngài những điều mà trong lòng ông chưa có câu trả lời. Ni-cô-đem cũng biết bản thân ông không thể nào có một phong cách giảng dạy đầy quyền uy và các dấu lạ giống như Chúa Giê-xu đã thực hiện. Những gì ông truyền đạt cho tuyển dân chỉ là những bài học luật pháp khô khan mà chính trong lòng ông cũng không được thuyết phục về nội dung của nó. Bi kịch của nền giáo dục Do Thái Giáo thời bấy giờ chắc vẫn còn tái diễn trong mọi thời đại!
Chúa Giê-xu biết câu hỏi trong lòng Ni-cô-đem. Ngài bắt đầu khai sáng tâm trí ông:
-Quả thật, quả thật, ta nói cùng ngươi, nếu người nào chưa được tái sanh, thì không thể thấy được nước Đức Chúa Trời.
“Tái sanh”, lần đầu tiên trong cuộc đời Ni-cô-đem nghe từ này. Chúa Giê-xu nói đến ý nghĩa thuộc linh của từ “tái sanh”, nhưng vị giáo sư của dân Do Thái lại hiểu theo một ý nghĩa vật lý. Ông hỏi lại Chúa Giê-xu:
-Người đã già thì làm sao tái sanh được? Có thể nào vào lòng mẹ lần thứ hai mà sanh ra nữa sao?
Một tâm trí tự nhiên chưa nhận được ánh sáng thiên thượng thì không thể nào hiểu được những điều thuộc linh. Ni-cô-đem đã từng là một sinh viên xuất sắc khi còn trong chủng viện thần học. Tốt nghiệp ra trường ông là một trong những giáo sư ưu tú của người Pha-ri-si, rồi được tiến cử trở nên thành viên của tòa án tối cao Do Thái. Ông hẳn là người có kiến thức uyên bác so với những người cùng thời. Nhưng khi Chúa Giê-xu nói đến sự tái sinh, ông ngẩn người ra, ú ớ không hiểu gì cả.
Chúa Giê-xu tiếp tục giải thích cho Ni-cô-đem những điều thuộc linh:
-Quả thật, quả thật, ta nói cùng ngươi, nếu người nào chẳng bởi nước và Thánh Linh mà sanh, thì không thể vào nước Đức Chúa Trời được. Hễ chi sanh bởi xác thịt là xác thịt, hễ chi sanh bởi Linh là linh. Chớ lấy làm lạ vì cớ ta đã nói với ngươi: ‘Các ngươi cần phải tái sanh.’ Gió muốn thổi đâu thì thổi, ngươi nghe tiếng nó, nhưng chẳng biết nó đến từ đâu và đi đâu. Hễ người nào sanh bởi Thánh Linh thì cũng như vậy.”
Ni-cô-đem vẫn chưa thể hiểu được bài học Chúa dạy vượt quá tâm trí khôn ngoan của ông. Một giáo sư giữa vòng dân Do Thái lại không thể hiểu những điều Chúa phán! Chúa có ý gì khi thông điệp của Ngài dường như vẫn còn bị niêm phong với Ni-cô-đem? Chúa Giê-xu biết cách để trao khải tượng cho từng môn đệ, Ngài biết lúc này Ni-cô-đem chưa ngộ ra những gì ông ta nghe được từ Ngài, nhưng trong tương lai ông ta chắc sẽ nắm bắt được.
Cuộc viếng thăm bí mật của Ni-cô-đem với Chúa Giê-xu chỉ diễn ra trong vòng một tiếng đồng hồ. Ni-cô-đem hỏi, Chúa trả lời, nhưng trong lòng ông vẫn còn trĩu nặng với những nghi vấn. Ông chưa thể hiểu được sự tái sanh vào lúc này, nhưng dù sao ông cũng đã được tiếp xúc với một con người mà từ lần diện kiến đó cuộc đời ông bắt đầu có sự chuyển hướng. Lịch sử ghi lại nhiều sự kiện là có vô số người đã thay đổi khi họ gặp được Chúa Giê-xu.
Ni-cô-đem yên lặng trở về nhà sau chuyến viếng thăm trong đêm. Chúa Giê-xu tiếp tục cuộc hành trình của Ngài đến Giu-đê. Ni-cô-đem không ngừng theo dõi những bước chân của Chúa và suy gẫm những gì mà ông đã nghe Chúa phán dạy.
Tái sanh là gì? Ta không thể hiểu được điều này. Ni-cô-đem tự nói với chính mình. Ông bắt đầu suy tư và đi vào sự cầu nguyện tìm kiếm một lời giải từ thiên thượng. Lời dạy của Chúa Giê-xu dành cho ông là một thách thức lớn: “Nếu người nào chẳng bởi nước và Thánh Linh mà sanh, thì không thể vào nước Đức Chúa Trời được”. Trong suy nghĩ miên man, những ý tưởng của ông vụt lóe sáng thành lời cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin cho con hiểu được nước và Thánh Linh có ý nghĩa gì? Con muốn được vào nước Đức Chúa Trời.
