Thứ Sáu , 19 Tháng Tư 2024
Home / Trang Chủ / LÝ DO CHÚA GIÊ-SU ĐẾN

LÝ DO CHÚA GIÊ-SU ĐẾN

Ta đến trần gian để tìm và cứu những người lầm lạc.
Lu-Ca 19:10

CHÚNG ta đã thấy tội lỗi là một sự kiện tàn phá ghê gớm nhất của vũ trụ. Nguyên nhân của tất cả mọi rắc rối, gốc rễ của mọi buồn rầu và kinh hãi của loài người đều nằm vỏn vẹn trong hai chữ – tội lỗi. Tội lỗi làm đảo lộn bản thể con người. Tội lỗi phá hoại sự hòa hợp nội tại của đời sống con người. Tội lỗi cướp đi tính cách cao trọng của con người. Tội lỗi khiến cho con người phải sa vào cạm bẫy của ma quỉ.

Tất cả mọi rối loạn thần kinh, mọi bệnh hoạn, mọi hủy diệt, chiến tranh đều bắt nguồn từ tội lỗi. Tội lỗi làm trí óc điên cuồng và đầu độc tâm tư. Kinh Thánh mô tả tội lỗi như một bệnh tật ghê sợ gây suy nhược cần được chữa trị tận gốc. Tội lỗi là trận cuồng phong đang hoành hành, là hỏa diệm sơn đang phun lửa man dại, là một người điên trốn thoát khỏi dưỡng trí viện. Tội lỗi là tên cướp đang rình mò, là con sư tử gầm thét lúc đang săn mồi, là một lằn sét chớp xẹt xuống đất. Tội lỗi là cái máy chém, là một chứng ung thư chết người đang gặm nhấm linh hồn nhân loại, là một dòng thác lũ cuồn cuộn cuốn phăng mọi vật trên đường đi của nó.

Nhưng, như có người đã nói: “Tội lỗi có thể cầm chân không cho bạn đến với Kinh Thánh – hoặc ngược lại, Kinh Thánh có thể cầm giữ bạn để bạn khỏi phạm tội.”

images

Qua nhiều thời đại con người vì căn bệnh tội lỗi bị lạc lõng mù lòa trong bóng tối thuộc linh, mò mẫm, tìm tòi, dò xét tìm kiếm một lối thoát. Con người cần một người giúp đỡ để thoát khỏi sự bối rối tinh thần và mê hồn trận đạo lý, một người có thể cứu chuộc mình ra khỏi ngục tù ma quỉ, một người có thể mở khóa nhà giam. Con người với tâm thần đói khát và tâm linh tan vỡ đang tìm tòi và nghe ngóng một cách tuyệt vọng. Trong khi đó thì ma quỉ hài lòng về chiến thắng oai hùng của nó ở vườn Ê-đen.

Từ những bộ lạc dã man trong rừng già đến những nền văn minh của Ai-cập, Hy-lạp và La-mã, con người đều ngơ ngác tự hỏi câu hỏi giống nhau: “Làm sao tôi thoát khỏi tình trạng này? Làm sao tôi có thể khá hơn? Tôi làm gì bây giờ? Tôi nên theo lối nào đây? Làm sao tôi trừ khử được chứng bệnh ghê gớm này? Làm sao tôi chận đứng được dòng nước lũ đang cuồn cuộn? Làm sao tôi có thể thoát ra khỏi màng lưới bao bọc tôi? Nếu có một đường lối nào, làm sao tôi tìm ra?”

Lời đáp của Kinh Thánh.

