“Hey Gam, hãy đặt ba-lô xuống và chúng ta cần phải nghỉ một thời gian!”
“Cũng được. Nhưng các ông bị mệt à?”
“Vâng, tôi và David đều đã thấm mệt, chúng ta đã đi bộ hơn hai ngày rồi còn gì nữa. Và hôm nay đã chuyển sang ngày thứ ba…!”
“Vậy thì chúng ta hãy ngồi tại gốc cây chỗ kia, ở đó có phiến đá rất to và phẳng, các ông có thể ngồi nghỉ và nằm ngủ cũng được. Còn trong khu vực này có khá nhiều rắn rết và sẽ không tiện cho các ông ngồi nghỉ ngơi!”
Theo sự hướng dẫn của Gam chúng tôi đi khoảng hai, hoặc ba ngàn mét nữa thì tới gốc một cây, giống như loại cây bồ đề, có tán lá xum xuê, sừng sững bên lối mòn. Loại cây này tôi thấy khá nhiều trên xứ sở Nepal và chắc chắn, đây là điểm dừng chân lý tưởng cho khách bộ hành nghỉ ngơi. Gốc cây đã thành đại thụ to đến mấy người ôm không xuể, cành lá uốn nghiêng xuống, phủ kín cả một khu, và đặc biệt hơn, ngay dưới gốc mở ra ôm choàng lấy cả tảng đá to, dài và rộng cả mấy mét vuông, phẳng lì, tạo nên một điểm nghỉ rất mát mẻ, rất tự nhiên. Nếu nơi đây mà nằm trên đường phố Kathmandu thì dứt khoát người ta sẽ thấy một vài vị sư ngồi ngay ngắn tu thiền, hay nếu ở Hà Nội hay Sài Gòn thì ta sẽ thấy những tiệm cà phê, hay bánh kẹo phục vụ khách vãng lai. Nhưng ở đây chỉ có ba chúng tôi và cảnh tượng thật êm đềm. Vứt bỏ những chiếc ba-lô nặng trịch lên trên mặt tảng đá, chúng tôi cũng như ném thân mình xuống vì mệt mỏi trong cuộc hành trình. Dù là khí hậu lạnh lẽo của Hi-mã-lạp sơn, nhưng trên trán của tôi và David vẫn lấm tấm những giọt mồ hôi toát ra.
“Từ đây vào nhà của Gam còn bao xa nữa?” David vừa dựa lưng vào chiếc ba-lô để nghỉ và vừa hỏi mang tính cách tò mò.
“À… thật ra bản làng của tôi ở ngay trên kia kìa.” Theo tay của Gam chỉ, tôi nhìn thấy một ngôi làng mờ mờ, xa xa trên một triền núi cao mà tôi tưởng nó ở lưng chừng trời. Chỉ nhìn theo hướng ngón tay thì khoảng cách cũng khá xa, những ngôi nhà hiện ra cũng nhỏ xíu như những cái đốm nhỏ bằng cái móng tay trong đại ngàn. Nhưng khi tôi mở ba-lô lấy chiếc ống nhòm ra và nhìn thì ngôi làng tưởng chừng như ngay trên đỉnh đầu của chúng tôi. Tôi trao ống nhòm cho Gam và cho David, Gam có vẻ thích chí khi nhìn thấy khoảng cách quá gần qua thấu kính. Cũng qua ống nhòm tôi cũng nhận ra, để đến tới làng đó theo ngón tay của Gam chỉ, chúng tôi phải đi qua ít nhất vài quả đồi và phải lội xuống vài cái thung lũng nữa. Chúng tôi đang ở trên sườn của dãy Hi-mã-lạp-sơn mà bình thường đã ở độ cao hơn bốn ngàn mét so với mặt nước biển. Tay Gam chỉ nhưng miệng anh ta vẫn nói, “Chỉ cách đây khoảng bốn năm tiếng đồng hồ đi bộ nữa là chúng ta sẽ về tới làng bản mà thôi.”
“Chỉ…ỉ….ỉ bốn năm tiếng đồng hồ nữa… Tai tôi có nghe rõ và nghe đúng lời của cậu nói hay không?” Tôi hỏi và cố tình kéo dài chữ chỉ, tạo vẻ bông đùa để mọi người cùng vui.