Đôi khi lời cầu nguyện chân thành cũng cần có thời gian nhất định để nhận được câu trả lời từ Chúa.
Vào lúc này Ni-cô-đem cũng chỉ dừng lại trong một nhận thức: Chúa Giê-xu là giáo sư vĩ đại đến từ Đức Chúa Trời. Tâm trí của ông chưa vượt xa hơn về thân vị và chức vụ của Chúa Giê-xu trên đất. Điều này là lẽ tự nhiên, vì lúc này ngay cả các sứ đồ cũng chưa thể có một nhận thức rõ ràng về người thầy siêu việt của họ.
Dù sao thì Ni-cô-đem cũng đã có một khởi đầu tốt với Chúa Giê-Xu. Ai tìm kiếm Chúa hết lòng, người đó sẽ gặp được Ngài. Nhưng sau khi tiếp xúc cá nhân với Chúa Giê-xu, ông cũng chỉ mới biết Ngài theo cách bề ngoài thông thường.
Chức vụ của Chúa Giê-xu bị chống đối liên tục từ những người Pha-ri-si trong những năm sau đó. Họ không thể nào chấp nhận lời giảng của Ngài đối kháng với truyền thống của Giáo Hội đương thời. Vào năm 32 khi Lễ Lều Tạm diễn ra các thầy tế lễ cả và người Pha-ri-si đã sai quân lính đi bắt Chúa Giê-xu vì những gì Ngài dạy gây chia rẽ giữa vòng tuyển dân. Bọn lính ra đi rồi trở về thưa rằng: “Chẳng hề có người nào đã nói như người nầy”. Các người Pha-ri-si tỏ thái độ khinh miệt họ: “Các ngươi cũng đã bị phỉnh dỗ sao? Có một người nào trong các quan hay là trong những người Pha-ri-si tin đến người đó chăng? Song lũ dân nầy không biết luật chi cả, thật là một dân đáng rủa!” Lúc này Ni-cô-đem ra mặt bênh vực Chúa Giê-xu: “Luật chúng ta há bắt tội một người nào chưa tra hỏi đến, và chưa biết điều người ấy đã làm, hay sao?”
Trong lòng Ni-cô-đem đã có cảm tình đặc biệt với Chúa Giê-xu, ông vượt qua sự sợ hãi khi công khai bênh vực chức vụ của Ngài giữa vòng những bạn đồng liêu. Ông đã có một cảm nhận từ trái tim là cuộc đời ông sẽ trở nên hụt hẫng nếu không có Ngài.
Tạm thời Chúa chưa bị bắt vì mục vụ của Ngài trên đất vẫn còn, và giờ G định mệnh chưa đến.
Cho đến một ngày kia…
Chức vụ của Chúa Giê-xu bước qua năm thứ ba. Sự chống đối của những người lãnh đạo Do Thái Giáo đối với Ngài đã lên tới đỉnh điểm. Chúa Giê-xu lên Giê-ru-sa-lem chuẩn bị hoàn tất chương trình cứu chuộc. Kẻ thù đã chuẩn bị một kế hoạch để bắt Chúa. Và rồi điều tệ hại nhất đã đến, Ni-cô-đem bàng hoàng khi nghe tin Chúa Giê-Xu bị bắt và kẻ thù chuẩn bị đóng đinh Ngài trên cây thập tự. Bỗng dưng ông nhớ lại những gì Chúa dạy trong đêm đặc biệt đó: “Xưa Môi-se treo con rắn lên nơi đồng vắng thể nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên dường ấy, hầu cho hễ ai tin đến Ngài đều được sự sống đời đời. Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời.”
– Đúng rồi, “Con Người” mà giáo sư Giê-xu nói ở đây chính là Ngài. Ngài phải bị treo trên cây gỗ. Ngài là Con Một của Đức Chúa Trời. Ta đã tìm thấy rồi, Ni-cô-đem tự nói lớn với chính mình trong phòng riêng đến nỗi bà vợ ông phải ngạc nhiên:
– Ông vừa nói cái gì thế?
– Bà ơi, hãy nghe đây: Giê-xu – người Na-xa-rét chính là Con Một của Đức Chúa Trời. Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời. Ni-cô-đem nói lại với vợ mình nguyên văn lời Chúa Giê-xu đã nói với ông trước đây. Ánh sáng thiên thượng đã đến và ông hiểu ra những gì Chúa phán dạy trước đó.
“Lạy Chúa con muốn được sanh lại bởi quyền năng Thánh Linh”. Ni-cô-đem thốt lên lời cầu nguyện.
Ni-cô-đem lập tức đến hiện trường – nơi Chúa Giê-Xu bị đóng đinh trên thập tự giá. Tự nhiên ông có một linh cảm: Không dễ gì Chúa Giê-xu, Con Một của Đức Chúa Trời lại phải trải qua một cái chết thông thường.