Chúng ta đã thấy Kinh Thánh chép rằng Thượng Đế là Thượng Đế của tình yêu. Ngài muốn làm cho con người một điều gì đó. Ngài muốn cứu rỗi con người, Ngài muốn giải thoát con người ra khỏi sự rủa sả của tội lỗi. Ngài đã làm điều đó bằng cách nào? Thượng Đế là Đấng công bình. Ngài công nghĩa và thánh thiện. Từ buổi ban đầu Ngài đã cảnh cáo con người nếu nghe theo lời ma quỉ và không vâng phục Ngài chắc sẽ bị chết mất cả về thể xác lẫn linh hồn. Con người đã tự ý trái lời Thượng Đế. Hoặc con người phải chết, hoặc Thượng Đế là Đấng dối trá, vì Thượng Đế không thể sai lời. Bản chất của Ngài không cho phép Ngài dối trá. Lời Ngài phải được tôn trọng. Do đó, khi con người bất phục tùng Ngài, con người đã bị xóa bỏ khỏi sự hiện diện của Thượng Đế. Con người đã tự chọn con đường của ma quỉ.

Vì con người đã tuyệt vọng trong sự hư mất rồi, do đó cần có đường lối khác. Bản chất thật của con người đã bị đảo lộn. Con người đã chống đối Thượng Đế. Nhiều người còn phủ nhận sự hiện hữu của Ngài vì mù quáng bởi bệnh tật họ mắc phải.

Ngay cả trong vườn Địa đàng, Thượng Đế đã có ý nói rằng Ngài sẽ tìm cách giải quyết vấn đề đó. Ngài đã cảnh cáo ma quỉ và hứa cùng con người: “Ta sẽ làm cho mầy cùng người nữ, dòng dõi mầy cùng dòng dõi người nữ nghịch thù nhau, người sẽ giày đạp đầu mày, còn mày sẽ cắn gót chân người” (Sáng 3:15). “Mầy sẽ cắn gót chân người” – Đó là một tia sáng từ trời. Đó là một lời hứa. Đó là điều con người có thể tin cậy. Thượng Đế đã hứa rằng một ngày kia Đấng Cứu Chuộc sẽ xuất hiện, một Đấng Giải Thoát sẽ đến. Thượng Đế đã ban cho con người một niềm hy vọng. Trải qua bao thế kỷ, con người đã bám lấy chút hy vọng đó.

Nhưng không phải chỉ có thế. Còn có nhiều cơ hội khác trải qua mấy ngàn năm lịch sử, có nhiều tia sáng khác đến từ trời. Qua toàn bộ Cựu Ước, Thượng Đế hứa sẽ cứu chuộc con người nếu con người tin rằng Đấng Cứu Chuộc sẽ hiện đến. Vì vậy, Ngài đã dạy dỗ dân sự Ngài rằng con người chỉ có thể được cứu bằng sự thay thế mà thôi. Một nhân vật khác sẽ trả giá để cứu chuộc con người.

Trở lại vườn Ê-đen.

Đến đây, bằng tưởng tượng mời bạn cùng tôi trở lại vườn Ê-đen một lúc. Thượng Đế phán: “Một mai ngươi ăn chắc sẽ chết”. Con người đã ăn và đã chết.

Ví thử Thượng Đế chỉ phán: “A-đam, ngươi đã phạm lỗi, nhưng đó là một sai lầm nhỏ của ngươi thôi. Ngươi được tha thứ nhưng đừng tái phạm”. Nếu vậy, Ngài là Đấng dối trá. Ngài không phải là Đấng thánh khiết hay công bình. Chính bản chất Ngài buộc Ngài phải giữ lời. Ở đây sự công bằng của Thượng Đế bị thử thách. Con người phải chết về phần thể xác lẫn phần thuộc linh. Những sự bất nghĩa chia cách con người với Thượng Đế. Do đó họ phải bị đau khổ. Con người phải trả giá cho chính tội lỗi mình. Như chúng ta đã thấy, A-đam là thủy tổ loài người. Khi A-đam phạm tội, thì tất cả chúng ta đều phạm tội. “Vì A-đam, tội lỗi đã xâm nhập thế gian, đem theo sự chết. Do đó, mọi người đều phải chết, vì mọi người đều phạm tội” (Rom 5:12).

Vấn đề nóng bỏng sẽ là: “Làm sao Thượng Đế vừa công bình vừa xưng công nghĩa cho kẻ phạm tội được?”. Ta nên nhớ là xưng công nghĩa tức là “tẩy cho linh hồn sạch tội”. Sự xưng công nghĩa vượt xa sự tha thứ. Tội lỗi phải được gạt bỏ và làm cho trở thành như chưa bao giờ có. Con người phải được phục hồi để không còn dấu vết nhơ bẩn nào. Nói một cách khác, con người phải trở về địa vị của mình trước khi bị mất ơn.

