Thứ Ba , 19 Tháng Ba 2024
Home / Hướng Đi Magazine / Đời sống / HUYỀN NHIỆM TÁI SANH

HUYỀN NHIỆM TÁI SANH

TÁI SANH (1)
Mục sư Dương Đức Hiền
“Ðức Chúa Jêsus cất tiếng đáp rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng ngươi, nếu một người chẳng sanh lại, thì không thể thấy được nước Ðức Chúa Trời.
Ni-cô-đem thưa rằng: Người đã già thì sanh lại làm sao được? Có thể nào trở vào lòng mẹ và sanh lần thứ hai sao?
Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng ngươi, nếu một người chẳng nhờ nước và Thánh Linh mà sanh, thì không được vào nước Ðức Chúa Trời.
Hễ chi sanh bởi xác thịt là xác thịt; hễ chi sanh bởi Thánh Linh là thần. Chớ lấy làm lạ về điều ta đã nói với ngươi: Các ngươi phải sanh lại.
Gió muốn thổi đâu thì thổi, ngươi nghe tiếng động; nhưng chẳng biết gió đến từ đâu và cũng không biết đi đâu. Hễ người nào sanh bởi Thánh Linh thì cũng như vậy.
Ni-cô-đem lại nói: Ðiều đó làm thể nào được?
Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Ngươi là giáo sư của dân Y-sơ-ra-ên, mà không hiểu biết những điều đó sao!”
GIĂNG 3:3-9
Kinh Thánh chép: “Lòng người ta là dối trá hơn mọi vật, và rất là xấu xa” (Giê-rê-mi 17:9). Các tôn giáo đều khuyên ta nên sửa nó lại, vì thế nên mới có sự đi tu. Trong tiếng Hán Việt, chữ “tu” có nghĩa là sửa sang cho tốt.Nhưng Đức Chúa Trời truyền cho nhân loại là phải tái sanh. Ngài biết rõ lòng người không thể sửa được. Đấng tiên tri Giê-rê-mi đã so sánh việc sửa lòng hay “tu” với việc con beo tự đổi bộ da có vằn của mình (Giê-rê-mi 13:23). Đức Chúa Jêsus phán: “Các ngươi phải sanh lại”.Đức Chúa Trời có một chương trình toàn hảo cho mỗi đời sống chúng ta. Nhưng Ngài không muốn thực hiện chương trình đó qua một đời sống đã bị tội lỗi làm cho hư hoại ô uế của chúng ta. Có thể nói Ngài không muốn tẩy ủi một tờ giấy đã dơ bẩn và ruổng nát, để rồi viết lên trên nó bản tuyên ngôn vĩ đại về tình yêu của Ngài. Cách thức của Ngài là bỏ tờ giấy đó vào trong nhà máy giấy để làm ra một tờ giấy khác hoàn toàn mới tinh và tối hảo về phẩm chất. Tờ giấy nầy phải được chế tạo với những nguyên liệu và phương tiện của Thiên Đàng, và nếu đem soi tờ giấy nầy dưới ánh đèn, người ta có thể thấy hình và hiệu của “Vua Muôn Vua” trên đó.

Sự tái sanh không phải là một nhiệm ý, nghĩa là muốn có hay không cũng được, mà là một điều kiện bắt buộc để được cứu rỗi. Đức Chúa Jêsus phán: “Quả thật, quả thật, ta nói cùng ngươi, nếu một người chẳng sanh lại, thì không thể thấy được nước Ðức Chúa Trời” và “Quả thật, quả thật, ta nói cùng ngươi, nếu một người chẳng nhờ nước và Thánh Linh mà sanh, thì không được vào nước Ðức Chúa Trời”. Sứ đồ Phao lô, người đã từng kinh qua về sự tái sanh cách sống động cũng nói: “Vì điều yếu cần, chẳng phải sự chịu cắt bì, hay là sự chẳng chịu cắt bì, bèn là trở nên người mới”(Ga-la-ti 6:15). Sự “trở nên người mới” đây chính là sự tái sanh.