“Vâng, giỏi lắm thì cũng chỉ bốn năm tiếng nữa thôi.” Gam trả lời rất chân thật và chưa thể bắt nhịp cách mà tôi kéo dài chữ ‘only’ chỉ một cách khôi hài.
“Bốn năm giờ đồng hồ đi bộ… Như vậy là Gam; cậu đo theo cách đi của cậu hay là của chúng tôi?” David là bạn thân cho nên không khó để ông nhận ra cách khôi hài của tôi và chúng tôi cùng nhau cười cố tình trêu chọc lại Gam để gây không khí vui nhộn sau cái mệt của cuộc hành trình.
Gam cũng là con người khá sắc bén và nhạy cảm. Nghe hỏi và thấy chúng tôi cười khà khà. Gam cũng nở nụ cười khì khì hiền lành thành tiếng trên khuôn mặt hiền hoà định nói câu gì đó nhưng đã bị David cướp mất lời.
“Cậu nhớ nghen, bốn năm tiếng đi bộ trong rừng núi của cậu sẽ thành sáu hoặc bảy tiếng đi bộ của chúng tôi… Có nghĩa là phải mãi tới chiều tối hôm nay chúng ta mới về đến nhà của cậu?”
Gam lại nhe hàm răng ra cười hiền hoà, cậu ta được đà và cũng bắt đầu khôi hài.
“Tại các ông đi quá chậm… Tại các ông đi ì ì, ạch ạch… thở phì… phì… phò… phò, lại uống quá nhiều nước…” Gam nói và quan sát phản ứng của chúng tôi. Thấy chúng tôi cười Gam tiếp tục.
“Vì các ông có cái bụng quá to… Tại các ông chỉ quen ngồi xe hơi, lên xe, mở khóa, đạp ga và phóng đi. Mười hoặc vài chục cây số với các ông thì chỉ đi khoảng hai chục phút là tới nơi, nhưng ở đây là… à… à… à Nepal… không phải Sydney, cho nên các ông sẽ phải đi mất cả ngày.” Gam vừa nói vừa cười và ngón tay của cậu ta đã chỉ vào đôi đầu gối đã tấy xưng của tôi trong cuộc leo núi hai ngày qua. Đêm hôm qua tôi đã tranh thủ vặt lấy nắm rau Ngải Cứu cạnh đường ngay khách sạn, vò nhầu mà bó vào chân của tôi cho đỡ đau, nên nhìn đầu gối của tôi càng to ra. Gam cũng không quên chỉ tay vào cái bụng phệ của David mà cười, “Hai thứ này của các ông không phải là sản phẩm để chinh phục Hi-mã-lạp-sơn.”
Tuy là mệt nhưng tất cả chúng tôi đều cười trong khoảnh thời gian nghỉ ngơi lấy sức và đi tiếp. Trời xế chiều, cả ba chúng tôi cũng về gần đến bản làng như dự tính. Gam chắp tay vào miệng hú lớn,
“hu oa… hu oa.”
Tiếng hú của Gam vang ra và trong tích tắc sau, âm vang từ những ngọn núi, những vực sâu xung quanh của vùng đại ngàn, cũng cất tiếng vọng theo sau, “hu oa… hu oa,… hu oa…” Trong bản làng phía trên cũng có nhiều tiếng hu oa đáp lại và trong khoảnh khắc, đại ngàn của vùng rừng núi Nepal đang yên lặng, trầm tĩnh, bỗng nhiên bị phá vỡ bởi những tiếng hú hu oa vang dội tưởng như không ngớt. Khoảnh khắc không lâu một đám con trẻ và mấy thanh niên lần lượt chạy ra từ trong những khe núi. Họ xuất hiện thoăn thoắt như những con báo, con chồn. Họ không biết chúng tôi và chưa gặp chúng tôi lần nào, nhưng họ biết và thân với Gam. Gam nói với họ bằng ngôn ngữ Gu rung địa phương, và những thanh niên kia nghe theo lời của Gam. Họ ra hiệu bảo chúng tôi tháo gỡ những chiếc ba-lô trên vai và trao lại cho họ. Những thanh niên của làng sẵn sàng đeo giúp những chiếc ba lô cho chúng tôi, và cả đoàn chúng tôi vào làng.
