Biết mình sắp đi xa, nhất là đi tương đối lâu vì phải nhập ngũ năm thứ hai sau ngày đất nước thống nhất.
Thời đó, nghe tiếng đồn ở vùng Cao nguyên Đaklak giặc Phun-rô dữ lắm. Rồi cũng nghe tin có khi qua đến tận Cambodia thì khó mà có ngày về lại để được tắm mình trên con sông quê. Tôi đã dành cho một buổi chiều để trầm mình trên sông Vu Gia quê tôi cho thỏa thích.
“… Quê hương tôi có con sông xanh biếc
Nước gương trong soi tóc những hàng tre
Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè
Tỏa nắng xuống dòng sông lấp loáng.
Chẳng biết nước có giữ ngày giữ tháng
Giữ bao nhiêu kỷ niệm giữa dòng trôi
Hỡi con sông đã tắm mát cả đời tôi…”
Đó là những câu thơ trong bài thơ “Nhớ con sông quê hương” nỗi tiếng của nhà thơ Tế Hanh.
Tháng bảy là mùa giao quân đầu năm thứ hai sau năm 1975.
Con sông quê giòng chảy đã cạn, từ bờ tre ra mép nước xa hơn sáu mươi mét. Bây giờ bãi cát đã trở thành bãi lúa gieo, lúa đã trổ đòng, những hạt phấn trăng trắng bay tỏa mùi thơm. Tôi đi từng bước, từng bước để tận hưởng cái hương vị ngào ngạt của hương lúa nàng thơm. Dòng nước trong xanh, mát rượi, tôi thả hồn mình để nghe lưu luyến vào tận trong tâm khảm…
Lòng khe khẽ bài hát: “Gửi lại cho em” của nhạc sĩ Vũ Hoàng:
“… Vì quê hương hiến dâng cho cuộc đời
Chào thành phố chúng tôi lên đường
Cùng nhau ra đi nơi biên thùy căm thù giặc bước quân đi
Hàng me xôn xao vẫy chào tạm biệt nhé người thương
Gần nhau trong giây phút nầy nghe lòng rộn rã yêu thương
Dù mai xa cách phương trời đôi ta vẫn bên nhau từng ngày
Gửi lại em ước mơ bên giảng đường
Gửi lại em phố vui qua từng ngày
Gửi lại em tiếng yêu thương ngọt ngào…”
Bỏ lại sau lưng tôi đi vào quân ngũ, xa người thân yêu, xa gia đình, bạn bè yêu dấu. Nhất là xa Hội Thánh nơi mà tôi có nhiều kỷ niệm.
Rừng núi cao nguyên Đaklak thâm u, điệp trùng. Nơi tôi đóng quân nằm sâu trong rừng, xa vùng dân cư phải đi bộ suốt hai tiếng đồng hồ mới đến xóm nhỏ Eo-khanh. Nơi đây không có con sông nào đủ rộng, đủ sâu để cho tôi được trầm mình cho thỏa thích. Có chăng là những con suối nhỏ, nhưng mà nước thì trong veo chảy róc rách suốt ngày đêm.
Những ngày đầu đến đây, đơn vị tập trung cắt tranh, chặt tre nứa để làm lán trại. Bên cạnh đó là những đợt lùng sục truy quét bọn Phun-rô. Những đêm gác nơi rừng vắng cô tịch và rùng rợn, thế nhưng tâm hồn thơ vẫn cho tôi yêu đời:
Thanh thoát đêm thanh giọt sương rơi
Mây tan lồng lộng ánh sao trời
Non nước đẹp như thêu như vẽ
Hình ta sông núi dệt muôn nơi
Biết chăng em, đêm nay anh đứng
Trong lòng Tổ quốc dựng tương lai
Giữ cả màu xanh cho em nữa
Và quê hương trong ánh dương mai…
Rồi một ngày tôi cùng đơn vị hành quân vượt suối băng rừng suốt mấy ngày đêm để qua tận biên giới Cambodia để ém quân. Chờ một giờ G có lệnh sẽ cùng tất cả các đơn vị hiệp đồng binh chủng giải phóng nước bạn Khơ me. Lúc nầy thư qua lại với gia đình có ít hơn.
Chiến dịch đã mở ra, chiến trường ác liệt. Tôi phải hành quân chiến đấu suốt từ vùng Đông bắc sang Tây nam. Cuộc chiến nầy đã cuốn hút tất cả Quân binh chủng. Tôi nhớ khi cả đoàn quân tiến sâu vào Thủ đô Phnôm-Pênh, đạn pháo ngút ngàn, bầu trời đỏ lửa. Nhưng dù cuộc chiến có tàn khốc đến đâu, thì quê hương luôn là nỗi nhớ của tôi, nhất là nhớ đến con sông quê da diết.