Tái Sanh là vấn đề đã được Kinh Thánh nói đến rất sớm, ngay từ thời Cựu Ước. Khi thấy Ni-cô-đem có vẻ chậm hiểu về lẽ đạo Tái Sanh thì Đức Chúa Jêsus đã trách ông: “Ngươi là giáo sư của dân Y-sơ-ra-ên, mà không hiểu biết những điều đó sao!” Sỡ dĩ Ngài trách như vậy là vì đối với một “chuyên gia” về Kinh Cựu Ước như Ni-cô-đem mà lại không biết về Sự Tái Sanh là một điều không thể chấp nhận được. Thật vậy, Kinh Thánh Cựu Ước, ngay từ Sáng-thế ký đoạn 17, khi Đức Chúa Trời truyền lập với Áp-ra-ham giao ước về phép cắt bì, thì Ngài cũng đã có ý tỏ rằng muốn làm dân Ngài và dòng dõi thật của Ngài, thì phải chết về đời cũ và sanh ra đời mới, tức là phải tái sanh. Kể từ đó chữ “cắt bì” đã được đề cập thường xuyên trong Cựu Ước, và là công việc thường trực trong Dân Y-sơ-ra-ên. Người “không chịu cắt bì” được xem như là người thiên nhiên, còn giữ tấm lòng thiên nhiên, tức là lòng chưa được đổi mới, chưa thuộc về Đức Chúa Trời. Đặc biệt, trong Lê-vi ký và Giê-rê-mi lại nói rõ hơn về những “lòng không cắt bì”, tức là lòng của những người chỉ thực hiện sự cắt bì như một nghi lễ bề ngoài, mà chưa hề được đổi mới, tức là chưa được tái sanh.

Nhưng nói rõ hơn cả trong Kinh Cựu Ước là mấy câu Kinh Thánh sau đây:

“Ta sẽ ban lòng mới cho các ngươi, và đặt thần mới trong các ngươi. Ta sẽ cất lòng bằng đá khỏi thịt các ngươi, và ban cho các ngươi lòng bằng thịt.

Ta sẽ đặt Thần ta trong các ngươi, và khiến các ngươi noi theo luật lệ ta, thì các ngươi sẽ giữ mạng lịnh ta và làm theo.” (Ê-xêchi-ên 36:25-27)

Còn trong Kinh Thánh Tân Ước thì sự tái sanh là một đề tài cột trụ. Trong Tân Ước, Sự Tái Sanh đã được Tân Ước nói đến nhiều lần và nhiều cách khác nhau. Ngoài câu gốc đã suy gẫm hôm nay ra, sau đây có lẽ là những câu đã giải thích Sự Tái Sanh rõ ràng nhất:

Giăng 1:12-13: “Nhưng hễ ai đã nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Ðức Chúa Trời, là ban cho những kẻ tin danh Ngài, là kẻ chẳng phải sanh bởi khí huyết, hoặc bởi tình dục, hoặc bởi ý người, nhưng sanh bởi Ðức Chúa Trời vậy”,

Gia-cơ 5:18 “Ấy chính Ngài …đã dùng lời chân thật sanh chúng ta, hầu cho chúng ta được nên như trái đầu mùa của những vật Ngài dựng nên.”

1Cô-rinh-tô 5:17 “Vậy, nếu ai ở trong Ðấng Christ, thì nấy là người dựng nên mới; những sự cũ đã qua đi, nầy mọi sự đều trở nên mới”.