Gam có thể là người đầu tiên mang Phúc Âm của Chúa đến với miền phía tây bắc hẻo lánh của Nepal. Có đến đây tôi mới cảm nhận thấy quê hương này nghèo thật. Nghèo đến nỗi mà ngay chính cá nhân tôi con người trải qua thời nghèo khổ và bao cấp của Việt Nam trong những thập kỷ bảy mươi, tám mươi của thế kỷ trước, nhưng tôi cũng không thể tưởng tượng ra cái nghèo nơi đây. Nghèo không phải chỉ là do hoàn cảnh của núi rừng, của thổ nhưỡng và do kinh tế. Nghèo còn do hậu quả của tư duy tôn giáo và những phong tục tập quán địa phương khiến cho con người cứ phải sống trong cái lầm lũi của nghèo. Vì đa số người địa phương là theo Ấn Độ Giáo cho nên bò được coi như một vị thần. Và là thần cho nên thịt bò là loại tối kỵ không ai dám giết bò lấy thịt mà ăn. Trong làng bản còn nhiều những tục lệ khác mà không ai, không một triết lý nào có thể giúp họ thoát khỏi cái ách nặng nề và kinh khủng này.
Nhiều người có tâm huyết nơi đây đã du nhập chủ thuyết Maoist, nhưng tư duy mang tính chính trị và bạo động cũng chỉ làm con người miền núi chân chất, vốn đã khổ nay có những bạo loạn càng gia tăng thêm sự thống khổ chứ không hề được giải thoát. Cái ách của tôn giáo và phong tục tập quán còn nặng gấp bao nhiêu lần những chiếc ba-lô của chúng tôi, vì ba-lô là vật ngoại thể người ta còn có thể cởi bỏ ra bất kể lúc nào, nhưng cái ách của tôn giáo và phong tục tập quán thì không phải ở trên lưng, mà nó đã đi sâu vào trong tư duy của những con người nơi đây. Phong tục đã tồn đọng cả hằng ngàn năm rồi và còn có nguy cơ du nhập nhiều thêm những cái xấu nữa. Hình như không có quyền lực nào có thể xoay chuyển, ngoài quyền năng và sự khôn ngoan của chính Đức Chúa Trời.
Chúng tôi đang theo chân Gam về một miền quê mà chính anh đã là người mang về một tư duy của Chúa. Tin Lành đã đến đây, Phúc Âm của Chúa đã về đến đây và cùng những con người địa phương được khải ra và giải thoát cái nghèo, cái khổ cho cả vùng rừng núi của riêng người Gu-rung.
Gam có thể là người đầu tiên của toàn vùng được đi học đến lớp chín. Gia đình gửi đi học ở thành phố Kathmandu, để sau này trở về làm đại diện cho khu tự trị của mình. Tại Kathmandu, Gam được giới thiệu và làm quen với những người Hồng Kông làm việc ở đây. Người Hồng Kông nói về nhữngmiền xa xôi, như Sydney, New York, Los Angles, London và Paris. Họ biết Gam là người thiểu số thuần nông với núi rừng, nhưng có ước mơ và hoài bão lớn cho những người Gu-rung. Họ hỏi Gam về ước mơ và họ bảo:ước mơ, hoài bão chỉ thành sự thật khi ta có tiền. Người Hồng Kông thực dụng nói về sức mạnh của đồng đô-la mà Gam cảm thấy say mê.
Từ Kathmandu, và rồi Gam cũng được đi đến Hồng Kông để thưởng ngoạn cuộc sống mà đồng tiền có thể tạo ra. Trên quê hương của khu tự trị Gu-rung dựa vào các triền núi cao để sinh sống, nay Gam bước đến với xứ sở của những ngôi nhà cao trọc trời. Những ngôi nhà của Hồng Kông không bao giờ có thể so sánh với sự vĩ đại của những ngọn núi cao chót vót quanh năm tuyết phủ kín trắng xóa của Nepal. Nhưng những tòa nhà cao trọc trời, và những căn biệt thự sang trọng của Hồng Kông là do bàn tay của con người tạo nên. Chính sự thèm khát kia đã bốc lửa trong tâm can Gam, để rồi đẩy chàng trở thành một cửu vạn cho họ.