Nhớ quê, lúc thì nhớ con mương chảy dọc cánh đồng có bầy vịt con lông vàng chiêm chiếp bơi lội. Con mương làm sạch đôi chân lấm bùn trước khi vào lớp học. Con mương ấy đã từng chở những chiếc thuyền giấy của tôi cập những bến bờ mơ ước. Không biết người ấy nhiều lần tôi muốn hỏi, có phải con mương dẫn nước về đây ngang qua nhà người con gái mà tôi thầm thương trộm nhớ. Thế mà sao, em không một lần hiểu được ánh mắt của tình tôi?
Tôi dấn thân vào cuộc chiến trên xứ người, đất nước Chùa Tháp với rất nhiều sông suối, kênh rạch và ao hồ. Tôi đã từng tắm mát dưới dòng sông Sê-ra-pốc, hay trên con sông Mê-Kông hùng vĩ. Rồi cũng có đôi lần về bơi lội trên biển hồ Tông-lê-sáp. Nó là một cái hồ lớn của đất nước Chùa Tháp và là lá phổi của xứ sở Khơ me. Hồ cung cấp một lượng cá lớn cho đất nước. Nhưng không làm sao tôi quên được con sông Vu Gia quê tôi.
Sông quê tôi có nhiều kỷ niệm, từ thuở ấu thơ đã được cha mẹ dẫn đi tắm sông. Con sông nầy lại có trên bờ hai đầu thượng du và trung du hai nhà thờ Tin Lành đang tọa lạc. Bây giờ lại mọc thêm một nhà thờ Tin Lành nữa ở bờ bên kia.
Ngày ấy tôi cùng Mục sư Phan Phụng Phúc đi “dậm rung rúc” để tìm con cá con tôm bé bỏng để cải thiện đời sống. Thời kỳ Chế độ tập trung bao cấp, gia đình Mục sư cũng nhận phần đất để canh tác như bao nhiêu người dân khác. Dậm rung rúc là tiếng địa phương mà người dân quê tôi chỉ về người đi bắt con cá con tôm bằng cách đưa cái rung rúc bằng cái rổ khổng lồ bán nguyệt, rổ đan bằng nan tre già có một cái cáng tre cột chặt vào bên mặt cắt bằng. Và một dụng cụ khác không thể thiếu đó là cái cần bằng một đoạn tre dài khoảng 80cm và cũng có cái nẹp vòng cung bán nguyệt cột chặt vào đoạn tre đó. Chủ nhân thực hiện cũng đơn giản mỗi khi đi bắt cá. Họ chỉ cần đưa cái rung rúc ra xa tầm tay với và ấn sâu xuống mặt nước vừa chạm tới đáy, sau đó đưa cái cần đoạn tre vòng cung xuống sát chân mình một cách nhẹ nhàng. Sao cho thật êm ái không gây tiếng động, để cá tôm không phát hiện mà chạy thoát. Sau đó vừa kéo cái rung rúc vào người, vừa lấy chân đạp đạp và đưa cái vòng cung có đoạn tre đó lần tới chỗ cái rung rúc. Xong rồi, thì cất cái rung rúc ấy lên, có con cá con tôm thì chúng nằm gọn trong đó tha hồ mà bắt. Thật là vui ông nói với tôi: Mình cũng sẽ đánh lưới người cũng như vậy, sẽ đem về cho Chúa nhiều cá lắm anh Thư ký nhỉ? Tôi vui lắm và rất hứng khởi mỗi khi được đi cùng Mục sư ở dọc bến sông nầy.
Có lần cùng đồng đội bơi xuồng độc mộc của người dân bản xứ Khơ me. Đi ngược dòng sông Mê-Kông nhìn dòng nước trong xanh thật thỏa thích. Mắt tôi nhìn sắc xanh của màu nước: xanh da trời trên cao, xanh ve chai dưới đáy. Tôi mơ màng nhớ đến những chuyến đò ngang trên quê tôi mỗi mùa qua Cồn bẻ bắp hái dưa, màu xanh áo ai đang phất phơ trước mũi thuyền. Đặc biệt nhìn màu xanh ngút ngàn của ngững nương dâu, tôi chợt nhớ những câu thơ trong Chinh phụ:
“… Càng trông lại mà càng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?