TÁI SANH (2)
“Ðức Chúa Jêsus cất tiếng đáp rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng ngươi, nếu một người chẳng sanh lại, thì không thể thấy được nước Ðức Chúa Trời.
Ni-cô-đem thưa rằng: Người đã già thì sanh lại làm sao được? Có thể nào trở vào lòng mẹ và sanh lần thứ hai sao?
Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng ngươi, nếu một người chẳng nhờ nước và Thánh Linh mà sanh, thì không được vào nước Ðức Chúa Trời.
Hễ chi sanh bởi xác thịt là xác thịt; hễ chi sanh bởi Thánh Linh là thần. Chớ lấy làm lạ về điều ta đã nói với ngươi: Các ngươi phải sanh lại.
Gió muốn thổi đâu thì thổi, ngươi nghe tiếng động; nhưng chẳng biết gió đến từ đâu và cũng không biết đi đâu. Hễ người nào sanh bởi Thánh Linh thì cũng như vậy.
Ni-cô-đem lại nói: Ðiều đó làm thể nào được?
Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Ngươi là giáo sư của dân Y-sơ-ra-ên, mà không hiểu biết những điều đó sao!”
GIĂNG 3:3-9
Có ba điều quan trọng cần biết về sự tái sanh:Thứ nhứt, sự tái sanh là một điều khó hiểu nhưng dễ kinh nghiệm. Để trả lời cho thắc mắc của Ni-cô-đem, Đức Chúa Jêsus đã so sánh hiện tượng tái sanh với gió. Đang thời của Ni-cô-đem gió là hiện tượng đầy bí ẩn, và cả đến ngày nay, còn có nhiều điều vẫn chưa biết hết về gió.Nhưng ai ai cũng cần đến gió. Không có gió thế giới nầy sẽ chết. Trong trần gian, người nào cũng có thể kinh nghiệm được sự hoạt động của gió, cũng hưởng được các phúc lợi của gió.

Sự tái sanh cũng vậy. Đó là một huyềm nhiệm mà ngay cả các nhà Thần học cũng không thể giải thích hết cả mọi mặt, nhưng dễ dàng đến nổi dầu cho một người mù chữ vẫn có thể từng trải trọn vẹn.

Bất cứ một người nào, dù kém cỏi dốt nát đến đâu cũng có thể hưởng được sự tái sanh. Phương cách để hưởng được sự tái sanh cũng thật giản dị: chỉ cần tin Đức Chúa Jêsus, nhận Ngài làm Cứu Chúa.

“Ngài đã đến trong xứ mình, song dân mình chẳng hề nhận lấy. Nhưng hễ ai đã nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Ðức Chúa Trời, là ban cho những kẻ tin danh Ngài, là kẻ chẳng phải sanh bởi khí huyết, hoặc bởi tình dục, hoặc bởi ý người, nhưng sanh bởi Ðức Chúa Trời vậy”. (Giăng 1:11-13)

Sỡ dĩ mọi sự dễ dàng, giản dị như vậy là vì đây không phải là công việc do loài người làm hay có thể làm. Đây là “sanh bởi Đức Chúa Trời”. Đây là việc Đức Chúa Trời làm.

Thứ hai, Đức Chúa Trời tái sanh chúng ta, nhưng ngôi vị trực tiếp làm công việc nầy chính là Đức Thánh Linh. Chúng ta được sanh bởi Đức Chúa Cha, nên Đức Chúa Jêsus mới xưng Đức Chúa Cha là cha của Ngài, và cha của chúng ta (Giăng 20:17).

Nhưng cũng chính Chúa Jêsus dạy rằng ngôi vị trực tiếp làm công việc nầy là Đức Thánh Linh. Trong khúc Kinh Thánh ngắn ngủi trên Ngài đã ba lần nhắc đến điều đó:

“Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng ngươi, nếu một người chẳng nhờ nước và Thánh Linh mà sanh, thì không được vào nước Ðức Chúa Trời.

Hễ chi sanh bởi xác thịt là xác thịt; hễ chi sanh bởi Thánh Linh là thần. Chớ lấy làm lạ về điều ta đã nói với ngươi: Các ngươi phải sanh lại.

Gió muốn thổi đâu thì thổi, ngươi nghe tiếng động; nhưng chẳng biết gió đến từ đâu và cũng không biết đi đâu. Hễ người nào sanh bởi Thánh Linh thì cũng như vậy. (Giăng 3:5-8)

Sứ đồ Phao-lô cũng dạy cùng một ý:

“Nhưng từ khi lòng nhơn từ của Ðức Chúa Trời, là Cứu Chúa chúng ta, và tình thương yêu của Ngài đối với mọi người ta đã được bày ra, thì Ngài cứu chúng ta,

không phải cứu vì việc công bình chúng ta đã làm, nhưng cứ theo lòng thương xót Ngài, bởi sự rửa về sự lại sanh và sự đổi mới của Ðức Thánh Linh” (Tít 3:4-5).