Từ nhiều thế kỷ nay, trong sự mù quáng của mình, con người tìm cách trở lại vườn Ê-đen – nhưng chưa hề đạt được mục đích. Con người đã thử nhiều cách, nhưng tất cả đều thất bại.

Giáo dục là điều cần thiết nhưng không đem người ta trở lại cùng Thượng Đế. Những tôn giáo giả dối là một thứ ma túy giúp con người tránh khỏi sự khốn khổ hiện tại trong khi họ hướng về vinh quang tương lai, nhưng các tôn giáo đó sẽ không khi nào giúp con người đạt đến mục đích. Liên Hiệp Quốc có thể là một nhu cầu thực tiễn cho một thế giới con người đầy chiến tranh và chúng ta tri ân những điều mà tổ chức này có thể thực hiện trong lãnh vực bang giao quốc tế để dàn xếp những sự tranh chấp khỏi dùng bạo lực; nhưng nếu Liên Hiệp Quốc có thể đem lại một nền hòa bình lâu dài, thì con người có thể nói với Thượng Đế rằng: “Chúng tôi không còn cần Ngài nữa. Chúng tôi đã đem lại hòa bình cho trái đất này và đã tổ chức nhân loại trong sự công nghĩa”. Tất cả những toan tính này là phương thuốc tạm thời mà thế giới cần có trong khi chờ đợi vị Đại Danh Y. Quay trở về lịch sử, chúng ta thấy rằng cố gắng đầu tiên của những người biết đoàn kết đã chấm dứt bằng sự xáo trộn ngôn ngữ ở tháp Ba-bên. (do con cháu Nô-ê xây cất tại Si-nê-a sau cơn Đại hồng thủy vì kiêu ngạo muốn lên đến trời. Thượng Đế làm cho tháp đó ngã xuống và khiến cho tiếng nói khác nhau kể từ đó) Con người đã thất bại khi cố làm việc không cần Thượng Đế và họ phải gánh hậu quả.

Câu hỏi vẫn còn: “Thượng Đế làm thế nào vừa công bình – nghĩa là chân thật đối với chính Ngài trong bản chất và trong sự thánh thiện vừa xưng công nghĩa được cho người tội lỗi?” Vì mỗi một người đều phải gánh lấy tội lỗi của chính mình, nên tất cả nhân loại không ai giúp ai được cả. Mọi người đều bị nhiễm cùng một chứng bịnh.

Giải pháp duy nhất là phải có một người vô tội tình nguyện chịu chết thay cho con người trước mặt Thượng Đế. Người vô tội này phải gánh lấy sự xử đoán, sự hình phạt và sự chết cho con người. Nhưng tìm đâu ra được một người như vậy? Chắc chắn ở trên mặt đất này không có ai, vì Kinh Thánh phán: “Mọi người đều phạm tội” (Rom 3:23). Chỉ còn một cách là Con Một của Thượng Đế, nhân vật duy nhất trong vũ trụ có khả năng mang trên chính mình Ngài tội lỗi của thế gian. Dĩ nhiên thiên sứ Gáp-ri-ên hoặc Mi-ca-ên có thể đến và chết thay cho một người, nhưng chỉ có Con Thượng Đế là Đấng vô cùng và như thế mới có khả năng chết thay cho tất cả mọi người.

Thượng Đế Ba Ngôi. 

trinity1

Kinh Thánh dạy rằng Thượng Đế thật sự có Ba Ngôi. Đây là điều mầu nhiệm chúng ta không bao giờ hiểu thấu. Kinh Thánh không dạy là có ba Thượng Đế nhưng chỉ có một. Tuy nhiên Thượng Đế được biểu thị trong Ba Ngôi vị. Đó là Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh.