Chinh phụ ngâm
Ngày ấy tôi chưa có người yêu. Thế nhưng tôi vẫn yêu nàng. Một tình yêu đơn phương thầm lặng. Nhà nàng ở bên kia sông Vu Gia còn tôi ở bên nầy. Nàng lên đò, rời bến sau mỗi buổi chợ mai. Tôi nhìn nàng mà chẳng biết câu gì để nói. Để rồi về mỗi đêm thao thức, thương nhớ đến nàng nhưng đành ôm mối tình câm. Bây giờ tôi đang ở chiến trường, vừa nhận được thư gia đình nói quê mình chiếc cầu xây đã gần xong, nối hai bờ qua bến lấp sông quê rồi đó. Chắc chắn ngày tôi về sẽ không còn chuyến đò ngang ấy nữa, nơi con sông bên lở bên bồi để rồi mỗi mùa nước lũ mang phù sa bồi đắp cho đôi bờ. Và cũng không còn chuyện nhắc lại trăm năm thương hải tang điền…
Con sông quê… lại một lần nữa ở một vùng hạ lưu. Thầy Quản nhiệm mới, mới về Hội Thánh đã làm lễ Báp têm cho cho bao tân tín hữu. Con sông sâu, nước chảy xiết, Thầy và tôi tìm một chỗ vịnh để cử hành lễ. Tôi đã từng dìu các cụ lớn tuổi xuống bờ để nhận Thánh lễ Báp têm. Quên sao được, khi xong mọi việc Thầy rủ tôi bơi ra xa bờ, tôi cố theo mà làm sao bì kịp một chuyên gia bơi lội như Thầy. Vì Thầy khi nhỏ đã biết bơi lội rồi. Một con người tài hoa ở cái đất Hạ Nông Điện Bàn biết bơi lội nhưng cũng biết leo rừng. Thật tuyệt vời…
Nhớ con sông quê… Nhớ xa hơn một chút…
Thập niên hai mươi của thế kỷ trước, cũng trên con sông nầy. Khi Tin Lành đã truyền đến vùng Đại Lộc, Quảng Nam thì đồng bào có một số người trở lại tin nhận Chúa. Ngày ấy tín hữu không đông như bây giờ mà khi làm nhà thờ thì trẻ già lớn bé đều háo hức. Mọi người đều dâng công góp của để xây dựng nhà Chúa. Thuở ấy tín hữu kẻ đội thúng xuống sông xúc cát, người xúc sạn. Kẻ chèo ghe đưa vật liệu vào bờ, người dùng trâu bò kéo đưa về chỗ tập kết. Trên sông Vu Gia nầy có những chuyến người ra đi về nguồn đốn cây, cưa gỗ tốt rồi làm bè mà đưa về để làm cột, làm kèo, đòn tay hoặc vách ván.
Ôi! Con sông quê như vậy mà vô cùng lợi ích cho Hội Thánh.
Rồi cũng con sông nầy, ngược dòng những chuyến hàng được quyên góp để cứu trợ cho Hội Thánh anh em vùng cao người Dân tộc ở Làng Yều và Hội Thánh A-Chom 2.
Chỉ một lần về phép năm ngày khi còn đóng quân ở Đaklak. Tôi đã lập nên chiến công vô tiền khoáng hậu đó là tôi đã chinh phục được tình yêu của nàng. Ánh trăng mười sáu vằng vặc trên bến sông quê, tôi nắm tay nàng, môi mấp máy, giọng run run lời không rõ tiếng: Anh thật lòng yêu em. Nàng vẫn im lặng ngã đầu vào ngực tôi. Tôi chỉ còn lắp bắp mấy tiếng: Anh cảm ơn Chúa và cảm ơn em.
Năm ngày phép vội vàng trôi nhanh, tôi phải vào lại đơn vị. Vậy là suốt hơn năm năm tôi vùi đầu vào cuộc chiến ở cái đất nước Chùa Tháp nầy. Tôi gửi về em lá thư với mấy dòng thơ từ Prếch-Vihia:
“… Quê em đó Non Tiên ngàn yêu dấu
Núi chập chùng che giấu một dòng sông
Đường gập ghềnh cheo leo vờn gió thoảng
Lúa non chiều thơm ngọt tựa môi em…
… Quê em đó Non Tiên ngàn ca khúc
Chúa xuân về ban hạnh phúc đôi ta
Nhớ không em, ngày tháng mãi trôi qua?
Non Tiên hỡi! Tình ta trong sáng quá!…
Bao năm trên xứ người khi làm Nghĩa vụ Quốc Tế chiến đấu trên đất bạn, nhưng tôi vẫn không quên hình ảnh con sông quê. Nơi đó tôi được sinh ra và lớn lên trong một gia đình tin kính Chúa. Nơi đó tôi được hầu việc Chúa qua các đời Mục sư Truyền đạo.