Thứ ba, Đức Thánh Linh đã dùng Lời Đức Chúa Trời để tái sanh chúng ta. Vì Gia-cơ được Đức Chúa Trời thần cảm đã viết:

“Ấy chính Ngài theo ý muốn mình, đã dùng lời chân thật sanh chúng ta, hầu cho chúng ta được nên như trái đầu mùa của những vật Ngài dựng nên.” (Gia-cơ 1:18)

Cũng vậy, Phi-e-rơ dạy:

Anh em đã được lại sanh, chẳng phải bởi giống hay hư nát, nhưng bởi giống chẳng hay hư nát, là bởi lời hằng sống và bền vững của Ðức Chúa Trời. Vì,

Mọi xác thịt vì như cỏ, Mọi sự vinh hiển của nó vì như hoa cỏ. Cỏ khô, hoa rụng, Nhưng lời Chúa còn lại đời đời. Và lời đó là đạo Tin Lành đã giảng ra cho anh em.” (1Phi-e-rơ 1:23-25)

Và Phao-lô cũng tuyên bố:

“Tôi đã dùng Tin Lành mà sanh anh em ra trong Ðức Chúa Jêsus Christ.” (1Cô-rinh-tô 4:15).

Như vậy, Đức Thánh Linh đã dùng Lời Đức Chúa Trời qua sự đọc, hoặc sự nghe của chúng ta, hay sự giảng của các đầy tớ Chúa để tái sanh chúng ta.

Mục Sư Dương Ðức Hiền

nicodem

GẶP CHÚA TRONG ĐÊM – Tường Vi

-Bà lấy giùm tôi cái áo choàng, tôi sẽ ra ngoài để tìm gặp một con người đặc biệt.

-Tại sao ông phải đi vào ban đêm?

-Ồ, tôi có một lý do riêng, bà sẽ biết nhanh thôi.

Ni-cô-đem khoác vội chiếc áo choàng từ tay của người vợ, ông đến để gặp một con người đã làm ông ngưỡng mộ trong những ngày gần đây.

Đó là một đêm tối trời của năm 30. Giê-xu, người Na-xa-rét đang ở trong ngôi nhà của một bạn hữu trên bước đường lưu hành giảng đạo xuyên qua vùng Ga-li-lê, Ngài đã bắt đầu chức vụ từ sáu tháng trước đó.  Có tiếng gõ cửa bên ngoài:

-Tôi muốn tìm gặp một người đàn ông tên là Giê-xu.

-Chính là ta.

Ni-cô-đem được mời vào nhà, ngồi đối diện với Chúa Giê-xu, ông bắt đầu câu chuyện:

-Thưa Ra-bi, chúng tôi biết thầy là giáo sư từ Đức Chúa Trời đến; vì nếu không có Đức Chúa Trời ở cùng, thì chẳng ai có thể làm được những dấu lạ mà thầy đã làm đó. Cá nhân tôi muốn được thầy chỉ giáo thêm.