Những ông chủ ở Hồng Kông đã chuẩn bị tất cả cho Gam. Vé máy bay, visa, hotel… tất cả đã làm sẵn, và điểm cuối cùng là khi họ đưa ra một bọc những viên con nhộng trong đó chứa đầy bạch phiến nguyên chất và cao cấp để Gam nuốt vào trong bụng. “Những con nhộng này sẽ bảo vệ các cậu… không sao đâu…” Họ nói và cố trấn tĩnh tinh thần khi họ nhìn thấy Gam và các bạn lưỡng lự trước một bịch khá lớn những con nhộng. “Cứ uống từ từ một con một” Họ bảo và đưa cho Gam những lon nước. Khi Gam và đồng bọn nuốt xong cũng là khi họ chúc mừng Gam, “Ước mơ sẽ thành sự thật.” Những người Hồng Kông đã khích lệ Gam làm một việc mà Gam không bao giờ có thể ngờ rằng anh và các bạn của mình đã bị biến thành những nạn nhân phạm luật.
Khi mọi việc đã thành công chừng già nửa, khi chiếc máy bay trở Gam và đồng bọn đã cất cánh lên khỏi phi trường là khi các tay anh chị người Hồng Kông biết rõ Gam và hai người bạn đã bay cao, bay xa trên chuyến Cathay Pacific đi Sydney. Đối với những người Hồng Kông thì như vậy là xong, họ không còn gì phải lo nữa, dự án của họ đã hoàn thành. Họ lên xe, quay trở về ăn uống và chúc mừng nhau thành công. Khi họ đã ăn ngon, ăn no và chuẩn bị ngủ cho say, để đón mừng chiến thắng, là khi họ nhấc điện thoại lên và điện báo cho cảnh sát liên bang Úc và cảnh sát quốc tế về những kẻ mang theo bạch phiến vào Úc. Không ai biết rõ những chi tiết về cuộc hành trình của Gam và các bạn hơn là những tay anh chị này; số ghế ngồi, số máy bay, tất cả đều được báo cáo và đi vào sổ theo dõi của cảnh sát Úc.
Trên phi cơ, lần đầu tiên Gam và các bạn được bay, lòng họ đầy phấn khích, đầu óc Gam khoan khoái vì những ước mơ. Nhà, xe, gái và quà cho cha mẹ của mình. Khi Gam mơ mộng là khi tổ chức buôn bán đa quốc gia và siêu lợi nhuận này đã bố trí vận mệnh cho Gam.
Chiếc máy bay chở Gam và đồng bọn hạ cánh cũng là khi cảnh sát đến và truyền tin cho những nhân viên kiểm tra phi trường chuẩn bị đón họ. Gam và những cửu vạn phải bị biệt riêng và đưa vào trong phòng khám đặc biệt. Gam và Dhukkha may mắn hơn vì những túi bạch phiến kia không bị a-xít trong dạ dày bào mòn và làm vỡ trong bụng, còn một người cùng chuyến với họ thì không. Khi Gam phải đợi trong phi trường là khi cảnh sát và nhân viên y tế phải lên máy bay để làm thủ tục đưa xác nạn nhân xuống khỏi máy bay. Cửu vạn này đã bị tắt thở từ lâu mà không ai biết. Vì trong cơ thể của nạn nhân có hàm lượng a-xít cao hơn bình thường, có lẽ cũng là do uống rượu, chất a-xít bào mòn những bao ni-lon nhỏ và chất độc của bạch phiến nguyên chất trong bụng vỡ ra, cộng với rượu, nạn nhân đã chết mà không ai trên máy bay có thể cứu được. Nạn nhân có lẽ chết trong giấc mơ của mình.
Khi cảnh sát liên bang và báo chí đưa tin về thành công lớn của một vụ phá án, họ đã ngăn chặn được những kẻ mang bạch phiến vào Úc, thì cũng chính là khi hằng trăm kilôgam bạch phiến khác đã cập bến an toàn để cho những thanh niên người Úc tiêu thụ.
Gam và Dhukkha bị dẫn ngay vào phòng kín. Nhân viên phi trường có cách đặc biệt để lấy ra hết gần hai ký bạch phiến, từ trong ruột của họ. Gam cùng Dhukkha cũng bị kết án ngay cấp kỳ và chiếc xe công vụ của cảnh sát cũng đưa họ thẳng từ phi trường vào trại giam. Ở đây Gam và người bạn là Dhukkha nằm thụ án trong các nhà tù của Úc.