Ngôi thứ nhì của Tam-Vị-Nhất-Thể đó là Đức Chúa Con tức là Chúa Giê-su. Ngài đồng đẳng với Đức Chúa Cha. Ngài không là một con của Thượng Đế mà là Con Một của Ngài. Ngài là Con đời đời của Thượng Đế – Ngôi vị thứ hai trong Tam Vị Nhất Thể thánh khiết, tức là Thượng Đế biểu hiện bằng xương thịt, là Chúa Cứu Thế hằng sống.

Kinh Thánh dạy rằng Chúa Cứu Thế hằng có đời đời. Ngài không phải là tạo vật (Giang 1:1-3). Kinh Thánh dạy rằng các từng trời do Ngài sáng tạo. Tất cả các vì tinh tú và mặt trời bừng cháy đều do Ngài dựng nên. Quả đất đã được tạo thành từ ngón tay bốc lửa của Ngài. Sự ra đời của Chúa Giê-su chúng ta kỷ niệm không phải là khởi thủy của Ngài. Nguyên lai của Ngài được bao phủ trong sự huyền nhiệm, khi hỏi về gốc tích của Thượng Đế chúng ta đều rối trí. Kinh Thánh chỉ cho chúng ta biết “Ban đầu có Chúa Cứu Thế. Chúa Cứu Thế ở với Thượng Đế từ nguyên thủy vì Ngài là Thượng Đế ngôi hai” (1:1).

Kinh Thánh dạy chúng ta: “Chúa Cứu Thế là hiện thân của Thượng Đế vô hình, Ngài có trước mọi vật trong vũ trụ. Chính Chúa Cứu Thế sáng tạo vạn vật, vật trên trời hay dưới đất, hữu hình hay vô hình, ngôi vua hay chủ tịch nhà nước, chính quyền hay các cấp lãnh đạo, tất cả đều do Chúa Cứu Thế tạo lập và đều đầu phục Ngài. Chúa Cứu Thế có trước vạn vật, Ngài an bài và chi phối vạn vật.” (Col 1:15-17).

Câu sau cùng chứng tỏ rằng Ngài là Đấng kết hợp mọi vật với nhau. Nói cách khác, toàn thể vũ trụ sẽ bị tan vỡ thành hàng tỉ nguyên tử nếu không có quyền năng của Chúa Cứu Thế Giê-xu gắn chặt chúng lại với nhau. Kinh Thánh lại phán: “Ban đầu Chúa sáng tạo địa cầu này, các từng trời cũng do tay Chúa dựng nên. Trời đất sẽ tiêu tan nhưng Chúa hằng còn, vạn vật sẽ rách nát như áo cũ. Chúa sẽ cuốn chúng lại như áo dài, như chiếc áo tồi tàn, cũ mục. Nhưng Chúa vẫn còn nguyên, tuổi tác Chúa không hề cùng” (He 1:10-12).

Chúa Cứu Thế Giê-su là Đấng Cứu Chuộc.

Chúa Giê-su cũng đã tự nói về Ngài: “Ta là An-pha và Ô-mê-ga, (hai chữ đầu và cuối trong mẫu tự Hy-lạp, có nghĩa là đầu tiên và cuối cùng) là đầu tiên và cuối cùng”. Ngài và chỉ một mình Ngài mới có quyền lực và khả năng đem con người trở về với Thượng Đế. Nhưng liệu Ngài có làm điều đó không? Nếu thế, Ngài phải đến thế gian. Ngài phải mặc lấy hình thể tôi tớ. Ngài phải trở nên giống như con người. Ngài phải hạ mình và vâng phục cho đến chết. Ngài phải tranh đấu với tội lỗi. Ngài phải đối địch và chiến thắng Sa-tan là kẻ thù của linh hồn con người. Ngài phải mua chuộc tội nhân giữa chợ nô lệ tội lỗi. Ngài phải tháo gỡ các gông xiềng và phóng thích tù nhân bằng cách trả giá – và giá đó là huyết của chính Ngài. Ngài phải là kẻ bị loài người khinh khi và ghét bỏ, phải là một người buồn rầu và quen chịu đau đớn. Ngài phải chịu Thượng Đế đánh đập và bị phân cách với Thượng Đế. Ngài phải bị thương tích vì những sự quá phạm của loài người và bị đòn vọt vì những điều bất nghĩa của họ. Ngài phải hòa giải con người với Thượng Đế. Ngài phải là Đấng Trung Gian vĩ đại của lịch sử. Ngài phải là một Đấng thay thế. Ngài phải chịu chết thay cho con người tội lỗi. Tất cả những việc này, Ngài đều làm một cách tự nguyện.