Mặc dù Ni-cô-đem  là giáo sư thuộc hệ thống hàng giáo phẩm Pha-ri-si dạy về luật pháp cho dân Do Thái nhưng ông là một con người khiêm nhường hiếm có giữa vòng sáu ngàn người Pha-ri-si vào lúc đó. Ni-cô-đem cũng là thành viên của một tổ chức gồm bảy mươi người lãnh đạo tuyển dân có tên San-he-rin (Tòa Công Luận), và sứ đồ Giăng viết về họ là “những người cai trị  dân Giu-đa”. Tổ chức San-he-rin này tương đương với Tối Cao Pháp Viện và Thượng Viện Hoa Kỳ. Ni-cô-đem thuộc về ê-kíp lãnh đạo cả Do Thái Giáo và tuyển dân. Chức vụ của ông ngang bằng với một thượng nghị sĩ kiêm thẩm phán tối cao của chính phủ liên bang hiện nay. Như vậy Ni-cô-đem là quan chức với phẩm hàm lớn, được kính trọng và hưởng nhiều đặc quyền trong vòng dân sự lúc bấy giờ. Ông đã âm thầm quan sát các phép lạ, lắng nghe các bài giảng của Chúa Giê-xu và ông biết mình đang nói chuyện với một bậc thầy có uy quyền. Ông chọn một đêm tối trời, kín đáo đến với Chúa để “tầm sư học đạo”. Ông không muốn bị người khác theo dõi, vì có thể họ sẽ tố cáo ông giao thiệp với Chúa Giê-xu – đây lại là điều không nên có với một người lãnh đạo như ông. Nếu chuyện này bị đồn ra ngoài, sinh mạng chính trị của ông có thể bị nguy hiểm. Người ta thường nói rằng khi hai thầy thuốc ở cùng trong một khu vực thì không có ông nào thích ông nào. Về một phương diện Chúa Giê-xu cũng là một giáo sư giống như Ni-cô-đem, nhưng lời Ngài dạy có uy quyền mà một giáo sư bình thường trong tuyển dân không hề có. Hơn nữa Chúa Giê-xu còn thực hiện các phép lạ đồng thời với công tác giảng dạy của Ngài, chính điều này đã làm cho Ni-cô-đem trở nên hiếu kỳ xen lẫn ngạc nhiên. Ông tìm đến với Chúa Giê-xu để hỏi Ngài những điều mà trong lòng ông chưa có câu trả lời. Ni-cô-đem cũng biết bản thân ông không thể nào có một phong cách giảng dạy đầy quyền uy và các dấu lạ giống như Chúa Giê-xu đã thực hiện. Những gì ông truyền đạt cho tuyển dân chỉ là những bài học luật pháp khô khan mà chính trong lòng ông cũng không được thuyết phục về nội dung của nó. Bi kịch của nền giáo dục Do Thái Giáo thời bấy giờ chắc vẫn còn tái diễn trong mọi thời đại!

Chúa Giê-xu biết câu hỏi trong lòng Ni-cô-đem. Ngài bắt đầu khai sáng tâm trí ông:

-Quả thật, quả thật, ta nói cùng ngươi, nếu người nào chưa được tái sanh, thì không thể thấy được nước Đức Chúa Trời.

“Tái sanh”, lần đầu tiên trong cuộc đời Ni-cô-đem nghe từ này. Chúa Giê-xu nói đến ý nghĩa thuộc linh của từ “tái sanh”, nhưng vị giáo sư của dân Do Thái lại hiểu theo một ý nghĩa vật lý. Ông hỏi lại Chúa Giê-xu:

-Người đã già thì làm sao tái sanh  được? Có thể nào vào lòng mẹ lần thứ hai mà sanh ra nữa sao?

Một tâm trí tự nhiên chưa nhận được ánh sáng thiên thượng thì không thể nào hiểu được những điều thuộc linh. Ni-cô-đem đã từng là một sinh viên xuất sắc khi còn trong chủng viện thần học. Tốt nghiệp ra trường ông là một trong những giáo sư ưu tú của người  Pha-ri-si, rồi được tiến cử trở nên thành viên của tòa án tối cao Do Thái. Ông hẳn là người có kiến thức uyên bác so với những người cùng thời. Nhưng khi Chúa Giê-xu nói đến sự tái sinh, ông ngẩn người ra, ú ớ không hiểu gì cả.

Chúa Giê-xu  tiếp tục giải thích cho Ni-cô-đem những điều thuộc linh:

-Quả thật, quả thật, ta nói cùng ngươi, nếu người nào chẳng bởi nước và Thánh Linh mà sanh, thì không thể vào nước Đức Chúa Trời được.  Hễ chi sanh bởi xác thịt là xác thịt, hễ chi sanh bởi Linh là linh.  Chớ lấy làm lạ vì cớ ta đã nói với ngươi: ‘Các ngươi cần phải tái sanh.’  Gió muốn thổi đâu thì thổi, ngươi nghe tiếng nó, nhưng chẳng biết nó đến từ đâu và đi đâu. Hễ người nào sanh bởi Thánh Linh thì cũng như vậy.”