Năm năm, rồi sáu năm trôi qua mà hình như trong thế giới bên ngoài không ai biết gì về những nỗi đau trong tâm hồn của họ. Họ ước nguyện trở lại với buôn làng và làm ăn như những người thân khác, sự nguyện ước của họ luôn luôn cũng nằm trong bóng tối của ngục tù. Nhưng dù thế gian không biết, dù thế gian có những dự định ác tà và chỉ một mục đích kiếm lời và sẵn sàng hủy diệt con người, nhưng Đức Chúa Trời lại có một dự định khác không phải chỉ cho Gam và người bạn của mình mà cả khu tự trị Gu-rung.
Trong nhà tù tại Sydney, Gam và Dhukka đã được học hỏi và trau dồi Anh ngữ, để rồi đối với thế gian thì là may rủi, nhưng trong con mắt của Đấng Tạo Hóa, và là đấng Cứu Chuộc, thì tất cả là một sự sắp đặt. Ngài chuẩn bị trước cho một mùa gặt của một dân tộc mà không ai biết. Gam bỗng nhiên làm quen được với một tay du đãng khét tiếng người Khmer. Khi tay du đãng có tên Ronald này cảm động bởi Phúc Âm của Chúa mà sẵn sàng gác bỏ tất cả và trao đời cho Chúa trong tù, thì nguồn vui được giải toả trong tâm linh này, cứ tự nhiên lan toả. Tin Lành tỏa ra từ Ronald, hấp dẫn qua người này và chuyển đến người kia trong nhà tù.
“Hey, hai người có thể đến thăm bạn tù của tôi không?” Ronald vừa hỏi chúng tôi vừa nhấm nháp ngụm nước trong lon Coca Cola mà chúng tôi mua cho cậu. Cách hỏi rất tự tin của những tay anh chị. Và tuy họ đã đến với Chúa, đang được biến đổi, nhưng Chúa không bao giờ cất đi sự mạnh dạn của những người dám đứng mũi chịu sào và sẵn sàng lăn xả.
“Vào được chứ… Nhưng cậu phải cho mình biết tên và lý do cậu ta vào tù để chúng tôi còn biết và điền form vào thăm.” Tôi cũng rất tự tin và nhìn thẳng vào Ronald và đáp lại.
Ronald có thêm chút hãnh diện thong thả nói, “Tôi đã giới thiệu về Cứu Chúa Giê-su và bạn tôi là Gam và Dhukkha. Cả hai người này đều xuất xứ từ Nepal… Họ rất cởi mở và muốn tin nhận Chúa, nhưng tôi không biết phải làm gì với họ.” Ronald ngừng lại như muốn dò hỏi phản xạ của chúng tôi. Trong giây phút ngập ngừng anh ta nói tiếp.
“Tôi muốn ông bà là người có kinh nghiệm trong Chúa và hãy vào tù này thăm họ vào tuần sau… để tôi sẽ vào lại trong tù và nói cho họ hay là sẽ có ân nhân tới thăm.” Lại một khoảnh khắc ngừng lại nhưng không phải là dò hỏi mà Ronald muốn chúng tôi có chút cảm thông.
“Bạn của tôi là Gam và Dhukka, cả hai anh bạn này đã đến và ở Sydney gần sáu năm mà không biết Sydney là gì và nước Úc là gì… Họ từ phi trường vào nhà tù…” Ronald nói và cố gắng diễn tả tâm trạng của hai người bạn bằng tất cả khả năng của mình. Cậu ta bỗng nhiên cười khà khà khi diễn tả những gì đã xảy ra cho Gam và Dhukka.