Tạ ơn Thượng Đế – điều đó thực sự đã xảy ra! Từ các từng trời cao xa, Ngài nhìn xuống hành tinh này xoay vần trong không gian đang bị lên án, áp bức và trên đường đi đến Địa ngục. Ngài thấy bạn và tôi vật lộn dưới gánh nặng tội lỗi và bị trói buộc trong xiềng xích của nó. Chính Thượng Đế sẽ quyết định cho hồi chung cuộc. Các thiên sứ sẽ cúi đầu khiêm cung và sợ hãi khi Vua của các vua và Chúa của các chúa, Đấng có thể bởi lời phán dựng nên các thế giới trong không gian, lên xe nạm kim hoàn, đi qua các cổng ngọc, xuyên qua các từng trời thẳng đứng, và vào một đêm tối tăm xứ Giu-đê, trong khi các vì sao đồng ca và những thiên sứ tháp tùng vang lời chúc tụng, Ngài bước xuống xe, cởi bỏ hoàng bào, trở thành con người!

Điều này cũng ví như tôi, trong khi đang đi đường, giẫm lên một ổ kiến. Tôi có thể nhìn xuống và nói với bầy kiến: “Tôi hết sức ân hận vì đã đạp lên ổ của các bạn. Tôi đã làm sập nhà các bạn. Mọi thứ đều bị xáo trộn. Ước gì tôi có thể nói với các bạn là tôi thương yêu các bạn, tôi không cố ý làm như vậy, tôi muốn giúp đỡ các bạn”.

Nhưng bạn nói: “Điều đó vô lý, không thể như vậy được, kiến không sao hiểu được ngôn ngữ của người!”. Đúng thế! Nếu tôi có thể hóa thành kiến trong giây lát và dùng ngôn ngữ của kiến cho chúng biết tôi yêu thương chúng thì kỳ diệu biết bao!

Đúng thế, đó là điều Chúa Cứu Thế đã thực hiện. Ngài đã đến để bày tỏ Thượng Đế cho con người, là Đấng cho chúng ta biết Thượng Đế yêu chúng ta và lưu tâm đến đời sống chúng ta. Chính Ngài là Đấng bày tỏ cho chúng ta về lòng thương xót, sự đau khổ lâu dài và ân điển của Thượng Đế. Ngài là Đấng hứa ban sự sống đời đời.

Nhưng hơn thế nữa, Chúa Cứu Thế Giê-xu đã dự phần trong thịt và huyết để có thể chịu chết (He 2:14). Ngài đã hiện ra để cất tội lỗi thế gian đi (I Giang 3:5). Chúa Cứu Thế đã đến thế gian “để phó sự sống mình làm giá chuộc nhiều người” (Mat  20:28). Khi đến thế gian mục đích chính của Chúa Cứu Thế là để hiến dâng đời sống Ngài làm của sinh tế vì cớ tội lỗi con người. Ngài đến để chịu chết. Bóng sự chết của Ngài, như một tấm màn tang chế phủ trên suốt cuộc sống ba mươi năm của Ngài.

Đêm Chúa Giê-su ra đời, Sa-tan run sợ. Nó tìm cách hạ sát trước khi Ngài giáng trần, và cố giết Ngài ngay lúc Ngài ra đời. Khi vua Hê-rốt ra lệnh giết tất cả trẻ con, mục đích duy nhất của ông là xác định Chúa Giê-su đã chết.

images (1)
Billy Graham   

Trả lời

Hướng Đi Ministries Hướng Đi Ministries
9/10 1521 bình chọn