Ni-cô-đem vẫn chưa thể hiểu được bài học Chúa dạy vượt quá tâm trí khôn ngoan của ông. Một giáo sư giữa vòng dân Do Thái lại không thể hiểu những điều Chúa phán! Chúa có ý gì khi thông điệp của Ngài dường như vẫn còn bị niêm phong với Ni-cô-đem? Chúa Giê-xu biết cách để trao khải tượng cho từng môn đệ, Ngài biết lúc này Ni-cô-đem chưa ngộ ra những gì ông ta nghe được từ Ngài, nhưng trong tương lai ông ta chắc sẽ nắm bắt được.

Cuộc viếng thăm bí mật của Ni-cô-đem với Chúa Giê-xu  chỉ diễn ra trong vòng một tiếng đồng hồ. Ni-cô-đem hỏi, Chúa trả lời, nhưng trong lòng ông vẫn còn trĩu nặng với những nghi vấn. Ông chưa thể hiểu được sự tái sanh vào lúc này, nhưng dù sao ông cũng đã được tiếp xúc với một con người mà từ lần diện kiến đó cuộc đời ông bắt đầu có sự chuyển hướng. Lịch sử ghi lại nhiều sự kiện là có vô số người đã thay đổi khi họ gặp được Chúa Giê-xu.

Ni-cô-đem yên lặng trở về nhà sau chuyến viếng thăm trong đêm. Chúa Giê-xu tiếp tục cuộc hành trình của Ngài đến Giu-đê. Ni-cô-đem không ngừng theo dõi những bước chân của Chúa và suy gẫm những gì mà ông đã nghe Chúa phán dạy.

Tái sanh là gì? Ta không thể hiểu được điều này. Ni-cô-đem tự nói với chính mình. Ông bắt đầu suy tư và đi vào sự cầu nguyện tìm kiếm một lời giải từ thiên thượng. Lời dạy của Chúa Giê-xu dành cho ông là một thách thức lớn: “Nếu người nào chẳng bởi nước và Thánh Linh mà sanh, thì không thể vào nước Đức Chúa Trời được”. Trong suy nghĩ miên man, những ý tưởng của ông vụt lóe sáng thành lời cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin cho con hiểu được nước và Thánh Linh có ý nghĩa gì? Con muốn được vào nước Đức Chúa Trời.

Đôi khi lời cầu nguyện chân thành cũng cần có thời gian nhất định để nhận được câu  trả lời từ Chúa.

Vào lúc này Ni-cô-đem cũng chỉ dừng lại trong một nhận thức: Chúa Giê-xu là giáo sư vĩ đại đến từ Đức Chúa Trời. Tâm trí của ông chưa vượt xa hơn về thân vị và chức vụ của Chúa Giê-xu trên đất. Điều này là lẽ tự nhiên, vì lúc này ngay cả các sứ đồ cũng chưa thể có một nhận thức rõ ràng về người thầy siêu việt của họ.

Dù sao thì Ni-cô-đem cũng đã có một khởi đầu tốt với Chúa Giê-Xu. Ai tìm kiếm Chúa hết lòng, người đó sẽ gặp được Ngài. Nhưng sau khi tiếp xúc cá nhân với Chúa Giê-xu, ông cũng chỉ mới biết Ngài theo cách bề ngoài thông thường.

Chức vụ của Chúa Giê-xu bị chống đối liên tục từ những người Pha-ri-si trong những năm sau đó. Họ không thể nào chấp nhận lời giảng của Ngài đối kháng với truyền thống của Giáo Hội đương thời. Vào năm 32  khi Lễ Lều Tạm diễn ra các thầy tế lễ cả và người Pha-ri-si đã sai quân lính đi bắt Chúa Giê-xu vì những gì Ngài dạy gây chia rẽ giữa vòng tuyển dân. Bọn lính ra đi rồi trở về thưa rằng: “Chẳng hề có người nào đã nói như người nầy”. Các người Pha-ri-si tỏ thái độ khinh miệt họ: “Các ngươi cũng đã bị phỉnh dỗ sao? Có một người nào trong các quan hay là trong những người Pha-ri-si tin đến người đó chăng? Song lũ dân nầy không biết luật chi cả, thật là một dân đáng rủa!” Lúc này Ni-cô-đem ra mặt bênh vực Chúa Giê-xu: “Luật chúng ta há bắt tội một người nào chưa tra hỏi đến, và chưa biết điều người ấy đã làm, hay sao?”