Theo thỉnh cầu của một đại du đãng và nay đã là một con chiên của Chúa, hai vợ chồng chúng tôi vào trong tù viếng thăm Gam vào ngày thứ bảy tuần sau đó. Lần đầu gặp Gam và nói chuyện cùng cậu ta, tôi bỗng nhiên có một ấn tượng đặc biệt, và nghĩ rằng đây là một con người chân thành, cõi lòng của cậu ta đã sẵn sàng cho Chúa. Ronald đã nói đúng và đã chuẩn bị Gam. Qua ít phút giới thiệu với chúng tôi và cậu ta cũng cho hay những gì mà Ronald đã nói qua về những gì mà chúng tôi sẽ nói chuyện trong chuyến viếng thăm này. Gam không hề cảm thấy xa lạ và e thẹn với chúng tôi. Đúng như những gì Ronald đã nói, khi chúng tôi hỏi để Gam tuyên xưng đức tin. Gam gật đầu tại chỗ và lại thêm một lần nữa trong nhà tù Paramatta nổi tiếng này, hai linh hồn lại được củng cố trong danh Chúa.
Mãn kỳ lao lý, cả Gam và Dhukkha đều biết rõ rằng họ sẽ bị trục xuất ngay cấp kỳ ra khỏi nước Úc, nhưng lòng họ dạt dào vui vì ngày mà họ trông đợi đã đến. Trong những tháng, những năm vào tù để thăm Gam và Dhukka, chúng tôi đã có một mối tương giao mật thiết có thể nói là gần gũi hơn cả những người thân trong gia đình. Ngày họ sẽ phải trở về quê hương càng gần, lòng dạ của họ những kẻ xa xứ thì bồi hồi trông đợi ngày ra tù, còn tâm hồn của chúng tôi cũng càng thêm gia tăng sự bồi hồi của một cuộc tiễn biệt. Trong tâm tư của Gam và Dhukka thì đếm từng ngày để trở về nguyên quán, còn trong tâm tư của hai vợ chồng chúng tôi thì là một nỗi lo âu. Chúng tôi san sẻ với nhau, và chủ đề luôn là không hiểu liệu niềm tin của Gam có thể tồn tại khi trở về với những cam go thử thách trên quê hương đậm đặc tôn giáo của họ. Liệu hạt giống Phúc Âm của Chúa mà Ngài đã xử dụng chúng tôi gieo vào lòng Gam và Dhukka có thể vững trụ khi cả hai người trở về nguyên quán và đối diện với những thách thức của họ?
Và đã đúng như ý, Chúa đã làm những việc vượt quá sự tưởng tượng của chúng tôi. Hai năm trở về quê hương Gam đã gây dựng từ con số một, và niềm tin chân thành của Gam đã lan toả đến với vợ con, và rồi đến cả hai gia đình bố mẹ của mình và bố mẹ của vợ con. Phúc Âm như nước suối trên đại ngàn đổ xuống, qua những người thân, qua người họ hàng trong làng bản và rồi cả thầy hiệu trưởng của trường học trong vùng nhận thấy năng quyền của Đức Chúa Trời, ông cũng mở lòng ra tin nhận Cứu Chúa và khích lệ người thân tin theo.
Chúa đã đến viếng thăm và đã thay đổi toàn thể bộ mặt của xóm làng của miền rừng núi xa xôi. Hôm nay anh em chúng tôi muốn đến tận nơi để mục kích những gì mà Phúc Âm của Chúa đã đến và thực hiện với một con người, và làm thay đổi cả một vùng rừng núi.
“Chúng ta sẽ cùng nhau gây dựng Hội Thánh thuộc linh cũng như thuộc thể.” Tội nhân năm xưa nay đã là một truyền đạo của một vùng đứng trên triền núi và nói. Tay ông chỉ vào mảnh đất mà tổ tiên của ông đã để lại.
“Tôi muốn dâng hiến mảnh đất này của tổ tiên tôi để tất cả chúng ta cùng nhau gây dựng Hội Thánh của Chúa.” Đây là câu nói của Gam khi người cha đứng cạnh anh gật gật cái đầu đồng ý và khích lệ con trai của ông. Gam còn vui hơn khi anh nói, “Hội Thánh này sẽ là điểm cao nhất thế thế gian, vì nó nằm trong điểm cao của dãy Hi-mã-lạp sơn vậy.”