Ni-cô-đem lên đồi Gô-gô-tha vào buổi chiều lịch sử sau khi Chúa trút hơi thở cuối cùng. Từng cơn gió hiu hắt trên đồi hoang như một khúc nhạc bi tráng đi vào tâm hồn người nghị viên của Tòa Công Luận. Ni-cô-đem đứng đó nhìn vào ba thi thể trên thập tự giá, ông nhận ra khuôn mặt của Chúa Giê-xu giữa hai khuôn mặt khác. Ni-cô-đem muốn bật khóc nhưng lạ chưa khóe mắt ông vẫn ráo hoảnh – những giòng lệ đã khô cạn tự bao giờ. Tâm hồn ông chùng xuống giữa đất trời một màu tang tóc thê lương! Tuy nhiên tận sâu thẳm trong cõi lòng Ni-cô-đem cảm biết điều ngoạn mục sẽ xảy ra sau sự chết của Chúa.
Ni-cô-đem biết điều ông phải làm vào lúc này.
Lúc bấy giờ Giô-sép người A-ri-ma-thê, môn đồ Đức Chúa Giê-xu một cách kín giấu là một người giàu có và cũng là nghị viên của Tòa Công Luận đến gặp quan tổng đốc Phi-lát xin phép lấy xác Chúa Giê-xu để chuẩn bị thủ tục mai táng. Quan tổng đốc chấp thuận lời thỉnh cầu của Giô-sép. Điều này trái với lẽ thường là các thi hài của những kẻ chết vì tội dấy loạn sẽ bị quăng vào một ngôi mộ tầm thường nào đó. Nhưng ngôi mộ mà Giô-sép dùng để chuẩn bị mai táng xác Chúa là một ngôi mộ sang trọng dành cho người giàu có gần nơi Chúa bị đóng đinh. Khi Giô-sép chuyển thi hài của Chúa xuống khỏi thập tự giá thì Ni-cô-đem cũng đến đem theo một trăm cân một dược (đơn vị đo lường của La Mã lúc đó tương đương 33kg) hòa với lư hội. Cả hai người Giô-sép và Ni-cô-đem lấy xác Đức Chúa Jêsus, dùng vải gai và thuốc thơm gói lại, theo đúng thủ tục khâm liệm của dân Do Thái.
Giô-sép và Ni-cô-đem đã thắng hơn sự sợ hãi, hai ông đã dũng cảm công khai niềm tin vào Chúa Giê-xu với công chúng khi hành động mai táng xác Chúa với sự trân trọng hiếm thấy. Đáng lý ra công việc này phải thuộc về nhóm mười hai sứ đồ. Các sứ đồ đi đâu vào lúc này? Có thể họ bấn loạn tinh thần nên đã bỏ của chạy lấy người! Và trong hoàn cảnh đặc biệt đó hai nghị viên của Tòa Công Luận đã thực hiện sứ mạng đặc biệt của mình.
Sau ba ngày nằm trong mộ địa, Chúa Giê-xu đã sống lại từ cõi chết một cách khải hoàn.
Điều trông đợi của Ni-cô-đem đã thành hiện thực: Giê-xu, người Na-xa-rét không thể chết theo cách bình thường, Ngài đã sống lại!
Ni-cô-đem nhận ra ánh sáng chân lý sau khi Chúa phục sinh. Cuộc đời ông thay đổi từ đây. “Lạy Chúa Giê-xu con tin Ngài là Con của Đức Chúa Trời, đã đến thế gian để chết đền tội cho con và Ngài đã sống lại”. Ni-cô-đem tuôn ra lời cầu nguyện tự nhiên như một dòng suối được khai thông.
Sự sống mới tràn vào tâm hồn Ni-cô-đem. Ông bước ra khỏi Do Thái Giáo với những giáo điều khô cứng để trở nên một môn đệ công khai, can đảm của Chúa Giê-xu. Hành động đức tin của ông đã làm cho các thành viên còn lại của Tòa Công Luận sửng sốt. Nhưng trường hợp của ông cũng tạo niềm cảm hứng Tiếp Nhận Chúa Giê-xu cho những người khác còn ở trong vòng trói buộc của những quyền lợi đời này. Trong bất kỳ thời đại nào thì Phúc Âm của Chúa luôn có quyền năng vô đối để giải phóng con người ra khỏi những rào cản, cho dù họ thuộc tầng lớp nào của xã hội.
Không bao lâu sau đó, Ni-cô-đem đã đến với các sứ đồ Phi-e-rơ và Giăng nhận lãnh phép báp-tem. Chấp nhận bị cách chức nghị viên của Tòa Công Luận và bị trục xuất ra khỏi Giê-ru-sa-lem vì tin Chúa Giê-xu, Ni-cô-đem cũng cởi bỏ chiếc áo Pha-ri-si để trung tín phục vụ Chúa Giê-xu và Phúc Âm của Ngài cho đến cuối đời. Danh vọng, địa vị, quyền lợi của ông trong Giáo Hội không là gì cả vì ông đã tìm gặp được Cứu Chúa của mình.
TƯỜNG VI