Trong lòng Ni-cô-đem đã có cảm tình đặc biệt với Chúa Giê-xu, ông vượt qua sự sợ hãi khi công khai bênh vực chức vụ của Ngài giữa vòng những bạn đồng liêu. Ông đã có một cảm nhận từ trái tim là cuộc đời ông sẽ trở nên hụt hẫng nếu không có Ngài.

Tạm thời Chúa chưa bị bắt vì mục vụ của Ngài trên đất vẫn còn, và giờ G định mệnh chưa đến.

Cho đến một ngày kia…

Chức vụ của Chúa Giê-xu bước qua năm thứ ba. Sự chống đối của những người lãnh đạo Do Thái Giáo đối với Ngài đã lên tới đỉnh điểm. Chúa Giê-xu lên Giê-ru-sa-lem chuẩn bị hoàn tất chương trình cứu chuộc. Kẻ thù đã chuẩn bị một kế hoạch để bắt Chúa. Và rồi điều tệ hại nhất đã đến, Ni-cô-đem bàng hoàng khi nghe tin Chúa Giê-Xu bị bắt và kẻ thù chuẩn bị đóng đinh Ngài trên cây thập tự. Bỗng dưng ông nhớ lại những gì Chúa dạy trong đêm đặc biệt đó: “Xưa Môi-se treo con rắn lên nơi đồng vắng thể nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên dường ấy, hầu cho hễ ai tin đến Ngài đều được sự sống đời đời.  Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời.”

– Đúng rồi, “Con Người” mà giáo sư Giê-xu nói ở đây chính là Ngài. Ngài phải bị treo trên cây gỗ. Ngài là Con Một của Đức Chúa Trời. Ta  đã tìm thấy rồi, Ni-cô-đem tự nói lớn với chính mình trong phòng riêng đến nỗi bà vợ ông phải ngạc nhiên:

– Ông vừa nói cái gì thế?

– Bà ơi, hãy nghe đây: Giê-xu – người Na-xa-rét chính là Con Một của Đức Chúa Trời. Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời. Ni-cô-đem nói lại với vợ mình nguyên văn lời Chúa Giê-xu đã nói với ông trước đây. Ánh sáng thiên thượng đã đến và ông hiểu ra những gì Chúa phán dạy trước đó.

“Lạy Chúa con muốn được sanh lại bởi quyền năng Thánh Linh”. Ni-cô-đem thốt lên lời cầu nguyện.

Ni-cô-đem lập tức đến hiện trường – nơi Chúa Giê-Xu bị đóng đinh trên thập tự giá. Tự nhiên ông có một linh cảm: Không dễ gì Chúa Giê-xu, Con Một của Đức Chúa Trời lại phải trải qua một cái chết thông thường.

Ni-cô-đem lên đồi Gô-gô-tha vào buổi chiều lịch sử sau khi Chúa trút hơi thở cuối cùng. Từng cơn gió hiu hắt trên đồi hoang như một khúc nhạc bi tráng đi vào tâm hồn người nghị viên của Tòa Công Luận. Ni-cô-đem đứng đó nhìn vào ba thi thể trên thập tự giá, ông nhận ra khuôn mặt của Chúa Giê-xu giữa hai khuôn mặt khác. Ni-cô-đem muốn bật khóc nhưng lạ chưa khóe mắt ông vẫn ráo hoảnh – những giòng lệ đã khô cạn tự bao giờ. Tâm hồn ông chùng xuống giữa đất trời một màu tang tóc thê lương! Tuy nhiên tận sâu thẳm trong cõi lòng Ni-cô-đem cảm biết điều ngoạn mục sẽ xảy ra sau sự chết của Chúa.

Ni-cô-đem biết điều ông phải làm vào lúc này.