Đi đường đã xa, chân vẫn mỏi và đôi đầu gối của tôi vẫn còn xưng tấy vì tôi cùng David không quen với khí quyển của vùng cao. Ngay cả khi hít thở chúng tôi cũng cảm thấy khác thường nhưng nguồn vui như vô hạn khi biết rằng, chúng tôi không mang lên đây những gì chỉ là vật chất, của tạm thời, chúng tôi đã là nhịp cầu để Cứu Chúa trải ra từ Ngài đến với những vùng đất, những con người tưởng chừng như những Cơ Đốc nhân và Phúc âm của Chúa chúng ta không bao giờ có thể vươn tới. Chúa đã làm và Ngài làm những việc vượt qua dự định của những con người. Tất cả mọi thứ đều có giới hạn, chỉ có những gì thuộc về Chúa là vô hạn. Cả ngàn năm, quê hương của những người Gu-rung đã oằn lưng gánh lấy cái nặng nề,của tôn giáo, thì giờ đây, Chúa và Phúc Âm của Ngài đã đến và giải thoát họ.
Còn tôi, một cựu chiến binh, một cựu tử tù trong bàn tay khát máu của Pôl-pốt, đến Úc với đôi bàn tay trắng và một thân thể đầy bệnh tật, vậy mà giờ đây, chính Cứu Chúa đã nhặt, đã chọn tôi ra khỏi vòng bà con, làng xóm của Việt Nam và trở thành đại sứ của Chúa cho nhiều người. Tôi không bao giờ có thể ngờ rằng mình lại có thể làm được những việc mà cách đây mười năm tôi chưa bao giờ mơ tưởng tới.
Nhìn thấy Gam và gia đình vui tươi hạnh phúc bên nhau. Nhìn thấy chòm đất đã được phát quang cho đại sự của Chúa. Nhìn thấy làng bản được thay đổi, và nơi tôi đang đứng đây mai này sẽ có Hội Thánh Chúa và những con người nơi đây đã bị nô lệ cho tôn giáo cả hàng ngàn năm nay đã đến cùng Chúa và được giải thoát. Cái nhìn đó làm cho tôi vui và quên cả những nhọc nhằn năm xưa và đôi đầu gối còn đau hôm nay để lên đây và nhìn thấy cả một cộng đồng của vùng Gu-rung này đã được tận hưởng ân phúc của Đức Chúa Trời. Tôi còn vui hơn khi tôi nhìn ra, nơi đây, lời Chúa được rao truyền và những bản thánh nhạc sẽ được ca vang ngân nga trong miệng của người già, của trẻ em giữa đại ngàn Hi-mã-lạp-sơn.
Ngay đêm đó, tuy mệt nhưng chúng tôi cũng để cho Gam truyền giảng Phúc Âm và theo thỉnh cầu là chúng tôi phải cầu nguyện và phục vụ mọi người cho tới tận đêm khuya.
“Toàn bộ dân làng đã kết thúc mùa gặt… họ có một số ngày nghỉ… và đây là cơ hội cho Phúc Âm… Các ông đã đến đúng lúc… và ta phải làm việc.” Chúng tôi gần như tuân thủ ý kiến của Gam người bản địa vì Gam biết những gì của người dân nơi đây mà chúng tôi không biết. Đêm đó do mệt cho nên chúng tôi ngủ ngon như chưa bao giờ được ngủ.
Ngày hôm sau là ngày tôi được tung tăng vui vẻ với những người bản địa. Ôi rừng núi của Hi-mã-lạp-sơn, nơi mà tôi đã đọc qua bao nhiêu sách vở và nay tôi đã đến. Nhìn những ngọn thác cách tôi không xa, nhìn những ngọn núi quanh năm bị phủ tuyết trắng mà lòng tôi bồi hồi. Khi hỏi những người bản địa và chúng tôi được hay rằng nơi chúng tôi đang đứng đây là khởi điểm của dòng sông Hằng. Những ngọn thác kia, những ngọn núi tuyết đang phủ kín kia, khi gió và ánh nắng mặt trời làm tan ra sẽ là nguồn nước cuốn theo những dòng suối đang cuồn cuộn đổ xuống và tạo nên dòng sông Hằng của Ấn Độ. Dòng sông Hằng đó đã dấy lên không biết bao nhiêu tác phẩm thơ ca của Việt Nam trong trí tưởng tượng của những tác giả Việt. Đặc biệt là thơ ca trong thiền học. Còn tôi hôm nay đã lên trên tận ngọn nguồn của dòng sông ấy và Đức Chúa Trời đã giúp chúng tôi chinh phục khu tự trị ấy bằng Phúc Âm của Ngài.
UÔNG NGUYỄN