Con sông quê rất cần cho tất cả mọi người. Nó là một trục giao thông thuận tiện cho việc buôn bán giao thương. Có câu ca dao xứ Quảng:
“…Ai về nhắn với bạn nguồn
Mít non gửi xuống cá chuồn gửi lên…”
Sự trao đổi giao lưu sản phẩm là cần thiết cho người dân quê tôi. Con sông quê, nó làm cho ta được mát mẻ khi những ngày nắng hạn. Nó cho ta thỏa thích nước uống mà không cần mua. Nó là nguồn nước vô tận cung cấp cho biết bao hàng cừ xe gió đưa nước về tưới muôn vạn cánh đồng. Nó là biển nước mênh mông cho các trạm thủy lợi thỏa mãn làm xanh ngát cánh đồng cho hai vụ lúa đơm bông.
Thế nhưng trong Kinh Thánh Cựu ước có đề cập đến con sông đó là: “Có một con sông làm vui thành Đức Chúa Trời”. Và Tân ước có nói chắn chắn: “… Phàm ai uống nước nầy vẫn còn khát mãi, nhưng uống nước ta sẽ cho, thì chẳng hề khát nữa. Nước ta cho sẽ thành một mạch nước trong người đó, văng ra cho đến sự sống đời đời.” Phúc âm Giăng 4: 1-15. Trong một lần Chúa Giê-xu kêu gọi dân chúng rằng: “ Nếu người nào khát hãy đến cùng ta mà uống. Kẻ nào tin ta thì sông nước hằng sống sẽ chảy từ trong lòng mình, y như Kinh Thánh đã chép vậy.”Phúc âm Giăng 7: 37-38.
Vâng! Con sông có tầm ảnh hưởng lớn là như thế. Cho nên có người đã ra đi ở nước ngoài mà cứ nhớ đau đáu về con sông quê. Dù họ đã trãi qua bao biến cố đau thương trong cuộc chiến ở phía bên nầy hay bên kia. Nhưng mỗi khi có người về thăm quê họ vẫn có lời nhắn, khi họ chưa có điều kiện về thăm. Để xoa dịu phần nào nỗi nhớ day dứt như nỗi nhớ quê qua bài thơ: Nhắn Người Về Quê của Vũ Qúy Hão trích từ Báo Linh Lực số 138:
“… Quên đi cơn ác mộng dài
Hãy đem về Mỹ cành mai tươi hồng
Hái giùm mấy cánh phượng hồng
Để anh tô đẹp trong lòng Nhớ Quê…”
Còn tôi, khi viết bài nầy như là một hồi ức để sống lại với nỗi nhớ quê. Nỗi nhớ quê gắn liền với trách nhiệm lớn lao của một người con xứ Quảng, một Cơ-đốc-nhân đó là phải truyền rao Danh Chúa. Chỉ có Chúa mới là Đấng làm thỏa mãn cho con người nỗi khao khát thuộc thể lẫn thuộc linh. Bài thơ: “Nhớ Quê” xin được trích lại sau đây khi nó được đăng ngày 14 tháng 8 năm 2013 ở Trang mạng Tin Lành Toàn cầu HộiThánh.Com và ở Sống Đạo Online ngày 10 tháng 7 năm 2014 Xin được sẻ chia:
“Nhớ Quê”… Ta nhớ quê nhà
“Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương…”
Nhớ từng lối hẻm con đường
Nhớ mương nước chảy nhớ vườn ngô xanh
Nhớ đồi sim tím, bãi tranh
Nhớ con nghé ngọ loanh quanh đàn cò
Nhớ mẹ vò vỏ sớm hôm
Nhớ tô canh ấm, râu tôm ruột bầu
Nhớ cha mưa nắng dãi dầu
Nhớ đồng sâu cạn con trâu đi cày
Nhớ ơi! Ta nhớ những ngày…
Nhớ khi bắt bướm, chuồn bay mất rồi!
Nhớ từng động chuối bờ lau
Nhớ cây khế ngọt, nhà sau bếp chồ
Nhớ ngày khói lửa binh đao
Nhớ hôm ly loạn, nao nao lòng người!
Nhớ ơi! Ta nhớ nào nguôi…
Nhớ nhà thờ Chúa tường vôi úa tàn!
Nhớ rồi lại nhớ sang trang
Nhớ nhà thờ Chúa đàng hoàng hơn xưa
Nhớ chuông thời khắc giao thừa
Nhớ con dân Chúa cũng vừa nguyện kinh
Nhớ nhiều, nhiều lắm sanh linh!
Nhớ người dân Việt quê mình chưa tin
Nhớ sao nói hết nỗi niềm…
Nhớ truyền danh Chúa, lặng im sao đành!
Nhớ ân huệ Chúa… trung thành
Nhớ quê… Ta nhớ…Tin Lành truyền rao.
HỒ GALILÊ