Lúc bấy giờ Giô-sép người A-ri-ma-thê, môn đồ Đức Chúa Giê-xu một cách kín giấu là một người giàu có và cũng là nghị viên của Tòa Công Luận đến gặp quan tổng đốc Phi-lát xin phép lấy xác Chúa Giê-xu để chuẩn bị thủ tục mai táng. Quan tổng đốc chấp thuận lời thỉnh cầu của Giô-sép. Điều này trái với lẽ thường là các thi hài của những kẻ chết vì tội dấy loạn sẽ bị quăng vào một ngôi mộ tầm thường nào đó. Nhưng ngôi mộ mà Giô-sép dùng để chuẩn bị mai táng xác Chúa là một ngôi mộ sang trọng dành cho người giàu có gần nơi Chúa bị đóng đinh. Khi Giô-sép chuyển thi hài của Chúa xuống khỏi thập tự giá thì Ni-cô-đem cũng đến đem theo một trăm cân một dược (đơn vị đo lường của La Mã lúc đó tương đương 33kg) hòa với lư hội.  Cả hai người Giô-sép và Ni-cô-đem lấy xác Đức Chúa Jêsus, dùng vải gai và thuốc thơm gói lại, theo đúng thủ  tục khâm liệm của dân Do Thái.

Giô-sép và Ni-cô-đem đã thắng hơn sự sợ hãi, hai ông đã dũng cảm công khai niềm tin vào Chúa Giê-xu với công chúng khi hành động mai táng xác Chúa với sự trân trọng hiếm thấy. Đáng lý ra công việc này phải thuộc về nhóm mười hai sứ đồ. Các sứ đồ đi đâu vào lúc này?  Có thể họ bấn loạn tinh thần nên đã bỏ của chạy lấy người! Và trong hoàn cảnh đặc biệt đó hai nghị viên của Tòa Công Luận đã thực hiện sứ mạng đặc biệt của mình.

Sau ba ngày nằm trong mộ địa, Chúa Giê-xu đã sống lại từ cõi  chết một cách khải hoàn.

Điều trông đợi của Ni-cô-đem đã thành hiện thực: Giê-xu, người Na-xa-rét không thể chết theo cách bình thường, Ngài đã sống lại!

Ni-cô-đem nhận ra ánh sáng chân lý sau khi Chúa phục sinh. Cuộc đời ông thay đổi từ đây. “Lạy Chúa Giê-xu con tin Ngài là Con của Đức Chúa Trời, đã đến thế gian để chết đền tội cho con và Ngài đã sống lại”. Ni-cô-đem tuôn ra lời cầu nguyện tự nhiên như một dòng suối được khai thông.

Sự sống mới tràn vào tâm hồn Ni-cô-đem. Ông bước ra khỏi Do Thái Giáo với những giáo điều khô cứng để trở nên một môn đệ công khai, can đảm của Chúa Giê-xu. Hành động đức tin của ông đã làm cho các thành viên còn lại của Tòa Công Luận sửng sốt. Nhưng trường hợp của ông cũng tạo niềm cảm hứng Tiếp Nhận Chúa Giê-xu cho những người khác còn ở trong vòng trói buộc của những quyền lợi đời này. Trong bất kỳ thời đại nào thì Phúc Âm của Chúa luôn có quyền năng vô đối để giải phóng con người ra khỏi những rào cản, cho dù họ thuộc tầng lớp nào của xã hội.

Không bao lâu sau đó, Ni-cô-đem đã đến với các sứ đồ Phi-e-rơ và Giăng nhận lãnh phép báp-tem. Chấp nhận bị cách chức nghị viên của Tòa Công Luận và bị trục xuất ra khỏi Giê-ru-sa-lem vì tin Chúa Giê-xu, Ni-cô-đem cũng cởi bỏ chiếc áo Pha-ri-si để trung tín phục vụ Chúa Giê-xu và Phúc Âm của Ngài cho đến cuối đời. Danh vọng, địa vị, quyền lợi của ông trong Giáo Hội không là gì cả vì ông đã tìm gặp được Cứu Chúa của mình.

TƯỜNG VI   

Trả lời

Hướng Đi Ministries Hướng Đi Ministries
9/10 1521 bình chọn